You are on page 1of 4

Nhà giáo LÊ THU LAN

Thạc sỹ Văn Học


Giảng viên cao cấp
Email: thulanle2020@gmail.com
ĐT: 0913 512 088

VĂN TƯ DUY – PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGÔN NGỮ VÀ VĂN CHƯƠNG
QUÊ HƯƠNG (PHIẾU HỌC TẬP 2)
Câu 1: Cho đoạn thơ sau:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
a) Phương thức biểu đạt chủ yếu của đoạn thơ trên.
b) Em hiểu nghĩa của các từ “trai tráng”, “tuấn mã” nghĩa là gì?
c) Nêu chủ đề đoạn thơ trên bằng một câu văn.
d) Hãy chỉ ra các tiếng bắt vần với nhau trong đoạn thơ trên. Trên cơ sở đó hãy trình bày hiểu biết của em về thể
thơ tám chữ.
e) Đoạn thơ có hai hình ảnh so sánh nhưng đó là hai cách so sánh khác nhau, mang lại hiệu quả nghệ thuật khác
nhau. Hãy phân tích để làm rõ điều đó.
Gợi ý:
a) Phương thức biểu đạt: Miêu tả
“Quê hương” là bài thơ trữ tình nên phương thức biểu đạt bao trùm là biểu cảm. Nhưng phần lớn câu thơ lại sử
dụng yếu tố miêu tả để tái hiện phong cảnh, con người, cuộc sống của làng chài trong nỗi nhớ của chủ thể trữ
tình. Như vậy yếu tố miêu tả chỉ là để phục vụ cho biểu cảm trữ tình. Mặt khác ngòi bút miêu tả của tác giả
không khách quan chủ nghĩa, mà trái lại, thấm đẫm cảm xúc chủ quan. Chính vì vậy mới có những câu thơ đẹp,
những hình ảnh so sánh bay bổng lãng mạn, nhân hóa sự vật một cách độc đáo, thổi linh hồn vào sự vật khiến
cho sự vật mang một vẻ đẹp, một ý nghĩa, tầm vóc bất ngờ.
b) Nghĩa của các từ:
+ Trai tráng: người đàn ông còn trẻ, khỏe mạnh.
+ Tuấn mã: con ngựa quý, đẹp, khỏe mạnh, phi nhanh, gan dạ dũng cảm.
c) Chủ đề của đoạn thơ: Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá trong buổi bình minh tuyệt đẹp.
d) Các tiếng bắt vần về nhau: sông – Hồng; cá – mã, giang – làng.
Đặc điểm thể thơ tám chữ:
- Thể thơ mới xuất hiện trong phong trào thơ mới có nguồn gốc từ thể hát nói của văn học trung đại
- Thơ tám chữ trong thơ mới có hình thức tự do hơn, độ dài ngắn không hạn định, có thể liền mạch hoặc
nhiều khổ, số câu, số khổ không bắt buộc.
- Cách gieo vần: sử dụng gieo vần liền và vần ôm với sự hoán vị bằng trắc đều đặn
*Thơ tám chữ khá tự do nhưng vần điệu vẫn nhịp nhàng, đều đặn, mở ra khả năng diễn tả phong phú.
e) Hình ảnh so sánh Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã là cách so sánh một vật cụ thể hữu hình này với một
vật cụ thể hữu hình khác. Hình ảnh con thuyền bơi trên sông hăng hái, mạnh mẽ liên tưởng như con tuấn mã –
con ngựa quý, đẹp khỏe mạnh phi nhanh về phía trước. So sánh như vậy làm nổi bật sự hăng hái, mạnh mẽ của
con thuyền ra khơi. Hình ảnh so sánh (con tuấn mã) với một loạt các động từ mạnh hăng, phăng, vượt diễn tả
thật ấn tượng khí thế dũng mãnh của con thuyền ra khơi làm toát lên một sức sống mạnh mẽ, một vẻ đẹp hùng
tráng đầy sức hấp dẫn.
Hình ảnh Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng lại là so sánh một vật cụ thể hữu hình (cánh buồm giương
to với một cái trừu tượng vô hình mang ý nghĩa thiêng liêng (mảnh hồn làng). So sánh như vậy không làm cho
hình ảnh cánh buồm được cụ thể rõ nét nhưng khiến cho cánh buồm vô tri trở nên có hồn và mang ý nghĩa lớn
lao tượng trưng. Cánh buồm căng gió trở thành một biểu tượng đẹp, đầy ý nghĩa của làng chài quê hương.
*Tham khảo lời bình trong SGV Văn 8 Tập 2 Trang 23, 24:
Hình ảnh cánh buồm căng rất đẹp, mang một vẻ đẹp lãng mạn với sự so sánh độc đáo bất ngờ:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Hình ảnh cánh buồm căng gió biển khơi quen thuộc bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng và rất đỗi thơ mộng. Tế Hanh như
nhận ra đó chính là biểu tượng của linh hồn làng chài. Nhà thơ vừa vẽ ra chính xác cái hình, vừa cảm nhận được cái hồn
của sự vật. Sự so sánh ở đây không làm cho việc miêu tả cụ thể hơn nhưng đã gợi ra được một vẻ đẹp bay bổng, mang ý
nghĩa lớn lao. Liệu có hình ảnh nào được diễn tả chính xác, giàu ý nghĩa và đẹp hơn để biểu hiện linh hồn làng chài bằng
hình ảnh cánh buồm trắng giương to no gió biển khơi bao la đó! Bút pháp lãng mạn hóa giúp người đọc “Nghe thấy cả
những điều không hình sắc như mảnh hồn làng trên cánh buồm giương, đưa người đọc vào một thế giới rất gần với
những tình cảm gắn bó máu thịt mà ta đã “âm thầm trao cho cảnh vật” (Lời bình của Hoài Thanh).

Câu 2: Trình bày sự khác nhau và hiệu quả nghệ thuật của chúng trong cách miêu tả hình ảnh người dân chài ở hai câu
thơ:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
(Quê hương - Tế Hanh)
Gợi ý:
- Sau chuyến đi biển, hình ảnh người dân chài hiện lên thật đẹp đẽ: "Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng -
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm".
- Cách miêu tả ở mỗi câu, mỗi khác. Ở câu trên tác giả tả “làn da ngăm rám nắng” của những người lao
động nơi biển cả dưới ánh nắng chói chang. "Làn da ngăm rám nắng" là làn da đặc trưng của người dân vùng
chài, vốn đã trải qua nhiều dầu dãi nắng mưa, nay ánh lên sự mạnh mẽ, rắn rỏi. Đây là câu thơ tả thực làm nổi
bật nét ngoại hình tiêu biểu thường thấy của những người dân chài bằng thị giác.
Câu thơ thứ hai lại là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Tuy vẫn nói về thân hình người lao động làng chài nhưng
không phải miêu tả bằng thị giác mà chủ yếu được cảm nhận bằng tâm hồn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”. Đây là
câu thơ xuất thần, được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn. Không chỉ làn da mà còn từ ánh mắt, bàn tay, cả thân hình, từ
"cả thân hình" đều nồng thở cái hương vị mặn mòi của biển cả. "Vị xa xăm" là hương vị từ phương xa, là gió đại dương,
là muối đại dương, là nắng đại dương, là hơi thở của đại dương. "Xa xăm" vốn là cảm nhận của thị giác, chỉ sự xa xôi,
mơ hồ; nay được kết hợp với từ chỉ xúc giác “vị” khiến cho câu thơ trở nên tinh tế vô cùng. Trong từ "nồng thở” còn
như ẩn chứa một sức mạnh dồi dào, bền bỉ đã được tôi rèn từ lâu để từ làn da, đôi mắt, nụ cười, tâm hồn... đều sáng
bừng sự sống.
Nhà thơ như hóa thân vào tâm hồn những người con của làng chài quê mình để “vẽ lên” hình ảnh người lao động với
vẻ đẹp khỏe khoắn, lớn lao đậm chất lãng mạn, bay bổng. Họ chính là những đứa con của biển khơi cả thân hình nhuộm
nắng, nhuộm gió, đượm vị xa xăm của biển cả, của huyền thoại, khoáng đạt bao la đầy bí ẩn. Họ như những sinh thể
tách ra từ cuộc sống đại dương để hóa thân vào tâm hồn những người dân trai tráng trong hành trình lao động, gắn bó
hòa điệu với biển cả với đại dương bao la.
Cùng với các chàng trai vùng chài là những con thuyền "bạn người đi biển":
"Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ"
Sau thời gian lao động vất vả, con thuyền không giấu giếm vẻ mệt mỏi của mình: "Chiếc thuyền im bến mỏi trở về
nằm".

Câu 3: Phép tu từ nào được sử dụng trong hai câu thơ và nêu hiệu quả nghệ thuật của chúng:
“ Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”
( Quê hương – Tế Hanh )
Gợi ý:
* Biện pháp nghệ thuật :
- Nhân hoá : con thuyền
- Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác : nghe…
* Tác dụng : Hai câu thơ miêu tả chiếc thuyền trở về bến sau khi vật lộn với sóng gió biển khơi. Tác giả không chỉ “thấy”
con thuyền đang nằm im trên bến mà còn thấy sự mệt mỏi , say sưa, còn “cảm thấy” con thuyền ấy như đang lắng nghe
chất muối thấm dần trong từng thớ vỏ của nó. Con thuyền vô tri đã trở nên có hồn, một tâm hồn rất tinh tế. Cũng như
người dân chài, con thuyền lao động ấy cũng thấm đậm vị muối mặn mòi của biển khơi. Biện pháp nhân hoá khiến
người đọc hình dung rất rõ dáng vẻ nặng nề, thấm mệt của chiếc thuyền khi neo vào bến đỗ. Nó lặng im "Nghe chất
muối thấm dần trong thớ vỏ". Trong câu thơ này, Tế Hanh đã sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác một cách
một cách tinh tế. "Nghe" là động từ chỉ hoạt động của thính giác, "thấm" lại là cảm nhận của xúc giác. Con thuyền nằm
nghỉ đồng thời cảm nhận từng chuyển động tinh vi nhất đang diễn ra trong thân thuyền, trong thớ vỏ của mình. Cách
viết ấy vừa gợi sự mệt nhọc thấm thía của con thuyền vừa thể hiện được sự tinh tế, tài hoa của nhà thơ. Tưởng như Tế
Hanh đồng cảm sâu sắc với cảm giác, cảm xúc của con thuyền... Khổ thơ trên là một trong những khổ thơ hay nhất trong
bài thơ "Quê hương" của Tế Hanh. Nó giúp người đọc có thể cảm nhận trong đó bao nhiêu niềm yêu mến, tự hào về
quê hương xứ sở. Đó là hương vị mặn mòi đặc trưng của làng biển suốt dọc dài dải đất hình chữ S Việt Nam. Không có
một tâm hồn tinh tế, tài hoa, không có tấm lòng gắn bó sâu nặng với con người cùng cuộc sống lao động làng chài quê
hương thì không thể có những câu thơ xuất thần, độc đáo đến như vậy.

Câu 4: Nỗi nhớ hồn quê hương kết lại trong câu thơ:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
a) Có thể thay từ ngữ “tưởng nhớ” bằng “thấy nhớ” được không?
b) Nỗi nhớ quê hương gắn liền với những hình ảnh nào? Cách diễn tả có gì đặc sắc?
Gợi ý:
Trong khổ thơ kết thúc, nhà thơ trực tiếp nói về nỗi nhớ làng quê khôn nguôi của mình. Nỗi nhớ ấy chân thành, tha thiết
nên lời thơ thốt ra thật giản dị, tự nhiên như lời của trái tim.
a) Không thể thay từ “tưởng nhớ” bằng từ “thấy nhớ”. Vì “tưởng nhớ” là một trạng thái tâm lý, chủ thể trữ tình
đắm mình trọn vẹn trong nỗi nhớ thương. Còn “thấy nhớ” là một trạng thái tâm lý nhất thời, không ổn định, lúc
nhớ lúc không. Nhà thơ dùng “tưởng nhớ” giúp người đọc hình dung nỗi nhớ cồn cào tha thiết lắng sâu.
b) Nỗi nhớ gắn liền với những hình ảnh thân thuộc của quê hương qua bút pháp liệt kê:
Nhớ: màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, con thuyền rẽ sóng, cái mùi nồng mặn quá.
Khi ấy Tế Hanh là một cậu học trò đang đi học phải xa quê. Trong nỗi nhớ ấy có những cảnh vật, sự vật cụ thể
quen thuộc, bình dị. Nhưng có lẽ cái nhớ cồn cào nhất vẫn là “cái mùi nồng mặn quá” rất đặc trưng của quê
hương. Với Tế Hanh, cái hương vị lao động làng chài đó chính là hương vị đầy sức quyến rũ của tâm hồn, là hồn
của quê hương. Nhà thơ đã cảm nhận được chất thơ của đời sống lao động hàng ngày của người dân quê
hương. Vì thế hình ảnh quê hương không hề chung chung, buồn bã, hiu hắt như một số bài thơ cùng đề tài này
mà đó là những hình ảnh tươi sáng, khỏe khoắn, mang hơi thở nồng ấm của lao động, sự sống.

You might also like