You are on page 1of 11

ĐỒNG CHÍ

-Chính Hữu-

I. Tác giả:
 Chính Hữu (1926-2007) quê ở tỉnh Hà Tĩnh.
 Nhà thơ chủ yếu viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông bình dị, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và
hình ảnh chọn lọc, hàm súc.
II. Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác: năm 1948 (sau chiến dịch Việt Bắc), trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
 Mạch cảm xúc: cảm xúc của bài thơ bắt nguồn từ niềm xúc động gợi ra từ cơ sở hình thành tình đồng
chí, tiếp tục được khơi mở qua những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể của tình cảm thiêng liênh này.
Bài thơ khép lại với cảm xúc lắng đọng trước biểu tượng đẹp về tình đồng chí.
 Mạch cảm xúc chi phối bố cục của bài thơ (3 phần – Hs tự nêu các phần)
 Ý nghĩa nhan đề:
- “Đồng chí” là chỉ người có cùng chí hướng, lí tưởng. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, từ này đã trở
thành từ xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội.
- Nhan đề ngắn gọn nhưng đã gợi được chủ đề-tư tưởng của tác phẩm: tình đồng chí là bản chất cách
mạng của tình đồng đội và thể hiện sâu sắc tình đồng đội. Bài thơ không chỉ khắc hoạ được hình tượng
người lính cách mạng mà còn thể hiện chân thật, sâu sắc tình cảm gắn bó keo sơn của họ.
III. Phân tích:
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí :
 Tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ:
- Cấu trúc ngữ pháp đối ứng, sóng đôi (“quê hương anh” – “ làng tôi”) cùng thành ngữ “nước mặn đồng
chua” và cụm từ giàu hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”-> gợi nhắc về những miền quê nghèo khó, nơi chôn
rau cắt rốn của những người lính; về giai cấp xuất thân của những người nông dân mặc áo lính.
- Cách nói “…đôi người xa lạ… chẳng hẹn quen nhau” -> sự đồng cảnh ngộ khiến những người lính từ
xa lạ trở nên quen biết và dễ cảm thông với nhau.
 Tình đồng chí bắt nguồn từ việc cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu:
- Hình ảnh vừa thực vừa mang nghĩa tượng trưng với kết cấu hai vế sóng đôi trong câu thơ thứ năm:“
Súng bên súng, đầu sát bên đầu” -> thể hiện rõ sự chung cùng lí tưởng, mục đích và nhiệm vụ, sát cánh
bên nhau trong chiến đấu của những người lính.
- Các từ ngữ “bên”, “sát” -> còn thể hiện sự thân thiết, gắn bó; sự quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm
lược của những người nông dân mặc áo lính. Khoảng cách giữa những người lính ngày càng rút ngắn.
Giờ đây các anh không chỉ là những người đồng cảnh mà hơn hết là những người đồng ngũ thân thiết.
 Tình đồng chí còn nảy nở trong sự chung cùng hoàn cảnh khó khăn nơi chiến trường:
- Hình ảnh cụ thể, giản dị nhưng giàu cảm xúc “ Đêm rét chung chăn...” -> gợi lên được những gian lao,
vất vả mà người lính phải trải qua nơi chiến trường. Và sự “chung chăn” ấy chính là chung cái khắc
nghiệt của hoàn cảnh, là sẻ chia với nhau những gian nan của cuộc đời người lính.
- Cụm từ “đôi tri kỉ”- đôi bạn thân thiết, hiểu nhau sâu sắc -> từ rời rạc, riêng lẻ, những người lính giờ đã
gắn bó keo sơ, đã hòa thành một khối chung vững chắc, khó tách rời. Họ là những người đồng cam
cộng khổ với nhau.
 Câu thơ đặc biệt “Đồng chí !”:
-> tiếng gọi thiêng liêng như một sự phát hiện, một lời khẳng định rằng chính sự đồng cảnh, đồng ngũ
và đồng cam cộng khổ đã khiến những người lính coi nhau là đồng đội, gọi nhau là “ đồng chí”.
-> người đọc đến những biểu hiện cụ thể và cảm động của tình đồng đội ở mười câu tiếp theo.
->Có thể nói, câu thơ thứ bảy như một nốt nhấn, như một bản lề gắn kết, nối liền mạch cảm xúc của
bài thơ .
2. Những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí
 Đó là sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau:
- Hình ảnh “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”-> Vì nghĩa lớn,
người lính ra đi chiến đấu, để lại sau lưng mình những gì thân thiết và quý giá nhất.
- Từ “mặc kệ” -> thể hiện rõ thái độ của người lính: dứt khoát, mạnh mẽ, quyết tâm, sẵn sàng ra đi cứu
nước nhưng thẳm sâu trong lòng, họ vẫn da diết nhớ thương quê nhà.
- Câu thơ sử dụng hình ảnh hoán dụ và nhân hóa “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”-> nói lên những
trông ngóng, nhớ mong mà quê hương, gia đình dành cho các anh -> Nếu thật là vô tình, mặc kệ thì
người lính chẳng thể nào cảm nhận nỗi nhớ thương ấy.
 Đó là sự chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của đời lính : Đoạn thơ : “Áo anh rách vai/Quần tôi có vài
mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày” liên tiếp liệt kê các hình ảnh cụ thể, chân thực trong
các câu thơ sóng đôi, đối ứng
-> hình dung rõ hơn về những thiếu thốn, gian nan nơi chiến trường;
-> cảm nhận được sự sẻ chia khó khăn,tinh thần lạc quan qua nụ cười “buốt giá” mà những người lính
dành cho nhau.
 Đó là sự động viên, khích lệ và truyền sức mạnh cho nhau để vượt qua khó khăn:
- Cụm từ “Thương nhau…” -> Thấu hiểu cảnh ngộ, tâm tư của nhau, chứng kiến và cùng nhau trải qua
gian nan khiến những người lính thực lòng thương quý nhau và trân trọng nhau hơn.
- Hình ảnh“... tay nắm lấy bàn tay”-> vừa là một cử chỉ chân thật, vừa là hình ảnh mang tính biểu trưng
cao khi cái nắm tay ấy thực chất là sự động viên, truyền nghị lực và tiếp thêm sức mạnh cho nhau để
vượt qua mọi gian khổ.
3. Biểu tượng đẹp về tình đồng chí:
 Hình ảnh vừa chân thực, vừa mang tính ẩn dụ: “Đêm nay rừng hoang sương muối” -> nhấn mạnh sự
khắc nghiệt của chiến trường
 Cụm động từ “đứng cạnh bên nhau” cùng động từ “chờ” -> đã khắc họa tư thế chủ động và sát cánh
cùng nhau trong chiến đấu. Sức mạnh của tình đồng chí đã giúp họ vượt qua cái khắc nghiệt của thời
tiết, của gian khổ, thiếu thốn để kiên cường hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu.
 “Đầu súng trăng treo” là:
- Hình ảnh thực: là bởi trong tư thế chủ động “chờ giặc”, mũi súng người lính hướng lên bầu trời khiến
có cảm giác như trăng chạm vào đầu súng.
- Hình ảnh gợi nhiều liên tưởng thú vị: “súng” và “trăng”là gần và xa, là hiện thực và lãng mạn, là chất
chiến đấu và trữ tình, là chiến sĩ và thi si, là “anh” và “tôi”-> hình ảnh này là biểu tượng đẹp cho tình
đồng chí gắn bó keo sơn giữa những người lính cách mạng.

IV. Tổng kết: Ghi nhớ (SGK)


BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

-Phạm Tiến Duật-


I. Tác giả:
 Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê ở tỉnh Phú Thọ; là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến
chống Mĩ. Thơ ông tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong với giọng điệu sôi nổi, hồn nhiên, trẻ
trung, tinh nghịch mà sâu sắc.
II. Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác năm 1969, trong kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
 Bố cục - mạch cảm xúc:
- Hình ảnh của những chiếc xe không kính và tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan của những người lính
lái xe (khổ 1 và 2)
- Thái độ ngạo ngễ, ngang tàng và tâm hồn trẻ trung phơi phới của người lính (khổ 3 và 4)
- Vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội (khổ 5 và 6)
- Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của những người lính (khổ cuối)
 Mạch cảm xúc của bài thơ: đi từ cảm hứng về những chiếc xe không kính đến cảm nhận về vẻ đẹp tâm
hồn và phẩm chất của những người lính lái xe.
 Ý nghĩa nhan đề:
- Nhan đề bài thơ dài, tưởng như thừa hai tiếng “bài thơ” nhưng đây lại là điểm thu hút độc giả.
- Nhan đề đã làm nổi bật hình tượng trung tâm của bài thơ: những chiếc xe không kính -> là một phát
hiện thú vị, thể hiện sự am hiểu và gắn bó với đời sống chiến trường của tác giả.
- Hai tiếng “bài thơ” cho thấy rõ cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: nói tới chiến tranh
không phải chỉ nhắc đến hiện thực khốc liệt của bom đạn mà điều chủ yếu nhà thơ muốn nói đến là
chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên thiếu thốn,
gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh -> thể hiện chủ đề - tư tưởng của tác phẩm.
III. Phân tích:
1. Hình ảnh của những chiếc xe không kính và tư thế của những người lính lái xe:
 Hình ảnh những chiếc xe không kính (2 dòng thơ đầu khổ 1):
- Câu thơ gần với câu văn xuôi: “Không có kính không phải vì xe không có kính”-> hình ảnh những
chiếc xe không kính đã hiện ra thực đến trần trụi.
- Điệp từ “không” (ba lần) cùng với câu thơ “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” -> đã lí giải cũng rất
thực nguyên nhân xe không có kính: do bom đạn chiến trường.
- Điệp từ “bom” cùng với những động từ mạnh “ giật”, “rung” -> gợi sự ác liệt của chiến tranh.
 Có thể nói, giọng điệu thản nhiên, mang chút lí sự ngang tàng của người lính khiến hình ảnh những
chiếc xe có hình thù “kì dị” trở nên sống động hơn và đem đến cảm giác sự xuất hiện của chúng trên
đường Trường Sơn là điều rất tự nhiên và bình thường.
 Tư thế của người lính lái xe:
- Đảo ngữ “Ung dung buồng lái ta ngồi” cũng với điệp từ “nhìn”, “ nhìn thấy” -> tạo ấn tượng cho người
đọc về tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan của những người lính lái xe.
- Hình ảnh người lính “ Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe không còn kính chắn gió vừa
lãng mạn vừa quả cảm. Cụm từ “nhìn thẳng” -> là sự tập trung cao độ vào tay lái, đồng thời cũng là
biểu hiện của tinh thần quả cảm, sẵn sàng đối mặt với gian khổ, khó khăn,với mất mát, hi sinh; là quyết
tâm thẳng hướng tới miền Nam.
- Liệt kê những chi tiết “gió...con đường...sao trời...cánh chim...” kết hợp với những từ ngữ có sức biểu
cảm cao như “chạy thẳng...đột ngột....sa...ùa”-> diễn tả được cảm giác chiếc xe đang lao nhanh, tầm
nhìn của người lính đột ngột được mở rộng để đón nhận cả thiên nhiên, đất trời đang “ùa vào buồng
lái”.
- Nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa “nhìn thấy gió...xoa” -> gió như một bàn tay vô hình xoa dịu đôi “mắt
đắng” của bao đêm không ngủ -> khắc hoạ tinh thần lạc quan của người lính.
 Với giọng điệu hài hước, ngôn ngữ chân thực, nhà thơ đã diễn tả cụ thể và gợi cảm những ấn tượng,
cảm giác của người lính lái xe trên chiếc xe không kính, để từ đó làm nổi bật những phẩm chất anh
hùng của họ.
2. Thái độ và tâm hồn của người lính lái xe:
 Hình ảnh chân thực, lối nói mộc mạc “Bụi phun tóc trắng như người già/Mưa tuôn, mưa xối như ngoài
trời” -> giúp độc giả có được những hình dung đầy đủ hơn về những khó khăn, gian khổ mà người lính
gặp phải khi ngồi trong những chiếc xe không kính.
 Điệp khúc “Không có kính, ừ thì...” giàu tính khẩu ngữ -> giọng điệu ngang tàng, đậm chất lính.
 Hành động “Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc…” hay “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa…”
cùng các từ tượng hình, tượng thanh “phì phèo”, “ha ha” -> không chỉ khắc sâu cái ngạo nghễ, ngang
tàng mà còn biểu hiện được tâm hồn trẻ trung, thích đùa vui, tếu táo của những chàng lính trẻ.
 Ngang tàng, tếu táo đã tạo ra chất riêng của những người lính lái xe Trường Sơn -> đây là biểu hiện cụ
thể nhất của tinh thần dũng cảm, bất chấp và biết cách vượt qua hiểm nguy của tuổi trẻ Việt Nam trong
kháng chiến chống Mĩ.
3. Vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:
 Hình ảnh hoán dụ “Những chiếc xe từ trong bom rơi/Đã về đây họp thành tiểu đội” -> cho thấy cách
thành lập tiểu đội xe không kính rất đặc biệt: Những người lính gặp nhau nơi chiến trường ác liệt đã trở
nên thân thiết vì họ cùng chung mục đích, cùng chung một lí tưởng cứu nước.
 Cái “bắt tay” qua những khung cửa xe “kính vỡ rồi” -> vừa là lời chào, vừa là sự sẻ chia khó khăn,
động viên, bù đắp tinh thần cho nhau trước sự thiếu thốn về vật chất -> những khung cửa kính vỡ giờ
thành nơi gắn kết tình đồng đội.
 Hình ảnh “bếp Hoàng Cầm” và chi tiết “chung bát đũa” trong bữa cơm dã chiến trên đường xe chạy ->
định nghĩa giản đơn của người lính về “gia đình”: đồng đội là anh em ruột thịt, là gia đình của nhau ->
tạo cho họ sức mạnh để vượt qua những “chông chênh”, khắc nghiệt của đời sống chiến trường.
 Điệp ngữ “lại đi” + hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” -> vừa gợi hình ảnh những chiếc xe nối tiếp nhau
ra mặt trận vừa thể hiện tâm hồn lạc quan với niềm hi vọng vào ngày mai tươi sáng của người lính.
 Chính tâm hồn trẻ trung, tình đồng đội, khát vọng và niềm tin đất nước yên bình, thống nhất là sức
mạnh giúp họ vững chắc tay lái trên những chiếc xe không kính.
4. Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của nững người lính:
 Điệp ngữ “không có” (ba lần) cùng phép liệt kê những bộ phận thiếu, hỏng của xe
“kính...đèn...mui...thùng...” -> một lần nữa nhấn mạnh sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh.
 Cách nói giảm nói tránh “thùng xe có xước” -> vừa thể hiện sự hóm hỉnh, hài hước của người lính, vừa
như một điểm nhấn tô đậm sự hư hại, hỏng hóc của xe.
 Hình ảnh “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước” -> những chiếc xe không kính không chỉ chạy bằng
động cơ của máy móc mà quan trọng hơn nó chạy bằng sức mạnh của trái tim và ý chí của người lính,
bằng một động cơ tinh thần cao cả “vì miền Nam”.
 Hình ảnh hoán dụ - ẩn dụ “trái tim” (“Chỉ cần trong xe có một trái tim.” )-> thể hiện được lòng yêu
nước, ý chí kiên cường và quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà; thể hiện được sức
sống mạnh mẽ, bền bỉ của thế hệ trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam không bom đạn nào có thể công
phá nổi.
 Bằng kết cấu tương phản, đối lập giữa vật chất và tinh thần, giữa bề ngoài và bên trong, giữa cái
“không có” và cái “có”, khổ cuối đã cô đúc ý nghĩa của toàn bài, đã khái quát hóa vẻ đẹp anh hùng
nhưng rất tươi trẻ của người lính - chất thơ của hiện thực chiến tranh khốc liệt.
IV- Tổng kết: Ghi nhớ (SGK)

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ

- Huy Cận -

I – Tác giả: Huy Cận ( 1919-2005), quê ở Hà Tĩnh. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945)

 Trước cách mạng tháng Tám ( 1945). Thơ của ông thường mang tâm sự buồn. Nhưng sau khi cách
mạng giành thắng lợi, thơ của Huy Cận lại tràn trề sức sống, dồi dào niềm vui, cảm hứng về thiên
nhiên đất nước, về những người lao động và cuộc sống mới.
 Ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật năm 1996.
II – Tác phẩm :

1. Hoàn cảnh sáng tác: 1958- khi nhà thơ đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh
2. Bố cục – Mạch cảm xúc: 3 phần
 Phần 1: Cảnh đoàn thuyền ra khơi khi màn đêm xuống ( khổ 1, 2)
 Phần 2: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển ( khổ 3,4,5,6)
 Phần 3: Cảnh đoàn thuyền trở về lúc bình minh ( khổ cuối)
 Mạch cảm xúc đi theo trình tự thời gian – không gian của một chuyến ra khơi đánh cá.

III- Phân tích:

1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi màn đêm buông xuống:
a. Cảnh biển khi hoàng hôn buông xuống:
 Hình ảnh so sánh, nhân hóa “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” -> miêu tả mặt trời “lặn” xuống biển
mà vẫn còn rực cháy, tràn đầy sức sống -> vừa gợi lên một khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, kì vĩ, vừa
cho thấy vị trí quan sát của nhà thơ là từ một con thuyền ra biển hoặc từ một hòn đảo nhìn về phía Tây.
 Nghệ thuật nhân hóa thông qua các từ “cài”, “sập” (“Sóng đã cài then, đêm sập cửa”) -> liên tưởng
thiên nhiên, vũ trụ là ngôi nhà lớn còn màn đêm như một cánh cửa khổng lồ và những con sóng là then
cửa rộng dài -> khắc họa sâu đậm một không gian mênh mông, khoáng đạt, đồng thời gây ấn tượng
mạnh về sự trôi chảy của thời gian: mặt trời xuống rất nhanh, vũ trụ đang đi vào trạng thái nghỉ ngơi.
b. Cảnh “đoàn thuyền đánh cá” ra khơi:
 Con người bắt đầu một ngày lao động mới: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”
- “ Đoàn thuyền” : gợi không khí đông vui, tấp nập
- Phó từ “lại” -> đây là công việc thường ngày của những người chài lưới -> còn thể hiện sự đối lập
với trạng thái nghỉ ngơi của thiên nhiên, bởi khi màn đêm buông xuống là lúc ngư dân chủ động bắt
đầu một ngày lao động mới.
 Hình ảnh ẩn dụ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”: tiếng hát của người dân chài lưới có sức mạnh
làm buồm căng gió cho thuyền ra khơi xa -> thể hiện được không khí phấn chấn, hứng khởi của người
lao động trước một ngày lao động mới.
 Nội dung bài “hát” của “đoàn thuyền đánh cá”:
- Qua các hình ảnh liệt kê ( “cá bạc”, “cá thu”), hình ảnh so sánh ( “như đoàn thoi”) và nhân hóa
(“Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”) -> ca ngợi sự giàu có, trù phú của biển Đông rộng lớn .
- “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” -> như một lời mời gọi đồng thời thể hiện ước mong vào một ngày lao
động bội thu.
2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển:
a. Cảnh biển về đêm:
 Hình ảnh “gió”, “trăng”, “mây cao”, “biển bằng” -> mở ra một không gian khoáng đạt , rộng lớn được
nhìn nhận ở cả chiều cao, chiều rộng và chiều sâu.
 Phép liệt kê “cá nhụ, cá chim cùng cá đé”, “ cá song…” -> một lần nữa lại nhấn mạnh sự giàu có của
biển Đông.
 Hình ảnh so sánh “lấp lánh đuốc đen hồng”, nhân hóa “ cái đuôi em quẫy…” kết hợp với các tính từ
miêu tả màu sắc như “ đen hồng”, “ vàng chóe”. “ bạc”, “ vàng” … -> liên tưởng biển như một bức
tranh lung linh, huyền ảo mà tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho những người chài lưới.
 Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long” được tạo nên bằng trí tưởng tượng phong phú
của tác giả khi ông liên tưởng tiếng sóng vỗ rì rào giống như hơi thở đều đặn của đêm và sóng vỗ làm
ánh sao như đung đưa trong nước, như vỗ về , ru nựng biển cả -> biển đêm vừa có vẻ đẹp tráng lệ, nên
thơ lại vừa gần gũi, gắn bó với con người.
b. Cảnh đánh bắt cá:
 Cách nói phóng đại “Thuyền ta lái gió với buồm trăng” -> con thuyền đánh cá trở nên kì vĩ hòa nhập
vào khung cảnh rộng lớn của thiên nhiên -> những người chài lưới với tinh thần lao động tập thể không
còn nhỏ bé, khuất lấp mà giờ đây trở thành điểm sáng giữa đại dương bao la.
 Hình ảnh liên tưởng công việc quăng chài của người đánh cá như đang bày “thế trận” cùng các từ ngữ
có sức gợi hình, biểu cảm cao như “lái”, “ lướt”, “ đậu”, “ dò”, “ dàn”,” đan”, “ vây”, “ giăng” -> khắc
họa tư thế chủ động chinh phục thiên nhiên với tâm hồn phóng khoáng của người chài lưới.
 Hình ảnh “Ta hát bài ca gọi cá vào/ Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” -> là một liên tưởng độc đáo được
xây dựng bằng bút pháp lãng mạn gợi sự giao hòa thân thiết giữa biển cả và người lao động: biển cả,
thiên nhiên đang ủng hộ. giúp sức cho công việc của con người (“Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”),
đồng thời gợi không khí lao động tự chủ, phấn chấn, vui tươi đến say mê.
 Hình ảnh so sánh “Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự thuở nào” -> như một lời cảm ơn
chân thành trước ân tình của biển quê hương.
 “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng….Nắng sớm, buồm lên đón nắng hồng.” -> bình minh tươi sáng đang
đến, một ngày lao động trên biển sắp kết thúc trong nỗi vui mừng, phấn khởi của người lao động -> con
người chạy đua với thời gian (“kịp”) -> không khí lao động khẩn trương.
 Hình ảnh người dân chài hiện lên sống động, khỏe khoắn qua động tác “kéo xoăn tay chùm cá nặng” ->
gợi tư thế chủ động và niềm vui trong lòng người chài lưới và báo hiệu một ngày lao động thành công
 “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông” -> khoang thuyền đầy ắp cá tôm gọi bình minh ló rạng; rạng đông
làm loé lên sắc cá tươi hồng. Vũ trụ là cả bức tranh ấm áp -> thành quả của “đoàn thuyền đánh cá” sau
một ngày chài lưới hăng say -> công sức lao động của con người được đền đáp.
3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình minh:
 Kết cấu đầu cuối tương ứng : “Câu hát căng buồm với gió khơi”
- Nhấn mạnh đoàn thuyền ra khơi với tiếng hát tràn đầy niềm tin tưởng, lạc quan thì khi trở về đoàn
thuyền cũng lại tràn ngập niềm vui thắng lợi -> bài thơ giống như một khúc tráng ca lao động của
những ngư dân thuần hậu, chất phác.
- “với” thể hiện lúc đoàn thuyền trở về, con người với thiên nhiên đã hòa làm một -> niềm vui nhân
đôi khi thiên nhiên cũng vui lây với sự bội thu của con người.
 Hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền” cùng cách nói quá “chạy đua cùng mặt trời” -> khẳng định tư thế làm
chủ biển khơi với tâm thế phấn chấn của những người chài lưới trên biển Đông.
 Phép nhân hoá “Mặt trời đội biển nhô màu mới/ Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” là một liên tưởng
táo bạo của nhà thơ: “mặt trời” như một mắt cá khổng lồ , “huy hoàng”-> vừa báo hiệu một ngày mới
bắt đầu, vừa thể hiện niềm vui, niềm tin vào một tương lai tươi sáng, rạng ngời.

IV.Tổng kết: Ghi nhớ (SGK)

BẾP LỬA

-Bằng Việt-

I – Tác giả : Bằng Việt (1941), quê ở Thạch Thất – Hà Nội. Ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong
kháng chiến chống Mĩ. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà , chủ yếu khai thác những kỉ niệm và ước mơ
của tuổi trẻ .

II – Tác phẩm :

1. Hoàn cảnh sáng tác : Bài thơ được sáng tác vào năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên ở Liên Xô
(cũ)
2. Bố cục – Mạch cảm xúc: 4 phần
 P1:Bếp lửa khơi nguồn cảm xúc (khổ 1)
 P2: Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà ( khổ 2, 3, 4, 5)
 P3: Suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa ( khổ 6)
 P4: Niềm nhớ thương của cháu dành cho bà ( khổ cuối)
 Mạch cảm xúc của bài thơ đi theo trình tự thời gian tâm lí: từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy
ngẫm về bà.

III – Phân tích :

1. Bếp lửa khơi nguồn cảm xúc :


 “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm/ Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
- Từ láy “chờn vờn” -> gợi hình ảnh một bếp lửa rất đỗi thân thuộc với những ngọn lửa lay động, chập
chờn trong sương sớm -> gợi được sự ẩn hiện xa xôi của hình ảnh bếp lửa trong kí ức. Nói cách khác,
bếp lửa luôn tồn tại trong miền kí ức sâu thẳm của người cháu.
- “ấp iu”: vừa giúp người đọc hình dung được công việc nhóm bếp cụ thể, vừa gợi nhắc đến bàn tay kiên
nhẫn, tỉ mỉ và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa, giữ lửa: bà .
 Hình ảnh bếp lửa đã làm hiện lên hình ảnh của bà : “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
- Hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” -> gợi nhớ đến cuộc đời nhiều nhọc nhằn, vất vả của bà.
- Cụm từ “Cháu thương bà…” -> trực tiếp bày tỏ tình cảm của cháu dành cho bà – người giữ lửa , nhóm
lửa cho tuổi thơ của cháu
2. Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà:
 Nhớ về một tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn và chịu nhiều gian khổ:
- Nạn đói năm 1945 “đói mòn đói mỏi” với cuộc sống quá đỗi nghèo khó đến nỗi “bố đi đánh xe khô rạc
ngựa gầy”:
+ Cách tách từ “mòn mỏi” thành “đói mòn đói mỏi” -> nạn đói đã trở thành nỗi ám ánh trong tâm hồn
thơ dại của cháu.
+Ấn tượng đọng lại trong kí ức của một đứa bé 4 tuổi là “ … khói hun nhèm mắt cháu/ Nghĩ lại đến giờ
sống mũi còn cay” -> vừa là hình ảnh thực (khói nhiều và cay vì rơm rạ ướt) vừa là hình ảnh tượng
trưng khơi gợi nỗi xúc động, nghẹn ngào, rưng rưng của người cháu khi nghĩ về một tuổi thơ gian khó.
- Tuổi thơ thiếu vắng sự chăm sóc, yêu thương của cha mẹ: “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa” ->
tương ứng với chiều dài của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc -> tám năm cháu không được
sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ: “Mẹ cùng cha công tác bận không về”.
- Đó là một tuổi thơ phải chịu cảnh “giặc đốt làng, cháy tàn cháy rụi”, phải chứng kiến cảnh tiêu điều, xơ
xác của xóm làng sau những trận càn quét của giặc” Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”
 Nhớ về tình bà ấm áp:
- Điệp cấu trúc “… bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học” -> Bà thay cha mẹ dạy dỗ,
bảo ban cháu nên người.
- Chi tiết “Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh/ Bố ở chiến khu, bố còn việc bố/ Mày viết thư chớ kể
này, kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.” -> Bà kiên cường, mạnh mẽ, giàu đức hi sinh, yêu thương
con cháu; là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cả gia đình; có niềm tin vào ngày đất nước bình yên.
 Nhớ tiếng chim tu hú như gục giã, khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những nhớ
mong, hoài niệm: “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa…. Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Và chính
âm thanh này cũng gợi lên tình cảnh vắng vẻ và nỗi ngóng trông của hai bà cháu: “Tu hú ơi chẳng đến
ở cùng bà/ Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
 Nhớ về bà là nhớ đến bếp lửa bởi đó là hiện diện của tình yêu thương của bà: “Rồi sớm rồi chiều lại
bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.”
- Nếu như ở câu đầu, bếp lửa còn là hình ảnh cụ thể thì “ngọn lửa” trong hai câu cuối lại là hình ảnh ẩn
dụ chỉ tấm lòng đôn hậu luôn chăm chút cho cháu con, chỉ niềm tin bất diệt trong lòng bà.
- Qua dòng hồi tưởng về bà và bếp lửa, người cháu nhận ra một điều: Bếp được bà nhen lên không chỉ
bằng nhiên liệu bên ngoài mà còn là từ ngọn lửa trong lòng bà. Đó là ngọn lửa của tình yêu thương,
lòng bao dung và cả niềm tin. Bởi vậy từ “bếp lửa”, bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu
tượng và khái quát.
 Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sức sống, niềm tin-
cho các thế hệ nối tiếp.
3. Suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa:
 “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa/Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ/Bà vẫn giữ thói quen dậy
sớm”-> Cả cuộc đời, bà tần tảo sớm hôm và lặng lẽ hi sinh cho gia đình
 Điệp từ “nhóm” (4 lần) vừa mang nghĩa gốc là làm lửa cháy lên (nhóm bếp lửa ấp iu.... / nhóm nồi xôi
gạo....) vừa mang nghĩa chuyển là khơi dậy (nhóm niềm yêu thương.../ nhóm dậy cả những tâm tình...)
-> diễn tả những suy nghĩ sâu sắc của cháu về cuộc đời bà, về tình cảm của bà dành cho cháu con:
- Bà là người nhóm lửa, giữ lửa để chăm chút, lo toan cho gia đình
- Bà là người truyền lửa khi ngày ngày “nhóm” lên trong cháu niềm yêu thương, niềm vui, niềm tin vào
cuộc sống với những tình cảm đẹp đẽ dành cho gia đình, cho làng xóm, cho quê hương.
 Câu cảm thán “ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!” -> là sự nhận thức sâu sắc của người cháu về bà.
Người cháu nhận ra rằng trong hình ảnh bếp lửa bình dị, thân thuộc có một sự kì diệu và thiêng liêng
cũng như nhận ra sự kì diệu và thiêng liêng trong lòng của những người bà, người mẹ Việt Nam:
- “kì lạ” vì chỉ một bếp lửa đơn sơ mà bà nuôi cháu lớn khôn thành người
- “ thiêng liêng” vì bếp lửa chính là tình bà ấm áp, yêu thương đã khơi dậy sự sống, niềm vui cho cháu
con. Bếp lửa còn là hình ảnh biểu tượng của gia đình, của quê hương, đất nước trong lòng người xa xứ
 Câu thơ thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của cháu dành cho bà, dành cho những người phụ nữ Việt Nam.
4. Niềm nhớ thương của cháu dành cho bà:
 Liệt kê “ngọn khói”, “ ửa”, “ niềm vui” cùng điệp số từ “trăm” -> người cháu giờ đã khôn lớn, trưởng
thành, đã chắp cánh bay xa, đã có những niềm vui rộng mở .
 Hình ảnh biểu trưng “ngọn khói trăm tàu” , “lửa trăm nhà”-> khẳng định dù ở nơi đâu, người cháu vẫn
không thể quên bếp lửa đơn sơ của bà, vẫn không nguôi nhớ bà
 Câu hỏi tu từ “Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”- hình ảnh của bếp lửa, hình ảnh và tình yêu
thương, đức hi sinh của bà luôn thường trực trong lòng cháu, nhắc cháu nhớ về bà, về bếp lửa.

IV.Tổng kết: Ghi nhớ (SGK)

ÁNH TRĂNG

-Nguyễn Duy-
I. Tác giả:
 Nguyễn Duy (1948) quê ở Thanh Hóa. Ông là một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời
chống Mĩ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác sau năm 1975.
 Thơ của Nguyễn Duy giàu chất triết lí, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, suy tư, day dứt.
II. Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác: 1978, ba năm sau ngày đất nước thống nhất, tác giả chuyển vào Tp Hồ Chí Minh.
 Bố cục:
- Mạch cảm xúc: Bài thơ là câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại với
các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Dòng cảm xúc của nhà thơ cũng được bộc lộ theo mạch tự
sự đó...
- Bố cục: 3 phần : *Ba khổ đầu: Vầng trăng qua những năm tháng đời người
*Khổ 4: Tình huống bất ngờ gặp lại vầng trăng
*Hai khổ cuối: Tâm trạng và suy ngẫm của con người trước vầng trăng
 Ý nghĩa nhan đề:
- Nhan đề ngắn gọn mang tính ẩn dụ cao
- Nhan đề đã phản ánh rõ hình tượng trung tâm của bài thơ là vầng trăng với hai lớp nghĩa :
+Tả thực: ánh sáng của vầng trăng soi rọi căn phòng bị mất điện.
+Biểu trưng: ánh sáng của trăng là ánh sáng của vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống, là ánh sáng
của quá khứ nghĩa tình. Ánh sáng ấy đã soi rọi,thức tỉnh con người hướng thiện
 Nhan đề đã gợi được chủ đề - tư tưởng của tác phẩm: Đừng quên quá khứ, hãy sống nghĩa tình, thủy
chung dù trong hoàn cảnh nào -> Bài thơ đậm chất triết lí.
III. Phân tích:
1. Vầng trăng qua những năm tháng đời người:
a. Tình cảm của con người với vầng trăng trong quá khứ:
 Phép liệt kê “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” -> thời gian của đời người từ lúc ấu thơ đến khi trưởng thành.
con người đều gắn bó với trăng.
 Liệt kê các chi tiết “đồng...sông...bể...rừng...”-> gợi nhắc đến không gian cao rộng, khoáng đạt, nhiều
chiều của thiên nhiên. Cách kể không tả ấy có sức gợi nhớ mạnh mẽ về một quá khứ mà ở đó người và
trăng là “tình nghĩa”, là “tri kỉ” của nhau.
 Cách so sánh mộc mạc “ trần trụi với thiên nhiên/hồn nhiên như cây cỏ” -> thể hiện thành thực thái độ
của con người với thiên nhiên, với vầng trăng trong quá khứ: trong sáng, vô tư mở lòng mình, hòa cùng
thiên nhiên.
 . Vầng trăng được nhân hóa, ẩn dụ qua các từ “tri kỉ”, “tình nghĩa” -> trở thành hình ảnh biểu trưng cho
thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, cho vẻ đẹp trong trẻo, dung dị và ân tình.
 “ngỡ” là một từ biểu thị trạng thái cảm xúc thể hiện sự gắn bó với trăng của con người tưởng như là
bền chặt. Sự xuất hiện của động từ này đã báo hiệu trước sẽ có đổi thay trong lòng người.
b. Thái độ của con người với vầng trăng ở thời điểm hiện tại:
 Chi tiết “...hồi về thành phố”-> thời điểm chiến tranh đã kết thúc, con người trở về với cuộc sống bình
yên.
 Hình ảnh hoán dụ “ánh điện, cửa gương” -> vừa gợi nhắc đến cuộc sống đủ đầy, tiện nghi nơi thành
phố tấp nập, xa hoa nhưng cũng lại ngầm báo hiệu con người đang sống khép mình trong những căn
phòng hiện đại mà xa rời thiên nhiên.
 Động từ “quen (ánh điện, cửa gương)” -> thích ứng nhanh với hoàn cảnh sống mới -> lãng quên vầng
trăng tri kỉ, tình nghĩa xưa; coi trăng “ như người dưng qua đường”.
 Hình ảnh vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”-> trăng vẫn như xưa, trước sau không đổi thay -> vầng trăng là
biểu tượng của sự chung thủy, của quá khức ân tình.
 Với nghệ thuật nhân hóa, so sánh ánh trăng cùng thủ pháp tương phản, đối lập về hoàn cảnh sống, thời
gian, không gian sống, qua 3 khổ thơ đầu, nhà thơ đã làm nổi bật thái độ của người và trăng: Trăng
luôn giữ nghĩa tình trọn vẹn, thủy chung với người. Trong khi đó, tình cảm của con người dễ dàng thay
đổi. Con người vô tâm, vô tình, thậm chí vô nghĩa với vầng trăng, hay chính là với quá khứ của mình.
2.Tình huống bất ngờ gặp lại vầng trăng:
 Tình huống bước ngoặt “...đèn điện tắt/ phòng buyn-dinh tối om”-> giúp con người gặp lại cố nhân
nhưng đồng thời cũng chứa đựng hàm ý cuộc sống dù tiện nghi, hiện đại nhưng vẫn luôn tiềm ẩn
những bất trắc khó lường. Và trước sự kiện bất ngờ đó, con người theo phản xạ tự nhiên “vội bật tung
cửa sổ”.
 Biện pháp đảo ngữ “thình lình đền điện tắt” kết hợp với các từ ngữ như “thình lình”, “vội”, “bật tung”,
“đột ngột” -> khiến nhịp thơ trở nên nhanh hơn -> nhấn mạnh được tính bất ngờ, bất thường của tình
huống -> thể hiện được sự bàng hoàng, sửng sốt của nhân vật trữ tình khi gặp lại cố nhân – vầng trăng.
 Thủ pháp dùng tối gợi sáng qua hình ảnh đối lập “...đèn điện tắt/phòng...tối om” với “ vầng trăng tròn”
-> làm nổi bật ánh sáng và sự ân tình, thủy chung của trăng.
3. Một sự việc quan trọng những được nhà thơ kể lại bằng lời thơ ngắn gọn, dung dị với một sự kiện có ý
nghĩa bước ngoặt, với những động từ, tính từ thể hiện sự bất ngờ đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ
trong tình cảm và suy nghĩa của nhân vật trữ tình với vầng trăng: Trăng luôn tồn tại cũng như vẻ đẹp
của thiên nhiên chưa bao giờ mất đi, như quá khứ mãi còn đó. Ánh trăng đến đúng để soi sáng góc tối
trong tâm hồn con người, nó khiến con người “đột ngột” nhận ra trăng luôn đồng hành cùng mình.
3. Tâm trạng và suy ngẫm của con người trước vầng trăng:
a. Cảm xúc của con người:
 Cử chỉ: “ngửa mặt lên nhìn mặt” -> sự lặng lẽ đối diện thành kính với trăng của người.
 Từ “mặt” thứ hai trong dòng thơ là từ đa nghĩa khi chỉ mặt trăng, người bạn tri kỉ ngày nào,vừa mang
tính ẩn dụ khi chỉ quá khứ nghĩa tình, nhưng đồng thời cũng mang nghĩa là lương tâm của chính mình
-> Nhìn trăng chính là con người đang “đối diện đàm tâm”, đối mặt với chính mình để tự vấn lương
tâm.
 Tâm trạng: Từ láy “rưng rưng” -> nỗi nghẹn ngào, thổn thức, sự xúc động mãnh liệt đến lặng người đi
của con người trong giây phút đối diện với vầng trăng.
 Phép liệt kê “đồng ...bể...sông...rừng...” cùng sự láy lại của phép so sánh “như là...” -> đã gợi tả được
sự sống dậy của những kỉ niệm một thời gian khó nhưng tươi đẹp.
b. Suy ngẫm của con người:
 Phó từ “cứ” cùng cụm từ “tròn vành vạnh” -> gợi tả được cụ thể, chân thực hình ảnh của vầng trăng,
đồng thời nhấn mạnh trăng là biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng không bao giờ đổi thay của thiên
nhiên, của quá khứ ân tình.
 Phép nhân hóa, ẩn dụ “ánh trăng im phăng phắc” -> ánh sáng của vầng trăng soi rọi góc khuất trong
tâm hồn con người, giúp con người nhận ra sự vô tâm, bội bạc của mình -> cái nhìn nghiêm khắc
nhưng bao dung, độ lượng, nhân hậu của thiên nhiên, của quá khứ.
 Chính sự bao dung đó, khiến con người bỗng “giật minh” -> sự bừng tỉnh của lương tâm để tự sám hối,
tự đấu tranh với chính mình, để suy nghĩ về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”
 Dòng thơ cuối dồn nén bao tâm sự khó nói thành lời. Nó trở nên ám ảnh, day dứt lương tri không chỉ
của riêng Nguyễn Duy.Và từ đây, “Ánh trăng” như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở mọi người: hãy có phút
giây nhìn lại chính mình, đừng để đánh mất mình và hãy trân trọng quá khứ-> triết lí giản đơn nhưng
sâu sắc, thấm thía.
IV. Tổng kết: Ghi nhớ (SGK)

You might also like