You are on page 1of 45

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế theo
hướng toàn cầu hoá.   Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành công
nghệ thông tin, cuộc sống ngày càng được nâng cao với đầy đủ tiện
nghi vật chất. Người ta cho rằng các phương tiện nghe nhìn có thể đáp
ứng tối ưu mọi nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật, bồi dưỡng tinh thần và
tình cảm thẩm mỹ của con người, văn hoá đọc không còn giữ vị trí độc
tôn như trước mà đã bị văn hoá nghe nhìn lấn át.  Trên thực tế, có một
hiện trạng đáng báo động cho Văn hóa đọc sách của người dân Việt
Nam nói chung và của giới trẻ nói riêng: nguy cơ xuống cấp cả về chất
lượng sách cũng như cả số lượng người đọc. Tuy nhiên, nếu phân tích
một cách kỹ lưỡng chúng ta sẽ thấy rằng, cho dù xã hội có phát triển
đến đâu thì văn hoá đọc vẫn được duy trì và phát triển phù hợp theo xu
hướng chung của xã hội. Vậy nguyên nhân nào đã khiến cho giới trẻ
mà tiêu biểu là sinh viên có thái độ “vô cảm” với sách ? Và cần phải
có những giải pháp gì để nâng cao thái độ và hiệu quả trong việc đọc
sách?
Là một trong những sinh viên của Trường ĐHNV nhóm chúng tôi
mong muốn được tìm hiểu về VHĐ của s inh viên trong trường để tìm
ra được những nguyên nhân xuống dốc của việc đọc sách. Từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm kích thích việc đọc sá ch của sinh viên.
Chính vì vậy, nhóm chúng tôi xin lựa chọn đề tài nghiên cứu " Thực
trạng và giải pháp nâng cao văn hóa đọc của sv trường ĐHNV Hà
Nội" làm đề tài nghiên cứu . Hy vọng qua đề tài này, sẽ cung cấp cho

1
các sinh viên của trường những phương pháp đọc hiệu quả nhất để đáp
ứng được nhu cầu chinh phục tri thức nhân loại của giới trẻ .
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong đề tài này, nhóm chúng tôi đề cập đến một số nghiên cứu
trước đó về văn hóa đọc:

- Nhà báo Lý Trường Chiến – Giám đốc phía nam dantri.com.vn


và tạp chí Trí Tri(2010), Bài viết “Vài giải pháp nhằm nâng cao văn
hóa đọc”.

- Nguyễn Thị Lan, bài viết “Phát triển văn hóa đọc tại các trường
Đại học Đông Á-Đà Nẵng”, đăng trên tạp chí Thư viện Việt Nam số
52-2015.

- Tác giả Thảo Miên, “ Văn hóa đọc cũng cần xã hội hóa”, báo Phụ
nữ Việt Nam, số 48-2015.

- “Khảo sát thực trạng đọc sách và đề ra phương pháp đọc sách
hiệu quả cho sinh viên khoa kinh tế trường Đại học Đồng Tháp” của
nhóm sinh viên khoa kinh tế, Trường Đại học Đồng Tháp.

- “Một sô giải pháp phát triển Văn hóa đọc cho sinh viên Huế”,
Nguyễn Thị Bích Ngọc, Khoa du lịch-Đh Huế

Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa đọc của
sinh viên. Tuy nhiên qua khảo sát, nhóm chúng tôi thấy rằng chưa có
đề tài nào đề cập hay nghiên cứu về văn hóa đọc của sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội.

2
3. Mục tiêu nghiên cứu vấn đề

- Mục tiêu chung: Tìm hiểu thực trạng đọc và phương pháp đọc
của sinh viên. Từ đó đê xuất một số giải pháp nâng cao văn hóa đọc
cho sinh viên Trường ĐHNV Hà nội.

- Mục tiêu cụ thể: Tìm hiểu thói quen đọc sách của sinh viên
Trường ĐHNV Hà Nội và đề xuất một số phương pháp đọc hiệu quả.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về VHĐ.

- Khảo sát thực trạng văn hóa đọc của sinh viên Trường ĐHNV Hà
Nội.

- Đề xuất các giải pháp phát triển VHĐ cho sinh viên Trường
ĐHNV Hà Nội.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu vấn đề

5.1 Đối tượng nghiên cứu

Văn hóa đọc của sinh viên.


5.2 Phạm vi nghiên cứu
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
6. Giả thuyết nghiên cứu vấn đề
7. Phương pháp nghiên cứu vấn đề
Trong thực hiện đề tài, nhóm chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:

- Phương pháp thống kê mô tả : là phương pháp có liên quan đến


việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán các đặc trưng khác
nhau để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu.

3
- Phương pháp chọn vùng nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu VĐH của
sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu khảo sát.

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Kế thừa có chọn lọc những
thông tin trong các tài liệu đã nghiên cứu.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp thông tin.

8. Cấu trúc đề tài


Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
danh mục chữ viết tắt đề tài được chia làm 3
Chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về VHĐ
Chương 2: Đánh giá thực trạng VHĐ của sv ĐHNV Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao VHĐ

4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ VĂN HÓA ĐỌC

1. Văn hóa đọc


1.1 Khái niệm Văn hóa

Cho đến nay người ta đã thống kê có tới hàng trăm khái niệm văn
hoá. Có thể nói có bao nhiêu nhà nghiên cứu thì có bấy nhiêu khái
niệm về văn hoá. Nói đến văn hóa là nói đến những giá trị tốt đẹp của
mỗi quốc gia, dân tộc hoặc của nhân loại được lưu giữ, bảo tồn và
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nếu còn phù hợp với hoàn cảnh.

Năm  2002 UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: “ Văn hóa
được đề cập như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật
chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã
hội và nó chứa đựng, ngoài văn học, nghệ thuật, cả cách sống, phương
thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”.

Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà
Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt
quan niệm về văn hóa: “ Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch
sử.- Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn,trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã
hội”.

Tóm lại Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và
phát triển trong mối quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song,
chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự
bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế

5
hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát
triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn
hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện
trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con
người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo
ra.

1.2 Khái niệm Văn hóa đọc


Thuật ngữ văn hóa đọc đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một
định nghĩa hay khái niệm hoàn chỉnh và thống nhất được đưa vào các
bộ từ điển. Trong xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức, sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật, sách báo, tài liệu và các vật mang
tin tăng theo cấp số mũ, ngày càng phong phú, đa dạng về hình thức,
do đó việc đọc ngày nay không chỉ giữ ở phương thức đọc truyền
thống (sách in), mà còn chuyển sang phương thức đọc hiện đại (đọc
trên các phương tiện nghe nhìn, thiết bị điện tử máy tính, sách điện
tử). Hiện nay, vấn đề văn hóa đọc đang được xã hội quan tâm, đã có
nhiều học giả, nhà khoa học nghiên cứu về đề tài này và đưa ra các
khái niệm về thuật ngữ văn hóa đọc. Theo Thạc sĩ Bùi Văn Vượng,
thuật ngữ “văn hóa đọc là đọc sách có văn hóa, hay xây dựng một xã
hội đọc sách”. Tại Hội thảo “Văn hóa đọc, thực trạng và giải pháp” tổ
chức tại thành phố Hồ Chí Minh (2010), khái niệm “văn hóa đọc” được
lý giải theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hóa đọc
là cách ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của các nhà quản lý và các cơ
quan quản lý nhà nước; ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của cộng
đồng và ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân trong xã
hội. Xét từ góc độ cá nhân, văn hóa đọc cần hội tụ đủ 3 yếu tố là thói

6
quen đọc, sở thích đọc và giá trị và chuẩn mực đúng đắn, lành mạnh sẽ
hình thành thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc lành mạnh. Giáo
sư Chu Hảo trong Hội thảo “Sách và chấn hưng giáo dục” đã đề cập
đến 3 yếu tố cấu thành nên văn hóa đọc, đó là thói quen đọc, phương
pháp chọn sách và kỹ năng đọc, các yếu tố trên có mối quan hệ mật
thiết và hỗ trợ lẫn nhau. Như vậy, văn hóa đọc đã vượt lên khái niệm
đọc đơn thuần, nó hướng đến giá trị nghệ thuật đích thực, hướng đến
các ứng xử, giá trị và chuẩn mực thẩm mỹ của cộng đồng xã hội.à kỹ
năng đọc. Theo nghĩa hẹp, văn hóa đọc là ứng xử, giá trị và chuẩn mực
đọc của mỗi cá nhân hình thành nên: Thói quen đọc, sở thích đọc, kỹ
năng đọc, các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng cùng bổ sung, bồi
đắp cho nhau. Khi cá nhân có những ứng xử

2. Lợi ích và sự cần thiết của văn hóa đọc đối với sinh viên

Xã hội phát triển kéo theo sự phát triển của thông tin hiện đại,
đã bắt đầu tình trạng tràn ngập thế giới âm thanh và hình ảnh qua các
phương tiện nghe nhìn, trong đó một số chức năng của việc đọc đã
được màn hình hóa và thùng loa đảm nhận. Thời gian đọc sách và độc
giả đang bị co hẹp lại, dù chỉ là tương đối. Tuy nhiên, điều quan trọng
là sách vẫn có những lợi ích và tính năng không thể thay thế được
bằng các phương tiện nghe nhìn và chúng ta cần tạo ra một nhận thức
rộng rãi trong xã hội về sách và thư viện như một bộ phận hữu cơ của
hệ thống thông tin và giao lưu xã hội.

Sách là nguồn tri thức, là kết tinh tất cả những học thuyết có giá
trị nhất, sách ghi lại toàn bộ lịch sử loài người. Sách là người thầy, là
di huấn của người đời trước để lại cho người đời sau. Sách không chỉ

7
ghi lại quá khứ, phản ánh hiện tại mà còn là cương lĩnh của tương lai.
Nhờ có sách mà con người đã tiếp thu được tất cả tri thức của nhân
loại được tích luỹ trong suốt quá trình lịch sử lâu dài.

“Tạo chúc cầu minh, đọc thư cầu lý./ Minh dĩ chiếu ám thất, lý dĩ
chiếu nhân tâm  ”. Tức là làm ra cây đuốc là để soi sáng nhà cửa, còn
đọc sách là để soi sáng tâm trí, nhân tâm con người. Đọc sách không
chỉ là đọc ngoài cửa miệng cho vui mà đọc để khai mở tâm trí, rèn
luyện nhân tâm.

Đọc sách không đem lại sự thành công nhưng thực tế đã chứng
minh rằng những người thành công đều rất thích và chú trọng đến việc
đọc sách. Điều đó phần nào cho thấy, đọc sách có góp phần vào sự
thành công của mỗi người. Đọc sách đem đến cho con người, đặc biệt
là sinh viên những lợi ích vô cùng quan trọng mà các phương tiện nghe
nhìn khác không thể đáp ứng cho người thưởng thức. Tác dụng của
việc đọc sách không chỉ dừng lại ở chỗ tiếp thu kiến thức mà đọc sách
còn là một biện pháp để hoàn thiện tâm hồn, nhân cách của con người.
Bên cạnh việc đọc sách để tiếp thu tri thức, việc đọc sách đôi khi còn
rèn luyện những kĩ năng, tình cảm và thói quen hữu ích mà đôi khi bạn
không nhận ra.

- Đọc sách giúp tăng cường khả năng giao tiếp

Giao tiếp là một trong những kĩ năng vô cùng quan trọng, thông
qua giao tiếp những thông điệp của bạn sẽ được truyền tải đến người
nghe một cách dễ dàng. Tuy nhiên, không phải bất cứ ai cũng có thể tự
tin đứng trước đám đông để thể hiện mình. Sự thiếu tự tin vào bản thân
xuất phát từ nhiều nguyên nhân như ít tiếp xúc với mọi người xung
quanh, tâm lí tự ti và không thực sự tự tin về vốn kiến thức đang sở
hữu.
8
Đọc sách thực chất là một quá trình giao tiếp, khi đó tác giả quyển
sách và bạn là những nhân vật tham gia giao tiếp. Quá trình giao tiếp
này giúp các bạn hiểu vấn đề, biết cách trình bày vấn đề theo chiều
hướng triển khai hay khái quát hợp lý, cách lý luận hay dùng dẫn
chứng chứng minh cho một luận điểm nào đó. Đọc sách một thời gian
lâu, bạn sẽ biết trình bày vấn đề một cách khoa học, theo trình tự logic
nhất định.

Không chỉ vậy, nhờ loại hình giao tiếp đặc biệt này, bạn sẽ tinh tế
hơn khi cảm nhận, phán đoán những cảm xúc, thái độ của người khác.
Hình thành những phản xạ và sự nhạy cảm, linh hoạt cần thiết để xử lý
vấn đề.
- Đọc sách giúp rèn luyện năng lực tưởng tượng, liên tưởng, sáng tạo
Sách được viết bằng hệ thống ngôn ngữ, cụ thể là các chữ viết được
nối kết liên tục với nhau tạo thành câu, dòng, đoạn, bài… Từ ngữ được
dùng luôn có nghĩa, và nét nghĩa đó lại được quy chiếu vào các sự vật
tương ứng trong cuộc sống. Ví dụ nói đến ‘tĩnh vật’ chúng ta nghĩ đến
một loạt các đồ dùng hay cây trái được đặt trong trạng thái yên tĩnh,
nói đến ‘quỹ đạo’ chúng ta nghĩ đến tập hợp những điểm tạo nên một
con đường khép kín dành cho sự chuyển động của một thực thể nào đó,
hoặc nói đến ‘hoa mai’ chúng ta nghĩ đến loại hoa nhiều cánh, nở vào
mùa xuân, đẹp và mọi người thích thưởng thức… Như vậy, quá trình
đọc sách thực chất cũng là một quá trình quan sát các sự vật và hiện
tượng trong cuộc sống thực mà chữ viết được quy ước tượng trưng
thông qua quá trình tưởng tượng, liên tưởng.
- Đọc sách giúp rèn luyện năng lực ngôn ngữ
Việc đọc sách là biện pháp hữu hiệu nhất giúp bạn khắc phục những
sai sót trong việc sử dụng ngôn ngữ. Đọc một quyển sách hay, bạn biết
được cách sử dụng từ ngữ của tác giả với những câu có đầy đủ thành
phần chue ngữ và vị ngữ. Từ đó, bạn hình thành cho mình thói quen sử
dụng từ khéo léo, đúng ngữ pháp mà không phải sợ sai trong dùng từ.
Và chính quá trình đọc sách lâu dài, sự tập trung tinh ý sẽ giúp bạn có
được kĩ năng trong sử dụng ngôn từ.

9
- Đọc sách sẽ việc vô cùng quan trọng nếu muốn có được kiến
thức

Sách là kho tàng tri thức mà người trước để lại cho người sau. Tất cả
những kinh nghiệm trong đời sống được đúc kết và lưu giữ trong sách.
Chính vì vậy, đọc sách giúp bạn có được kiến thức chính xác nhất về
vẫn đề đang tìm hiểu. Ví dụ: Đọc sách lịch sử, bạn sẽ có được những
hiểu biết về lịch sử dân tộc, về những chiến công vang dội địa cầu với
sự thông minh, sáng tạo trong lối đánh mà các vị tướng vạch ra. Hay
với Toán học, bạn dần khám phá được những phép tính mới lạ, từ đó
hình thành tư duy, logic trong cách tính toán.

Tất cả những gì bạn đọc sẽ lấp đầy tâm trí bạn với những thông tin
mới mẻ, thú vị. Bạn không thể biết được lúc nào đó bạn sẽ cần đến
những mảng kiến thức này. Càng hiểu biết, bạn càng được trang bị tốt
để vượt qua bất cứ thử thách nào trong cuộc sống.

Ngoài ra việc đọc sách còn giúp cho việc ghi nhớ tốt hơn; khả năng
phân tích tư duy mạnh mẽ hơn; tăng khả năng tập trung, chú ý, kĩ năng
viết tốt hơn và đọc sách còn giúp cho tâm hồn được thanh lọc, giảm
thiểu những căng thẳng và giúp con người sống có ích cho xã hội…
Đây đều là những lợi ích vô cùng quan trọng cho sinh viên để giúp cho
quá trình học tập được tốt hơn. Chính vì vậy, việc đọc sách là vô cùng
cần thiết đối với tất cả mọi người nói chung, sinh viên nói riêng.

3. Cơ sở pháp lý về phát triển Văn hóa đọc ở Việt Nam


- Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc
phát triển văn hóa đọc trong nhân dân. Chỉ thị số 42-CT/TW ngày
25/8/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã chỉ rõ: “Chăm
lo phát triển nhu cầu văn hoá đọc của các tầng lớp nhân dân… Tập
trung củng cố và phát triển hệ thống thư viện, các loại phòng đọc,
trước hết ở cơ sở”. Tại Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 của
Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Phát triển văn hóa

10
đến năm 2020 cũng đã yêu cầu: “Lấy nhiệm vụ phục vụ cho công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm mục ti êu lựa chọn sách,
xây dựng vốn tài liệu thư viện để cung cấp kịp thời cho bạn đọc. Xây
dựng phong trào đọc sách trong xã hội, góp phần xây dựng có hiệu
quả thế hệ đọc tương lai”.

- Điều lệ trường đại học ban hành theo Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg
ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ, tại điều 45 đã quy định:
“Trường đại học phải có thư viện và các trung tâm thông tin tư liệu
chuyên ngành phục vụ hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ. Thư
viện và các trung tâm thông tin tư liệu có trách nhiệm quản lý, bổ sung
và cung cấp thông tin, tư liệu khoa học và công nghệ ở trong nước và
nước ngoài thuộc các lĩnh vực hoạt động của trường, thu thập và bảo
quản các sách, tạp chí, băng, đĩa, các tài liệu lưu trữ, các luận văn,
luận án đã bảo vệ tại trường, các ấn phẩm của trường. Thư viện và các
trung tâm thông tin tư liệu chuyên ngành hoạt động theo quy chế do
Hiệu trưởng ban hành”. Hệ thống thư viện, giáo trình, tài liệu là một
trong những tiêu chí để đánh giá trong kiểm định chất lượng trường
đại học; là điều kiện quan trọng đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy - học. Như vậy có thể thấy phát triển văn hóa đọc trong các các
trường đại học là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược của Đảng, Nhà
nước cũng như của ngành giáo dục và đào tạo để góp phần thực hiện
mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước.
- Thực hiện Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 của Chính
phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai
đoạn 2006-2010; Chỉ thị số 296/CT-TTg ngày 27/2/2010 của Thủ

11
tướng Chính phủ; Nghị quyết số 05-NQ/BCSĐ ngày 06/01/2010 của
Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới quản lý giáo dục
đại học giai đoạn 2010-2012, hiện nay các trường đại học, cao đẳng
trong cả nước đã chuyển đổi phương thức đào tạo theo niên chế sang
phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Đặc điểm của đào tạo theo
hệ thống tín chỉ là giảm số giờ lý thuyết và tăng số giờ thảo luận, thí
nghiệm, thực hành. Giờ tự học của sinh viên tăng gấp đôi so với đào
tạo theo niên chế. Triển khai tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ đòi
hỏi phải đổi mới phương pháp dạy - học; chuyển từ cách dạy truyền
thống thầy đọc - trò ghi sang tích cực hóa quá trình dạy học, trong đó
giảng viên trình bày những nội dung cơ bản của học phần và hướng
dẫn cho sinh viên phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Để giải quyết
tốt những yêu cầu trên, đòi hỏi sinh viên cần được trang bị kiến thức
sử dụng thông tin, có phương pháp đọc sách và tự nghiên cứu sách, bởi
đọc sách chính là cách học tập tốt nhất, là phương tiện cần thiết và
hiệu quả nhất để tạo cho mình một cơ sở học vấn vững vàng. Bên cạnh
đó, giảng viên chính là người chọn lọc và định hướng cho sinh viên
đến những giáo trình, tài liệu tham khảo cần thiết để mở rộng kiến
thức; cần tham gia nhiều hơn đến các hoạt động thư viện như góp ý, đề
xuất bổ sung tài liệu, tận dụng nguồn tài liệu, dịch vụ của thư viện,
khuyến khích sinh viên sử dụng tài liệu của thư viện để đạt được
những kết quả: hoàn thiện bộ sưu tập, hiểu rõ hơn về thư viện của
trường, có cái nhìn mới về thư viện, sinh viên có thêm kiến thức ngoài
giáo trình được quy định.
- Trong pháp lệnh thư viên, số 31/2000/PL-UBTVQH10 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội cũng đã có những điều khoản quy định rõ ràng về
phát triển văn hóa đọc thông qua việc phát triển thư viện và đề cập đến
12
nhiều lợi ích của người đọc. Theo khoản 1, Điều 13, Pháp lệnh quy
định “ Thư viện phải có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu và tạo điều kiện
thuận lợi cho người đọc trong sử dụng vốn tài liệu thư viện và tham
gia các hoạt động do thư viện tổ chức ”. Theo đó khoản 3, Điều 13 quy
định “Thư viện có nhiệm vụ tổ chức thông tin, tuyên truyền, giới thiệu
vốn tài liệu thư viện, tham gia xây dựng và hình thành thói quen đóc
sách, báo trong nhân dân ”. Điều 17 quy định “Thư viện phải khai thác
các nguồn tài liệu trong nước và nước ngoài để đáp ứng nhu cầu
người đọc; tổ chức phục vụ các đối tượng người đọc theo quy chế thư
viện”. Bên cạnh đó, Nhà nước còn có các chính sách ưu cho cả thư
viện và người đọc, được quy định tại Khoản 2, Điều 22 như sau: “ Nhà
nước hỗ trợ kinh phí cho việc khai thác mạng thông tin-thư viện trong
nước và nước ngoài, cho mượn tài liệu giữa thư viện và người đọc”.
- Không chỉ pháp lệnh Thư viện, Dự thảo Luật thư viện cũng đề cập
đến trách nhiệm của thư viện và quyền của người đọc. Cụ thể, Khoản
1 Điều 10 quy định người sử dụng tài liệu có các quyền sau: “ Được sử
dụng tài liệu tại chỗ, mượn về nhà hoặc truy cập qua mạng thông tin
máy tính; Được tiếp nhận thông tin về tài liệu thư viện thông qua hệ
thống mục lục hoặc các hình thức thông tin, tra cứu khác; Được tiếp
nhận sự giúp đỡ, tư vấn về việc tìm chọn nguồn thông tin”. Thư viện,
có nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi cho người đọc sử dụng vốn tài liệu
thư viện hợp với nội quy thư viện; tổ chức các dịch vụ tạo điều kiện
cho người đọc tiếp cận, sử dụng vốn tài liệu tại chỗ hoặc qua mạng
thông tin máy tính. Theo phát biểu của bà Nguyễn Thị Thanh Mai, Vụ
trưởng Vụ Thư viện, Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch, thành viên Ban
soạn thảo Luật Thư viện trong bài đăng của Báo Quân đội nhân dân,
“Việc thành lập Luật Thư viện có tác động rất tích cực đến bạn đọc.
13
Việc đó nằm trong tổng thể chiến lược phát triển văn hóa đọc. Theo
mục tiêu trong chiến lược phát triển van hóa đọc đến năm 2020 mà
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt, chúng ta phải phấn đấu xây dựng
một thế hệ đọc tương lai và làm sao việc đọc sách trở thành phong
trào trong xã hội”.
Như vậy, có thể thấy rằng, Văn hóa đọc luôn được Đảng, Nhà nước
quan tâm và đầu tư phát triển. Với những điều khoản được quy định rõ
ràng trong các Nghị quyết, chỉ thị, điều lệnh, pháp lệnh thư viện và dự
thảo luật thư viện sẽ có tác động mạnh mẽ đến người đọc. Và giúp cho
văn hóa đọc ngày càng phổ biến và trở thành phong trào trong toàn
dân.
Với các quy định, chính sách phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam đã có
những bước phát triển vượt bậc. Hàng năm xuất bản khoảng   xấp xỉ
25.000 tên sách, tăng gấp 6 lần, gần đây tốc độ gia tăng hàng năm
khoảng 10%. Cả nước hiện nay đang xuất bản khoảng gần 400 tên báo,
tạp chí, nhiều báo có số lượng xuất bản mỗi số lên tới 500.000 bản.
Ngày nay hệ thống thư viện công cộng đã phát triển từ tỉnh tới huyện
và đang vươn tới nhiều xã trên toàn quốc, khắp từ Bắc tới Nam, bao
gồm 64 thư viện tỉnh, 587 thư viện huyện và khoảng 10.000 thư viện
và tủ sách cơ sở ở xã. Trong nhiều năm trở lại đây xuất hiện một loạt
tạp chí với mục đích giới thiệu, hướng dẫn đọc như: Tạp chí Xuất bản
Việt Nam, Người đọc sách, Sách và Đời sống của cơ quan quản lý nhà
nước, của hội nghề nghiệp và của nhà xuất bản lớn cho công chúng
rộng rãi.  Đồng thời trên các phương tiện truyền thông đại chúng như
vô tuyến truyền hình, đài truyền thanh, các báo hàng ngày, báo tuần,
tạp chí cũng có giới thiệu, hướng dẫn đọc thường xuyên hơn trước đây.
Các Hội chợ sách trong nước và quốc tế, phố sách cũng đã được tổ
14
chức ở các thành phố lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... đã
tạo cho công chúng được tiếp cận thường xuyên và dễ dàng hơn với
sách mới xuất bản. Có thể thấy rằng, đây là những dấu hiệu rất tích
cực trong việc phát triển Văn hóa đọc ở Việt Nam trong giai đoạn đổi
mới đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc phát triển văn hóa đọc vẫn
còn tồn tại những hạn chế nhất định như: chưa hình thành được một
chiến lược phát triển văn hoá đọc và các kế hoạch phát triển văn hoá
đọc trên bình diện quốc gia, nhằm liên kết, phối hợp các thành phần,
các lực lượng của văn hoá đọc, mặc dù mục tiêu đã được Đảng, Chính
phủ vạch ra rất rõ ràng là xây dựng một xã hội học tập, một xã hội ham
đọc; Sự phân bố tài liệu đọc giữa thành thị và nông thôn mất cân đối;
chưa có một tổ chức nào, một hoạt động xã hội nào xây dựng thói quen
đọc có hệ thống; công tác tuyên truyền hướng dẫn đọc chưa được thực
hiện thường xuyên liên tục và có định hướng...
Tiểu kết:
Trong chương này, nhóm chúng tôi đã hệ thống hóa cơ sở lý luận của
VHĐ với các khái niệm về văn hóa và văn hóa đọc của các chuyên gia.
Các lợi ích của văn hóa đọc như nâng cao khả năng giao tiếp, kĩ năng
sử dụng ngôn từ, cung cấp kiến thức…cũng được đưa ra một cách khái
quát. Cũng trong chương này, các biện pháp, chính sách của Đảng,
Nhà nước đề ra nhằm phát triển văn hóa đọc được ban hành thông qua
các Nghị định, nghị quyết, pháp lệnh…Các chính sách này tuy chưa
thực sự đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho văn hóa đọc ở Việt Nam
nhưng đã đem lại nhiều thành tựu đáng kể, mở ra thời kì phát triển mới
cho một bộ phận của nền văn hóa-văn hóa đọ

15
Chương 2:
2.1 Vài nét về Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Chặng đường phát triển của trường Đại học Nội vụ Hà Nội:
- Năm 1971 Trường trung học Văn thư lưu trữ được thành lập theo
Quyết định số 109/BT ngày 18/12/1971 của Bộ trưởng phủ Thủ tướng
với nhiệm vụ đào tạo cán bộ trung học chuyên nghiệp của ngành Văn
thư, lưu trữu; bồi dưỡng huấn luyện nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ
đang làm công tác văn thư, lưu trữ ở các cơ quan nhà nước. Trường
đóng tại xã Thanh Lâm, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Ngày 11/5/1994, Bộ trưởng Trưởng Ban tổ chức Cán bộ Chính
phủ (nay là Chính Phủ) đã kí quyết định số 50/TCCB-VP về việc
chuyển địa điểm của trường từ Vĩnh Phúc về tại Xuân La, Tây Hồ, Hà
Nội. Quyết đinh này thể hiện sự quan tâm của Bộ Nội vụ, tạo cơ hội
tốt cho trường trong việc tuyển sinh, tiếp nhận giáo viên có chuyên
môn cao cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho đào tạo cán bộ đáp ứng
yêu cầu tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức của ngành và đất
nước.
- Sau 2 lần đổi tên, ngày 15/6/1996 Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào
tạo ban hành Quyết định số 3225/QĐ-BGDĐT về việc thành lập trường
Cao đẳng Văn thư Lưu trữ Trung ương I nhằm đáp ứng yêu cầu của xã
hội về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Năm 2008, trường đổi tên thành Cao đẳng
Nội vụ.
- Ngày 14/11/1011 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số
2016/QĐ-TTg về việc thành lập trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là cơ sở giáo dục đại học công lập
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, trực thuộc Bộ Nội vụ. Với trên 40
16
năm truyền thống và phát triển, Trường có sứ mệnh mở cơ hội học tập
cho mọi người với chất lượng tốt, phục vụ nhu cầu học tập đa dạng
với nhiều hình thức đào tạo, đa ngành, đa cấp đọ, đáp ứng yêu cầu
nguồn nhân lực của ngành nội vụ và cho xã hội, phục vụ sự nghiệp
xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Để thực hiện tốt sứ mệnh của mình, trong những năm qua trường
đã không ngừng đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đội ngũ cán bộ,
giảng viên có trình độ chuyên môn, đổi mới phương pháp giảng dạy,
phát triển chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng hiệu quả công
tác nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế, đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin, đơn giản hóa các thủ tục trong Nhà trường.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện đang tổ chức quản lý và đào
tạo 27 ngành nghề bao gồm 3 ngành học chính là Đại học, Cao đẳng và
Trung câp. Chương trình giáo dục đào tạo của Trường được thiết kế
khoa học bao gồm các khối kiến thức cơ bản, cơ sở và chuyên nghiệp
nhằm trang bị cho người học kiến thức, kĩ năng cần thiết để sinh viên
hòa nhập, thích ứng nhanh với công việc và cuộc sống.
Trong suốt chặng đường gần 45 năm, Nhà trường đã vinh dự nhận
được nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương lao động hạng
Ba(1996); Huân chương Lao động hạng nhì(2011); Huân chương lao
động hạng nhất(2006); Huân chương Độc lập Hạng Ba(2011) và nhiều
bằng khen của Thủ tướng chính phủ, Bộ Giáo dục-Đào tạo….

2.2 Thực trạng

17
Thế kỷ XXI với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin,
truyền thông, văn hóa đọc đã bị lấn át bởi sự lôi cuốn của việc sử dụng
mạng internet và các phương tiện nghe, nhìn. Văn hóa đọc trong
trường đại học bị suy giảm và có những thay đổi và trường đại học Nội
vụ Hà Nội không nằm ngoài số đó. Bên cạnh những tấm gương có ý chí
phấn đấu trong học tập, ham đọc sách, nghiên cứu tài liệu và sử dụng
thư viện tích cực, một trong những biểu hiện của sự hạn chế về văn
hóa đọc của sinh viên là tình trạng phần lớn sinh viên chỉ học và đọc
khi các kỳ thi đã tới gần, học đối phó - học để thi. Tài liệu, sách, báo,
sinh viên chỉ đọc khi giảng viên yêu cầu làm tiểu luận, bài tập lớn, hay
thuyết trình về một đề tài hoặc chỉ phục vụ cho kỳ thi, tức là chỉ khi bị
áp chế, bắt buộc, sinh viên mới có ý thức đọc mang tính tức thời. Cách
học đó khiến người học không tạo được tính chủ động tích cực trong
học tập, nghiên cứu và thói quen đọc sách, mà đọc theo nhu cầu hoặc
sở thích. Chính vì vậy, sinh viên trở nên thụ động trong việc đọc và
nghiên cứu tài liệu, sách, báo để tìm trong đó những kiến thức phục vụ
cho việc tự học và nghiên cứu khoa học. Có thể nói sự thụ động trong
văn hóa đọc đã và đang làm nghèo tri thức, tâm hồn và văn hóa của
sinh viên.

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát với 100 phiếu thăm dò được phát
ra, thu thập ý kiến về việc đọc sách đã được gửi đến sinh viên đang
theo học ngành Quản trị văn phòng Trường Đại học Nội vụ Hà Nội với
hai nhóm đối tượng là sinh viên đại học chính quy và đại học liên
thông. Kết quả: Rất nhiều anh, chị cho rằng sinh viên hệ đại học liên
thông cho biết ngày nay ít đọc sách và lý do chính là không có thời
gian rảnh rỗi. Còn các sinh viên hệ chính quy cũng có lí do để quay

18
lưng lại với sách đó là không đủ tiền để mua sách. Hai điều được viện
dẫn trên chung quy là vì nhu cầu đọc thấp, "có thì đọc, không thì
thôi"; mà chữ viết, ngôn ngữ không phải là thứ thường được dọn ra sẵn
như âm thanh, hình ảnh... Khi được hỏi về mức độ quan trọng của việc
đọc sách: 34% sinh viên cho rằng rất quan trọng, rất cần thiết; 45% là
cần thiết và có tới 21% sinh viên cho rằng đọc sách có mức độ quan
trọng bình thường. Việc đọc sách đem đến rất nhiều lợi ích, không chỉ
cung cấp kiến thức phục vụ cho học tập mà còn cung cấp kĩ năng quan
trọng như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sử dụng ngôn từ… thế nhưng vẫn
có rất nhiều sinh viên đánh giá đọc sách không thực sự cần thiết, chỉ
dừng lại ở mức độ bình thường. Họ cho rằng, trong thời đại hiện nay
những gì sách có thì trên mạng cũng có. Vì vậy, sách không còn quan
trọng như trước nữa và mạng Internet đang là công cụ hữu hiệu trong
việc tìm kiếm thông tin.

HÌNH 2.1 Biểu đồ thời gian đọc sách 1 ngàycủa sinh viên ĐHNV

19
Thời gian đọc sách một ngày
30 phút 30'-1 giờ 1-2 giờ trên 2h
8% 3%

31%
58%

(Nguồn: Khảo sát 100 sinh viên ĐHNV Hà Nội)

Nhìn vào biểu đồ hình 2.1 ta có thể thấy, thời gian mà các bạn sinh
viên dành ra để đọc sách trong một ngày như sau: 58% sinh viên đọc
sách dưới 30 phút mỗi ngày; 30phút đến 1 giờ chiếm tỉ lệ 31%; 8%
sinh viên đọc sách từ 1-2h và trên 2% chỉ chiếm con số ít ỏi với 3%.
Ngoài giờ học trên lớp, phần nhiều các bạn sinh viên phải đi làm thêm
chính vì vậy thời gian một ngày cũng bị rút ngắn. Cùng lẽ đó mà thời
gian cho việc đọc sách cũng giảm đi rất nhiều. Địa điểm đọc sách của
sinh viên đại học Nội vụ Hà nội chủ yếu là ở nhà. Số lượng sinh viên
đến thư viện tìm và đọc sách là rất ít, chỉ chiếm 14%, trong khi đó ở
nhà chiếm tới 59%. Ngoài ra, lớp học và một số địa điểm khác như
công viên, trên xe buýt…là nơi được một số bạn lựa chọn làm địa điểm
đọc sách. Thời điểm đọc sách của sinh viên chủ yếu vào buổi tối. Vì
đây là thời gian rảnh rỗi nhất trong ngày của sinh viên. Một số khác
cho biết ngày cuối tuần là thời điểm thích hợp để đọc sách. Ngoài ra,
giờ giải lao trên lớp cũng là thời điểm được một số bạn lựa chọn để
đọc sách.
20
HÌNH 2.2 Biểu đồ thói quen đọc sách

45%
40%
35%
30%
25%
20% Không bao giờ đọc sách
15% Khi cần tham khảo
10% Khi cảm thấy muốn
Bất cứ khi nào ranh rỗi
5%
0%
i n
rỗ uố ảo ch
nh m kh c sá
rả ấy am đọ
o th th giờ
nà n
ứ ảm cầ ao
tc ic i
Bấ K h Kh ngb
K hô

(Nguồn: Khảo sát 100 sinh viên ĐHNV)

Khi được hỏi về thói quen đọc sách, 25% sinh viên cho biết họ đọc
sách bất cứ lúc nào rảnh rỗi; 45% đọc khi muốn và khi cần tham khảo
chiếm tỉ lệ 29%. Điều đáng nói là vẫn có những sinh viên không bao
giờ đọc sách. Tuy nhiên, số sinh viên này chỉ chiếm tỉ lệ rất thấp là
1%. Mặc dù được đào tạo theo học chế tín chỉ, tức là giảm số giờ lý
thuyết và tăng số giờ thảo luận, thí nghiệm, thực hành. Giờ tự học của
sinh viên tăng gấp đôi so với đào tạo theo niên chế. Tuy nhiên, ý thức
tự học của sinh viên vẫn còn thấp. “Nước đến chân mới nhảy” là tâm lí
chung của sinh viên ĐHNV. Đa số các bạn sinh viên chỉ đọc sách khi
cảm thấy muốn và khi cần tham khảo. Chỉ đến lúc gần thi, các bạn mới
đi thư viện để đọc sách, ôn thi. Kiểu học chỉ để thi khiến cho các bạn
học một cách đối phó, các kiến thức có được chỉ phục vụ cho thi cử và
sau khi kì thi kết thúc các kiến thức đó cũng biến mất. Rất ít các bạn

21
sinh viên xây dựng cho mình thói quen đọc sách thường xuyên. Điều
này ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập. Chính vì vậy, mỗi sinh
viên cần phải tự giác, ý thức được tầm quan trọng của việc đọc sách.
Từ đó, xây dựng cho mình thói quen đọc sách thường xuyên và cao
hơn là văn hóa đọc.

HÌNH 2.3 Biểu đồ thể loại tài liệu

Thể loại tài liệu


40%
35%
30%
25%
20%
15% Truyện nắn, tiểu thuyết
10% Sách chuyên môn, tham khảo
5% Sách nghiên cứu, phân tích
Truyện tranh, thiếu nh
0%
ết i
ảo tíc
h
nh
uy kh
th
am hâ
n iếu
u p th
tiể th u, ,
n,
ôn
,
cứ nh
n gắ m ên tra
ện n hi ện
yê g uy
r uy ch
u n Tr
T ch
ch Sá

(Nguồn: Khảo sát 100 sinh viên ĐHNV)

Thị trường sách hiện nay rất đa dạng về thể loại. Mọi thể loại đều
cung cấp nhiều thông tin bổ ích, tuy nhiên đối với những sách liên
quan đến chuyên ngành mà sinh viên đang học thì cần phải được ưu
tiên hơn về mức độ quan tâm. Thế nhưng không phải sinh viên nào
cũng ưu tiên cho sách chuyên ngành.

Một thực tế đáng buồn khi khảo sát 100 bạn sinh viên về thể loại tài
liệu thường đọc. Kết quả: Thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện

22
cười, truyện tranh…chiếm tỉ lệ rất cao với 66%. Trong khi đó, sách
chuyên môn, tham khảo chiếm 24% và 10% là tỉ lệ của thể loại sách
nghiên cứu, phân tích. Không chỉ sinh viên trường ĐHNV mà đa số
giới trẻ Việt Nam, đặc biệt là các bạn nữ đang bị cuốn hút bởi các thể
loại truyện ngắn, tiểu thuyết nhất là truyện ngôn tình Trung Quốc. Có
thể thấy một thực trạng là hiện nay sinh viên chúng ta không phải
không đọc sách mà chỉ đọc sách để giải trí ít khi đọc các sách, báo
chuyên ngành học của mình vì đa số cho rằng các sách, báo này rất
nhàm chán và khó hiểu nên suy cho cùng ít tìm hiểu. Trong khi đó, các
quyển truyện ngôn tình Trung Quốc với nội dung về tình yêu lãng mạn,
phù hợp với tâm lí của giới trẻ. Hơn nữa, đọc truyện ngôn tình, các
bạn không phải suy nghĩ mà được đắm chìm vào cốt truyện như chính
mình là nhân vật chính. Trong môi trường học tập theo tín chỉ thì tự
học là chính và cần các bạn phải tự đọc tài liệu để nâng cao tri thức.
Việc ít có ai đọc giáo trình, tài liệu chuyên ngành như vậy thì cho thấy
sinh viên không có sự chủ động trong việc tìm tài liệu học tập điều này
rất đáng lo ngại. Và nếu tiếp tục tình trạng trên, chắc chắn kết quả học
tập của sinh viên sẽ không cao và cơ hội việc làm sau khi ra trường sẽ
khó hơn.

HÌNH 2.4 Nguồn tìm kiếm thông tin

23
Nguồn tìm kiếm thông tin
Hỏi thầy cô, bạn bè Đọc sách, tài liệu Mạng Internet Nguồn khác

2%
15% 13%

70%

Nguồn: Khảo sát 100 sinh viên ĐHNV

Nguồn tìm kiếm thông tin hiện nay khá đa dạng. Nguồn nào cũng
có lợi ích riêng của nó. Tuy nhiên đọc sách in sẽ có thời gian nghiền
ngẫm thuận tiện hơn là đọc sách điện tử. Nhưng đa số các bạn lại rất
hứng thú với việc đọc sách trực tuyến bằng máy tính hay điện thoại.

Nhìn vào biểu đồ hình 2.4 ta có thể thấy, khi muốn tìm kiếm
thông tin chỉ có 2% hỏi thầy cô, bạn bè; 13% chọn cách đọc sách, tài
liệu; sinh viên tìm kiếm thông tin qua mạng Internet chiếm tỉ lệ rất cao
với 70% và nguồn khác chiếm 15%. Tỉ lệ này cho thấy sự tiện lợi của
internet thu hút giới trẻ đặc biệt là sinh viên hơn so với những quyển
sách hay tại thư viện hay nhà sách, việc cầm quyển sách để đọc tìm
kiếm tài liệu không còn quan trọng nữa khi muốn biết điều gì thì các
sinh viên thường lên google gõ để tìm kiếm. Chính điều này làm cho
văn hóa đọc ngày càng giảm sút, không thể không thừa nhận sự tiện lợi
và nhanh chóng khi tìm tài liệu trên internet nhưng khi dùng internet

24
thì đa số các bạn chỉ đọc lướt qua nhanh cái gì có liên quan thì sao
chép về có khi không đọc lại lần nào nữa, chứ không suy nghĩ, phân
tích và có thể hiểu được sâu hơn như việc đọc một cuốn sách.

2.3 Đánh giá thực trạng


2.3.1 Ưu điểm của thực trạng
Qua cuộc khảo sát cho thấy sinh viên khoa Quản trị văn phòng
trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã biết xác định mục đích đọc sách là
để phục vụ cho việc học tập và nâng cao kiến thức bản thân. Nguồn
tìm sách của các bạn cũng khá phong phú như internet, thư viện và các
nhà sách trong vùng. Điều này cho thấy sinh viên có nhiều sự lựa chọn
và dễ dàng cập nhật thông tin. Sinh viên cũng đã đánh giá cao về hoạt
động trong thời gian rảnh là cần đọc sách, như thế việc tự học của sinh
viên sẽ ngày càng được cải thiện hơn.

Khi thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh thì việc đọc sách
được các bạn cho rằng vẫn không thể thiếu, bởi những ưu việt và
những lợi ích riêng có của sách không gì có thể thay thế được. Hơn thế
nữa, mỗi bạn sinh viên cũng có phương pháp đọc sách riêng cho mình
từ thời phổ thông, tuy nó chưa phải là hữu hiệu nhất nhưng cũng đã
phù hợp cho việc tích lũy kiến thức của các bạn đến bây giờ - là sinh
viên đại học.

Mặc dù việc học tập và làm thêm khiến cho các bạn sinh viên có
rất ít thời gian rảnh, thế nhưng rất nhiều bạn vẫn dành thời gian để đọc
sách dù chỉ 30 phút mỗi ngày. Điều đó cho thấy rằng, mặc dù không
còn ở vị trí độc tôn như trước nữa nhưng đọc sách vẫn là phương pháp
học hiệu quả được các bạn sinh viên lựa chọn.

2.3.2 Nhược điểm từ thực trạng


25
Bên cạnh những bạn sinh viên có nhận thức khá tốt về việc đọc sách
của bản thân thì vẫn tồn tại những con số ngược lại, con số này nói
rằng các bạn ấy ít đọc sách vì có cảm giác nhàm chán và tốn thời gian.
Cũng bởi vì thế mà thời gian đọc sách một ngày của các bạn ấy cũng
rất ít. Số lượng sinh viên ưa chuộng tìm kiếm thông tin trên mạng vẫn
còn nhiều, làm nảy sinh vấn đề lười đọc sách của sinh viên. Một bất
cập đang tồn tại đó là vấn đề tự học đang được đề cao nhưng vấn đề
đọc sách có nhiều sinh viên phớt lờ. Không chỉ thế thay vì đọc sách
các bạn lại sa vào chơi game, và thậm chí là các trò chơi vô bổ vừa tốn
thời gian, hại sức khỏe và còn tốn tiền.

Ưa chọn đọc sách điện tử cũng đang là vấn đề nổi trội, thế nhưng
một số bạn cho biết khi đọc sách điện tử các bạn còn mau nhàm chán
hơn cả đọc sách in và vì thế nó vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong
muốn. Mạng xã hội phát triển, người truy cập có thể tìm được rất
nhiều kết quả khác nhau. Điều đáng nói là, không phải tất cả thông tin
đó đều chính xác. Thậm chí, còn có rất nhiều trang mạng lừa đảo do
các thành phần phản động lập ra. Nếu không thực sự sáng suốt, các
bạn trẻ rất dễ rơi vào cạm bẫy. Chất lượng của một số trang mạng
không thực sự đảm bảo, dẫn đến tình trạng hoang mang cho các bạn
sinh viên. Chính vì vậy, nhiều bạn sinh viên nhanh chóng mất đi sự
hào hứng ban đầu khi sử dụng mạng xã hội.

Những suy nghĩ tiêu cực vẫn còn len lỏi trong tâm trí của các bạn
sinh viên làm ảnh hưởng đến động lực cũng thực hiện việc đọc sách
của các bạn ấy. Các bạn thường có tư tưởng rằng những quyển sách
không mang lại thích thú như internet, đọc sách dễ buồn ngủ…Hoặc có
đọc thì cũng chỉ là những quyển truyện ngôn tình, truyện tranh chứ

26
không phải là các loại sách tham khảo, giáo trình phục vụ cho việc học
tập.

Đó là những hạn chế thấy được từ khảo sát thực trạng đọc sách hiện
tại của sinh viên cần được khắc phục kịp thời tránh tình trạng xuống
dốc của một bộ phận nền văn hóa-văn hóa đọc.

2.3.3 Nguyên nhân


a. Nguyên nhân khách quan
- Ảnh hưởng hưởng của các phương tiện thông giải trí và mạng
tinInternet
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật,
các phương tiện truyền thông điện tử, tin học đã đem đến rất nhiều tiện
ích cho con người. Sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn
thông, các hoạt động sản xuất kinh doanh, giao lưu, trao đổi văn hóa,
… đã có sự thay đổi mạnh mẽ theo chiều hướng tích cực. Bên cạnh đó,
nó cũng mang tới một số ảnh hưởng tiêu cực đặc biệt là giới trẻ mà đối
tượng chính là học sinh, sinh viên.
Ngày xưa, sinh viên chỉ có thú vui duy nhất là đọc sách, “Sách
làm cho con người trở thành chủ nhân vũ trụ”. Cuốn sách hay sẽ được
truyền tay nhau từ người này sang người khác để đọc, không phải ai
cũng có điều kiện để được đọc sách. Ngày nay, khi xã hội phát triển,
điều kiện đọc của sinh viên cũng dần được nâng lên. Họ không hề
thiếu sách, thậm chí có rất nhiều sách để lựa chọn. Nhưng sinh viên
ngày nay không mấy mặn mà, hứng thú với việc đọc sách, nghiền ngẫm
những cuốn sách… Sự phong phú, tràn ngập của vô số kênh thông tin
trên mạng Internet, trên truyền hình… đã làm cho họ không còn đủ sự
kiên nhẫn để tìm kiếm những cuốn sách hay. Sinh viên ngày nay có rất

27
nhiều phương tiện thông tin giải trí khác ngoài việc học. Nhiều người
mất hàng giờ ngồi trong quán Game – Internet trong khi dành thời gian
cho việc học thì rất ít. Nhờ tính cập nhật, nhanh và giao diện bắt mắt
kèm theo những hình ảnh minh họa độc đáo mà các phương tin thông
tin ngày nay được giới trẻ rất ưa chuộng. Họ lên mạng Internet tìm
kiếm thông tin, đáp ứng nhu cầu giải trí. Nhiều sinh viên thường chỉ
có thói quen tìm kiếm những thông tin giải trí, mà không tận dụng
được hết những tiện ích, những mặt tích cực của Internet đem lại để
phục phụ học tập, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
Chúng ta cũng không nên đổ lỗi cho sự phát triển thông tin hiện
đại đã lấn át văn hóa đọc của sinh viên. Trên thực tế, chúng ta phải
khẳng định văn hóa nghe, nhìn, internet có rất nhiều lợi ích. Vấn đề
đặt ra là sinh viên nên đọc gì, xem gì và phương pháp đọc như thế nào.
Với công nghệ hiện đại, thông tin khoa học, những tài liệu đã được số
hóa hay những công trình nghiên cứu khoa học lại rất ít nhận nhận
được sự quan tâm của sinh viên. Trong khi đó, có một số kênh thông
tin giải trí – những thông tin hời hợt, thoáng qua lại là đối tượng đọc
của không ít sinh viên. Điều này đã ảnh hưởng đến sinh viên, làm cho
họ ngày càng mất dần thói quen đọc sách.
- Phương pháp dạy và học trong trường đại học hiên nay
Phương pháp dạy và học trong trường đại học hiện nay có ảnh
hưởng rất lớn đến trình độ, văn hóa đọc của sinh viên. Nhiều chuyên
gia về văn hóa và giáo dục trăn trở về vấn đề đổi mới phương pháp
giảng dạy và học tập trong trường đại học. “Một trong những điểm yếu
hiện nay là phương pháp dạy học vẫn còn lạc hậu, nặng về truyền thụ
một chiều, thầy đọc, trò ghi, ít phát huy tính chủ động, sáng tạo của
học sinh – sinh viên. Phương pháp dạy và học theo lối truyền thống đó
28
đã làm sinh viên ngày nay thiếu sự tìm tòi sáng tạo” – đó là nhận định
của Thứ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo tại hội thảo: “Đổi mới phương
pháp dạy học đại học”.
Một trong những biểu hiện của sự hạn chế về văn hóa đọc của
sinh viên là tình trạng sinh viên chỉ học khi các kỳ thi đã tới gần, học
đối phó – học để thi. Chính vì vậy, sinh viên trở nên thụ động trong
việc đọc và nghiên cứu tài liệu, sách, báo. Nguyên nhân của sự thụ
động nữa là sinh viên chỉ đọc khi giảng viên yêu cầu làm tiểu luận, bài
tập lớn, hay thuyết trình về một đề tài hoặc chỉ phục vụ cho kỳ thi, tức
là chỉ khi bị áp chế, bắt buộc, sinh viên mới có ý thức đọc mang tính
tức thời. Chính cách học đó khiến họ không tạo được thói quen đọc
sách – học chủ động mà đọc theo nhu cầu hoặc sở thích. Việc đọc đối
với sinh viên hiện nay mới chỉ dừng lại ở chỗ đáp ứng yêu cầu bắt
buộc của việc học để thi.
- Chất lượng hoạt động của thư viện
Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục đại học đang hướng đến quá
trình tự đào tạo là chính. Cũng theo quy định của Bộ Giáo dục- Đào
tạo, từ năm 2010, các trường ĐH – CĐ sẽ chuyển qua đào tạo theo học
chế tín chỉ. Theo đó, thời gian dành cho việc lên lớp của sinh viên
được rút ngắn lại, thời gian danh cho việc tự học nhiều hơn. Thay vì
nghe, chép như trước đây, sinh viên phải chủ động trong học tập bằng
việc nghiên cứu, thực hành. Do đó, khối lương tài liệu để đáp ứng nhu
cầu đọc của sinh viên ngày càng cần thiết và nhiều hơn. Tất cả các
nguồn tài liệu phục vụ cho quá trình tự học của sinh viên phần lớn là ở
hệ thống thư viện của nhà trường. Chính vì vậy, hoạt động của thư
viện có ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình tự đào tạo. Mặc dù, đã được
Nhà nước quan tâm hỗ trợ, đầu tư phát triển nhưng chất lượng của các
29
thư viện chưa thực sự đáp ứng của người đọc. Hơn nữa, ở một số thư
viện, chỉ được đọc sách tại chỗ mà không được mượn về. Đây là lí do
mà nhiều bạn trẻ chọn cách tìm kiếm tài liệu thông qua mạng xã hội
thay vì đi thư viện đọc sách.
- Chất lượng nhiều thể loại sách không đáp ứng được nhu cầu
bạn đọc
Cùng với sự phát triển của xã hội, số lượng sách ngày càng tăng
lên theo cấp mũ. Thị trường sách ngập tràn các thể loại khác nhau với
trang bìa bắt mắt. Nhưng ngược lại không phải quyển sách nào cũng
cung cấp cho bạn đọc những kiến thức bổ ích và cần thiết cho cuộc
sống, học tập. Không thể phủ nhận khi đọc sách theo “phong trào” trở
thành trào lưu thì nó sẽ khiến cho giới trẻ tìm đến sách nhiều hơn và
giảm thiểu căn bệnh lười đọc vẫn đang tồn tại bấy lâu nay trong giới
trẻ. Nhưng điều đáng nói là sau đó, khi đọc xong nhiều người cảm thấy
hụt hẫng, bực mình bởi những cuốn sách chạy theo trào lưu phần lớn
nội dung còn nhiều thiếu sót, hình thức trình bày cầu thả, thiếu chính
xác. Thậm chí là những cuốn sách chứa yếu tố tình dục được nhiều tác
giả lựa chọn, sử dụng như một thứ “gia vị” để tăng sức hút, gây sự
hiếu kỳ, tò mò cho người đọc. Chính vì vậy, bạn đọc dần mất niềm tin
vào sự chính xác của sách và chọn những cách khác khi cần thông tin.
Hơn nữa, giá sách cũng là nguyên nhân mà nhiều bạn trẻ quay lưng lại
với sách.
b. Nguyên nhân chủ quan

 - Sự áp lực, mệt mỏi vì phải đi làm thêm

Bận rộn với công việc hàng ngày, áp lực lớn từ lịch học chính, học
thêm dày đặc, cùng chương trình học quá tải đã chiếm phần lớn thời
30
gian của các bạn học sinh, sinh viên. Các bạn ít quan tâm đến sách bởi
đọc sách là công việc tốn khá nhiều thời gian và yêu cầu sự tập trung
cao độ, suy nghĩ, nghiền ngẫm thì mới có thể nắm bắt được “linh hồn”
của cuốn sách và đem lại giá trị tinh thần cho người đọc. Hơn nữa, để
có thông tin, đọc một cuốn sách tốn rất nhiều thời gian so với tìm kiếm
thông qua mạng xã hội. Để đọc sách một cách tập trung, cần phải có
không gian yên tĩnh thì mới có thể cảm nhận được một cách trọn vẹn
nội dung của cuốn sách. Nhưng thực tế, đa phần các bạn sinh viên đều
ở trọ ngoài, vì vậy có được không gian yên tĩnh là việc tương đối khó.

- Nghiện mạng Internet

Bùng nổ công nghệ tin đem đến cho xã hội rất nhiều lợi ích khác nhau.
Tuy nhiên nếu không biết cách khai thác một cách có hiệu quả thì nó
có ảnh hưởng xấu nếu quá lạm dụng.
Đa số sinh viên đều bị chứng “nghiện mạng xã hội” ngốn khá nhiều
thời gian. Bên cạnh đó, nhiều trò chơi, thú vui để phục vụ cho nhu cầu
của giới trẻ xuất hiện ngày một nhiều. Những phương tiện giải trí đó
đã và đang lấn lướt và làm mất dần vai trò độc tôn của việc đọc sách.
Sau những giờ học căng cẳng, thêm vào sự mệt mỏi vì đi làm thêm
nhiều bạn trẻ đã tìm cho mình một hình thức giải trí nhẹ nhàng hơn
như: xem phim, nghe nhạc, chơi game… thay vì đọc một cuốn sách để
tích lũy tri thức. Nhiều bạn ngồi hàng giờ trước máy tính, hay điện
thoại để lưới facebook, yahoo… điều nghiêm trọng là nhiều bạn cảm
thấy rất khó chịu khi không được vào mạng xã hội. Có bạn còn thức
thâu đêm để online và ngủ bù vào ban ngày. Mạng xã hội ra đời, đáp
ứng không chỉ nhu cầu tìm kiếm thông tin mà còn là nơi để các bạn

31
sinh viên giải tỏa những áp lực, căng thẳng. Chính vì thế, thời gian
đọc sách của các bạn bị rút ngắn và thậm chí có những bạn nhiều ngày
liền không động đến một quyển sách nào. Thói quen lạm dụng mạng
internet khiến cho văn hóa đọc của sinh viên rơi vào tình trạng đáng
báo động.
-  Phụ thuộc quá nhiều vào các loại hình truyền thông
Thay vì việc lên thư viện tìm sách tham khảo, nhiều bạn sinh viên
mang máy tính xách tay lên thư viện ngồi tra cứu bằng các công cụ
trên mạng xã hội. Hiện nay khi mà nhà hàng, quán cà phê, karaoke, vũ
trường mọc lên ngày càng nhiều, thu hút bạn trẻ đến thưởng ngoạn thì
thư viện, hiệu sách lại vắng bóng, làm cho văn hóa đọc bị giới trẻ lãng
quên.
- Sự thiếu linh hoạt trong các phương pháp đọc
Thay vì đọc các loại sách truyền thống như trước đây, đa số các bạn
trẻ đều lựa chọn cho mình phương pháp đọc mới-đọc qua mạng điện tử
bằng điện thoại hoặc máy tính. Nhiều bạn trẻ còn nói, khi đọc sách in
thì cảm thấy rất buồn ngủ nhưng đọc bằng điện hay máy tính tình trạng
trên không diễn ra. Mặc dù biết, lạm dụng công nghệ sẽ gây ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe hơn nhiều lần đọc sách nhưng các bạn trẻ vẫn lựa
chọn.
Ngoài ra còn một số yếu tố chủ quan khác như động lực thúc đẩy,
trạng thái tâm lí…

Tiểu kết:

32
Trong Chương 2, nhóm chúng tôi đã tiến hành khảo sát 100 bạn sinh
viên thuộc Khoa Quản trị Văn phòng trường Đại học Nội vụ Hà Nội
với một số nội dung như thói quen đọc sách, thời gian, địa điểm đọc
sách và nguồn tìm kiếm thông tin mà các bạn sinh viên thường xuyên
sử dụng. Qua khảo sát, nhóm chúng tôi nhận thấy rằng văn hóa đọc của
sinh viên ĐHNV vẫn còn thấp. Thói quen đọc sách thường xuyên chưa
được hình thành ở mỗi cá nhân, thời gian đọc sách mỗi ngày cũng rất
ít. Sinh viên ĐHNV vẫn chưa thực sự quan tâm đến học tập khi đa số
đều lựa chọn các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện tranh…để
giải trí thay cho các loại sách tham khảo liên quan đến chuyên ngành
đang học để bổ sung kiến thức. Khi muốn tìm kiếm thông tin, số đông
lựa chọn tìm kiếm thông qua mạng Internet chứ không phải là đọc sách
hay hỏi thầy cô, bạn bè. Việc tìm kiếm và sau đó là sao chép thôn tin
cần tìm kiếm tạo cho sinh viên sự thụ động, lười tư duy trong học tập.
Sau khi, khảo sát, nhóm cũng đã đánh giá và rút ra được ưu điểm và
han chế từ thực trạng. Cùng đó, nhóm cũng đã nêu ra một số nguyên
nhân ảnh hưởng đến văn hóa đọc của sinh viên gồm hai nhóm nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan để từ nguyên nhân có thể
đề ra giải pháp khắc phục.

33
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VHĐ CHO SINH
VIÊN ĐHNV HÀ NỘI

3.1 Kinh nghiệm của các Trường đại học khác

Văn hóa đọc không chỉ là vấn đề được các nhà làm giáo dục, các
cơ quan báo chí mà còn rất nhiều bạn sinh viên của các trường đại học
khác nhau trên toàn quốc quan tâm. Cùng nghiên cứu về vấn đề này, sinh
viên Nguyễn Thị Bích Ngọc trường Đại Học Huế với đề tài “Một số giải pháp phát
triển Văn hóa đọc cho sinh viên Huế” cũng đã đề xuất một số giải pháp nhằm duy
trì và phát triển văn hóa đọc cho sinh viên như:

- Cần sớm ban hành bằng văn bản có hệ thống về một số khái niệm và nội
dung của văn hoá đọc, để sinh viên và mọi người hiểu một cách  tường minh  về
văn hoá đọc. Bởi lẽ hiện nay, văn hoá đọc chưa có một định nghĩa chuẩn mực và
thống nhất, đa số chưa nắm được thế nào là văn hoá đọc.
- Cần kết hợp với các công ty sách để tổ chức các hội chợ sách, nhằm giới
thiệu quảng bá về sách, đồng thời cần có những đợt khuến mãi, những  chương
trình bán sách giảm giá cho đối tượng sinh viên để khuyến khích  sinh viên mua 
sách, tài liệu duy trì và phát triển văn hoá đọc.
- Tăng cường tổ chức những hoạt động đoàn thể của sinh viên để tuyên truyền
phát triển văn hóa đọc trong cộng  đồng, tổ chức các hoạt động quyên góp sách để
đưa sách đến các vùng sâu, vùng xa cho bà con nông dân, hay tặng sách khoa học
công nghệ ứng dụng cho bà con vùng nông thôn.
- Trong các chiến dịch tình nguyện xanh, khuyến khích các hoạt động như: tổ
chức các buổi nói chuyện, kể chuyện sách, tặng sách cho các em thiếu nhi để các
em thấy được cái hay, cái đẹp của việc đọc sách.

34
- Các trường đại học, hàng năm nên có một ngày gọi là ngày đọc sách của
trường,  trong đó có thi đọc sách và giới thiệu sách, và các hoạt động khác liên
quan văn hoá đọc. Tinh thần chủ đạo là đọc có phê phán và quảng bá sách, do vậy
nhà trường cần có mối liên hệ thường xuyên với các nhà sách, nhà xuất bản và các
cơ quan hữu quan để tổ chức ngày đọc sách có hiệu quả.
- Xây dựng một chương trình giáo dục kỹ năng đọc trong môi trường truyền
thống và môi trường điện tử để giảng dạy không chỉ ở các trường đại học mà còn
tổ chức giảng dạy cho trẻ em ngay khi cắp sách tới trường cho tới bậc đại học.
Trên tinh thần đó nên đưa văn hóa đọc vào chương trình kiến thức thông tin của
nhà trường, coi văn hóa đọc như là một nội dung để phát triển kiến thức thông tin
cho sinh viên, tạo ra một kỹ năng mới giúp cho quá trình học tập suốt đời được
hiệu quả hơn.
- Cần tiến hành hiện đại hoá thư viện và hoạt động thư viện. Hiện đại hoá
không phải là đích đến mà phải là một tiến trình. Không phải cứ có trang thiết bị
hiện đại, có phần mềm hoàn thiện, có tự động hoá… là đã hoàn thành việc hiện đại
hóa. Hiện đại hoá phải được hiểu là sự cách tân, sự đổi mới liên tục, ngay lúc
chúng ta nghĩ đã hoàn tất quá trình hiện đại hoá thì lập tức chúng ta đã trở thành
lạc hậu.
- Các thư viện cần thường xuyên có các buổi nói chuyện chuyên đề, hoặc tập
huấn về nghiệp vụ thư viện thời đại Công nghệ thông tin đối với cán bộ thư viện,
các nhà quản lý thư viện nhằm  phục vụ tốt hơn đối với người đọc. Thư viện tốt
nhất là thư viện làm hài lòng độc giả nhất. Các thư viện cần phải bám sát các nhu
cầu và mong muốn của độc giả, tiếp tục nghiên cứu thói quen đọc sách của họ để
có thể kịp thời thiết lập lại các bộ sưu tập, hệ thống và dịch vụ cho phù hợp. Đồng
thời phải phát triển, thử nghiệm và triển khai các hình thức phục vụ mới như: các
thiết bị đọc cá nhân, di động, dịch vụ mạng… để góp phần gìn giữ và phát triển
văn hóa đọc, tạo mối quan hệ lâu dài và bền vững giữa thư viện và độc giả.
35
3.2 Đề xuất giải pháp
3.2.1 Giải pháp của chuyên gia

- Thành lập một Uỷ ban Quốc gia phát triển văn hoá đọc Việt Nam. Uỷ ban
bao gồm đại diện các cơ quan quản lý nhà nước liên quan tới đọc, các chuyên gia
đầu ngành trong các lĩnh vực liên quan tới đọc, đại diện các tổ chức xã hội. Uỷ ban
có nhiệm vụ soạn thảo chiến lược phát triển toàn diện và cơ bản nền văn hoá đọc
Việt Nam, xây dựng các kế hoạch dài hạn phát triển văn hoá đọc và tổ chức, đôn
đốc, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, hội... liên quan tới đọc theo
chiến lược và kế hoạch đã được nhà nước thông qua...Uỷ ban cũng có nhiệm vụ tư
vấn, tham mưu cho các cơ quan nhà nước cao nhất khi đưa ra các văn bản pháp
luật liên quan tới phát triển văn hoá đọc.
- Tổ chức tháng đọc quốc gia vào tháng 8 hàng năm vì đây là thời gian đa số
các trường đại học đang trong thời gian nghỉ hè. Mục đích nhằm xây dựng thói
quen đọc sách trong toàn dân, nhất là trong tầng lớp thanh thiếu niên - tương lai
của đất nước.
 Đi kèm theo tháng đọc sách là tổ chức các Hội chợ sách không chỉ ở các
trường đại học Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà tổ chức trên tất cả các trường
đại học trong phạm vi cả nước, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên được
tiếp cận với sách mới.
- Tổ chức tuyên truyền giới thiệu, hướng dẫn đọc trên các phương tiện truyền
thông đại chúng như vô tuyến truyền hình, truyền thanh, báo chí (kể cả các tạp chí
chuyên giới thiệu, hướng dẫn đọc) được thường xuyên, định kỳ, có hệ thống và
nhằm vào từng người đọc xác định, áp dụng các hình thức đa dạng, phong phú, hấp
dẫn, các phương tiện nghe nhìn hiện đại.

36
Tổ chức các cuộc thi đọc sách trên qui mô quốc gia gắn liền với hoạt động của
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt Nam…
- Xây dựng một chương trình giáo dục kỹ năng đọc trong môi trường truyền
thống và môi trường điện tử để giảng dạy ở các trường đại học. Nâng cao tinh thần
chủ đạo đọc có phê phán và sáng tạo.
- Xây dựng một đội ngũ những nhà viết sách có chất lượng cao trên hai loại
sách: sách nghiên cứu và sách phổ cập thuộc mọi lãnh vực khoa học kỹ thuật, văn
hoá xã hội, kinh tế, tôn giáo..., nhưng trước hết ưu tiên phát triển các lãnh vực kinh
tế, văn hoá, xã hội đặc thù Việt Nam nhằm phát triển tri thức Việt Nam và nâng
cao dân trí ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Đồng thời có
chế độ ưu đãi đối với họ nhằm có được những cuốn sách có chất lượng cao và
được xuất bản với giá cả hợp với túi tiền của công chúng.
Chọn lọc có hệ thống các tác phẩm tiêu biểu về các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn
hoá xã hội, kinh tế, y học của thế giới để dịch sang Việt ngữ.
Xây dựng một đội ngũ các nhà viết sách cho sinh viên có chất lượng cao. Đồng
thời có chế độ ưu đãi đối với họ để có được những cuốn sách phục vụ cho học tập
của sinh viên được xuất bản đẹp và giá rẻ.
- Hàng năm trao các giải thưởng sách cho các tác giả viết sách, hoạ sĩ trình bày,
nhà in có sách được xuất bản trong năm đạt trình độ cao về nội dung và hình thức
thuộc mọi lãnh vực tri thức ở hai trình độ nghiên cứu và phổ cập, kể cả sách dịch
đạt chất lượng cao.
- Nhà nước đầu tư hơn nữa cho các hệ thống thư viện, đặc biệt là hệ thống thư
viện phổ thông. Thư viện trường học có đủ kinh phí hoạt động và phát triển ngang
tầm các hệ thống thư viện tương ứng trong khối ASEAN, nhằm thu hút dân chúng
sử dụng hệ thống thư viện công cộng đạt một tỷ lệ nhất định ngang tầm các nước
tiên tiến, đảm bảo cho sinh viên các trường đại học được sử dụng thư viện trường

37
học như một công cụ học tập có hiệu quả và quan trọng hơn là xây dựng thói quen
đọc và giáo dục kỹ năng đọc, kỹ năng khai thác tri thức trong thư viện cho thanh
thiếu niên, kể cả khai thác tri thức trong môi trường điện tử.
Nhiều quốc gia đã coi đầu tư  xây dựng hệ thống thư viện trường học hiện đại và
nuôi dưỡng nó hoạt động thường xuyên có hiệu quả là đầu tư cho tương lai của
quốc gia, cho sự phát triển bền vững của xã hội.
- Tổ chức tiến hành nghiên cứu định kỳ 5 năm một lần về thực trạng đọc trong
xã hội làm cơ sở xây dựng các kế hoạch dài hạn phát triển toàn diện và đồng bộ
văn hoá đọc.

3.2.2 Giải pháp của nhóm

- Đối với nhà trường:


+ Thư viện có thể mở trang Wed cho sinh viên đọc sách online chứ không
nhất thiết là phải đến thư viện chỉ cần ngồi ở nhà hay bất kỳ đâu lên mạng là bạn
có thể đọc sách.

+ Muốn sinh viên mê đọc sách cần phải có những quyển sách hay, phục vụ nhu
cầu đọc và mục tiêu học tập của sinh viên. Vì vậy, thư viện của trường nên bổ
sung thêm nhiều loại sách tham khảo, sách chuyên ngành để khi cần sinh viên của
trường có thể mượn.

+ Mở các lớp thảo luận về đọc sách chuyển giao những kinh nghiệm phương
pháp đọc sách tìm kiếm tài liệu cho sinh viên.

+ Tổ chức các cuộc thi về sách để các sinh viên trong trường có cơ hội thể hiện
hiểu biết của mình về những quyển sách, những tác giả tên tuổi.

- Đối với sinh viên:

38
+ Việc đầu tiên cần làm là sinh viên cần sắp xếp cho mình một lịch trình cho
bản thân trong một ngày, bạn không cần dành nhiều thời gian chỉ cần 5 đến 10 phút
cho việc đọc giáo trình mà giảng viên hướng dẫn. Mặc dù phải đi làm thêm sau
những buổi học trên lớp để đỡ đần bố mẹ nên thời gian rảnh của các bạn sẽ bị rút
ngắn. Tuy nhiên, nếu biết cách phân phối thời gian một cách hợp lí, chắc chắn làm
thêm sẽ không ảnh hưởng quá nhiều đến kết quả học tập của các bạn. Sau mỗi buổi
học, nên dành thời gian để đọc lại bài giảng của giảng viên, đọc sách giáo trình
thay vì lướt web hay đọc truyện. Điều này, sẽ giúp ích rất nhiều cho bạn. Vì việc
đọc lại bài học cộng thêm đọc sách sẽ giúp cho các bạn hiểu bài và đương nhiên sẽ
nhớ được rất lâu.

+ Phải thật sự sáng suốt trong việc lựa chọn nguồn thông tin. Nếu các bạn
không biết phần nào quan trọng hay không hiểu phần nào ta nên chủ động trao đổi
cùng bạn bè hoặc hỏi những anh chị năm trước. Công nghệ thông tin phát triển, sẽ
có rất nhiều nguồn để bạn tra cứu thông tin. Nhưng theo nhóm chúng tôi, trước tiên
bạn nên hỏi thầy cô, bạn bè; nếu họ đều không cho bạn được câu trả lời thích hợp
thì bạn nên đọc sách, tài liệu của các nghiên cứu trước đó về vấn đề mình đang
thắc mắc. Và Internet sẽ là cách cuối cùng khi những phương án trên không đem
lại kết quả như mong muốn.

+ ”Đọc sách không chỉ là đọc chữ đơn thuần. Đọc sách chính là “nhìn thấu” ý
tưởng của tác giả, là tiếp nhận văn minh kiến thức của nhân loại và thậm chí còn
nhiều hơn thế” . Vừa đọc vừa ngẩm nghĩ và ghi chú những ý căn bản, cốt lỗi và
quan trọng, dùng bút chì hoặc bút nhớ để đánh dấu những ý đó để sau này khi quên
ta có thể xem lại.

+ Xác định mục đích, mục tiêu và kế hoạch đọc:Đây là việc mà rất nhiều bạn
đọc không thực hiện, nhưng lại là một công việc vô cùng quan trọng.

39
Khi đặt ra mục đích đọc, bộ não của bạn sẽ tập trung hơn để tiếp thu vào
những nội dung quan trọng . Hãy xác định mục đích đọc của bạn: đọc là để hiểu,
để áp dụng nó vào cuộc sống của mình.
Xác định thời gian mà bạn muốn hoàn thành quyển sách: 1 tháng, 2 tuần, 1 tuần
hay 4 ngày? Tùy theo độ dày, kiểu nội dung của quyển sách và điều kiện của bạn
mà hãy lựa chọn thời gian hoàn thành phù hợp. Nhưng dù sao, đừng để thời gian
đọc một quyển sách quá dài, tốt nhất là nên dưới 1 tháng.

Tiếp đến, hãy vạch ra kế hoạch đọc cụ thể: bạn sẽ đọc vào khoảng thời gian nào
trong ngày, bao nhiêu giờ đọc một ngày, bao nhiêu chương đọc một ngày… Và
hãy sắp xếp thời gian đọc đều đặn, nhịp nhàng.

Ngoài ra, kế hoạch đọc sách còn bao gồm những lần đọc lại sau lần đọc đầu tiên.
Đừng bao giờ dừng lại chỉ sau 1 lần đọc.

+ Việc lên mạng nghe nhạc, xem phim, chơi game…dường như đã trở thành
cách để xả stress của các bạn sinh viên. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, khi lên mạng
chơi game, chat cùng bạn bè, ta nên dành ít thời gian ghé các trang báo 24h, báo
Dân trí,… xem các chuyên mục kinh tế để cập nhật thông tin hay bổ ích khi vào
lớp chúng ta có thể thảo luận những vấn đề đó cùng bạn bè. Có thể những bản tin
mà chúng ta đọc được hôm nay và cho rằng không quan trọng nhưng xã hội không
ngừng phát triển, và rất có thể một ngày nào đó, những kiến thức mà chúng ta có
được hôm nay sẽ là hành trang vững chắc cho hành trình sau này.

+ Thành lập câu lạc bộ sách để các sinh viên trong trường có thể trao đổi, học
hỏi lẫn nhau. Các thành viên trong câu lạc bộ sẽ chia sẻ với nhau những quyển
sách hay hoặc truyền đạt nội dung quyển sách cho nhau sau khi đọc xong.

Tiểu kết:
40
Từ những thực trạng, nguyên nhân tồn tại trên, chúng tôi đã đưa ra một số
giải pháp để khắc phục tình trạng đọc sách trong sinh viên kinh tế trường ĐHNV,
trong số các giải pháp rút trích từ các bài nghiên cứu khác cùng với giải pháp mà
nhóm đã đề ra, chúng tôi thấy cần phải nâng cao văn hóa đọc trong sinh viên bằng
nhiều cách khác nhau, giúp sinh viên quen dần với việc đọc sách, báo, tài liệu,…
đây là điều cần thiết. Hi vọng, đây sẽ là những biện pháp đem lại hiệu quả và góp
phần nâng cao VHĐ của sinh viên ĐHNV

41
PHẦN KẾT LUẬN

Sinh viên trường ĐHNV còn lười đọc sách vì nhiều nguyên nhân khác nhau.
Các sinh viên cảm thấy chi phí cho việc đọc sách in còn khá cao. Trong khi đó
thư viện trường chưa đáp ứng hết nhu cầu tìm sách của sinh viên. Còn đọc sách
điện tử thì tốn nhiều thì giờ trên máy vi tính khiến sinh viên nhàm chán và dễ
lệch lạc mục đích đọc. Trong thời gian rảnh sinh viên thường chơi game hay đi
chơi... Đồng thời do sự ảnh hưởng của một lượng lớn thông tin nghe nhìn làm
sinh viên lãng quên lợi ích của việc đọc sách. Việc tìm ra phương pháp đọc sách
hiệu quả sẽ rất có ích cho sinh viên trường ĐHNV. Khi tiếp thu được nhiều kiến
thức từ những quyển sách hay, cập nhật nhiều thông tin mới về kinh tế sẽ giúp
sinh viên chúng ta học hỏi được nhiều kỹ năng, kinh nghiệm từ thế hệ đi trước.
Điều này góp phần tăng sức cạnh tranh với các sinh viên Nội vụ các trường đại
học khác. Bài nghiên cứu này, chúng tôi đã đưa ra các phương pháp để các bạn
xây dựng và phát phiển văn hóa đọc của mình một cách đúng đắn. Nếu áp dụng
được các phương pháp trên thì chúng tôi tin chắc rằng văn hóa đọc của các bạn
sẽ được cải thiện dù ít hay nhiều.
- Trong quá trình tìm hiểu chúng tôi đã tham khảo các giải pháp hay của các
chuyên gia như là xây dựng các chương trình phát triển văn hóa đọc và một vài
công trình nghiên cứu về thực trạng văn hóa đọc của một số inh viên trường đại
học khác. Từ những ý kiến đó nhóm đã tự đúc kết và đưa ra các giải pháp cụ thể để
rèn luyện việc đọc sách đối với sinh viên và đối với nhà trường.
- Bên cạnh những thành quả đạt được như trên, do thời gian nghiên cứu còn ít,
lực lượng của nhóm còn non trẻ và ít kinh nghiệm nên bài nghiên cứu có một số
hạn chế, chưa đi sâu vào vấn đề là làm cho sinh viên chúng ta mê đọc sách với
phương pháp đọc hiệu quả và chúng tôi cũng không tự đưa ra được nhiều giải pháp
cấp thiết để giải quyết vấn đề này.
42
- Qua những kết quả mà chúng tôi đã nghiên cứu được, bài nghiên cứu có
những thành công và cũng có nhiều hạn chế. Vì vậy nhóm chúng tôi sẽ tiếp tục tìm
hiểu thêm về tâm lý và nhu cầu của sinh viên hiện nay để nghiên cứu ra những
cách thức thu hút sinh viên tham gia vào việc đọc sách, tạo niềm đam mê sách cho
các bạn trước là nhằm nâng cao trình độ và kiến thức, sau là phát triển văn hóa
đọc của mỗi sinh viên nói riêng, trường Đại học Nội vụ nói chung.

43
LỜI CAM ĐOAN

Nhóm chúng tôi thực hiện đề tài “ Thực trạng và giải pháp nâng cao văn hóa đọc
của sinh viên ĐHNV”. Chúng tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
nhóm trong thời gian qua. Nhóm chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu có
sự không trung thực về thông tin sử dụng trong công trình nghiên cứu này.

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, nhóm tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt
tình của cô Nguyễn Thái Hòa, giảng viên khoa Quản trị Văn phòng, là người đã
trực tiếp hướng dẫn chúng tôi. Nhân đây, nhóm chúng tôi xin được bày tỏ lòng biết
ơn chân thành đến cô trong thời gian qua đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ chúng
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Đồng thời, nhóm cũng xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc đến các thầy cô trong Khoa Quản trị Văn phòng đã tổ chức những hoạt
động vô cùng bổ ích cho sinh viên thuộc Khoa.
Trong quá trình nghiên cứu nhóm chúng tôi gặp khá nhiều khó khăn, mặt khác do
trình độ chuyên môn còn hạn chế nên dù đã rất cố gắng nhưng đề tài của tôi không
tránh khỏi những sai sót và chưa thật sự sâu sắc trong việc đề ra giải pháp. Vì vậy,
nhóm chúng tôi hy vọng nhận được những ý kiến đóng góp của thầy, cô giáo và
các bạn sinh viên của trường ĐHNV để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn !

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Nghĩa


1 VHĐ Văn hóa đọc
2 ĐHNV Đại học Nội vụ

44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Nhà báo Lý Trường Chiến(2010), “Vài giải pháp nhằm nâng cao
văn hóa đọc”, tạp chí Trí Tri.

– Nguyễn Thị Lan, “ Phát triển văn hóa đọc tại các trường Đại
học Đông Á-Đà Nẵng”, tạp chí Thư viện Việt Nam số 52-2015.

- Thảo Miên, “Văn hóa đọc cũng cần xã hội hóa”, báo Phụ nữ Việt
Nam, số 48-2015.

- Nhóm 1 khoa Kinh tế trường đại học Đồng Tháp(2012), “ Khảo


sát thực trạng đọc sách và đề ra phương pháp đọc sách hiệu quả cho
sinh viên khoa kinh tế trường Đại học Đồng Tháp” .

- Nguyễn Thị Bích Ngọc(2004) “Một số giải pháp phát triển Văn
hóa đọc cho sinh viên Huế”.

45

You might also like