You are on page 1of 9

2.

3 Thực trạng phạm tội


Thực trạng phạm tội là tình trạng thực tế của tội phạm đã xảy ra trong đơn vị
không gian và thời gian nhất định xét về mức độ và về tính chất

1. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể có năng lực trách nhiệm hình sự (năng
lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi và đạt độ tuổi luật định) đã thực hiện
hành vi phạm tội

Theo Bộ luật hình sự 2015 quy định về chủ thể của luật hình sự bao gồm 2 loại:
chủ thể của luật hình sự là cá nhân và chủ thể của luật hình sự là pháp nhân thương
mại.

a) Chủ thể của luật hình sự là cá nhân

Năng lực trách nhiệm hình sự của cá nhân bao gồm khả năng nhận thức và khả
năng điều khiển hành vi và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự:

- Khả năng điều khiển hành vi : Một người có thể là chủ thể của tội phạm khi
người đó phải có khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi
của mình và khả năng điều khiển hành vi đó theo những yêu cầu chung của xã hội.
Năng lực nhận thức có ở mỗi con người từ khi mới sinh ra. Nó phát triển và hoàn
thiện theo sự phát triển của cấu tạo sinh học cơ thể con người qua quá trình lao
động và giáo dục trong xã hội. Đến một thời điểm nhất định trong đời sống của con
người thì năng lực này mới được xem là tương đối đầy đủ.

- Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự : Bộ luật hình sự năm 2015 quy định người từ
đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội
phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa
đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội quy định tại khoản 2 điều
12 BLHS năm 2015.

Trích “Điều 12” :

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên. Nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội giết người. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác. Tội hiếp dâm. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
một trong các điều sau đây:

a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán
người dưới 16 tuổi):

b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội
trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);

c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép
chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua
bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);

d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);

đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào
mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho
hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287
(tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng
viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản);

e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện
quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật
quân sự).

- Ngoài việc quy định về năn lực chủ thể và độ tuôi chịu trách nhiệm hình sự. Luật
hình sự con ghi nhân với những tội phạm cụ thể còn cần phải có thêm những dấu
hiệu đặc trưng khác mà không có nó thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội không thể trở thành là chủ thể của tội phạm
VD: D (20 tuổi) là công dân cư trú tại khu vực biên giới, lợi dụng việc này, ngày D
đã mua ma túy với một người đàn ông Trung Quốc (không rõ tên, địa chỉ) với giá
8.000 nhân dân tệ và đem số ma túy về chia nhỏ bán cho các đối tượng nghiện
trong xã. Sau vài ngày, lực lượng chức năng đã bắt quả tang đối tượng về hành vi
mua bán trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: 147,64 gam hêrôin, 13,5
triệu đồng, 1 cân điện tử và 2 điên thoại di động.

b) Chủ thể của pháp luật hình sự là pháp nhân thương mại

- Năng lực trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Theo “Điều 74” Áp dụng quy định của Bộ luật hình sự đối với pháp nhân thương
mại phạm tội

“Pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy
định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này
không trái với quy định của Chương này”

+ Một tổ chức được gọi là pháp nhân thương mại khi pháp nhân đó được thành lập
hợp pháp và mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các
thành viên.

+ Năng lực trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại xuất hiện từ thời điểm
pháp nhân này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhân tư cách pháp
nhân ( ngày giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có hiệu lực, giấy chứng nhân
đăng ký kinh doanh có hiệu lực… )

- Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

Theo Bộ luật hình sự 2015 quy định điều kiện chịu trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân thương mại khi:

+ Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại

+ Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;

+ Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của
pháp nhân thương mại;
+ Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3
Điều 27 của Bộ luật này.

+ Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm
hình sự của cá nhân

VD: A nhân danh Công ty X lái xe đi ký hợp đồng với công ty Y. Nhưng A đã
không đi dúng vào con đường đi tới công ty Y để ký hợp đồng mà A lái xe đi đón
người yêu đi ăn nhân tiện còn sớm rồi gây tai nạn cho C chết. Trường hợp này A tự
chịu trách nhiệm hành vi phạm tội của mình.

2. Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Nó là trạng thái tâm lý,
ý chí chủ quan của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do người
đó thực hiện và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra.

Mặt chủ quan của tội phạm thể hiện ở dấu hiệu lỗi, động cơ phạm tội và mục đích
phạm tội.

a) Yếu tố lỗi:

Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do người
đó thực hiện và đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó được biểu
hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.

-Theo Bộ luật hình sự 2015 đã quy định cụ thể các trường hợp cố ý phạm tội theo
Điều 10 Bộ luật hình sự quy định: “Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường
hợp sau đây:

1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý
thức để mặc cho hậu quả xảy ra”
-Theo Điều 11 BLHS quy định: “Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường
hợp sau đây:

1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được;

2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy
hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó”.

Dựa trên sự biểu hiện khác nhau về lý trí và ý chí của từng loại lỗi, khoa học luật
hình sự chia lỗi cố ý ra thành cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp; chia lỗi vô ý ra thành
lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả.

+ Lỗi cố ý trực tiếp: Theo quy định tại khoản 1 Điều 10 BLHS, thì lỗi cố ý trực
tiếp là lỗi của phạm tội trong trong trường hợp “người phạm tội nhận thức rõ hành
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong
muốn hậu quả xảy ra”.

+ Lỗi cố ý gián tiếp: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 10 BLHS, thì lỗi cố ý gián
tiếp là lỗi của người phạm tội trong trường hợp “Người phạm tội nhận thức rõ hành
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy
ra, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra”.

+ Lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin: Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 BLHS, lỗi vô
ý quá tin là lỗi trong trường hợp “Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy
ra hoặc có thể ngăn ngừa được” nên vẫn thực hiện và đó gây ra hậu quả nguy hại
đó.

+ Lỗi vô ý do cẩu thả: Theo quy định tại khoản 2 Điều 11 BLHS, thì lỗi vô ý do
cẩu thả là lỗi trong trường hợp “người phạm tội không thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó”.

b) Yếu tố động cơ:

Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Động cơ phạm tội chỉ có thể có trong
các cấu thành tội phạm của tội thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Trong một số ít
trường hợp động cơ phạm tội được quy định là dấu hiệu cua cấu thành tội phạm cơ
bản, cho phép phân biệt tội phạm với không phải là tội phạm

c) Yếu tố mục đích:

Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra
nhằm phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích phạm tội sẽ quyết
định ý chí của người phạm tội, hướng ý chí đó đến việc thực hiện tội phạm. Yếu tố
mục đích chỉ xuất hiện đối với những tội phạm có lỗi cố ý trực tiếp.

3. Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm. Bất kỳ tội phạm nào
cũng được thể hiện ra bên ngoài, phản ánh trong thế giới khách quan

Các biểu hiện bên ngoài của tội phạm tạo thành mặt khách quan của tội phạm bao
gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội; Hậu quả nguy hiểm cho xã hội; Mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả; Các điều kiện bên ngoài khác của tội phạm
(công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm…phạm tội).

+ Hành vi khách quan của tội phạm là tất cả những xử sự của con người được biểu
hiện ra thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định (hành động hoặc
không hành động) gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ. Hành vi giết người theo quy định tại điều 123 bộ luật
hình sự có thể là hành vi hành động hoặc không hành động. Hành vi hành động để
giết người như người phạm tội thực hiện hành vi đâm, chém, bắn, đánh, bóp cổ,
treo cổ,… với người bị hại

+ Gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây ra hậu quả và hậu quả đó
gây nguy hiểm cho xã hội. Nếu hành vi không gây ra hậu quả, tức hành vi chỉ trong
suy nghĩ thì không thể được coi là mặt khách quan của tội phạm được. Hành vi giết
người theo điều 123 đã xâm phạm tính mạng con người và gây ra cái chết cho nạn
nhân. Hậu quả xâm hại quan hệ xã hội là tính mạng con người được pháp luật bảo
vệ, gồm thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần.
 Thiệt hại vật chất là những thiệt hại đo đếm, xác định được mức độ nhất
định như chết người, gây thương tích với tỷ lệ % tổn hại sức khỏe, thiệt hại
tài sản được quy ra bằng tiền v.v…
 Thiệt hại tinh thần là những thiệt hại khác mà không xác định được lượng
mức độ thiệt hại như tội vu khống, tội làm nhục người khác, tội phá hoại
việc thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội v.v. Hậu quả tác hại có ý
nghĩa quan trọng để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.
Hậu quả tác hại càng lớn thì mức độ nguy hiểm của tội phạm càng cao.

+ Gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của người phạm tội phải là hành
vi gây ra hậu quả và hậu quả đó gây nguy hiểm cho xã hội. Nếu hành vi không gây
ra hậu quả, tức hành vi chỉ trong suy nghĩ thì không thể được coi là mặt khách
quan của tội phạm được. Hành vi giết người theo điều 123 đã xâm phạm tính mạng
con người và gây ra cái chết cho nạn nhân. Hậu quả xâm hại quan hệ xã hội là tính
mạng con người được pháp luật bảo vệ

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả là mối quan hệ giữa các hiện
tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân (là hành vi khách quan)
làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là hậu quả của tội phạm). Ví dụ như
tội giết người thì hành vi đâm, chém, bóp cổ,… gây ra chết người, tức là có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Thực tiễn xét xử không phải bao giờ
cũng dễ dàng xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người.

+ Các điều kiện bên ngoài khác của tội phạm như công cụ, phương tiện, phương
pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm…phạm tội. Các yếu tố này có thể tùy thuộc
từng tội phạm khác nhau mà biểu hiện khác nhau.

4. Mặt khách thể của tội phạm

Khách thể là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.

Khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm và được hiểu là
đối tượng bị tội phạm xâm hại.

Trong mối tương quan với tội phạm nói chung, nhóm tội phạm và tội phạm cụ thể
có khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp
a) Khách thể chung của tội phạm

Khách thể chung của tội phạm là tổng hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm
xâm hại và được Luật hình sự bảo vệ. Khách thể chung của tội phạm là những
quan hệ xã hội được xác định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017, cụ thể:

“1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật
này phải bị xử lý hình sự.”

Bất kỳ hành vi phạm tội nào cũng đều gây phương hại đến khách thể chung là một
trong những quan hệ xã hội được xác định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự.
Chính vì vậy, thông qua khách thể chung, chúng ta có thể thấy được nhiệm vụ của
Bộ luật hình sự và bản chất giai cấp của nó. Hay nói đúng hơn là thấy được chính
sách hình sự của một quốc gia.

VD: Hành vi cướp tài sản vừa xâm hại đến quan hệ nhân thân vừa xâm hại đến
quan hệ sở hữu. Bản chất nguy hiểm của hành vi cướp tài sản chỉ được thể hiện
đầy đủ qua cả việc xâm hại quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Chính vì thế, cả
hai khách thể đều là khách thể trực tiếp của tội phạm.

 Khách thể trực tiếp là cơ sở thể hiện rõ nhất bản chất của tội phạm cụ thể.
Nó giúp xác định đúng tội danh và đánh giá đúng đắn tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội cụ thể

b) Khách thể loại của tội phạm:

Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất được một
nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một nhóm
tội phạm. Khách thể loại có vai trò quan trọng về mặt lập pháp. Ý nghĩa của việc
xác định khách thể loại của tội phạm là cơ sở để hệ thống hoá các quy phạm pháp
luật phần các tội phạm cụ thể trong Bộ luật Hình sự thành từng chương.

VD: Hành vi trộm cắp dây điện thoại đang sử dụng vừa gây thiệt hại cho quan hệ
sở hữu XHCN vừa gây thiệt hại cho an toàn thông tin liên lạc. Nhưng thiệt hại cho
an toàn thông tin liên lạc mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi
phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội phải được xác định là tội phá huỷ công trình,
phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia chứ không phải tội trộm cắp tài sản.

c) Khách thể trực tiếp của tội phạm:

Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị một loại phạm cụ thể
trực tiếp xâm hại. Thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đối với
khách thể trực tiếp, tội phạm đã gây phương hại đến khách thể chung và khách thể
loại của tội phạm.

Một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều khách thể nhưng không phải lúc nào tất cả
các khách thể đó đều được xem là khách thể trực tiếp. Khách thể trực tiếp khi đó là
quan hệ xã hội mà tội phạm gây thiệt hại thể hiện được đầy đủ bản chất nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm. Trong nhiều trường hợp, nếu một tội phạm xâm phạm đến
nhiều khách thể mà xâm phạm đến khách thể nào cũng thể hiện được bản chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, chúng ta cần xem xét dấu hiệu thứ hai
để xác định khách thể loại. Đó là khách thể đó phải luôn bị tội phạm cụ thể đó xâm
hại trong mọi trường hợp, hoặc người phạm tội muốn xâm hại khách thể nào (lỗi)
….

VD: A trộm cắp tài sản của B. A đã xâm hại đến khách thể trực tiếp là quyền sở
hữu tài sản của B và gây phương hại đến khách thể chung và khách thể loại là
quyền sở hữu của công dân

You might also like