Professional Documents
Culture Documents
Văn B N Thơ VNHĐ 1
Văn B N Thơ VNHĐ 1
-Chính Hữu-
I. Tác giả:
Chính Hữu (1926-2007) quê ở tỉnh Hà Tĩnh.
Nhà thơ chủ yếu viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông bình dị, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và
hình ảnh chọn lọc, hàm súc.
II. Tác phẩm:
Hoàn cảnh sáng tác: năm 1948 (sau chiến dịch Việt Bắc), trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Mạch cảm xúc: cảm xúc của bài thơ bắt nguồn từ niềm xúc động gợi ra từ cơ sở hình thành tình đồng
chí, tiếp tục được khơi mở qua những hình ảnh, chi tiết biểu hiện cụ thể của tình cảm thiêng liênh này.
Bài thơ khép lại với cảm xúc lắng đọng trước biểu tượng đẹp về tình đồng chí.
Mạch cảm xúc chi phối bố cục của bài thơ (3 phần – Hs tự nêu các phần)
Ý nghĩa nhan đề:
- “Đồng chí” là chỉ người có cùng chí hướng, lí tưởng. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, từ này đã trở
thành từ xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội.
- Nhan đề ngắn gọn nhưng đã gợi được chủ đề-tư tưởng của tác phẩm: tình đồng chí là bản chất cách
mạng của tình đồng đội và thể hiện sâu sắc tình đồng đội. Bài thơ không chỉ khắc hoạ được hình tượng
người lính cách mạng mà còn thể hiện chân thật, sâu sắc tình cảm gắn bó keo sơn của họ.
III. Phân tích:
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí :
Tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về cảnh ngộ:
- Cấu trúc ngữ pháp đối ứng, sóng đôi (“quê hương anh” – “ làng tôi”) cùng thành ngữ “nước mặn đồng
chua” và cụm từ giàu hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”-> gợi nhắc về những miền quê nghèo khó, nơi chôn
rau cắt rốn của những người lính; về giai cấp xuất thân của những người nông dân mặc áo lính.
- Cách nói “…đôi người xa lạ… chẳng hẹn quen nhau” -> sự đồng cảnh ngộ khiến những người lính từ
xa lạ trở nên quen biết và dễ cảm thông với nhau.
Tình đồng chí bắt nguồn từ việc cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu:
- Hình ảnh vừa thực vừa mang nghĩa tượng trưng với kết cấu hai vế sóng đôi trong câu thơ thứ năm:“
Súng bên súng, đầu sát bên đầu” -> thể hiện rõ sự chung cùng lí tưởng, mục đích và nhiệm vụ, sát cánh
bên nhau trong chiến đấu của những người lính.
- Các từ ngữ “bên”, “sát” -> còn thể hiện sự thân thiết, gắn bó; sự quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm
lược của những người nông dân mặc áo lính. Khoảng cách giữa những người lính ngày càng rút ngắn.
Giờ đây các anh không chỉ là những người đồng cảnh mà hơn hết là những người đồng ngũ thân thiết.
Tình đồng chí còn nảy nở trong sự chung cùng hoàn cảnh khó khăn nơi chiến trường:
- Hình ảnh cụ thể, giản dị nhưng giàu cảm xúc “ Đêm rét chung chăn...” -> gợi lên được những gian lao,
vất vả mà người lính phải trải qua nơi chiến trường. Và sự “chung chăn” ấy chính là chung cái khắc
nghiệt của hoàn cảnh, là sẻ chia với nhau những gian nan của cuộc đời người lính.
- Cụm từ “đôi tri kỉ”- đôi bạn thân thiết, hiểu nhau sâu sắc -> từ rời rạc, riêng lẻ, những người lính giờ đã
gắn bó keo sơ, đã hòa thành một khối chung vững chắc, khó tách rời. Họ là những người đồng cam
cộng khổ với nhau.
Câu thơ đặc biệt “Đồng chí !”:
-> tiếng gọi thiêng liêng như một sự phát hiện, một lời khẳng định rằng chính sự đồng cảnh, đồng ngũ
và đồng cam cộng khổ đã khiến những người lính coi nhau là đồng đội, gọi nhau là “ đồng chí”.
-> người đọc đến những biểu hiện cụ thể và cảm động của tình đồng đội ở mười câu tiếp theo.
->Có thể nói, câu thơ thứ bảy như một nốt nhấn, như một bản lề gắn kết, nối liền mạch cảm xúc của
bài thơ .
2. Những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí
Đó là sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau:
- Hình ảnh “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”-> Vì nghĩa lớn,
người lính ra đi chiến đấu, để lại sau lưng mình những gì thân thiết và quý giá nhất.
- Từ “mặc kệ” -> thể hiện rõ thái độ của người lính: dứt khoát, mạnh mẽ, quyết tâm, sẵn sàng ra đi cứu
nước nhưng thẳm sâu trong lòng, họ vẫn da diết nhớ thương quê nhà.
- Câu thơ sử dụng hình ảnh hoán dụ và nhân hóa “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”-> nói lên những
trông ngóng, nhớ mong mà quê hương, gia đình dành cho các anh -> Nếu thật là vô tình, mặc kệ thì
người lính chẳng thể nào cảm nhận nỗi nhớ thương ấy.
Đó là sự chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của đời lính : Đoạn thơ : “Áo anh rách vai/Quần tôi có vài
mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày” liên tiếp liệt kê các hình ảnh cụ thể, chân thực trong
các câu thơ sóng đôi, đối ứng
-> hình dung rõ hơn về những thiếu thốn, gian nan nơi chiến trường;
-> cảm nhận được sự sẻ chia khó khăn,tinh thần lạc quan qua nụ cười “buốt giá” mà những người lính
dành cho nhau.
Đó là sự động viên, khích lệ và truyền sức mạnh cho nhau để vượt qua khó khăn:
- Cụm từ “Thương nhau…” -> Thấu hiểu cảnh ngộ, tâm tư của nhau, chứng kiến và cùng nhau trải qua
gian nan khiến những người lính thực lòng thương quý nhau và trân trọng nhau hơn.
- Hình ảnh“... tay nắm lấy bàn tay”-> vừa là một cử chỉ chân thật, vừa là hình ảnh mang tính biểu trưng
cao khi cái nắm tay ấy thực chất là sự động viên, truyền nghị lực và tiếp thêm sức mạnh cho nhau để
vượt qua mọi gian khổ.
3. Biểu tượng đẹp về tình đồng chí:
Hình ảnh vừa chân thực, vừa mang tính ẩn dụ: “Đêm nay rừng hoang sương muối” -> nhấn mạnh sự
khắc nghiệt của chiến trường
Cụm động từ “đứng cạnh bên nhau” cùng động từ “chờ” -> đã khắc họa tư thế chủ động và sát cánh
cùng nhau trong chiến đấu. Sức mạnh của tình đồng chí đã giúp họ vượt qua cái khắc nghiệt của thời
tiết, của gian khổ, thiếu thốn để kiên cường hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu.
“Đầu súng trăng treo” là:
- Hình ảnh thực: là bởi trong tư thế chủ động “chờ giặc”, mũi súng người lính hướng lên bầu trời khiến
có cảm giác như trăng chạm vào đầu súng.
- Hình ảnh gợi nhiều liên tưởng thú vị: “súng” và “trăng”là gần và xa, là hiện thực và lãng mạn, là chất
chiến đấu và trữ tình, là chiến sĩ và thi si, là “anh” và “tôi”-> hình ảnh này là biểu tượng đẹp cho tình
đồng chí gắn bó keo sơn giữa những người lính cách mạng.
- Huy Cận -
I – Tác giả: Huy Cận ( 1919-2005), quê ở Hà Tĩnh. Ông nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945)
Trước cách mạng tháng Tám ( 1945). Thơ của ông thường mang tâm sự buồn. Nhưng sau khi cách
mạng giành thắng lợi, thơ của Huy Cận lại tràn trề sức sống, dồi dào niềm vui, cảm hứng về thiên
nhiên đất nước, về những người lao động và cuộc sống mới.
Ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật năm 1996.
II – Tác phẩm :
1. Hoàn cảnh sáng tác: 1958- khi nhà thơ đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh
2. Bố cục – Mạch cảm xúc: 3 phần
Phần 1: Cảnh đoàn thuyền ra khơi khi màn đêm xuống ( khổ 1, 2)
Phần 2: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển ( khổ 3,4,5,6)
Phần 3: Cảnh đoàn thuyền trở về lúc bình minh ( khổ cuối)
Mạch cảm xúc đi theo trình tự thời gian – không gian của một chuyến ra khơi đánh cá.
1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi màn đêm buông xuống:
a. Cảnh biển khi hoàng hôn buông xuống:
Hình ảnh so sánh, nhân hóa “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” -> miêu tả mặt trời “lặn” xuống biển
mà vẫn còn rực cháy, tràn đầy sức sống -> vừa gợi lên một khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, kì vĩ, vừa
cho thấy vị trí quan sát của nhà thơ là từ một con thuyền ra biển hoặc từ một hòn đảo nhìn về phía Tây.
Nghệ thuật nhân hóa thông qua các từ “cài”, “sập” (“Sóng đã cài then, đêm sập cửa”) -> liên tưởng
thiên nhiên, vũ trụ là ngôi nhà lớn còn màn đêm như một cánh cửa khổng lồ và những con sóng là then
cửa rộng dài -> khắc họa sâu đậm một không gian mênh mông, khoáng đạt, đồng thời gây ấn tượng
mạnh về sự trôi chảy của thời gian: mặt trời xuống rất nhanh, vũ trụ đang đi vào trạng thái nghỉ ngơi.
b. Cảnh “đoàn thuyền đánh cá” ra khơi:
Con người bắt đầu một ngày lao động mới: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”
- “ Đoàn thuyền” : gợi không khí đông vui, tấp nập
- Phó từ “lại” -> đây là công việc thường ngày của những người chài lưới -> còn thể hiện sự đối lập
với trạng thái nghỉ ngơi của thiên nhiên, bởi khi màn đêm buông xuống là lúc ngư dân chủ động bắt
đầu một ngày lao động mới.
Hình ảnh ẩn dụ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”: tiếng hát của người dân chài lưới có sức mạnh
làm buồm căng gió cho thuyền ra khơi xa -> thể hiện được không khí phấn chấn, hứng khởi của người
lao động trước một ngày lao động mới.
Nội dung bài “hát” của “đoàn thuyền đánh cá”:
- Qua các hình ảnh liệt kê ( “cá bạc”, “cá thu”), hình ảnh so sánh ( “như đoàn thoi”) và nhân hóa
(“Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”) -> ca ngợi sự giàu có, trù phú của biển Đông rộng lớn .
- “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!” -> như một lời mời gọi đồng thời thể hiện ước mong vào một ngày lao
động bội thu.
2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển:
a. Cảnh biển về đêm:
Hình ảnh “gió”, “trăng”, “mây cao”, “biển bằng” -> mở ra một không gian khoáng đạt , rộng lớn được
nhìn nhận ở cả chiều cao, chiều rộng và chiều sâu.
Phép liệt kê “cá nhụ, cá chim cùng cá đé”, “ cá song…” -> một lần nữa lại nhấn mạnh sự giàu có của
biển Đông.
Hình ảnh so sánh “lấp lánh đuốc đen hồng”, nhân hóa “ cái đuôi em quẫy…” kết hợp với các tính từ
miêu tả màu sắc như “ đen hồng”, “ vàng chóe”. “ bạc”, “ vàng” … -> liên tưởng biển như một bức
tranh lung linh, huyền ảo mà tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho những người chài lưới.
Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long” được tạo nên bằng trí tưởng tượng phong phú
của tác giả khi ông liên tưởng tiếng sóng vỗ rì rào giống như hơi thở đều đặn của đêm và sóng vỗ làm
ánh sao như đung đưa trong nước, như vỗ về , ru nựng biển cả -> biển đêm vừa có vẻ đẹp tráng lệ, nên
thơ lại vừa gần gũi, gắn bó với con người.
b. Cảnh đánh bắt cá:
Cách nói phóng đại “Thuyền ta lái gió với buồm trăng” -> con thuyền đánh cá trở nên kì vĩ hòa nhập
vào khung cảnh rộng lớn của thiên nhiên -> những người chài lưới với tinh thần lao động tập thể không
còn nhỏ bé, khuất lấp mà giờ đây trở thành điểm sáng giữa đại dương bao la.
Hình ảnh liên tưởng công việc quăng chài của người đánh cá như đang bày “thế trận” cùng các từ ngữ
có sức gợi hình, biểu cảm cao như “lái”, “ lướt”, “ đậu”, “ dò”, “ dàn”,” đan”, “ vây”, “ giăng” -> khắc
họa tư thế chủ động chinh phục thiên nhiên với tâm hồn phóng khoáng của người chài lưới.
Hình ảnh “Ta hát bài ca gọi cá vào/ Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” -> là một liên tưởng độc đáo được
xây dựng bằng bút pháp lãng mạn gợi sự giao hòa thân thiết giữa biển cả và người lao động: biển cả,
thiên nhiên đang ủng hộ. giúp sức cho công việc của con người (“Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”),
đồng thời gợi không khí lao động tự chủ, phấn chấn, vui tươi đến say mê.
Hình ảnh so sánh “Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự thuở nào” -> như một lời cảm ơn
chân thành trước ân tình của biển quê hương.
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng….Nắng sớm, buồm lên đón nắng hồng.” -> bình minh tươi sáng đang
đến, một ngày lao động trên biển sắp kết thúc trong nỗi vui mừng, phấn khởi của người lao động -> con
người chạy đua với thời gian (“kịp”) -> không khí lao động khẩn trương.
Hình ảnh người dân chài hiện lên sống động, khỏe khoắn qua động tác “kéo xoăn tay chùm cá nặng” ->
gợi tư thế chủ động và niềm vui trong lòng người chài lưới và báo hiệu một ngày lao động thành công
“Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông” -> khoang thuyền đầy ắp cá tôm gọi bình minh ló rạng; rạng đông
làm loé lên sắc cá tươi hồng. Vũ trụ là cả bức tranh ấm áp -> thành quả của “đoàn thuyền đánh cá” sau
một ngày chài lưới hăng say -> công sức lao động của con người được đền đáp.
3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình minh:
Kết cấu đầu cuối tương ứng : “Câu hát căng buồm với gió khơi”
- Nhấn mạnh đoàn thuyền ra khơi với tiếng hát tràn đầy niềm tin tưởng, lạc quan thì khi trở về đoàn
thuyền cũng lại tràn ngập niềm vui thắng lợi -> bài thơ giống như một khúc tráng ca lao động của
những ngư dân thuần hậu, chất phác.
- “với” thể hiện lúc đoàn thuyền trở về, con người với thiên nhiên đã hòa làm một -> niềm vui nhân
đôi khi thiên nhiên cũng vui lây với sự bội thu của con người.
Hình ảnh hoán dụ “đoàn thuyền” cùng cách nói quá “chạy đua cùng mặt trời” -> khẳng định tư thế làm
chủ biển khơi với tâm thế phấn chấn của những người chài lưới trên biển Đông.
Phép nhân hoá “Mặt trời đội biển nhô màu mới/ Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” là một liên tưởng
táo bạo của nhà thơ: “mặt trời” như một mắt cá khổng lồ , “huy hoàng”-> vừa báo hiệu một ngày mới
bắt đầu, vừa thể hiện niềm vui, niềm tin vào một tương lai tươi sáng, rạng ngời.
BẾP LỬA
-Bằng Việt-
I – Tác giả : Bằng Việt (1941), quê ở Thạch Thất – Hà Nội. Ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong
kháng chiến chống Mĩ. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà , chủ yếu khai thác những kỉ niệm và ước mơ
của tuổi trẻ .
II – Tác phẩm :
1. Hoàn cảnh sáng tác : Bài thơ được sáng tác vào năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên ở Liên Xô
(cũ)
2. Bố cục – Mạch cảm xúc: 4 phần
P1:Bếp lửa khơi nguồn cảm xúc (khổ 1)
P2: Hồi tưởng những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà ( khổ 2, 3, 4, 5)
P3: Suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa ( khổ 6)
P4: Niềm nhớ thương của cháu dành cho bà ( khổ cuối)
Mạch cảm xúc của bài thơ đi theo trình tự thời gian tâm lí: từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy
ngẫm về bà.
ÁNH TRĂNG
-Nguyễn Duy-
I. Tác giả:
Nguyễn Duy (1948) quê ở Thanh Hóa. Ông là một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời
chống Mĩ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác sau năm 1975.
Thơ của Nguyễn Duy giàu chất triết lí, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, suy tư, day dứt.
II. Tác phẩm:
Hoàn cảnh sáng tác: 1978, ba năm sau ngày đất nước thống nhất, tác giả chuyển vào Tp Hồ Chí Minh.
Bố cục:
- Mạch cảm xúc: Bài thơ là câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại với
các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Dòng cảm xúc của nhà thơ cũng được bộc lộ theo mạch tự
sự đó...
- Bố cục: 3 phần : *Ba khổ đầu: Vầng trăng qua những năm tháng đời người
*Khổ 4: Tình huống bất ngờ gặp lại vầng trăng
*Hai khổ cuối: Tâm trạng và suy ngẫm của con người trước vầng trăng
Ý nghĩa nhan đề:
- Nhan đề ngắn gọn mang tính ẩn dụ cao
- Nhan đề đã phản ánh rõ hình tượng trung tâm của bài thơ là vầng trăng với hai lớp nghĩa :
+Tả thực: ánh sáng của vầng trăng soi rọi căn phòng bị mất điện.
+Biểu trưng: ánh sáng của trăng là ánh sáng của vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống, là ánh sáng
của quá khứ nghĩa tình. Ánh sáng ấy đã soi rọi,thức tỉnh con người hướng thiện
Nhan đề đã gợi được chủ đề - tư tưởng của tác phẩm: Đừng quên quá khứ, hãy sống nghĩa tình, thủy
chung dù trong hoàn cảnh nào -> Bài thơ đậm chất triết lí.
III. Phân tích:
1. Vầng trăng qua những năm tháng đời người:
a. Tình cảm của con người với vầng trăng trong quá khứ:
Phép liệt kê “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” -> thời gian của đời người từ lúc ấu thơ đến khi trưởng thành.
con người đều gắn bó với trăng.
Liệt kê các chi tiết “đồng...sông...bể...rừng...”-> gợi nhắc đến không gian cao rộng, khoáng đạt, nhiều
chiều của thiên nhiên. Cách kể không tả ấy có sức gợi nhớ mạnh mẽ về một quá khứ mà ở đó người và
trăng là “tình nghĩa”, là “tri kỉ” của nhau.
Cách so sánh mộc mạc “ trần trụi với thiên nhiên/hồn nhiên như cây cỏ” -> thể hiện thành thực thái độ
của con người với thiên nhiên, với vầng trăng trong quá khứ: trong sáng, vô tư mở lòng mình, hòa cùng
thiên nhiên.
. Vầng trăng được nhân hóa, ẩn dụ qua các từ “tri kỉ”, “tình nghĩa” -> trở thành hình ảnh biểu trưng cho
thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, cho vẻ đẹp trong trẻo, dung dị và ân tình.
“ngỡ” là một từ biểu thị trạng thái cảm xúc thể hiện sự gắn bó với trăng của con người tưởng như là
bền chặt. Sự xuất hiện của động từ này đã báo hiệu trước sẽ có đổi thay trong lòng người.
b. Thái độ của con người với vầng trăng ở thời điểm hiện tại:
Chi tiết “...hồi về thành phố”-> thời điểm chiến tranh đã kết thúc, con người trở về với cuộc sống bình
yên.
Hình ảnh hoán dụ “ánh điện, cửa gương” -> vừa gợi nhắc đến cuộc sống đủ đầy, tiện nghi nơi thành
phố tấp nập, xa hoa nhưng cũng lại ngầm báo hiệu con người đang sống khép mình trong những căn
phòng hiện đại mà xa rời thiên nhiên.
Động từ “quen (ánh điện, cửa gương)” -> thích ứng nhanh với hoàn cảnh sống mới -> lãng quên vầng
trăng tri kỉ, tình nghĩa xưa; coi trăng “ như người dưng qua đường”.
Hình ảnh vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”-> trăng vẫn như xưa, trước sau không đổi thay -> vầng trăng là
biểu tượng của sự chung thủy, của quá khức ân tình.
Với nghệ thuật nhân hóa, so sánh ánh trăng cùng thủ pháp tương phản, đối lập về hoàn cảnh sống, thời
gian, không gian sống, qua 3 khổ thơ đầu, nhà thơ đã làm nổi bật thái độ của người và trăng: Trăng
luôn giữ nghĩa tình trọn vẹn, thủy chung với người. Trong khi đó, tình cảm của con người dễ dàng thay
đổi. Con người vô tâm, vô tình, thậm chí vô nghĩa với vầng trăng, hay chính là với quá khứ của mình.
2.Tình huống bất ngờ gặp lại vầng trăng:
Tình huống bước ngoặt “...đèn điện tắt/ phòng buyn-dinh tối om”-> giúp con người gặp lại cố nhân
nhưng đồng thời cũng chứa đựng hàm ý cuộc sống dù tiện nghi, hiện đại nhưng vẫn luôn tiềm ẩn
những bất trắc khó lường. Và trước sự kiện bất ngờ đó, con người theo phản xạ tự nhiên “vội bật tung
cửa sổ”.
Biện pháp đảo ngữ “thình lình đền điện tắt” kết hợp với các từ ngữ như “thình lình”, “vội”, “bật tung”,
“đột ngột” -> khiến nhịp thơ trở nên nhanh hơn -> nhấn mạnh được tính bất ngờ, bất thường của tình
huống -> thể hiện được sự bàng hoàng, sửng sốt của nhân vật trữ tình khi gặp lại cố nhân – vầng trăng.
Thủ pháp dùng tối gợi sáng qua hình ảnh đối lập “...đèn điện tắt/phòng...tối om” với “ vầng trăng tròn”
-> làm nổi bật ánh sáng và sự ân tình, thủy chung của trăng.
3. Một sự việc quan trọng những được nhà thơ kể lại bằng lời thơ ngắn gọn, dung dị với một sự kiện có ý
nghĩa bước ngoặt, với những động từ, tính từ thể hiện sự bất ngờ đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ
trong tình cảm và suy nghĩa của nhân vật trữ tình với vầng trăng: Trăng luôn tồn tại cũng như vẻ đẹp
của thiên nhiên chưa bao giờ mất đi, như quá khứ mãi còn đó. Ánh trăng đến đúng để soi sáng góc tối
trong tâm hồn con người, nó khiến con người “đột ngột” nhận ra trăng luôn đồng hành cùng mình.
3. Tâm trạng và suy ngẫm của con người trước vầng trăng:
a. Cảm xúc của con người:
Cử chỉ: “ngửa mặt lên nhìn mặt” -> sự lặng lẽ đối diện thành kính với trăng của người.
Từ “mặt” thứ hai trong dòng thơ là từ đa nghĩa khi chỉ mặt trăng, người bạn tri kỉ ngày nào,vừa mang
tính ẩn dụ khi chỉ quá khứ nghĩa tình, nhưng đồng thời cũng mang nghĩa là lương tâm của chính mình
-> Nhìn trăng chính là con người đang “đối diện đàm tâm”, đối mặt với chính mình để tự vấn lương
tâm.
Tâm trạng: Từ láy “rưng rưng” -> nỗi nghẹn ngào, thổn thức, sự xúc động mãnh liệt đến lặng người đi
của con người trong giây phút đối diện với vầng trăng.
Phép liệt kê “đồng ...bể...sông...rừng...” cùng sự láy lại của phép so sánh “như là...” -> đã gợi tả được
sự sống dậy của những kỉ niệm một thời gian khó nhưng tươi đẹp.
b. Suy ngẫm của con người:
Phó từ “cứ” cùng cụm từ “tròn vành vạnh” -> gợi tả được cụ thể, chân thực hình ảnh của vầng trăng,
đồng thời nhấn mạnh trăng là biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng không bao giờ đổi thay của thiên
nhiên, của quá khứ ân tình.
Phép nhân hóa, ẩn dụ “ánh trăng im phăng phắc” -> ánh sáng của vầng trăng soi rọi góc khuất trong
tâm hồn con người, giúp con người nhận ra sự vô tâm, bội bạc của mình -> cái nhìn nghiêm khắc
nhưng bao dung, độ lượng, nhân hậu của thiên nhiên, của quá khứ.
Chính sự bao dung đó, khiến con người bỗng “giật minh” -> sự bừng tỉnh của lương tâm để tự sám hối,
tự đấu tranh với chính mình, để suy nghĩ về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”
Dòng thơ cuối dồn nén bao tâm sự khó nói thành lời. Nó trở nên ám ảnh, day dứt lương tri không chỉ
của riêng Nguyễn Duy.Và từ đây, “Ánh trăng” như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở mọi người: hãy có phút
giây nhìn lại chính mình, đừng để đánh mất mình và hãy trân trọng quá khứ-> triết lí giản đơn nhưng
sâu sắc, thấm thía.
IV. Tổng kết: Ghi nhớ (SGK)