You are on page 1of 9

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

----------

BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KÌ


HỌC PHẦN: CƠ SỞ KHOA HỌC XÃ HỘI

Giảng viên : TS. Nguyễn Văn Ngọ


TS. Nguyễn Ngọc Ánh
Sinh viên : Lê Thị Phương Thảo
Mã sinh viên : 20010727
Lớp học phần : TMT 3026-1

Hà Nội, tháng… năm…


Câu 1: Anh/ Chị hãy kể tên 10 cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống giặc ngoại
xâm từ năm 40 sau công nguyên đến năm 1858, lựa chọn một cuộc khởi nghĩa mà
anh chị thấy tiêu biểu và nêu diễn biến, kết quả và ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa
đó.
1.1. Những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống giặc ngoại xâm từ năm 40 sau
công nguyên đến năm 1858:

STT Tên cuộc khởi nghĩa Thời gian Người lãnh đạo

1 Khởi nghĩa Hai Bà Trưng 40 - 43 Trưng Trắc, Trưng Nhị


2 Khởi nghĩa Bà Triệu 248 Triệu Thị Trinh

3 Khởi nghĩa Lý Bí 542 - 602 Lý Bí


4 Khởi nghĩa Triệu Quang Phục 548 - 571 Triệu Quang Phục

5 Khởi nghĩa Mai Thúc Loan 713 - 722 Mai Hắc Đế


6 Khởi nghĩa Phùng Hưng 766 - 791 Phùng Hưng

7 Khởi nghĩa Dương Đình 931 - 938 Dương Đình Nghệ 


Nghệ

8 Khởi nghĩa Lam Sơn 1418 - 1427 Lê Lợi


9 Khởi nghĩa Phan Bá Vành 1821? - Phan Bá Vành
1827
10 Khởi nghĩa Nông Văn Vân 1833 - 1835 Nông Văn Vân

1.2. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 – 43)


v Nguyên nhân của cuộc khởi Hai Bà Trưng
Nguyên nhân trực tiếp:
Bất bình trước chế độ cai trị hà khắc của chính quyền đô hộ phương Bắc, đầy áp bức,
bóc lột, chèn ép nhân dân cùng với các chính sách đồng hóa người Việt tại Giao Chỉ.
Quan Tô Định bất nhân: Sự tham lam, tàn bạo, tăng phụ dịch và thuế khóa đã khiến
đời sống nhân dân lầm than. Điều này dẫn đến sự mâu thuẫn giữa nhân dân, các quan
viên người Việt với chế độ thống trị của nhà Hán ngày càng gay gắt hơn.
Nguyên nhân gián tiếp:
Sự việc gia đình của Trưng Trắc: Thi Sách - chồng của Trưng Trắc bị quan thái thú Tô
Định giết để dập tắt ý định chống đối của các thủ lĩnh dân ta nhưng nó lại phản tác
dụng làm cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bùng nổ.

v Diễn biến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng:


Diễn biến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng được chia ra làm 2 lần. Đó là:
Lần 1: Năm 40, sau Công Nguyên

1
Hai Hà Trưng là Trưng Trắc và Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa vào mùa xuân năm 40
(tháng 3 dương lịch) tại Hát Môn (nay là xã Hát Môn – Phúc Thọ – Hà Nội). Tương
truyền, ngày xuất quân, bà Trưng Trắc đã đọc lời thề với non sông, sau được viết
thành 4 câu thơ:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này.”
(Thiên Nam ngữ lục, áng sử ca dân gian thế kỉ XVII)
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng bùng nổ và thu hút được hào kiệt khắp nơi về gia
nhập: Nguyễn Tam Trinh (Mai Động – Hà Nội) đã dẫn 5000 nghĩa binh, nàng Quốc
(Gia Lâm) dẫn hơn 2000 tráng sĩ, ... Nghĩa quân “hùng dũng như gió cuốn” đã nhanh
chóng đánh bại được quân nhà Hán, làm chủ Mê Linh, rồi tiến về Cổ Loa và Lụy
Châu.
Quan thái thú Tô Định hoảng hốt phải bỏ thành, cắt tóc, cạo râu, lẻn trốn về Nam Hải
(Quảng Đông – Trung Quốc). Quân Hán ở các quận huyện khác cũng bị đánh tan.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 đến đây đã giành được thắng lợi hoàn
toàn.
Lần 2: Năm 42, sau Công Nguyên
Năm 42, nhà Hán tăng cường chi viện, Mã Viện được vua Hán phong làm Phục ba
tướng quân, chỉ đạo cánh quân xâm lược gồm: 2 vạn quân tinh nhuệ, 2 nghìn xe,
thuyền các loại và nhiều dân phu. Tháng 4 năm 42, chúng tấn công quân ta ở Hợp
Phố, nhân dân ở Hợp Phố đã anh dũng chống trả nhưng vẫn gặp thất bại trước quân
Hán.
Sau khi chiếm được Hợp Phố, Mã Viện đã chia quân thành 2 đạo thủy, bộ tiến vào
Giao Chỉ. 
- Đạo quân bộ: đi men theo bờ biển, lẻn qua Quỷ Môn Quan để xuống Lục Đầu.
- Đạo quân thủy: đi từ Hợp Phố vượt biển tiến thẳng vào sông Bạch Đằng, rồi ngược
lên vùng Lục Đầu.
=> Hai cánh quân hợp lại ở Lãng Bạc.
Sau khi nhận được tin tức, Hai Bà Trưng kéo quân từ Mê Linh về nghênh chiến với
địch tại Lãng Bạc. Quân ta giữ vững được Cổ Loa và Mê Linh nhưng Mã Viện tiếp
tục truy đuổi ráo riết, buộc quân ta phải lùi về Cẩm Khê (nay thuộc Ba Vì – Hà Nội).
Tháng 3 năm 43, Hai Bà Trưng hy sinh oanh liệt trên đất Cẩm Khê. Sau khi Hai Bà
Trưng hi sinh, cuộc kháng chiến vẫn kéo dài đến tháng 11 năm 43 sau đó mới bị dập
tắt.

v Kết quả cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng


Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng dành được thắng lợi lần 1 vào năm 40 nhưng lại
gặp phải thất bại sau khi nhà Hán tăng cường chi viện vào năm 42 và cuộc kháng
chiến kéo dài đến hết năm 43 mới kết thúc.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng tuy cuối cùng vẫn gặp phải thất bại nhưng cũng đã
giành được thắng lợi to lớn, mang lại 3 năm độc lập cho người Việt tại vùng đất Giao
Chỉ. 

v Ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng

2
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 đã khôi phục được nền độc lập của dân
tộc, mở ra một trang mới trong lịch sử.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng cũng là cuộc khởi nghĩa đầu tiên chống lại sự cai trị
1000 năm Bắc thuộc của nhân dân Việt Nam, mở đầu cho quá trình khởi nghĩa, đấu
tranh giữ nước của nhân dân ta.
Trong và sau thời gian diễn ra cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã cho thấy được
tinh thần yêu nước, ý chí quyết đấu, quyết thắng của nhân dân trong việc giành lại độc
lập chủ quyền của đất nước.
Khẳng định vai trò của người phụ nữ kiên cường, mạnh mẽ, quật cường đấu tranh
“giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". 

Câu 2: Anh/ Chị hãy tóm tắt quá trình phát triển cách mạng Việt Nam từ khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến năm 1945.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp
quyết liệt của nhân dân Việt Nam, là sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử trên con
đường đấu tranh trong mấy thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Đảng ra đời là sản phẩm của
sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước ở Việt Nam trong thời đại mới. Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân
dân ta đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng có
đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ
đảng viên kiên trung, nguyện suốt đời hy sinh cho lý tưởng của Đảng, cho độc lập của
dân tộc. cho tự do của nhân dân. Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính
quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt mới trong lịch sử phát triển của dân
tộc Việt Nam. Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân
tộc, giành chính quyền với ba cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi
của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đó là:

1. Phong trào cách mạng 1930 – 1935


1.1. Phong trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ - Tĩnh.
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra gay gắt và phong trào cách mạng
dâng cao, ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức và lãnh đạo phong
trào đấu tranh của quần chúng công - nông diễn ra trên quy mô rộng lớn khắp cả nước,
lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú,
quyết liệt và đầy triệt để - với đỉnh cao Xô viết Nghệ - Tĩnh.
Phong trào cách mạng 1930 – 1931 chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn do bị thực
dân Pháp khủng bố dã man, nhưng đã để lại ý nghĩa lịch sử to lớn. Phong trào khẳng
định đường lối đúng đắn của Đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với
cách mạng; để lại cho Đảng ta nhiều bài học quý báu về công tác tư tưởng, xây dựng
khối liên minh công nông và trên mặt trận dân tộc thống nhất, về tổ chức, lãnh đạo
quần chúng đấu tranh. Phong trào có ý nghĩa như Cuộc tập dượt đầu tiên của Đảng và
quần chúng cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

1.2. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt
Nam (10 – 1930)

3
Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông
Dương, ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức đo Trần Phú làm Tổng bí thư và
thông qua Luận cương chính trị của Đảng.
Luận cương xác định những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông
Dương. Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là đánh đổ phong kiến và đánh đổ đế
quốc. Động lực cách mạng là giải cấp công nhân và nông dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, cùng với các hình thức, phương pháp đấu tranh phong phú. Tuy
nhiên, luận cương chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông Dương lúc bấy
giờ là cần đưa ngọn cờ giải phóng lên hàng đầu; đánh giá không đúng khả năng cách
mạng của các tầng lớp khác. 

1.3. Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương (3 – 1935)
Đại hội xác định ba nhiệm vụ chủ yếu của Đảng trong thời gian trước mắt là: củng cố
và phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc. Đại hội
thông qua Nghị quyết chính trị, điều lệ Đảng, … Đại hội đại biểu lần thứ nhất của
Đảng đánh dấu một mốc quan trọng: Đảng đã khôi phục được hệ thống từ trung ương
đến địa phương cũng như khôi phục được các tổ chức quần chúng.

2. Phong trào dân chủ 1936 – 1939


2.1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương tháng 7 -
1936
Tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, do
Lê Hồng Phong chủ trì ở Thượng Hải (Trung Quốc).
Hội nghị dựa trên Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản và căn cứ vào
tình hình cụ thể của Việt Nam để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh. Hội
nghị xác định: 
- Nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và phong kiến; nhiệm vụ trực tiếp là đấu
tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh; dòi tự do,
dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
- Phương pháp đấu tranh là kết hợp giữa các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp
và bất hợp pháp.
- Thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương.
Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức quần chúng
và nhân dân hành động đấu tranh cho dân chủ. Phong trào lan rộng khắp cả nước.
Hội nghị Trung ương các năm 1937 và 1938 đã bổ sung và phát triển nội dung cơ bản
của Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 7 – 1936. Tại Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương thành 3 – 1938, Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương đổi
thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương (Mặt trận Dân chủ Đông Dương).

2.2. Phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ.
Từ giữa năm 1936, được tin Quốc hội Pháp sẽ cử một phái đoàn sang điều tra tình
hình Đông Dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức nhân dân họp bàn về các
yêu cầu tự do, dân chủ đề thảo ra các bản “dân nguyện” gửi tới phái đoàn, tiến tới
triệu tập Đông Dương đại hội (8 – 1936).

4
Đầu năm 1937, lợi dụng sự kiện phái viên của chính phủ Pháp sang điều tra tình hình
Đông Dương, Đảng tổ chức quần chúng mít tinh “đón rước”, nhưng thực chất là biểu
dương lực lượng.
Trong những năm 1937 – 1939, các cuộc mít tinh, biểu tình đòi quyền sống của các
tầng lớp nhân dân vẫn tiếp tục được diễn ra. Đặc biệt là cuộc đấu tranh ngày 1/5/1938,
lần đầu tiên trong ngày Quốc tế Lao động, các cuộc mít tinh được tổ chức công khai ở
Hà Nội và nhiều nơi khác, thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
+ Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chings, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính
quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ: quần chúng
được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng:
Đảng đã tích luỹ được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân
tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp
pháp. Đồng thời, Đảng thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận,
vấn đề dân tộc, … Có thể nói, phong trào dân chủ 1936-1939 nhưu một cuộc tập dượt,
chuẩn bị cho Tống khởi nghĩa tháng Tám sau này.

3. Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 –
1945)
3.1. Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9/1939 đến tháng 3 – 1945
v Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 – 1939
Tháng 11 – 1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập tại Bà
Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
Hội nghị xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng Đông
Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập.
Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch
thu ruộng đất của bọn thực dân đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống
tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công nông binh được thay thế
bằng khẩu hiệu Chính phủ dân chủ cộng hòa. 
Đảng quyết định chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh đánh đổ
chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp nửa hợp pháp sang hoạt
động bí mật. Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11 - 1939 đánh dấu
bước chuyển hướng quan trọng – đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, đưa
nhân dân ta bước vào thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước.

v Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kỳ mới


a. Khởi nghĩa Bắc Sơn (27 – 9 – 1940):
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn đã nổi dậy chặn đánh
quân Pháp, chiến đồn Mỏ Nhài. Chính quyền địch ở Bắc Sơn tan rã, nhân dân làm chủ
châu lị và các vùng lân cận. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập.

b. Khởi nghĩa Nam Kì (23 – 11 – 1940):

5
Tháng 11 – 1940, xảy ra cuộc xung đột giữa thực dân Pháp và Thái Lan. Chính quyền
thực dân bắt thanh niên Việt Nam và Cao Miên đi làm bia đỡ đạn. Nhân dân Nam Kỳ
và binh lính đã nổi dậy đấu tranh.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập từ ngày 6 đến ngày 9 - 11 –
1940, đã đề ra chủ trương trong tình hình mới: xác định kẻ thù chính của nhân dân
Đông Dương là đế quốc Pháp – Nhật, duy trì đội du kích Bắc Sơn.
Quyết định hoãn khởi nghĩa Nam Kì của Trung ương Đảng chưa tới nơi, nhưng lệnh
khởi nghĩa của Xứ ủy đã đến các địa phương, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra đúng thời
gian quy định là đêm 22 rạng sáng 23 – 11 – 1940.

c. Binh biến Đô Lương (13 – 1 – 1941):


Ngày 13 - 1 - 1941, binh lính đồn Chợ Rạng (Nghệ An) dưới sự chỉ huy của Đội Cung
đã nổi dậy. Nhưng quân Pháp biết được kế hoạch nên toàn bộ binh lính tham gia đã
đều bị bắt.
v Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5 –
1941).
Ngày 28 - 1 - 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người
chủ trì Hội lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Pác Bó (Cao Bằng) từ ngày
10 đến ngày 19-5- 1941.
Giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất,
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh là nhiệm vụ "bức thiết
nhất"; tiếp tục tạm gác khẩu hiệu "cách mạng ruộng đất", chi thực hiện khẩu hiệu
giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công.
Quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng. Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh) là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai
cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng.
Để ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
của toàn Đảng toàn dân; chi rô một cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi phải có
đủ điều kiện chủ quan, khách quan và phải nổ ra đúng thời cơ, đi từ khởi nghĩa từng
phần lên tổng khởi nghĩa.

v Công tác chuẩn bị


Chuẩn bị về lực lượng chính trị: “ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Đảng ta
tích cực, chủ động, xây dựng lực lượng chính trị:
- 1930 – 1931: xây dựng liên minh công – nông
- 1936 – 1939: Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương -> 1938 đổi thành:
Mặt trận dân chủ Đông Dương
- Tháng 11 – 1939: Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
- Tháng 5 – 1941: Mặt trận Việt Minh

Chuẩn bị lực lượng vũ trang:


- 1930 – 1931: Các đội Tự vệ Đỏ được thành lập
- 1940: Duy trì đội du kích Bắc Sơn để phát triển lực lượng vũ trang sau này
- 1941: Trung đội Cứu quốc quân I, II
- 1944: Trung đội Cứu quốc quân III, thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng
quân (22/12/1944)

6
Xây dựng căn cứ địa cách mạng:
- 1940: Bắc Sơn – Võ Nhai
- 1941: Pác Bó – Cao Bằng
- 1944: Căn cứ Cao – Bắc – Lạng
- 1945: Chọn Tân Trào (Tuyên Quang) làm trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng
cả nước; thành lập khu giải phóng Việt Bắc.

v Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945.


Bối cảnh: Quân Nhật rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang, điều kiện khách
quan cho tổng khởi nghĩa đã đến.
Chủ trương của Đảng và Việt Minh:
13-8-1945 Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toản
quốc ban bổ "Quản lệnh số I" phát lệnh khởi nghĩa trong cả nước.
Từ ngày 14 đến 15-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp Tân Trào, Tuyên Quang
quyết định những chính sách đối nội và đối ngoại sau khi giành chính quyền.
Từ ngày 16 đến 17- 8-1945 Đại hội Quốc dân đưỢc triệu tập ở ở Tân Trào tán thành
chủ trương khởi nghĩa thông qua 10 chính sách của Việt Minh, Uỷ Ban dân tộc giải
phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Diễn biến:
- 14 – 8: Một số cấp bộ Đảng và tổ chức Việt Minh, tuy chưa nhận được lệnh Tổng
khởi nghĩa do thông tin liên lạc còn khó khăn, nhưng căn cứ vào tình hình cụ thể ở địa
phương và vận dụng chỉ thị “ Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, đã
phát động nhân dân khởi nghĩa
- 16 – 8: Theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, một đơn vị Giải phóng quân do Đại tướng
Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.
- 18 – 8: nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành được chính
quyền ở tỉnh lị sớm nhất cả nước.
- Ở Hà Nội:
+ 17 – 8: Quần chúng nội thành và ngoại thành tổ chức mít tinh tại Nhà Hát Lớn, sau
xếp thành đội ngũ, đi qua khắp các phố trung tâm, hô vang khẩu hiệu “ Ủng hộ Việt
Minh!”, “ Dẩ đảo bù nhìn!”, “ Việt Nam độc lập!”,... Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội quyết
định giành chính quyền sớm ngày 19 – 8 – 1945
+ 18 – 8: cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên khắp các đường phố chính.
+ 19 – 8: Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
- Ở Huế:
+ 20 – 8: Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập, quyết định giành chính quyền ngày
23 – 8.
+ 23 – 8: Chính quyền về tay nhân dân.
- Ở Sài Gòn: Xứ ủy Nam Kì quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh vào ngày 25
– 8 -> Chính quyền về tay nhân dân.
- 28 – 8: Giành được chính quyền trong cả nước ( trừ một số thị xã bị lực lượng của
Trung Hoa Dân Quốc và tay sai chiếm từ trước).

7
- 30 – 8: Tại Ngọ Môn (Huế), vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị trong cuộc mít tinh lớn
có hàng vạn quần chúng tham gia => Chế độ phong kiến Việt Nam hoàn toàn bị sụp
đổ.
- 2 – 9 – 1945: Tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh trước cuộc
mít tinh lớn với hàng vạn nhân dân thủ đô và các vùng lân cận, đọc bản Tuyên ngôn
Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Trải qua các cao trào cách mạng: 1930 - 1935, 1936 - 1939 và đặc biệt là phong trào
giải phóng dân tộc 1939 -1945 đã chứng minh sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng
đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám. Đã mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam; mở đầu kỉ
nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do; kỉ nguyên nhân dân lao động nắm
chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc; kỉ nguyên phóng dân tộc
gắn liền với giải phóng xã hội. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng Cộng
sản Đông Dương trở thành một Đảng cầm quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết
cho những thắng lợi tiếp theo.

You might also like