You are on page 1of 14

Kiểm soát là chức năng quan trọng của nhà quản lí nhằm thu thập thông

tin về các quá tình, hiện tượng đang diễn ra trong tổ chức, đó là quá trình
giám sát, đánh giá và điều chỉnh hoạt động nhằm đảm bảo sự thực hiện
theo kế hoạch.
Nếu xuất phát từ việc coi kiểm soát là chức năng, hoạt động của hệ
thống trong đơn vị thì kiểm soát là kiểm soát nội bộ Theo chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam (VSA315), kiểm soát nội bộ là quy trình do Ban
quản trị, Ban giám đốc và các cá nhân khác trong đơn vị thiết kế, thực
hiện và duy trì để tạo ra sự đảm bảo hợp lí về khả năng đạt được mục tiêu
của đơn vị trong việc đảm bảo độ tin cậy của báo cáo tài chính, đảm bảo
hiệu quả và hiệu suất hoạt động, tuân thủ pháp luật và các quy định tài
chính có liên quan. Thuật ngữ kiểm soát được hiểu là bất cứ khía cạnh
nào của một hoặc nhiều thành phần của kiểm soát nội bộ. kiểm soát nội
bộ dưới giác độ một đơn vị, là một nội dung của quá trình quản lí và có
tác động qua lại với các yếu tố của quá trình quản lí trong đơn vị đó.
Nếu xuất phát từ việc coi kiểm soát là một thành phần, bộ phận của hệ
thống bên trong đơn vị thì gọi là hệ thống kiểm soát nội bộ. Hệ thống
kiểm soát nội bộ trong đơn vị là tập hợp các yếu tố của hoạt động kiểm
soát nội bộ có kết cấu vững chắc và phản ánh mối quan hệ hữu cơ với
nhau, tác động chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định để trở thành
một chỉnh thể nhằm quản lí và điều hành mọi hoạt động trong đơn vị theo
những mục tiêu đặt ra. Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận
hành bởi con người bên trong hệ thống nhằm cung cấp sự đảm bảo hợp lí
về việc đạt được các mục tiêu của nhà quản lí đơn vị. Hệ thống kiểm soát
nội bộ thực chất là một loạt hoạt động, biện pháp, kế hoạch, quan điểm,
nội quy chính sách và thủ tục kiểm soát, cũng như sự nỗ lực của mọi
thành viên trong đơn vị để đảm bảo tổ chức đó hoạt động hiệu quả, hoàn
thành nhiệm vụ và đạt được mục tiêu đặt ra một cách hợp lý. Đơn giản
hơn, có thể hiểu rằng, hệ thống kiểm soát nội bộ là một quá trình kiểm
soát giúp cho đơn vị đạt được các mục tiêu của mình.
MQH GIỮA KSNB VÀ HT KSNB:
kiểm soát nội bộ bao gồm một chuỗi hoạt động kiểm soát được xây
dựng và vận hành ở mọi bộ phận trong đơn vị và được kết hợp với nhau
thành một thể thống nhất.

Trong kiểm toán phải nghiên cứu, đánh giá về htksnb:


Nghiên cứu, đánh giá HTKSNB là một phần việc rất quan trọng mà
KTV phải thực hiện trong một cuộc kiểm toán. Điều này đã được quy
định trong chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ: “KTV phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và kiểm
soát nội bộ của khách hàng để lập kế hoạch kiểm toán và xây dựng các
tiếp cận kiểm toán hiệu quả”. mục đích cơ bản của việc nghiên cứu
HTKSNB là đánh giá hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ, làm cơ sở
cho ktv lập kế hoạch kiểm toán phù hợp.
Khi bắt đầu 1 cuộc kiểm toán, ktv phải tìm hiểu, nghiên cứu, về
HTKSNB của đơn vị được kiểm toán để đánh giá mức độ tin cậy vào hệ
thống này, qua đó xác định mức độ rủi ro kiểm soát. Sau đó, ktv có thể
xác định được phạm vi, khối lượng công việc, các phương pháp kiểm
toán phù hợp trong cuộc kiểm toán. Ktv sẽ sử dụng các xét đoán chuyên
môn để đánh giá về tính có thể kiểm toán được, nhận diện các sai phạm
trọng yếu tiềm tàng, xác định được các loại rủi ro có sai sót trọng yếu liên
quan tới cuộc kiểm toán và dự kiến nội dung, phạm vi và lịch trình của
các thủ tục kiểm toán cần phải thực hiện.
Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, ktv thực hiện khảo sát kiểm toán
dể đánh giá hiệu lực của htksnb lần nữa, từ đó xác định lại tính thích hợp
và hiệu quả của các quy chế kiểm soát nội bộ (đã được đánh giá là đầy
đủ, chặt chẽ và phù hợp trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán) và đánh
giá lại mức độ rủi ro kiểm soát. Đây là cơ sở giúp ktv điều chỉnh lịch
trình và phạm vi áp dụng các phương pháp kiểm toán cơ bản cần thực
hiện. Khi thực hiện kiểm toán, các thông tin tài chính thường được xác
mình nhiều lần, KTV có thể dựa vào HTKSNB để giảm bớt những công
việc kiểm toán vì trên thực tế, HTKSNB hoạt động hiệu quả sẽ tạo điều
kiện để KTV giảm bớt các thử nghiệm cơ bản. Ngoài ra, quá trình đánh
giá HTKSNB đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập bằng chứng
kiểm toán đầy đủ và tin cậy, góp phần bảo đảm chất lượng cuộc kiểm
toán. KTV phải thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có hiệu lực để
đưa ra nhận xét đúng đắn về BCTC, trong đó tính đầy đủ của bằng chứng
kiểm toán ảnh hưởng bởi quy mô mẫu chọn, quy mô mẫu chọn chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố trong đó có HTKSNB, còn tính hiệu lực của bằng
chứng kiểm toán thu thập từ một HTKSNB hoạt động có hiệu quả đáng
tin cậy hơn từ một HTKSNB yếu kém.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên dựa trên hiểu biết
về htksnb của đơn vị được kiểm toán, cân nhắc về tính đầy đủ và thích
hợp của các bằng chứng kiểm toán thu thập được để đánh giá mức thỏa
mãn về kiểm soát đã được thực hiện trong suốt quá trình kiểm toán.
Như vậy, việc đánh giá HTKSNB của đơn vị cuộc kiểm toán giúp
cho KTV xác lập mức độ tin cậy vào HTKSB, giảm tối đa thử nghiệm cơ
bản cần phải tiến hành mà vẫn đảm bảo chất lượng cuộc kiểm toán. KTV
cần có hiểu biết đầy đủ về HTKSNB, đánh giá chính xác mức độ rủi ro
kiểm soát, để vạch kế hoạch kiểm toán và xây dựng trình tự phương pháp
kiểm toán thích hợp. Mức độ hiểu biết của kiểm toán viên về hệ thống
kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán là thiết thực và hữu ích cho
công việc của cuộc kiểm toán, đặc biệt là trong khâu lập kế hoạch và triển
khai thực hiện kế hoạch kiểm toán.
Kết quả nghiên cứu, đánh giá hệ thống ksnb có tác dụng và mối quan
hệ với công việc kiểm toán.
Kết quả đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ là cơ sở cho việc xây
dựng các thủ tục kiểm toán cơ bản và vận dụng cho những thủ tục này.
Trong các giai đoạn thực hiện công việc kiểm toán, kết quả đánh giá hệ
thống ksnb có tác dụng to lớn và đóng vai trò quan trọng. Trong giai đoạn
lập kế hoạch kiểm toán, ktv sử dụng các xét đoán chuyên môn của mình
để đánh giá chung về hiệu lực của KSNB ở cấp độ toàn đơn vị để đưa ra
dự kiến về nội dung, khối lượng công việc và phạm vi áp dụng phương
pháp kiểm toán phù hợp. Nếu đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn
vị được kiểm toán là mạnh (có hiệu lực tốt) thì kiểm toán viên sẽ dự kiến
phạm vi, khối lượng công việc không quá nhiều, áp dụng đồng thời
phương pháp kiểm toán tuân thủ (với phạm vi rộng) và phương pháp
kiểm toán cơ bản (với phạm vi hẹp). Vì khi hệ thống kiểm soát nội bộ
hoạt động mạnh trong việc ngăn chặn gian lận, sai sót xảy ra tại đơn vị
được kiểm toán, mức thỏa mãn ban đầu về kiểm soát của kiểm toán viên
là cao. Khi đó kiểm toán viên sẽ tin tưởng vào Hệ thống kiểm soát nội bộ
và dự kiến đi sâu vào kiểm tra tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm
soát nội bộ và giảm khối lượng công việc kiểm tra chi tiết. Ngược lại, nếu
kết quả đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán là
yếu thì lượng công việc kiểm toán tăng lên, ktv dự kiến sẽ không áp dụng
phương pháp kiểm toán tuân thủ và phải mở rộng phương pháp kiểm toán
cơ bản.
Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch cuộc kiểm toán, ktv thực hiện các
khảo sát kiểm soát và các khảo sát cơ bản, dựa trên kết quả đánh giá hệ
thống kiểm soát ktv có thể quyết định thu hẹp hay mở rộng phạm vi tiến
hành. Nếu hệ thống ksnb của đơn vị là mạnh, khả năng ngăn chặn gian
lận, sai sót tốt thì ktv sẽ thu hẹp phạm vi tiến hành các khảo sát cơ bản và
ngược lại.
Kết quả nghiên cứu, đánh giá hệ thống ksnb có quan hệ chặt chẽ với
công việc kiểm toán, kiểm toán viên phải dựa trên kết quả nghiên cứu về
htksnb để đưa ra được các quyết định cho cuộc kiểm toán. Khi đánh giá
về HTKSNB là tốt (hoạt động hiệu quả), rủi ro kiểm soát là thấp, mức
thỏa mãn về kiểm soát phải cao khi đó kiểm toán viên tin tưởng vào hệ
thống kiểm soát nội bộ và sẽ thu hẹp phạm vi của phương pháp kiểm toán
cơ bản. Do vậy khối lượng công việc kiểm toán sẽ giảm, thời gian kiểm
toán nhanh và chi phí kiểm toán ít. Ngược lại, kết quả đánh giá HTKSNB
là yếu (hoạt động không hiệu quả), rủi ro kiểm soát là cao, mức thỏa mãn
về kiểm soát thấp, khi đó kiểm toán viên không tin tưởng vào Hệ thống
kiểm soát nội bộ và sẽ mở rộng phạm vi của phương pháp kiểm toán cơ
bản, khối lượng công việc kiểm toán vì vậy cũng sẽ tăng lên, thời gian
kiểm toán lâu và chi phí kiểm toán nhiều hơn.
VD cụ thể về mối quan hệ.
Chị A là 1 kiểm toán viên độc lập, đang lập kế hoạch kiểm toán cho 1
doanh nghiệp thương mại. Khi lập kế hoạch, chị A có đánh giá sơ bộ
về hệ thống ksnb của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, chị A nhận
thấy doanh nghiệp được điều hành bởi 1 lãnh đạo mới kiêm nhiệm,
chưa có kinh nghiệm quản lý. Doanh nghiệp có máy chấm công
nhưng tình trạng nhân viên đi muộn về sớm vẫn thường xuyên xảy
ra và không thấy quản lý nhắc nhở. Từ đó, chị A cho rằng hệ thống
kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp này là yếu, chị A quyết định sẽ
đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức tối đa và không giới hạn các thủ tục
kiểm soát chi tiết ở bất cứ lĩnh vực nào…..

Câu hỏi 2.
Mục đích kiểm toán bctc có phải là đi tìm gian lận và sai sót
Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có năng lực tiến hành
thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin cần kiểm toán của
một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù
hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập. Mục
đích của kiểm toán nói chung là nhằm xác minh tính trung thực, hợp lí,
độ tin cậy của thông tin được kiểm toán.
Kiểm toán báo cáo tài chính là việc các kiểm toán viên cùng trợ lý kiểm
toán tiến hành thu thập các thông tin bằng chứng kiểm toán để đánh giá
về báo cáo tài chính được kiểm toán nhằm mục đích đưa ra ý kiến về mức
độ trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính được kiểm toán so với các
chuẩn mực đang áp dụng.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VSA số 200), mục đích của
kiểm toán báo cáo tài chính là làm tăng độ tin cậy của người sử dụng đối
với báo cáo tài chính, thông qua việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc
liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù
hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng
hay không.
Như vậy, mục đích của kiểm toán BCTC không phải là đi tìm gian lận
và sai sót mà là nhằm xác minh tính trung thực, hợp lí của BCTC hay đưa
ra nhận xét về BCTC được kiểm toán, cung cấp thông tin tài chính tin cậy
cho các đối tượng sử dụng.
Tại sao trong kiểm toán BCTC lại nghiên cứu gian lận và sai sót.
Kiểm toán báo cáo tài chính là việc các kiểm toán viên cùng trợ lý
kiểm toán tiến hành thu thập các thông tin bằng chứng kiểm toán để đánh
giá về báo cáo tài chính được kiểm toán nhằm mục đích đưa ra ý kiến về
mức độ trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính được kiểm toán so với
các chuẩn mực đang áp dụng.
Gian lận là những hành vi cố ý (có chủ ý) lừa dối, có liên quan đến
việc biến thủ, giấu diếm tài sản, xuyên tạc hoặc làm sai lệch thông tin trên
báo cáo tài chính nhằm đem lại lợi ích cho bản thân mình (người gây ra)
hoặc gây hậu quả cho người khác. Hành vi gian lận luôn được che đậy 1
cách cố ý và tinh vi, luôn tồn tại 1 cách tiềm ẩn trong hoạt động kinh tế
và báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Sai sót: là những lỗi hoặc sự nhầm lẫn không cố ý nhưng có ảnh hưởng
đến báo cáo tài chính.

Hình thức gian lận và sai sót có biểu hiện giống nhau, chỉ khác về tính
chất của hành vi là cố ý hay không cố ý

Để có được căn cứ kết luận về thông tin được kiểm toán có trung thực,
tin cậy hay không thì Kiểm toán viên phải xem thông tin (báo cáo tài
chính) được kiểm toán có chứa đựng những sai phạm (gian lận, sai sót
trọng yếu hay không, gian lận, sai sót đó có độ lớn đến mức độ nào, về
bản chất có ảnh hưởng đến sự thay đổi quyết định của người sử dụng
thông tin được kiểm toán hay không.

Gian lận và sai sót đều là những sai phạm tiềm ẩn trong hoạt động
kinh doanh và báo cáo tài chính của doanh nghiệp, cả 2 đều ảnh hưởng
tới báo cáo tài chính. điều này có thể dẫn tới việc đánh giá sai về tình
hình của doanh nghiệp nên các đối tác hay nhà đầu tư có thể không có
được cái nhìn đúng đắn về doanh nghiệp do đó có những quyết định sai
lầm. Vì vậy, khi kiểm toán, kiểm toán viên phải tìm kiếm, phát hiện
những sai sót và gian lận có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính,
đem lại sự minh bạch trong vấn đề tài chính của doanh nghiệp. Do đó,
kiểm toán viên thông qua việc tìm kiếm gian lận, sai sót và đánh giá sự
ảnh hưởng trọng yếu của những gian lận sai sót này đến báo cáo tài chính
để kết luận được độ tin cậy của thông tin cần kiểm toán.

Kiểm toán viên có trách nhiệm và xử lí


Khi thực hiện cuộc kiểm toán, ktv cũng phải đi tìm kiếm những gian,
lận, sai sót tồn tại trong bctc và thông qua đó đánh giá tính trung thực của
bctc, đưa ra những ý kiến phù hợp.  Để hạn chế rủi ro vốn có của kiểm
toán (không phát hiện hết tất cả các gian lận, sai sót có ảnh hưởng trọng
yếu đến báo cáo tài chính), kiểm toán viên phải luôn tuân thủ nguyên tắc
hoài nghi nghề nghiệp trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện kiểm
toán, luôn ý thức rằng từ hạn chế vốn có của hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ
có thể có sự kiện dẫn đến gian lận, sai sót trọng yếu tồn tại trong báo cáo
tài chính. Kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm tìm kiếm bằng chứng
kiểm toán chứng minh báo cáo tài chính không có gian lận sai sót trọng
yếu hay có gian lận sai sót trọng yếu nhưng đã được phát hiện hoặc đã
phản ánh đầy đủ trong báo cáo tài chính hoặc đã được sửa chữa theo ý
kiến của Kiểm toán viên. Đồng thời kiểm toán viên phải chỉ ra được sự
ảnh hưởng của gian lận, sai sót đó đến báo cáo tài chính.
khi nghi ngờ báo cáo tài chính có gian lận, sai sót:
Đối với khâu lập kế hoạch kiểm toán: Khi Kiểm toán viên nghi ngờ
báo cáo tài chính có gian lận, sai sót, Kiểm toán viên phải dự kiến các thủ
tục kiểm toán cần thiết để phát hiện các gian lận, sai sót này nhằm chứng
minh hoặc giải toả nghi ngờ.

Đối với khâu thực hiện kiểm toán: Khi thực hiện kiểm toán, Kiểm
toán viên nghi ngờ báo cáo tài chính có gian lận, sai sót, thì phải thực
hiện ngay các thủ tục kiểm toán để tìm bằng chứng chứng minh hoặc giải
toả nghi ngờ. Kiểm toán viên sẽ sử dụng các kĩ thuật để thu thập bằng
chứng kiểm toán từ đó chứng minh được nghi ngờ. bằng chứng kiểm toán
là toàn bộ các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được liên
quan đến cuộc kiểm toán và dựa vào đó để hình thành ý kiến nhận xét về
đối tượng được kiểm toán. Kiểm toán viên có thể sử dụng các kĩ thuật sau
để thu thập được bằng chứng kiểm toán: kiểm tra, quan sát, phòng vấn,
thẩm tra xác nhận từ bên ngoài, tính toán lại, thực hiện lại và thủ tục phân
tích.
Kiểm toán viên còn có thể dựa vào các biểu hiện của gian lận và sai
sót để xác định được đó có phải gian lận hay sai sót không. Gian lận
thường biểu hiện dưới dạng: Xử lí chứng từ theo ý chủ quan (xuyên tạc,
làm giả, sửa đổi chứng từ và tài liệu); che giấu hoặc cố ý bỏ sót các thông
tin, tài liệu hoặc nghiệp vụ kinh tế; ghi chép các nghiệp vụ không đúng sự
thật; cố ý áp dụng sai các chuẩn mực, nguyên tắc, phương pháp và chế độ
kế toán, chính sách tài chính; cố ý tính toán sai về mặt số học. Sai sót
biểu hiện dưới dạng: lỗi tính toán về số học hay ghi chép sai; bỏ sót hoặc
hiểu sai dẫn đến làm sai lệch các khoản mục hoặc các nghiệp vụ kinh tế
do trình độ, hiểu biết hạn chế; áp dụng sai các chuẩn mực nguyên tắc
phương pháp kế toán, chính sách tài chính do hạn chế về năng lực,…
Thực tế, Gian lận và sai sót có hình thức biểu hiện khá giống nhau,
chỉ khác nhau về tính chất hành vi là cố ý hay không cố ý. Việc phát hiện
và nhận biết về gian lận thường khó khăn hơn sai sót vì gian lận là hành
vi cố ý, được che đậy kĩ càng, che dấu bằng hành vi tinh vi. Ranh giới
giữa gian lận và sai sót là rất khó xác định và phân biệt, để xác minh gian
lận hay sai sót, ktv phải thận trọng, nghiên cứu trong từng bối cảnh, hoàn
cảnh cụ thể.
Kết hợp giữa bằng chứng thu thập được, biểu hiện của gian lận và sai
sót cùng với kiến thức chuyên môn, ktv có thể đưa ra được đáp án cho sự
nghi ngờ. Nếu như đã phát hiện sai phạm hay vẫn còn nghi ngờ thì ktv sẽ
tiến hành đánh giá ảnh hưởng của gian lân, sai sót đến bctc nếu gian lận,
sai sót có ảnh hưởng trọng yếu đến bctc thì ktv cần thực hiện các bước đi
cần thiết và sửa đổi, bổ sung những thủ tục kiểm toán thích hợp.
Ví dụ, nếu KTV xác định được rằng, BGĐ đang chịu áp lực để đạt
được mục tiêu lợi nhuận, ktv nghi ngờ là BGĐ đang ghi nhận thừa doanh
thu. Trong trường hợp này, KTV có thể thu thập các bằng chứng từ trong
và ngoài đơn vị như xác nhận số dư, xác nhận chi tiết về các hợp đồng
bán hàng giữa 2 bên. Nếu công ty có sai phạm về doanh thu trên bctc, ktv
sẽ tiến hành các thủ tục kiểm toán để đưa ra được ý kiến nhận xét phù
hợp về bctc.
Khi kiểm toán viên phát hiện sai sót trong bctc, kể cả khi có nghi
ngờ gian lận, sai sót mặc dù ktv vẫn chưa đánh giá được ảnh hưởng của
nó đến bctc (tức mọi gian lận sai sót, không phân biệt trọng yếu hay
không trọng yếu), ktv phải thông báo cho GĐ hoặc người đứng đầu đơn
vị được kiểm toán trong thời hạn nhanh nhất trước ngày phát hành bctc
hoặc trước ngày phát hành báo cáo kiểm toán.

Với Những gian lận, sai sót quan trọng đã được phát hiện trong qúa
trình kiểm toán sau khi tổng hợp mà doanh nghiệp không điều chỉnh,
Kiểm toán viên phải đánh giá những gian lận, sai sót đơn lẻ và tổng hợp
có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính không để đưa ra ý kiến
nhận xét kết luận phù hợp. Khi đã phát hiện gian lận, sai sót trọng yếu
công việc tiếp theo của Kiểm toán viên là phải thông báo và yêu cầu
doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán sửa đổi, điều chỉnh theo ý kiến của
Kiểm toán viên. Việc xem xét, đánh giá ảnh hưởng của gian lận, sai sót
đến báo cáo tài chính có trọng yếu hay không, ktv cần phải kết hợp với
các bằng chứng khác đã thu được trong quá trình kiểm toán, đặc biệt là độ
tin cậy của các bản giải trình mà ban giám đốc, chủ doanh nghiệp kiểm
toán đã cung cấp, hành vi có cố tình che dấu sai phạm, sự giải trình tích
cực cầu thị hay lảng tránh, nguỵ biện, cùng với mối quan hệ giữa các sai
phạm, cũng như việc sử dụng nhân viên kiểm soát có năng lực, liêm
chính, phù hợp cùng các thủ tục kiểm soát cụ thể đang áp dụng có hiệu
quả, phù hợp hay không.

Việc trao đổi, thông báo những gian lận, sai sót đòi hỏi ktv phải cân
nhắc xem thông báo cho cấp nào sẽ có lợi nhất, nhanh nhất để có thể xử
lí. Thực tế, khi phát hiện sai phạm liên quan đến cấp nào thì ktv thường
thông báo cho cấp trực tiếp cao hơn. Nếu sai phạm liên quan đến GĐ phải
báo cáo với cấp trên. Nếu không có cấp trên (là lãnh đạo cao nhất), với
nguyên tắc bảo mật, Kiểm toán viên báo cáo với các cơ quan chức năng
về những vấn đề thuộc Trách nhiệm pháp lý và nghề nghiệp. Những sai
phạm liên quan đến pháp luật, Kiểm toán Viên phải báo cáo với cơ quan
pháp luật có liên quan. với những sai phạm cần sửa chữa, Kiểm toán viên
phải tư vấn cho doanh nghiệp được kiểm toán để thực hiện sửa chữa.
Những sai phạm còn lại không được doanh nghiệp sửa chữa Kiểm toán
viên thông báo cho người sử thông tin được kiểm toán thông qua việc lập
báo kiểm toán và nêu ý kiến nhận xét của mình trong báo cáo kiểm toán.
Ngoài ra, Kiểm toán viên có quyền rút khỏi hợp đồng kiểm toán khi nhận
thấy đơn vị được kiểm toán không hợp tác sửa chữa, thừa nhận về những
sai phạm được phát hiện (kể cả các gian lận không ảnh hưởng trọng yếu
đến bctc). nhân tố ảnh hưởng tới quyết định rút khỏi hợp đồng bao gồm:
sai phạm liên quan đến cấp lãnh đạo cao nhất trong đơn vị; việc tiếp tục
duy trì quan hệ của ktv với đơn vị có lợi hay không; việc rút khỏi hợp
đồng kiểm toán Kiểm toán viên cần tham khảo ý kiến chuyên gia pháp
luật.

(1 đoạn trong giáo trình)

Báo cáo kiểm toán là văn bản do Kiểm toán viên lập ra thể hiện
những ý kiến nhận xét kết luận của Kiểm toán viên về thông tin được
kiểm toán.

Báo cáo kiểm toán về kiểm toán báo cáo tài chính là văn bản do Kiểm
toán viên lập ra thể hiện những ý kiến nhận xét kết luận của Kiểm toán
viên về báo cáo tài chính được kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán được chia ra làm nhiều loại dựa trên ý kiến nhận xét
của ktv về bctc, bao gồm: bckt dạng chấp nhận toàn phần, bckt ngoại trừ,
bckt trái ngược và bckt dạng từ chối đưa ra ý kiến

Khi kiểm toán viên phát hiện ra những gian lận, sai sót và yêu cầu
doanh nghiệp sửa chữa những gian lận và sai sót này. Khi doanh
nghiệp có sửa thì ktv có thể lập ra loại bc kiểm toán chấp nhận toàn phần.

bckt nhận toàn phần được đưa ra khi ktv thấy thỏa mãn về mọi khía
cạnh trọng yếu để kết luận rằng bctc được lập, trên các khía cạnh trọng
yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày bctc được áp dụng. Hay
nói cách khác bctc của đơn vị được kiểm toán không còn tồn tại sai phạm
trọng yếu. ý kiến chấp nhận toàn phần không có nghĩa là báo cáo tài
chính được kiểm toán là hoàn toàn đúng, mà có thể có sai sót nhưng sai
sót đó là không trọng yếu. Ktv chỉ đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần khi
phạm vi kiểm toán không bị giới hạn và ktv thu thập được đầy đủ bằng
chứng thích hợp cho thấy bctc không còn chứa đựng sai sót trọng yếu. Dù
Khi kiểm toán viên phát hiện ra những gian lận, sai sót trên bctc của
doanh nghiệp nhưng nếu doanh nghiệp đã sửa chữa lại theo đúng yêu cầu
của kiểm toán viên thì kiểm toán viên hoàn toàn đồng ý với việc trên bctc
không còn tồn tại sai phạm trọng yếu.

Khi kiểm toán viên phát hiện ra những gian lận, sai sót và yêu cầu
doanh nghiệp sửa chữa những gian lận và sai sót này. Khi doanh
nghiệp không sửa chữa thì ktv có thể lập ra báo cáo kiểm toán ngoại trừ
(hay chấp nhận từng phần) nếu phần không sửa chữa là nhỏ hoặc lập ra
báo cáo kiểm toán trái ngược nếu phần không sửa chữa là lớn.

Bckt dạng ngoại trừ được đưa ra khi ktv cho rằng bctc đã trình bày 1
cách trung thực, hợp lý, ngoại trừ đối với một khía cạnh riêng biệt nào đó
của chúng. Ktv sẽ đưa ra bckt này dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy
đủ, thích hợp đã thu được. Ktv kết luận là các sai phạm chưa được được
điều chỉnh xét riêng lẻ hay tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu nhưng ở
mức độ nhỏ và ảnh hưởng không lớn đối với bctc. Hoặc phạm vi kiểm
toán bị giới hạn dẫn đến ktv không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng
kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán mà ktv cho
rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai phạm chưa được phát hiện
(nếu có) có thể là trọng yếu nhưng không lớn đối với bctc. Như vậy, với
sai phạm không sửa chữa nhỏ nhưng vì không có ảnh hưởng lớn trên bctc
nên nếu doanh nghiệp không sửa chữa theo ý kiến của ktv thì ktv có thể
đưa ra bckt dạng ngoại trừ đối với vấn đề của sai phạm đó.

Bckt trái ngược được đưa ra khi dựa trên đầy đủ bằng chứng kiểm
toán thích hợp đã thu thập được, ktv kết luận là các sai phạm chưa được
điều chỉnh, nếu xét riêng lẻ hay tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu và ở
mức độ lớn đối với bctc. Ktv đưa ra loại bckt này khi pvi kiểm toán
không bị hạn chế và ktv có những vấn đề không đồng ý với đơn vị, những
vấn đề này là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản
mục khiến ktv không thể đưa ra ý kiến dạng ngoại trừ. Vì vậy, với sai
phạm không sửa chữa lớn cũng đồng nghĩa với việc ktv có bất đồng lớn
với nhà quản lý doanh nghiệp được kiểm toán. Hơn nữa vì sai phạm lớn
nên nó có ảnh hưởng trọng yếu và ở mức độ lớn đối với bctc, khi đó báo
cáo kiểm toán thể hiện ý kiến của ktv tong cuộc kiểm toán này là bckt trái
ngược.

You might also like