You are on page 1of 135

Mục lục

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÂM LÝ HỌC ............................................... 3


I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ HỌC ............................ 3
1. Khái niệm tâm lý ................................................................................................................ 3
2. Lịch sử hình thành và phát triển của tâm lý học ................................................................. 4
II. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC .............................................................. 12
1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học .............................................................................. 12
2. Nhiệm vụ của tâm lý học .................................................................................................. 13
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC ................................................... 15
1. Các nguyên tắc phương pháp luận của tâm lý học ........................................................... 15
2. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học ................................................................... 15
IV. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI ..... 18
1. Bản chất của tâm lý người ................................................................................................ 18
2. Chức năng của tâm lý người ............................................................................................. 22
3. Phân loại hiện tượng tâm lý .............................................................................................. 23
4. Vai trò của khoa học tâm lý đối với đời sống và ý nghĩa của việc nghiên cứu tâm lý học
đối với lực lượng Cảnh sát Nhân dân ................................................................................... 26
V. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC ..................................................... 28
1. Ý thức ............................................................................................................................... 28
2. Nhân cách ......................................................................................................................... 32
3. Hoạt động ......................................................................................................................... 36
4. Giao tiếp ........................................................................................................................... 40
VI. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CÁ
NHÂN....................................................................................................................................... 42
1. Yếu tố thể chất .................................................................................................................. 42
2. Môi trường sống ............................................................................................................... 45
3. Yếu tố hoạt động .............................................................................................................. 51
4. Yếu tố tự tu dưỡng ............................................................................................................ 53
CHƯƠNG 2: NHỮNG HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ CÁ NHÂN ................................................ 56
I. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA CÁ NHÂN .................................................................. 56
1. Cảm giác. .......................................................................................................................... 56
2. Tri giác.............................................................................................................................. 62
3. Tư duy............................................................................................................................... 66
4. Tưởng tượng ..................................................................................................................... 73
II. TRÍ NHỚ ............................................................................................................................. 75
1. Khái niệm trí nhớ .............................................................................................................. 75
2. Các giai đoạn của trí nhớ .................................................................................................. 77
3. Một số quy luật của trí nhớ ............................................................................................... 79
4. Sự quên và vấn đề rèn luyện trí nhớ ................................................................................ 80
III. CHÚ Ý ................................................................................................................................ 82
1. Khái niệm chú ý ................................................................................................................ 82
2. Các loại chú ý ................................................................................................................... 83
4. Đảng trí và chống đảng trí ................................................................................................ 85
IV. KHÁI NIỆM VỀ ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM CỦA CÁ NHÂN ........................................... 86
1. Định nghĩa ........................................................................................................................ 86
2. Các phương tiện biểu cảm của đời sống tình cảm ............................................................ 87
3. Vai trò của đời sống tình cảm ........................................................................................... 87
4. Một số dạng cơ bản của đời sống tình cảm cá nhân ......................................................... 88
5. Một số quy luật của đời sống tình cảm cá nhân ............................................................... 94
6. Sự hình thành tình cảm của cá nhân ................................................................................. 95
V. Ý CHÍ VÀ HÀNH ĐỘNG Ý CHÍ ....................................................................................... 96

1
1. Khái niệm ý chí ................................................................................................................ 96
2. Chức năng của ý chí ......................................................................................................... 97
3. Vai trò của ý chí................................................................................................................ 98
4. Phẩm chất của ý chí .......................................................................................................... 99
VI. CÁC THUỘC TÍNH TÂM LÝ CỦA NHÂN CÁCH ...................................................... 114
1. Xu hướng ........................................................................................................................ 114
2. Tính cách cá nhân ........................................................................................................... 122
3. Năng lực cá nhân ............................................................................................................ 127
4. Khí chất .......................................................................................................................... 130

2
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÂM LÝ HỌC
I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ HỌC
1. Khái niệm tâm lý
a. Hiện tượng tâm lý
Trải qua quá trình tiến hóa lâu dài của vật chất, loài người được hình thành
có cấu tạo hoàn thiện nhất trong thế giới động vật. Do sống theo xã hội, chế tạo
công cụ sản xuất, cùng nhau kiếm ăn, chống lại thú dữ và thiên tai... đã nảy sinh
quan hệ giữa người và người, đồng thời xuất hiện một loại hiện tượng đặc biệt
phi vật chất là thế giới tinh thần. Sự vận động của các hiện tượng tinh thần trong
những con người đang tồn tại được gọi là hiện tượng tâm lý.
Trong cuộc sống hàng ngày, người ta thường sử dụng từ tâm lý để nói lên
sự hiểu biết về ý muốn của người khác, là sự hiểu biết về tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng của con người, là sự cư xử hoặc cách xử lý công việc của người
nào đó. Trong trường hợp này người ta hay nói: "Anh ấy rất tâm lý", "Chị ấy
làm như thế là rất tâm lý". Hiểu như thế là đúng, nhưng chưa đủ. Đó là cách hiểu
"tâm lý" ở cấp độ nhận thức thông thường.
Trong thực tế, tâm lý không phải chỉ như vậy. Tâm lý con người luôn luôn
gắn với hoạt động của họ. Bất cứ một hoạt động nào của con người đều có tâm
lý cả. Đời sống tâm lý con người bao hàm nhiều hiện tượng tâm lý phong phú,
đa dạng, phức tạp từ cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng đến tình
cảm, ý chí, năng lực, lý tưởng, niềm tin…
Tóm lại: Tâm lý bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần được nảy sinh
trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động của
con người trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan (thông qua cuộc sống
và hoạt động của mỗi người.
b. Đặc điểm chung của các hiện tượng tâm lý
- Các hiện tượng tâm lý quan hệ với nhau rất chặt chẽ, chúng rất ít khi độc
lập với nhau mà ngược lại ảnh hưởng lẫn nhau. Hiện tượng này chi phối hiện
tượng kia, hiện tượng này tạo nên hiện tượng kia. Thậm chí khi biết con người
có biểu hiện tâm lý này, chúng ta có thể suy ra được những biểu hiện tâm lý

3
khác của họ. Bởi vậy, khi nghiên cứu, đánh giá về tâm lý con người, một nguyên
tắc quan trọng là chúng ta phải nghiên cứu một hiện tượng tâm lý trong mối
quan hệ hữu cơ với toàn bộ tâm lý của họ.
- Các hiện tượng tâm lý rất phức tạp, phong phú. Phức tạp và phong phú
đến mức đã có thời gian người ta cho rằng không thể biết, không thể nghiên cứu
được chúng. Người ta xem chúng như một loại hiện tượng kỳ lạ, huyền bí. Cũng
chính vì thế mà ngày nay lĩnh vực tâm lý vẫn còn là một trong những “dinh lũy”
cuối cùng để chủ nghĩa duy tâm lui vào “cố thủ” trước sự tấn công mạnh mẽ của
sự phát triển khoa học, kỹ thuật của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Tâm lý là hiện tượng tinh thần, nó tồn tại trong đầu của chúng ta, tồn tại
trong chủ quan của chúng ta. Chúng ta cũng không thể nhìn thấy nó, không thể
sờ mó, cân, đo, đong, đếm được nó như những hiện tượng vật chất.
- Tâm lý là một hiện tượng rất quen thuộc, gần gũi, gắn bó với con người.
Trong trạng thái thức tỉnh hầu như ở bất kỳ người nào và ở bất cứ thời điểm nào
đều có diễn ra một hiện tượng tâm lý nào đó. Kể cả trong giấc ngủ, ở con người
vẫn có thể diễn ra những hiện tượng tâm lý như hiện tượng ngủ mơ.
- Các hiện tượng tâm lý có sức mạnh vô cùng to lớn trong đời sống con người.
Chúng ta thường nói đến sức mạnh tinh thần, yếu tố tư tưởng, yếu tố con người
chính là nói đến sức mạnh của hiện tượng tâm lý. Mỗi người chúng ta đều thấy rõ
ràng rằng tâm lý có thể làm tăng hoặc giảm sức mạnh tinh thần và cả sức mạnh vật
chất của con người. Nó có thể làm cho con người trở nên khỏe mạnh, tươi trẻ và
đầy sức sống, có thể làm nên những việc kỳ diệu không thể lường trước.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của tâm lý học
a. Những tư tưởng tâm lý học thời cổ đại
Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội. Đặc
điểm đặc trưng để phân biệt con người với thế giới vật chất chính là ở những đặc
trưng tâm lý riêng của mình. Tâm lý là gì và phải nghiên cứu nó như thế nào là
một trong những vấn đề khó khăn nhất đối với tri thức của con người.
Cách đây hàng vạn năm, con người đã có quan niệm về cuộc sống của
"hồn", "phách" sau cái chết của thể xác. Đến khi xuất hiện chữ viết thì trong các

4
bản văn tự đầu tiên từ thời Ai Cập cổ đại, trong các bản kinh ở ấn Độ đã có
những nhận xét về tính chất của "hồn" và đã có những cuộc đấu tranh quan điểm
về bản chất của "tâm"... Tóm lại, đã có những ý tưởng tiền khoa học về tâm lý.
Thời cổ đại các nhà triết học ở cả phương Đông và phương Tây đều đã có
sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực tâm hồn. Tuy nhiên, do hạn chế lịch sử và
mức độ phát triển khoa học thời đó, các quan điểm về tâm hồn còn mang nặng
tính tự nhiên, tự phát, máy móc và phần lớn mang màu sắc duy linh. Thời kỳ
này, diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa 2 quan điểm duy tâm và
duy vật về bản chất của con người, về tâm lý và ý thức, xoay quanh mối quan hệ
vật chất và tinh thần, tâm lý và vật chất. Và trong suốt nhiều thế kỷ sau đó, tâm
lý học vẫn còn gắn liền với triết học, mặc dù đã có sự phát triển nhất định của
các tri thức khoa học về tâm lý.
b. Những tư tưởng tâm lý học đến nửa đầu thế kỷ XIX
Từ thế kỷ XVII, do khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, con người có
điều kiện để quan sát hành vi của mình. Tuy nhiên, vấn đề bản chất của tâm lý
vẫn là vấn đề nan giải và phức tạp. Thành tựu đáng kể nhất trong lịch sử phát
triển của triết học và tâm lý học thời kỳ này là sự ra đời của "Thuyết phản xạ"
của nhà triết học, bác học nổi tiếng người Pháp, R.Đềcac (1596 - 1650).
R.Đềcác là người đầu tiên dùng khái niệm phản xạ để giải thích một cách duy
vật những hành động đơn giản của con người: Sự vật bên ngoài tác động vào
giác quan gây ra luồng kích thích thần kinh và hệ thần kinh đáp lại bằng một cử
động bắp thịt. Thuyết phản xạ của R.Đềcác là cơ sở khoa học cho tư tưởng quyết
định luận duy vật trong triết học và tâm lý học. R.Đềcac là người theo lập
trường "nhị nguyên luận", là người đề xuất học thuyết về hai bản thể. Ông cho
rằng, cơ thể là một tồn tại vật lý còn tâm lý hay tâm hồn là một tồn tại khác, là
tư duy, suy nghĩ... Hai bản thể này song song tổn tại. Cơ thể con người phản xạ
như một cái máy, còn bản thể tinh thần, tâm lý con người thì không thể biết
được. Với học thuyết hai bản thể, R.Đềcác đã phát triển đến đỉnh cao tư tưởng
của Arixtote, cho rằng tâm hồn và cơ thể hợp lại thành tồn tại sống. Điều này có
giá trị to lớn đối với tâm lý học là khẳng định sự tồn tại khách quan có thật của

5
các hiện tượng tâm lý con người. Ông đã đặt nền móng cho sự phát triển của tâm
lý học hiện đại.
Sang thế kỷ XVIII, sự phát triển các tư tưởng tâm lý học vô cùng to lớn,
nổi bật là các nhà liên tưởng Anh và các nhà triết học duy vật Pháp. Lần đầu tiên
trong lịch sử đã ghi nhận sự kiện xuất hiện tác phẩm mang tên lâm lý học. Nhà
triết học người Đức C.Vôn phơ đã chia nhân chủng học (khoa học nói chung về
con người) ra thành hai khoa học: Khoa học về cơ thể và khoa học về tâm lý.
Trong tâm lý học, ông chia ra làm hai loại: tâm lý học kinh nghiệm và tâm lý
học lý trí. Năm 1712 ông cho xuất bản cuốn Lôgíc hay là tư tưởng hợp lý về sức
mạnh của lý trí con người. Năm 1732 với cuốn Tâm lý học kinh nghiệm ông mô
tả các kết quả quan sát được về các hiện tượng thuộc về đời sống tâm lý của con
người. Tác phẩm Tâm lý học lý trí (1734 ) của ông đã đi sâu khai thác mặt bản
chất của tân hồn, được hiểu như là năng lực của biểu tượng biểu thị dưới dạng
nhận thức và ước muốn, coi đó là sức mạnh chủ yếu. Có thể nói, công lao của
C.Vôn phơ đối với tâm lý học rất to lớn, là người đã làm cho khoa học tâm lý có
tên gọi, một nấc thang dẫn đến việc ra đời của khoa học tâm lý với tư cách là
một khoa học độc lập.
Vào thế kỷ XVII - XVIII - XIX, tiếp tục diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt
giữa chủ nghĩa duy tâm và duy vật xoay quanh mối quan hệ giữa tâm và vật.
Các nhà triết học duy tâm chủ quan như: Beccơli (1685 - 1753), E.Ma khơ (1838
- 1916) cho rằng thế giới không có thực, thế giới chỉ là "phức hợp các cảm giác
chủ quan của con người. Còn D.Hium (1811 - 1916) coi thế giới chỉ là những
"kinh nghiệm chủ quan” không thể biết được. Học thuyết duy tâm phát triển tới
mức độ cao thể hiện ở "ý niệm tuyệt đối" của Hê ghen.
Thời kỳ này, các nhà triết học và tâm lý học phương Tây cũng đã phát triển
chủ nghĩa duy vật lên một bước cao hơn: Spinôda (1632 - 1667) coi tất cả vật
chất đều có tư duy . Lametri (1709 - 1751), một trong những người sáng lập chủ
nghĩa duy vật Pháp thừa nhận chỉ có cơ thể mới có cảm giác… Còn Canbanic
(1757 - 1808) cho rằng, não tiết ra tư tưởng giống như gan tiết ra mật.
L.Phơbach (1804 - 1872) nhà duy vật lỗi lạc bậc nhất trước khi chủ nghĩa Mác

6
ra đời đã khẳng định: tinh thần, tâm lý không thể tách rời khỏi não người, nó là
sản vật của thứ vật chất phát triển tới mức độ cao là bộ não.
Đến nửa đầu thế kỷ XIX với các thành tựu của khoa học tự nhiên đem lại
trên nhiều lĩnh vực đã làm cho tâm lý học có những bước phát triển mới. Tâm lý
học trưởng thành, tự tách khỏi sự phụ thuộc vào triết học, tiếp tục được khẳng
định, phát triển để trở thành một khoa học độc lập.
c. Sự ra đời của tâm lý học với tư cách là một khoa học độc lập
Từ nửa sau thế kỷ XIX, những thành tựu của khoa học trên tất cả các lĩnh
vực đã phá vỡ về căn bản những quan niệm trước đó về kết cấu và thuộc tính
của vật chất và do đó đã ảnh hưởng rất lớn đến việc nhìn nhận thế giới tinh thần
của con người. Sinh lý học và hình thái học hệ thần kinh đã tìm ra hoạt động
riêng biệt của dây thần kinh cảm giác, các vùng trên não điều khiển sự vận động
của cơ thể. Vật lý học đã giải thích rõ ràng hiện tượng tâm lý đơn giản là cảm
giác bằng cách tìm ra quy luật kích thích sự vật bên ngoài đối với giác quan... đã
tạo điều kiện cho tâm lý học trở thành một khoa học độc lập.
Đặc biệt, "Thuyết tiến hóa" của S.Đắcuyn (1809 - 1882) vạch ra nguồn gốc
của các loài, quy luật phát triển và hình thành các giác quan đã giải thích nguyên
nhân nảy sinh và phát triển tâm lý từ hình thức thấp lên hình thức cao cho đến
hành vi bản năng của động vật; "Thuyết tâm sinh lý học giác quan" của H.Hem
hôn (1821 - 1894) người Đức; “thuyết tâm vật lý học" của G.Phécne (1801 -
1887) và E.Vêbe (1795 - 1878), cả hai đều là người Đức và các công trình
nghiên cứu về tâm thần học của bác sĩ Saccô (1875 - 1893) người Pháp... đã đưa
đến kết luận là: Hiện tượng tâm lý là một hiện tượng khách quan có thật vốn có
những quy luật riêng của nó. Hiện tượng tâm lý khác hẳn với các hiện tượng
sinh lý đã từng được biết, cho đến nay chưa có một khoa học nào nghiên cứu.
Muốn phát hiện ra quy luật của các hiện tượng tâm lý phải có các phương pháp
khách quan và phương tiện tương ứng để nghiên cứu nó. Những thành tựu trên
đây là cơ sở quan trọng góp phần vào việc đưa tâm lý học trở thành một khoa
học độc lập.

7
Đóng góp trực tiếp cho việc hình thành khoa học tâm lý gần liền với tên
tuổi của nhà tâm lý học người Đức V.Vuntơ (1832 - 1920). Năm 1879, V Vuntơ
đã sáng lập ra phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiên trên thế giới. Ngay từ những
ngày khởi đầu, phòng thí nghiệm của ông đã đi vào hoạt động có hiệu quả, phát
huy ảnh hưởng to lớn của nó đến hoạt động nghiên cứu tâm lý học của nhiều
nước trên thế giới cả về nội dung lẫn phương pháp nghiên cứu. Sự kiện này đã
có một ý nghĩa vô cùng to lớn, được ghi nhận như là mốc khởi đầu xuất hiện
tâm lý học với tư cách là một khoa học độc lập.
d. Các quan điểm cơ bản trong tâm lý học hiện đại.
- Tâm lý học hành vi.
Tâm lý học hành vi ra đời ở Mỹ năm 1913 do nhà tâm lý học người Mỹ
J.Oatsơn (1878 - 1958) đề xướng. J.oatsơn cho rằng, đối tượng của tâm lý học là
hành vi, tâm lý học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên
cứu hành vi của cơ thể. Mọi hoạt động từ đơn giản đến phức tạp như ý nghĩ, tư
tưởng, tình cảm... đều là những phản ứng của cơ thể nhằm đáp lại những kích
thích từ bên ngoài tác động vào. Toàn bộ hành vi, phản ứng của con người và
động vật phản ánh bằng công thức: S - R, (Stimulant: kích thích - Reaction:
phản ứng). Với công thức trên, J.Oatsơn đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong
tâm lý học: coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát
được, nghiên cứu được một cách khách quan, từ đó có thể điều khiển hành vi
theo phương pháp "thử - sai".
Sau J.Oatsơn, các đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như: E.Tônman
(1886 - 1959), C.Hulơ (1884 - 1952), B.Skinnơ (1904 - 1990)... có đưa vào công
thức S - R những "biến số trung gian" bao hàm một số yếu tố như: nhu cầu trạng
thái chờ đón, kinh nghiệm sống hoặc hành vi tạo tác... nhằm đáp lại những kích
thích có lợi cho cơ thể.
- Tâm lý học Gestalt.
Tâm lý học Gestalt còn gọi là tâm lý học cấu trúc ra đời năm 1913 đo các
nhà tâm lý học cấu trức người Đức tên 1à: M.Vecthaimơ (1880 - 1943), V Côlơ
( 1887 - 1967), K.Côpca (1886 - 1941) lập ra.

8
Gestalt là gì? Đó là một hình ảnh tâm lý có cấu trúc trọn vẹn, hoàn chỉnh,
các tính chất của nó hoàn toàn không phải được cấu tạo nên từ những phần tử,
những thành phần, yếu tố nào đó của nó. Tiếng Đức, Gestalt có nghĩa là toàn
vẹn, cấu trúc, hình thái. Cũng vì vậy, tâm lý học Gestalt còn gọi là tâm lý học
cấu trúc, tâm lý học hình thái. Đây là trường phái chuyên nghiên cứu về tri giác,
về tư duy con người nhằm chống lại tâm lý học nội quan, tâm lý học liên tưởng,
tham vọng xây đựng một nền tâm lý học khách quan theo kiểu mẫu của vật lý
học. Theo họ, đối tượng của tâm lý học phải là những chỉnh thể trọn vẹn mà
trong đó những gì xảy ra không phải bắt đầu từ những phần tử đơn vị nhỏ bé tồn
tại như những phần tử biệt lập được liên kết lại với nhau mà ngược lại, cái đã
xảy ra đó được quyết đinh bởi các quy luật cấu trúc bên trong của chỉnh thể trọn
vẹn đó.
- Phân tâm học.
Thuyết phân tâm do S.Phrơt (1859 - 1939) bác sĩ người Áo sáng lập lên.
Luận điểm cơ bản trong học thuyết phân tâm của S.Phrơt được xây dựng trên
khái niệm vô thức. Ông cho rằng con người gồm ba khối: Cái ấy (bản năng, vô
thức), cái tôi (cuộc sống thực của con người) và cái siêu tôi (ý thức, chuẩn mực
xã hội).
Cái ấy bao gồm các bản năng vô thức như: ăn uống, tình dục, tự vệ, trong
đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tâm, quyết định toàn bộ đời sống tâm lý
và hành vi của con người. Cái ấy hoạt động theo nguyên tắc thỏa mãn và đòi
hỏi.
Cái tôi là con người thường ngày, con người ý thức, tồn tại theo nguyên tắc
hiện thực. Theo S.Phrơt, cái tôi có ý thức là cái tôi giả hlệu, cái tôi bề ngoài của
cái tôi nhân lõi bên trong là cái ấy.
Cái siêu tôi 1à cái siêu phàm, "cái tôi lý tưởng" không bao giờ vươn tới
được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép.
Toàn bộ cuộc sống con người là sự mâu thuẫn liên tục giữa ba khối đó,
khối này chèn ép khối kia, nhưng nổi bật nhất là khối vô thức và khối ý thức.
Bản năng chèn ép, khống chế ý thức, ngược lại ý thức muốn chèn ép, khống chế

9
vô thức. Theo S.Phrơt, sở dĩ dục vọng bị đè nén là do chuẩn mực xã hội không
cho phép được thỏa mãn nên nhiều khi bản năng dục vọng bị hạn chế. Tuy
nhiên, bản năng ấy không thể mất đi mà liên tục hoạt động để cố tìm cách thỏa
mãn.
S.Phrơt cho rằng, vô thức là phạm trù chủ yếu trong đời sống tâm lý con
người. Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vô thức và tùy thuộc
theo tương quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện ra
theo những quy luật khác hẳn với ý thức. Trong các loại vô thức thì đam mê tính
dục có vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ đời sống tâm lý con người. Đam
mê tính dục tạo ra nguồn năng lượng cực kỳ mạnh mẽ (gọi là libido), cội nguồn
của mọi cội nguồn tinh thần, là nguyên nhân của của mọi bệnh tâm thần cũng
như các khả năng lao động sáng tạo ở con người.
Như vậy, phân tâm học đã quá nhấn mạnh bản năng vô thức, dẫn đến Phủ
nhận ý thức, phủ nhận bản chất xã hội - lịch sử của tâm lý con người. Học thuyết
phân tâm là cơ sở ban đầu của chủ nghĩa hiện sinh, thể hiện quan điểm sinh vật
hóa tâm lý con người, là cơ sở cho một thứ triết lý sống không tích cực, đối lập
với xã hội nhất là đối với giới trẻ ở các nước phương Tây.
- Tâm lý học nhân văn.
Trường phái tâm lý học nhân văn do C.Rôgiơ (1902 - 1987) và H.Maxlâu
sáng lập ra. Các nhà tâm lý học nhân văn quan niệm rằng, bản chất con ngườì
vốn tốt đẹp, con ngườỉ có lòng vị tha, có tiềm năng kỳ diệu. Maxlâu, ngườì có
công đưa tâm lý học nhân văn trở thành một ngành tâm lý học chính thức, đã
nêu lên năm mức độ nhu cầu cơ bản của con người xếp theo thứ tự từ thấp đến
cao: Nhu cầu sinh lý cơ bản; nhu cầu an toàn; nhu cầu quan hệ xã hội; nhu cầu
được kính nể, ngưỡng mộ; nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt.
C.Rôgiơ cho rằng con người ta cần phải đối xử với nhau một cách tế nhị,
cởi mở, biết lắng nghe và chờ đợi, cảm thông với nhau. Tâm lý học cần phải
giúp con người tìm được bản ngã đích thực của mình để có thể sống một cách
thoải mái, cởi mở, hồn nhiên và sáng tạo.

10
- Tâm lý học nhận thức.
Tâm lý học nhận thức với hai đại biểu nổi tiếng là G.Piagiê (Thụy Sĩ) và
Brunơ (Mỹ) coi hoạt động nhận thức là đối tượng nghiên cứu của mình. Đặc
điểm tiến bộ nổi bật của trường phái tâm lý học nhận thức là nghiên cứu tâm lý
con người, nhận thức của con người trong mối quan hệ với môi trường, với cơ
thể và với bộ não. Vì thế họ đã phát hiện ra nhiều sự kiện khoa học có giá trị
trong các vấn đề tri giác, trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ... làm cho các lĩnh vực
nghiên cứu nói trên đạt tới một trình độ mới. Đồng thời họ cũng xây dựng được
nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể đóng góp cho khoa học tâm lý ở những
năm 50 - 60 của thế kỷ XX. Bên cạnh đó, tâm lý học nhận thức có những hạn
chế nhất định: Coi nhận thức của con người như là sự nỗ lực của ý chí để dưa
đến sự thay đổi vốn kinh nghiệm, vốn tri thức của chủ thể nhằm thích nghi, cân
bằng với thế giới mà chưa thấy hết ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn của hoạt
động nhận thức.
- Tâm lý học hoạt động.
Tâm lý học hoạt động do các nhà tâm lý học Xô viết sáng lập ra. Năm
1925, L.X.Vưgôtxki (1896 - 1934), đã viết bài báo "ý thức như là một vấn đề
của tâm lý học hành vi", trong đó điểm lại sự khủng hoảng của tâm lý học và
đưa ra kiến giảl cần thiết phải xây dựng một nền tâm lý học klểu mới, thật sự
khách quan, khoa học, tâm lý học theo chủ nghĩa Mác. Dựa trên cơ sở lý luận
triết học Mác - Lênin, ông và sau này là các nhà tâm lý học Xô viết như:
P.P.Blônxki (1881 - 1941), K.N.Coocnhilôp (1879 - 1957), X.L.Rubinxtêin
(1889 - 1960), A.N.Lêônchep (1903 - 1979), A.R.Luria (1902 - 1977)... đã xây
dựng nền tâm lý học hoạt động với các nguyên tắc cơ bản là: nguyên tắc coi tâm
lý là hoạt động; nguyên tắc gián tiếp; nguyên tắc tâm lý là chức năng của não;
nguyên tắc lịch sử và nguồn gốc xã hội của các chức năng tâm lý.
Tâm lý học hoạt động còn gọi là tâm lý học Mác xít, đã đưa ra quan điểm
đúng đắn về bản chất tâm lý người đó là: Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào não thông qua hoạt động. Tâm lý người có tính chủ thể, có bản chất xã
hội, lịch sử. Tâm lý người được hình thành, phát triển và biểu hiện trong hoạt động

11
và trong các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã hội. Tâm lý là hiện tượng
thuộc về thế giới chủ quan của con người nhưng phải nghlên cứu tâm lý bằng các
phương pháp khách quan, khoa học. Không thể chỉ mô tả hiện tượng tâm lý mà
phải nghiên cứu cơ chế hoạt động theo quy luật của từng loại hiện tượng. Muốn
vậy, tâm lý học phải đi vào nghiên cứu bản thể vật chất của tâm lý, nghĩa là nghiên
cứu những biểu hiện về hoạt động sinh 1ý thần kinh bên trong của nó.
Các nhà tâm lý học hoạt động đều cho rằng, tâm lý là một hiện tượng tinh
thần, hình thành, tồn tại, phát triển và biểu hiện trong hoạt động. Tâm lý thống
nhất với hoạt động. Vai trò quan trọng nhất trong quá trình vận dụng khái niệm
hoạt động người của C.Mác để hình thành phạm trù hoạt động trong tâm lý học
thuộc về L.X.Vưgôxki, tiếp đến là X.L.Rubinxtêin và A,N.Lêônchep. Tuy vậy,
giữa X.L.Rubinxtêin và A.N.Lêônchep cũng có sự khác nhau trong quan niệm
về đối tượng nghiên cứu của tâm lý học. Và hiện nay, trong tâm lý học hoạt
động vẫn tồn tại cả hai quan niệm này.
X L.Rubinxtêin quan niệm, tâm lý học phải nghiên cứu hoạt động, nhưng
hoạt động không phải là đối tượng của tâm 1ý học. Ông cho rằng, chúng ta
không nghiên cứu tâm 1ý và hoạt động mà nghiên cứu tâm lý trong hoạt động.
A.N.Lêônchep lại khẳng định, hoạt động là đối tượng của tâm lý học. Ông quan
niệm, các thành tố của hoạt động vừa tạo ra phản ánh tâm lý vừa là thành tố gián
tiếp của phản ánh ấy, nghĩa là phản ánh lâm lý và thành tố của hoạt động không
tách rời nhau. Hoạt động trong sự vận động ấy là đối tượng của tâm lý học.
Tóm lại, để trở thành một khoa học độc lập, tâm lý học đã trải qua những
chặng đường gập ghềnh, khó khăn. Tuy ra đời muộn, song tâm lý học đã phát
triển vô cùng mạnh mẽ và có những đóng góp thiết thực, to lớn cho nhiều khoa
học, nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

II. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA TÂM LÝ HỌC

1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học


Tâm lý học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật
sang vận động xã hội, từ thế giới khách quan vào não con người sinh ra hiện
tượng tâm lý - với tư cách là một hiện tượng tinh thần.
12
Như vậy đối tượng của Tâm lý học là các hiện tượng tâm lý với tư cách là
một hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người
sinh ra, gọi chung là các hoạt động tâm lý. Tâm lý học nghiên cứu sự hình
thành, vận hành và phát triển của hoạt động tâm lý

2. Nhiệm vụ của tâm lý học


- Nhiệm vụ cơ bản của tâm lý học khoa học là nghiên cứu bản chất hoạt
động của tâm lý, các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lý, cơ chế diễn biến và
biểu hiện tâm lý, quy luật về mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lý, cụ thể là
nghiên cứu:
+ Những yếu tố khách quan, chủ quan nào đã tạo ra tâm lý người.
+ Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lý .
+ Giải thích tâm lý của con người hoạt động như thế nào?
+ Chức năng, vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người .
- Nhiệm vụ cụ thể của tâm lý học là:
+ Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lý cả về mặt số lượng và
chất lượng.
+ Phát hiện các quy luật hình thành phát triển tâm lý .
+ Tìm ra cơ chế của các hiện tượng tâm lý .
Để thực hiện các nhiệm vụ nói trên, tâm lý học phải có sự liên kết, phối
hợp chặt chẽ và sử dụng những thành tựu nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
khác nhau. Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lý học đưa ra những giải
pháp hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển, sử dụng, phát huy nhân tố tâm lý
con người trong mọi mặt của đời sống xã hội có hiệu quả nhất.
- Ở Việt Nam tâm lý học cũng phát triển và phân thành nhiều ngành như:
tâm lý học quân sự, tâm lý học pháp lý, tâm lý học hướng nghiệp, tâm lý học
giáo dục, tâm lý học chuẩn đoán, tâm lý học nhân cách… Tất cả các phân ngành
này đều có hai nhiệm vụ:
+ Xây dựng tâm lý học với tư cách là một bộ phận của nền khoa học dân
tộc và khoa học tâm lý học mácxít.

13
+ Phục vụ thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa và vì sự nghiệp tiến bộ của loài người.
Hai nhiệm vụ này kết hợp, tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ. Xây dựng
hệ thống lý luận tâm lý học khoa học sẽ giúp cho việc thực hiện nhiệm vụ thực
tiễn có kết quả và ngược lại, phục vụ tốt thực tiễn mới có điều kiện phát triển
những vấn đề lý luận của khoa học tâm lý.
- Đối với ngành công an, tâm lý học có những nhiệm vụ rất nặng nề sau đây:
+ Nghiên cứu những hiện tượng tâm lý xã hội của xã hội và những đặc
điểm tâm lý xã hội của các cộng đồng người khác có liên quan tới trật tự xã hội
và cuộc đấu tranh chống tội phạm. Thí dụ: dư luận xã hội, tin đồn, những đặc
điểm dân tộc, đặc điểm của những người trong các giáo phái, đặc điểm nghề
nghiệp của từng ngành.
+ Nghiên cứu những vấn đề tâm lý của các tập thể cán bộ, chiến sĩ công
an: đặc điểm của các mối quan hệ giữa cán bộ chiến sĩ, các yếu tố ảnh hưởng
đến các mối quan hệ đó (vị trí công tác, tuổi đời, giới tính, sự chuẩn bị tay nghề,
kinh nghiệm công tác …) tâm trạng và dư luận tập thể, đồn, trạm, ban, phòng và
việc điều chỉnh chúng, vấn đề hình thành các điều kiện tâm lý có lợi cho công
tác chuyên môn của các cấp công an; sự hình thành, tồn tại và ảnh hưởng của
những nhóm nhỏ không chính thức (tự nhiên) đối với công tác công an.
+ Nghiên cứu những vấn đề tâm lý cá nhân của cán bộ chiến sĩ công an: vấn
đề tuyển chọn người vào công an, động cơ xin vào công an, mô hình con người cần
tuyển chọn và đào tạo; những cơ sở tâm lý của việc phân phối cán bộ trong ngành
công an, những yêu cầu đặc trưng của từng loại nghề nghiệp trong công an: Cảnh
sát hình sự, điều tra, giao thông, trại giam, phòng cháy chữa cháy…
+ Nghiên cứu những vấn đề tâm lý của hành vi chống xã hội: tệ nạn càn
quấy, vi phạm pháp luật, nguyên nhân và động cơ của chúng, những đặc điểm
tâm lý của từng loại hành vi chống xã hội, tâm lý các loại tội phạm.
+ Nghiên cứu những hiện tượng tâm lý nảy sinh trong các hoạt động
nghiệp vụ cụ thể như: Công tác đặc tình, khám nghiệm hiện trường, xét hỏi bị
can, lấy lời khai của người làm chứng, bắt, khám xét … và những ảnh hưởng

14
của các yếu tố tâm lý đến hiệu quả của các hoạt động đó, nghiên cứu những vấn
đề tâm lý liên quan đến hoạt động quản lý giáo dục phạm nhân.
+ Nghiên cứu những vấn đề tâm lý trong hoạt động lãnh đạo, chỉ huy các
cơ quan nội vụ.

III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC

1. Các nguyên tắc phương pháp luận của tâm lý học


- Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng: nguyên tắc này khẳng
định tâm lý người có nguồn gốc là thế giới khách quan tác động vào não thông
qua “lăng kính chủ quan”. Con người cũng như đời sống tâm lý của họ đều là
sản phẩm của xã hội, của lịch sử. Nguồn gốc của tâm lý, ý thức là từ bên ngoài
được đưa vào não và cải tạo lại trong đó. Vì vậy, để nghiên cứu tâm lý, ý thức
chúng ta phải xuất phát từ tồn tại xã hội, từ hoạt động sống của họ.
- Nguyên tắc phát triển: mỗi hiện tượng tâm lý đều có quá trình nảy sinh,
vận động và phát triển. Vì vậy, nghiên cứu tâm lý con người phải đặt trong mối
quan hệ vận động, phát triển của nó. Vận dụng nguyên tắc này vào nghiên cứu
tâm lý sẽ tránh được rập khuôn, cứng nhắc, định kiến, chủ quan. Nguyên tắc này
giúp ta phát hiện những thay đổi, chuyển biến tích cực hay tiêu cực trong tâm lý
con người và có những tác động cần thiết để phát triển tâm lý con người theo
hướng mong muốn.
- Nguyên tắc hoạt động và giao tiếp: tâm lý của con người được hình thành
và biểu hiện thông qua hoạt động và giao tiếp. Do vậy khi nghiên cứu tâm ly phải
luôn bám sát quá trình hoạt động, các hành động cũng như giao tiếp của họ.
- Nguyên tắc hệ thống: Phải nghiên cứu tâm lý con người trong mối quan
hệ giữa chúng với nhau và trong mối liên hệ giữa chúng với các hiện tượng
khác. Phải biết kết hợp các phương pháp của các chuyên ngành tâm lý học với
các phương pháp của các khoa học khác nghiên cứu về con người.

2. Các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học


a. Phương pháp quan sát.
Quan sát được dùng trong nhiều khoa học, trong đó có tâm lý học.

15
- Quan sát là loại tri giác có chủ định, nhằm xác định các đặc điểm của đối
tượng qua những biểu hiện như hành động, cử chỉ, cách nói năng…
- Quan sát có nhiều hình thức: quan sát toàn diện hay quan sát bộ phận,
quan sát có trọng điểm, quan sát trực tiếp hay gián tiếp…
- Phương pháp quan sát cho phép chúng ta thu thập được các tài liệu cụ
thể, khách quan trong các điều kiện tự nhiên của con người, do đó nó có nhiều
ưu điểm. Bên cạnh các ưu điểm nó cũng có những hạn chế như sau: mất thời
gian, tốn nhiều công sức…
- Trong tâm lý học, cùng với việc quan sát khách quan, có khi tiến hành tự
quan sát (tự thể nghiệm, tự mô tả diễn biến tâm lý của bản thân, nhưng phải tuân
theo những yêu cầu khách quan, tránh suy diễn chủ quan theo kiểu" suy bụng ta
ra bụng người)
- Muốn quan sát đạt kết quả cao cần chú ý các yêu cầu sau đây:
+ Xác định mục đích, nội dung, kế hoạch quan sát.
+ Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt.
+ Tiến hành quan sát một cách cẩn thận và có hệ thống.
+ Ghi chép tài liệu quan sát một cách khách quan, trung thực…
b. Phương pháp thực nghiệm.
- Thực nghiệm là quá trình tác động vào đối tượng một cách chủ động,
trong những điều kiện đã được khống chế, để gây ra ở đối tượng những biểu
hiện về quan hệ nhân quả, tính quy luật, cơ cấu, cơ chế của chúng, có thể lặp đi
lặp lại nhiều lần và đo đạt, định lượng, định tính một cách kh. quan các hiện
tượng cần nghiên cứu.
- Người ta thường nói tới hai loại thực nghiệm cơ bản là thực nghiệm
trong phòng thí nghiệm và thực nghiệm tự nhiên.
+ Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: phương pháp thực nghiệm trong
phòng thí nghiệm được tiến hành dưới điều kiện khống chế một cách nghiêm khắc
các ảnh hưởng bên ngoài, người làm thí nghiệm tự tạo ra những điều kiện để làm
nảy sinh hay phát triển một nội dung tâm lý cần nghiên cứu, do đó có thể tiến hành
nghiên cứu tương đối chủ động hơn so với quan sát và thực nghiệm tự nhiên.

16
+ Thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong điều kiện bình thường của
cuộc sống hoạt động. Trong quá trình quan sát, nhà nghiên cứu chỉ thay đổi
những yếu tố riêng rẽ của hoàn cảnh, còn trong thực nghiệm trong phòng thí
nghiệm nhà nghiên cứu có thể chủ động gây ra biểu hiện và diễn biến tâm lý bằng
cách khống chế một số nhân tố không cần thiết cho việc nghiên cứu, làm nổi bậc
những yếu tố cần thiết có khả năng giúp cho việc khai thác, tìm hiểu các nội dung
cần thực nghiệm. Tùy theo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu mà người ta phân
biệt các thực nghiệm tự nhiên nhận định và thực nghiệm hình thành:
+ Thực nghiệm nhận định: chủ yếu nêu lên thực trạng của vấn đề nghiên
cứu ở một thời điểm cụ thể.
+ Thực nghiệm hình thành: (còn gọi là thực nghiệm giáo dục). Trong đó
tiến hành các tác động giáo dục, rèn luyện nhằm hình thành một phẩm chất tâm
lý nào đó ở nghiệm thể (người bị thực nghiệm).
Tuy nhiên, dù thực nghiệm tiến hành trong phòng thí nghiệm hoặc trong
hoàn cảnh tự nhiên cũng khó có thể khống chế hoàn toàn ảnh hưởng của các
yếu tố chủ quan của người bị thực nghiệm. Vì thế, phải tiến hành thực nghiệm
một số lần và phối hợp đồng bộ với nhiều phương pháp khác.
c. Phương pháp đàm thoại (trò chuyện).
Đó là cách đặt ra các câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của họ để
trao đổi, hỏi thêm, nhằm thu thập thông tin về vấn đề cần nghiên cứu.
Có thể đàm thoại trực tiếp hoặc gián tiếp tùy sự liên quan của đối tượng
với điều ta cần biết. Có thể hỏi thẳng hay hỏi đường vòng.
Muốn đàm thoại thu được tài liệu tốt nên:
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu (vấn đề cần tìm hiểu).
- Tìm hiểu trước thông tin về đối tượng đàm thoại với một số đặc điểm
của họ.
- Có một kế hoạch trước để "lái hướng" câu chuyện.
- Rất nên linh hoạt trong việc "lái hướng" này để câu chuyện vẫn giữ được
logic của nó, vừa đáp ứng yêu cầu của người nghiên cứu.
Ngoài ra tâm lý học còn có các phương pháp nghiên cứu khác như:

17
- Nghiên cứu các sản phẩm hoạt động .
- Phương pháp nghiên cứu lý lịch.
- Phương pháp trắc nghiệm (Test).
- Phương pháp an-két (phương pháp thăm dò).
- Phương pháp mô hình hóa.

IV. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM
LÝ NGƯỜI

1. Bản chất của tâm lý người


a. Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan của não
+ Tâm lý người không phải do thượng đế, do trời sinh ra, cũng không phải
do não tiết ra như gan tiết ra mật. Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào não người thông qua "lăng kính chủ quan".
Nói cách khác muốn tồn tại và phát triển con người phải phản ánh hiện
thực khách quan để thích ứng với nó và cải biến nó.
Phản ánh là thuộc tính chung của bất kỳ loại vật chất nào, ở bất kỳ nấc
thang tiến hóa nào. Theo định nghĩa chung thì phản ánh – đó các đấu vết để lại
trên các đối tượng khi chúng tác động vào nhau. Ngay vật chất vô cơ như đất
đá… cũng có thuộc tính này. Một hòn đất cứng ném vào chổ đất ước để lại trên
nó một vết lõm rất rõ, vết lõm ấy phản ánh sự va chạm của hòn đất cứng vào nó.
Về phía hòn đất cứng cũng có một sự xây xát nhỏ, một sự biến dạng nào đó, chỉ
có điều chúng ta khó nhận thấy mà thôi. Những hòn đá ven biển bị bào mòn
nhẵn phản ánh sự tác động lâu ngày của hàng triệu đợt sóng thủy triều lên nó.
Trên đà phát triển tiến hóa của thế giới vật chất đã xuất hiện những hình
thức phản ánh cao hơn: phản ánh hóa học (khi có tác động của các nguyên tố,
các chất hóa học), phản ánh sinh lý ở cơ thể sống (khi cơ thể sống chịu sự tác
động của môi trường gây nên những biến đổi của các quá trình và trạng thái của
cơ thể). Và cuối cùng phản ánh đạt đến một trình độ phát triển vượt bậc, mang
một chất lượng hoàn toàn mới. Đó là sự phản ánh tâm lý.
Sự phản ánh tâm lý khác với sự phản ánh sinh lý ở chổ nào? Khác nhau ở
chổ giờ đây động vật không chỉ có khả năng đáp ứng lại các tác nhân kích thích

18
của môi trường khi chúng trực tiếp tác động vào cơ thể (mồi trôi vào miệng thì
nuốt, hoặc chạm phải các kích thích có hại thì tránh – kiểu phản ánh sinh lý) mà
còn có khả năng đáp lại các kích thích ấy một cách gián tiếp thông qua các tín
hiệu của chúng (màu sắc, hình dáng, mùi vị, âm thanh… ). Ví dụ: con cóc đớp
được con muỗi khi nó vừa tri giác hình dáng (tín hiệu) của con muỗi.
Lúc đầu, năng lực phản ánh tâm lý còn rất thô sơ – năng lực cảm giác ở
những động vật có hệ thần kinh mấu (hạch) – mầm móng của não. Cùng với sự
tiến hóa của não, ở động vật bậc cao hơn năng lực tri giác xuất hiện (ở loài cá,
loài chim). Đó là hình thức phản ánh tâm lý cao hơn cảm giác. Ở các loài động
vật có vú có bộ não phát triển phức tạp, chúng ta thấy năng lực phản ánh tâm lý
của chúng cũng đạt đến sự phát triển cao về chất, năng lực trí tuệ. Năng lực này
thể hiện ở hành vi động vật giờ đây tinh khôn hơn rất nhiều, điển hình là ở loài
khỉ, loài cá heo.
Sau cùng loài người xuất hiện như là một loài động vật ở nấc thang tiến hóa
cao nhất, có bộ não phát triển phức tạp và tinh vi nhất. Điều cần nhấn mạnh là
não người không chỉ là sản phẩm đơn thuần của quá trình tiến hóa sinh vật, mà
còn là và chủ yếu là sản phẩm của quá trình tiến hóa của lịch sử xã hội loài
người dưới tác động mạnh mẽ của lao động và ngôn ngữ, bởi vì con người về
bản chất là một tồn tại xã hội. Do vậy, ở loài người tâm lý phát triển đến trình độ
cao nhất – đó là trình độ có ý thức.
+ Tâm lý, ý thức là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của vật chất, là
chức năng của não.
Vật chất có quá trình phát triển rất lâu dài, từ chất vô cơ đến chất hữu cơ, từ
chất vô sinh đến chất sống. Dấu hiệu đặc trưng của chất sống là quá trình trao
đổi chất: nhận những thành phần mới, cần thiết và thải những thành phần không
cần thiết.
Não người là một tổ chức vật chất cực kỳ phức tạp (ngày nay loài người
vẫn chưa có thể chế tạo ra được một bộ máy nào phức tạp và tinh vi như não)
với hơn 10 tỷ tế bào thần kinh có mối liên hệ với nhau hết sức tinh vi, có khả

19
năng tiếp nhận, phân tích các kích thích tác động vào cơ thể và “truyền đạt mệnh
lệnh” tạo ra các phản ứng đáp lại một cách thích hợp các kích thích.
Nói tâm lý là chức năng của não là nói đến thuộc tính rất đặc trưng của não,
khởi xuất từ não – đó là sự phản ánh tâm lý của não. Nói cách khác, cơ quan vật
chất của tâm lý là não, hoạt động của não là cơ chế sinh lý thần kinh của hoạt
động tâm lý. Nếu không có não hoặc não bị tổn thương thì không thể có tâm lý
hoặc tâm lý không bình thường.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, sự hoạt động của não chỉ quy định hình thức
diễn biến tâm lý (cường độ, tốc độ của các quá trình, các trạng thái tâm lý) còn
nội dung của tâm lý thì bị quy định bởi nội dung của kinh nghiệm xã hội – lịch
sử mà mỗi người tiếp thu trong quá trình sống của mình. Vì thế, nhiều người có
bộ não mà năng lực hoạt động của nó là bình thường như nhau, nhưng nội dung
cuộc sống tâm lý của họ thì không giống nhau, thậm chí đối lập nhau.
Tâm lý không phải là não, và không phải là chất gì do não tiết ra mà là thế
giới khách quan tác động vào não giúp con người phản ánh thế giới khách quan
nhằm điều khiển hành động của mình.
b. Tâm lý mang tính chủ thể
Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiện ở chổ:
+ Cùng nhận sự tác động của một sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách
quan nhưng ở những chủ thể khác nhau sẽ có những hình ảnh tâm lý với các
mức độ, sắc thái khác nhau.
+ Cùng một chủ thể nhưng vào những thời điểm khác nhau, hoàn cảnh khác
nhau, trạng thái cơ thể, tinh thần khác nhau sẽ có những phản ánh tâm lý khác
nhau đối với cùng một sự vật, hiện tượng.
+ Thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể sẽ có
thái độ và phản ứng khác nhau đối với hiện thực.
+ Chủ thể phản ánh tâm lý là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể hiện rõ
nhất các hình ảnh tâm lý đó.
Tính chủ thể của sự phản ánh làm cho tâm lý con người ngoài cái chung
còn luôn có cái khác biệt, mang bản sắc riêng của mỗi cá nhân

20
c. Tâm lý người mang bản chất xã hội – lịch sử
- Tâm lý người khác xa với các loài động vật cao cấp ở chổ tâm lý người có
bản chất xã hội và mang tính lịch sử. Bản chất xã hội - lịch sử của tâm lý người
được thể hiện là:
+ Tâm lý người có nguồn gốc là thế giới khách quan, bao gồm cả thế giới
tự nhiên và xã hội, trong đó thế giới xã hội là nguồn gốc sâu xa, quyết định.
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã
hội”.
+ Là một thực thể xã hội, con người là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận
thức, của hoạt động và giao tiếp. Vì vậy, tâm lý là sản phẩm của hoạt động và
giao tiếp của con người trong xã hội. Nó mang đầy đủ dấu ấn xã hội – lịch sử
của con người.
+ Mỗi cá nhân thuộc các thời kỳ lịch sử khác nhau, thuộc các tầng lớp, giai
cấp khác nhau, nghề nghiệp khác nhau thì nội dung tâm lý của họ sẽ khác nhau.
Tâm lý của mỗi người luôn vận động, phát triển cùng với sự vận động, phát triển
của xã hội.
- Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh
nghiệm xã hội, nền văn hóa xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp (vui chơi, học
tập, lao động, công tác xã hội…). Thông qua hoạt động và giao tiếp, con người có
thể chuyển các hiện tượng tâm lý cá nhân vào các sản phẩm vật chất hoặc tinh
thần. Ngược lại khi tiếp xúc với nền văn hóa xã hội, ở mỗi cá nhân sẽ nảy sinh,
hình thành và phát triển những đặc điểm tâm lý của bản thân mình.
Các quy luật sinh vật chi phối thế giới động vật, các quy luật xã hội chi
phối sự phát triển của con người. Nếu như ở động vật phát triển là quá trình hiện
thực hóa những kinh nghiệm đã được di truyền lại trong cấu trúc thân thể bằng
con đường di truyền sinh học, thì sự phát triển của con người là quá trình thế hệ
sau tiếp thu lĩnh hội những kinh nghiệm đã tích lũy được của xã hội từ các thế
hệ trước, biến những kinh nghiệm đó thành kinh nghiệm của chính mình, đồng
thời sáng tạo, đóng góp thêm cho kho tàng kinh nghiệm của loài người ngày
càng phong phú.

21
Kinh nghiệm xã hội – lịch sử là một khái niệm chỉ các thành tựu văn hóa
(vật chất và tinh thần) của bao thế hệ loài người đã tích lũy được bằng các hoạt
động thực tiễn và lí luận, được kết tinh và ghi lại trong các sản phẩm của mình:
các công cụ lao động, các tiện nghi sinh hoạt, các công trình kiến trúc, các tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, kỷ thuật… Vậy là trong quá trình hoạt
động năng lực bản chất của loài người được khách thể hóa (tức là chuyển từ
trong ra ngoài) trong các sản phẩm của mình.
Năng lực bản chất của loài người là một khái niệm chỉ tri thức và thẩm mỹ,
nhu cầu và tình cảm, đạo đức và năng lực, cả kỷ năng, kỷ xảo của loài người.
Trong quá trình sống, mỗi cá thể (đứa trẻ) dưới sự hướng dẫn của người lớn tiến
hành những hoạt động thích hợp để lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử, biến nó
thành cái vốn riêng (tức thành cái tâm lý) của bản thân. Cái vốn riêng ấy là cái
năng lực tâm lý chung của loài người ở trong mỗi con người cụ thể.
Kết luận: Tâm lý người là những hiện tượng tinh thần có nguồn gốc từ hiện
thực khách quan, mang tính chất lịch sử - xã hội, giúp con người điều khiển
những hành vi, hoạt động làm chủ bản thân trong hoạt động cải tạo tự nhiên và
xã hội.

2. Chức năng của tâm lý người


Hiện thực khách quan quyết định tâm lý con người, nhưng chính tâm lý con
người lại tác động trở lại hiện thực bằng tính năng động, sáng tạo của nó thông
qua hoạt động. Mọi hành động, hoạt động dù nhỏ hay lớn của con người đều do
tâm lý điều hành. Sự điều hành ấy biểu hiện qua những mặt sau đây:
- Chức năng định hướng: tâm lý giúp con người định hướng trong hoạt
động, tức là xác định phương hướng cho hành động của con người.
Nhờ có phản ánh tâm lý, con người nhận biết được thế giới khách quan, về
những kích thích xung quanh trong mối quan hệ với bản thân, trên cơ sở đó mà
định hướng cho hoạt động tùy thuộc vào mức độ phản ánh mà sự định hướng ở
mức độ cao hay thấp.

22
+ Hình thức định hướng đơn giản nhất là phản ánh tâm lý giúp cho chủ thể
nhận biết về kích thích tác động như thế nào, có lợi hay có hại cho mình, trên cơ
sở đó có phản ứng đáp lại phù hợp đối với kích thích đó
+ Ở mức độ cao hơn, sự định hướng thể hiện ở dạng “phản ánh trước” về
hoạt động. “Hình ảnh tâm lý” của hoạt động (chương trình, kế hoạch, kết quả hoạt
động) được xây dựng trong đầu óc là mô hình mẫu để con ngưởi thực hiện theo.
Nhờ có tâm lý mà hành vi của con người từ khâu lựa chọn đối tượng cho
đến thực hiện hành động và tổng kết rút kinh nghiệm luôn là hành vi chủ động
tích cực.
- Chức năng điều khiển: tâm lý điều khiển quá trình hoạt động của con người
bằng chương trình, kế hoạch, phương pháp, phương thức tiến hành hoạt động làm
cho hoạt động của con người trở nên có ý thức, đem lại hiệu quả nhất định. Ngoài
ra còn giúp con người khắc phục khó khăn, vươn tới mục đích đã đề ra.
- Chức năng điều chỉnh: tâm lý giúp con người điều chỉnh hoạt động cho
phù hợp với mục tiêu đã xác định, đồng thời phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh
thực tế cho phép. Nhờ có chức năng điều chỉnh của tâm lý mà hoạt động của con
người luôn có tính linh hoạt, sáng tạo chứ không máy móc, cứng nhắc.
Như vậy, nhờ có các chức năng định hướng, điều khiển, điều chỉnh nói trên
mà tâm lý giúp con người không chỉ thích ứng với hoàn cảnh khách quan, mà
còn nhận thức, cải tạo và sáng tạo ra thế giới, và chính trong quá trình đó con
người nhận thức, cải tạo chính bản thân mình.

3. Phân loại hiện tượng tâm lý


Chúng ta biết rằng các hiện tượng tâm lý là rất phức tạp và phong phú.
Muốn nghiên cứu được nó, chúng ta phải phân loại nó một cách khoa học. Dựa
trên những căn cứ khác nhau có những cách phân loại khác nhau. Sau đây là một
số cách phân loại chủ yếu:
- Căn cứ vào chức năng cụ thể, các hiện tượng tâm lý được chia thành: các
hiện tượng tâm lý thuộc về nhận thức, các hiện tượng tâm lý thuộc về đời sống
tình cảm và hiện tượng ý chí.

23
- Căn cứ vào chủ thể mang tâm lý, các hiện tượng tâm lý được chia thành:
hiện tượng tâm lý của cá nhân với hiện tượng tâm lý xã hội .
+ Tâm lý cá nhân tồn tại trong mỗi cá nhân điều hành hành động và hoạt
động của cá nhân người có tâm lý đó và phản ánh hiện thực khách quan trong
hoạt động của người đó mà thôi.
+ Hiện tượng tâm lý nảy sinh và tồn tại ở cộng đồng người, điều hành
hành động, hoạt động tương đối giống nhau của cả cộng đồng người ấy và cũng
phản ánh hiện thực khách quan bao hàm trong hoạt động này một cách tương
đối giống nhau. Đó là những hiện tượng tâm lý xã hội. Ví dụ như phong tục, tập
quán, tin đồn, dư luận xã hội, tâm trạng xã hội, định hướng xã hội, "mốt"…
- Căn cứ vào sự tham gia của tâm lý vào hoạt động, tâm lý được chia
thành: hiện tượng tâm lý sống động với hiện tượng tâm lý tiềm tàng.
+ Hiện tượng tâm lý sống động: nảy sinh, diễn biến và phát triển trong
hành vi, hành động, hoạt động của cá nhân hoặc của cộng đồng người và điều
hành hoạt động đang diễn biến của họ.
+ Hiện tượng tâm lý tiềm tàng: tích đọng trong sản phẩm của hoạt động
(Sản phẩm vật chất hay sản phẩm được tích đọng trong não người).
- Căn cứ vào mức độ tham gia của ý thức, các hiện tượng tâm lý được chia
thành: ý thức, vô thức và tiềm thức.
+ Hiện tượng tâm lý có ý thức là hiện tượng tâm lý được ý thức hay tự
giác. Đây là loại hiện tượng tâm lý có sự tham gia tác động, ảnh hưởng của ý
thức. Nhờ có sự tham gia của ý thức mà các hiện tượng tâm lý có sự biến đổi về
chất, trở nên cực kỳ tinh nhạy, phức tạp và có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng
trong cuộc sống con người
Ở con người bình thường và trưởng thành, hầu hết các hiện tượng tâm lý
đều thuộc loại này. Ở họ, các hành vi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói, các xúc cảm, tình
cảm đều có ý thức tham gia và đều là kết quả của sự chi phối của ý thức. Chúng
ta chỉ có thể biết rõ rệt ít hay nhiều, toàn bộ hay cục bộ những hiện tượng tâm lý
có ý thức mà thôi.

24
+ Hiện tượng tâm lý chưa được ý thức (vô thức): đây là những hiện tượng
tâm lý ít có hoặc không có sự tham gia của ý thức. Thường thường nó là hình
thức phản ánh hiện thực mà trong đó con người không nhận thức rõ được những
hành động mình đã thực hiện, hoặc mất khả năng định hướng đầy đủ về không
gian, thời gian của hành động.
- Căn cứ vào thời gian tồn tại của hiện tượng tâm lý và vị trí tương đối của
chúng trong nhân cách, các hiện tượng tâm lý được chia thành: quá trình tâm
lý, trạng thái tâm lý và thuộc tính tâm lý.
+ Các quá trình tâm lý: là hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương
đối ngắn tương ứng với thời gian tồn tại của kích thích gây ra nó, nó có mở đầu,
diễn biến và kết thúc tương đối rõ ràng nhằm biến những tác động bên ngoài
thành hình ảnh tâm lý. Nó là nguồn gốc của toàn bộ đời sống tâm lý con người.
Có ba loại quá trình tâm lý:
• Quá trình nhận thức: bao gồm các quá trình như cảm giác, tri giác, trí
nhớ, tư duy, tưởng tượng…
• Quá trình xúc cảm: biểu thị thái độ của con người đối với hiện thực
khách quan: sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu, khó chịu, nhiệt tình hay thờ ơ…
• Quá trình ý chí – hành động: khả năng vượt khó, vượt khổ để đạt được
mục đích đã đề ra.
+ Các trạng thái tâm lý: là những hiện tượng tâm lý luôn luôn gắn liền với
quá trình tâm lý, diễn ra trong thời gian tương đối dài (vài mươi phút đến hàng
tháng), việc mở đầu và kết thúc không rõ ràng, tồn tại sau kích thích gây ra nó,
thường ít biến động nhưng lại chi phối một cách căn bản các quá trình tâm lý đi
kèm với nó như: sự chú ý, tâm trạng, sự kiềm chế, trạng thái nghi hoặc …
+ Các thuộc tính tâm lý: là hiện tượng tâm lý hình thành lâu dài và trở nên
tương đối ổn định, bền vững, khó mất đi, có khi suốt đời và tạo thành những nét
riêng của nhân cách, chi phối các quá trình và trạng thái tâm lý của người ấy.
Thuộc tính tâm lý là những nét tâm lý đặc trưng cho con người, làm cho
người này khác người kia. Thuộc tính tâm lý được hình thành do sự tổng hợp của

25
các quá trình tâm lý và trạng thái tâm lý. Những thuộc tính tâm lý gồm: xu hướng,
tính cách, khí chất, năng lực, chúng tạo thành hai mặt đức và tài của con người .
Cả ba loại hiện tượng tâm lý trên đều có thể có sự tham gia hoặc chịu sự
chi phối của ý thức. Do tác động của ý thức mà ba loại hiện tượng tâm lý đó trở
nên phức tạp, phong phú hơn nhiều.

4. Vai trò của khoa học tâm lý đối với đời sống và ý nghĩa của việc
nghiên cứu tâm lý học đối với lực lượng Cảnh sát Nhân dân
a. Vai trò của khoa học tâm lý đối với đời sống
Tâm lý học đã chỉ ra hệ thống những hiện tượng và quy luật của những
hiện tượng tâm lý, chỉ ra bản chất của tâm lý người - hiện tượng mà hơn 20 thế
kỷ tìm tòi (thế kỷ IV, V TCN - thế kỷ XIX) con người vẫn cho là "huyền bí".
Tâm lý học cũng đã chỉ ra cơ chế của sự hình thành, phát triển tâm lý, cấu
trúc và những hiện tượng tâm lý cụ thể ở con người, quan hệ giữa tâm lý và
hành vi, những quy luật của đời sống tâm lý cá nhân cũng như các cộng đồng xã
hội v.v... Đồng thời cũng đã chỉ ra được những phương pháp nghiên cứu, xác
định những vấn đề tâm lý cụ thể ở con người.
Với những thành tựu đó, tâm lý học đã cung cấp cho con người những tri
thức cơ bản, giúp cho con người có cách nhìn nhận đúng đắn, khoa học về tự
nhiên, xã hội và bản thân, giải phóng con người khỏi quan điểm duy tâm, sự mê
tín, sợ hãi mù quáng và tự rèn luyện mình một cách khoa học, có hiệu quả. Mặt
khác, căn cứ vào những thành tựu của tâm lý học, các ngành khoa học khác,
nhất là những khoa học nghiên cứu về con người có thêm một cơ sở khách quan,
một điều kiện quan trọng để phát triển đúng hướng và mạnh mẽ. Những vấn đề
tâm lý học chỉ ra trong thực tế đã và đang được vận dụng vào tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội để huy động các tiềm năng của con người, giúp mọi cá nhân
có điều kiện thuận lợi để phát triển những phẩm chất tâm lý phù hợp với yêu cầu
xã hội, tạo điều kiện để hoạt động đạt hiệu quả cao nhất.
Tóm lại: Tâm lý học là khoa học nghiên cứu về tất cả những khía cạnh của
đời sống tâm lý con người. Việc nghiên cứu tâm lý học sẽ giúp chúng ta nắm bắt
được thế giới "bên trong" con người và cộng đồng người có những hiện tượng

26
tâm lý nào, biết phân tích các hiện tượng tâm lý ấy, biết dự đoán hành vi và đặc
biệt là biết tác động tâm lý để thỏa mãn những nhu cầu của cuộc sống cũng như
hiệu quả của các mặt hoạt động.
b. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tâm lý học đối với lực lượng Cảnh sát
Nhân dân
Nghiên cứu tâm lý học giúp cho lực lượng CSND trong việc nâng cao hiệu
quả hoạt động trên các lĩnh vực sau:
- Quản lý, lãnh đạo, tổ chức cán bộ: phân công đúng người, đúng việc,
đúng năng lực sở trường của mỗi người.
- Đào tạo, giáo dục cán bộ, chiến sĩ. Xây dựng tập thể vững mạnh, đoàn kết
thống nhất và không ngừng nâng cao văn hóa ứng xử trong toàn lực lượng.
- Đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ ANTT xã hội.
- Quản lý giáo dục cải tạo phạm nhân.
Đối với bản thân mỗi cán bộ, chiến sĩ – do đặc thù lao động nghề nghiệp
phải biết tự rèn luyện những phẩm chất cần thiết, tự hoàn thiện để làm chủ bản
thân đáp ứng được yêu cầu của mọi hoạt động.
Đặc điểm tâm lý nghề nghiệp CA: sự căng thẳng tâm lý do có liên quan đến
quyền con người, do các mối quan hệ xã hội tác động; sự thận trọng thái quá;
lạm dụng quyền hạn; dùng nghiệp vụ để giải quyết xung đột trong nội bộ…
Người Cảnh sát Nhân dân biết giải quyết được những vấn đề tâm lý thì sẽ
loại trừ được một tỷ lệ đáng kể những hành vi phạm tội, góp phần nâng cao hiệu
quả đấu tranh chống tội phạm. Hơn nữa, kẻ địch cũng rất xảo quyệt trong việc
sử dụng vũ khí tâm lý, thực chất của cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt suy
cho cùng là cuộc chiến tranh tâm lý, nhiều chiến sĩ cảnh sát nhân dân hy sinh do
thiếu những hiểu biết về tâm lý, mất cảnh giác hoặc rơi vào tình trạng strest…
Mặt khác, cảnh sát nhân dân còn phải tiến hành vận động quần chúng tham
gia hoạt động giữ gìn trật tự an toàn xã hội, tuyên truyền giáo dục pháp luật cho
quần chúng và tiến hành các tác động giáo dục, đấu tranh với các đối tượng hoạt
động của mình. Trong việc lập các kế hoạch công tác, phải biết phân tích tình

27
hình, dự báo khả năng diễn biến tư tưởng và hành vi của các đối tượng để có
phương án giải quyết kịp thời và hiệu quả .
Về phía nội bộ lực lượng cảnh sát nhân dân thì lao động của lực lượng cảnh
sát nhân dân là một trong những lao động đặc biệt, đòi hỏi ở cảnh sát nhân dân
những phẩm chất và năng lực đặc thù. Vì vậy, công tác tổ chức, đào tạo cũng
cần hết sức khoa học, sắp xếp bố trí nhân sự đúng để phát huy được năng lực, sở
trường của mỗi người, tổ chức lựa chọn và đào tạo, trang bị cho cán bộ chiến sĩ
những phẩm chất phù hợp. Trong quá trình hoạt động cũng cần có những biện
pháp tác động phù hợp để kích thích tính tích cực và hạn chế tiêu cực của cán
bộ, chiến sĩ.
Đối với bản thân mỗi cán bộ chiến sĩ - do đặc thù của lao động nghề nghiệp
yêu cầu (lao động có tính mạo hiểm, căng thẳng, liên quan đến quyền và lợi ích
con người) phải luôn có khả năng làm chủ bản thân, tích cực và thận trọng, kiên
quyết, linh hoạt, nghĩa là phải biết tự rèn luyện những phẩm chất cần thiết, tự
hoàn thiện để làm chủ bản thân mới đáp ứng được yêu cầu hoạt động.

V. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA TÂM LÝ HỌC


1. Ý thức
a. Khái niệm ý thức
Theo nghĩa rộng (triết học), ý thức được dùng gần đồng nghĩa với khái
niệm như: tinh thần, tư tưởng, tâm lý con người để phân biệt với vật chất. Theo
nghĩa đó, từ ý thức đồng nghĩa với khái niệm tâm lý con người và bao gồm các
hiện tượng như: cảm giác, tư duy, nhu cầu, tình cảm… Trong đời sống, ý thức
nhiều khi được dùng đồng nghĩa với tính tự giác, giác ngộ của cá nhân như: ý
thức kỷ luật, ý thức đạo đức, ý thức tập thể, ý thức cảnh giác…
Theo nghĩa hẹp, khái niệm ý thức được dùng để chỉ một cấp độ đặc biệt
trong tâm lý con người. Chúng ta có thể nói về cảm giác của con ong, sự nhận
biết của con cá, trí nhớ của con chó, cảm xúc của con vượn. Song chỉ ở con
người mới có những hiện tượng tâm lý có ý thức.
Trong phạm vi khái niệm mà chúng ta nghiên cứu thì ý thức hiểu theo
nghĩa hẹp. Vậy ý thức là gì?
28
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở người, là sự phản ánh
bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu được trong quá trình quan hệ qua
lại với thế giới khác quan.
Ý thức có quan hệ mật thiết với nhận thức. Thông thường trước khi làm
một việc gì người ta phải tính toán cho kỷ, xem nên làm như thế nào, dự định sẽ
thu được kết quả gì, sẽ gặp hậu quả nào… Dự tính như vậy và làm theo dự tính
đó là hoạt động của ý thức.
Ý thức và nhận thức có cái chung, nhưng không phải là một. Nghĩa là sự vật
nào đó là đối tượng của sự suy nghĩ và đã tạo ra trong não một hình ảnh tâm lý,
rồi hình ảnh tâm lý về sự vật ấy lại trở thành đối tượng của để con người tiếp tục
suy nghĩ làm cho kết quả phản ánh sâu sắc hơn, tinh vi hơn. Đó chính là ý thức.
Như vậy là các hình ảnh tâm lý lại trở thành đối tượng của phản ánh tâm lý.
Con người ở đây tựa như sự phân đôi: một phần làm nhiệm vụ tạo ra những hình
ảnh tâm lý phản ánh thực tại khách quan, phần khác làm nhiệm vụ phản ánh lại
những hình ảnh đã được hình thành ở phần bên kia. Nếu quá trình nhận thức
đem lại cho chúng ta tri thức (hiểu biết) về hiện thực khách quan, thì ý thức là
năng lực hiểu biết về tri thức (hiểu biết). Vì vậy, có thể nói ngắn gọn rằng ý thức
là tri thức của tri thức, hiểu biết của hiểu biết.
Tất cả những hiện tượng tâm lý đều phản ánh hiện thực khách quan. Hiện
thực khách quan tác động vào não chúng ta tạo ra các hình ảnh tâm lý. Các hình
ảnh đó là đối tượng trực tiếp của ý thức. Vì vậy, có thể nói ý thức là phản ánh
của phản ánh.
b. Cấu trúc của ý thức
- Mặt nhận thức
+ Nhận thức cảm tính mang lại những tài liệu đầu tiên cho ý thức.
+ Nhận thức lý tính mang lại những hình ảnh khái quát, bản chất về thực tại
khách quan và mối liên hệ có tính quy luật của các sự vật hiện tượng. Đây là nội
dung cơ bản của ý thức, là hạt nhân của ý thức, thể hiện năng lực nhận thức cao
nhất của con người về thế giới.
- Mặt thái độ của ý thức

29
Ý thức luôn thể hiện thái độ của con người với thế giới khách quan thể hiện
thái độ cảm xúc, đánh giá của chủ thể đối với thế giới, ở sự lựa chọn đối tượng
hoạt động và tính tích cực trong hoạt động. Thái độ được hình thành trên cơ sở
nhận thức thế giới.
- Mặt năng động của ý thức
Ý thức tạo cho con người có khả năng dự kiến trước hoạt động, điều khiển,
điều chỉnh hoạt động nhằm thích nghi và cải tạo thế giới khách quan, đồng thời
hiểu biết và cải tạo bản thân,
c. Sự hình thành và phát triển ý thức
Động vật không có ý thức, chỉ có loài người mới có ý thức. Vậy ý thức xuất
hiện ở loài người như thế nào và do những nguyên nhân nào?
Trong lịch sử hình thành loài người thì lao động, ngôn ngữ và xã hội là các
yếu tố hình thành nên con người và ý thức của con người.
- Sự hình thành và phát triển của ý thức con người (xét trên phương
diện loài).
+ Ý thức hình thành và phát triển trong quá trình lao động.
Lao động có hai đặc điểm nổi bật có quan hệ qua lại với nhau: một là, lao
động bằng công cụ do con người chế tạo ra. Hai là, lao động được thực hiện
trong các điều kiện hoạt động cùng nhau, hoạt động tập thể. Con người trong
quá trình lao động không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà còn quan hệ với những
người khác – những thành viên của xã hội (quan hệ giao lưu). Chỉ có thông qua
giao lưu con mới thực hiện được mối quan hệ với tự nhiên.
Như vậy, ngay từ thời nguyên thủy xa xưa, lao động đã là một quá trình
mang tính chất gián tiếp, nghĩa là nó được thực hiện bằng công cụ lao động và
thông qua giao lưu.
Lao động mang tính chất gián tiếp như vậy là nhân tố có ý nghĩa quyết định
đối với sự nảy sinh ý thức ở loài người. Ngay từ buổi bình minh của nhân loại,
quá trình lao động nhất thiết đòi hỏi phải có sự phân công và hợp tác giữa những
thành viên cùng làm việc với nhau. Chẳng hạn số người này đốt lửa, xẻ thịt và
nướng thịt còn số người khác thì săn bắt thú. Ngay trong quá trình săn bắt thú thì

30
một số người được làm việc này, số người khác được giao làm việc khác sao cho
có sự phối hợp những việc làm cụ thể của mọi người thì mới bắt được thú.
Điều khác biệt giữa con người với con vật (người kiến trúc sư với con ong,
người thợ dệt với con nhện) là trước khi lao động làm ra một sản phẩm nào đó
con người phải hình dung ra trước mô hình của cái cần làm ra và cách làm ra cái
đó, trên cơ sở huy động toàn bộ vốn hiểu biết, năng lực trí tuệ của mình vào đó.
Con người có ý thức về cái mình sẽ làm ra.
Trong lao động con người phải chế tạo và sử dụng các công cụ lao động,
tiến hành các thao tác và hành động lao động tác động vào đối tượng lao động
để làm ra sản phẩm. Ý thức của con người được hình thành và thể hiện trong quá
trình lao động.
Kết thúc quá trình lao động, con người có ý thức đối chiếu sản phẩm làm ra
với mô hình tâm lý của sản phẩm mà mình đã hình dung ra trước để hoàn thiện,
đánh giá sản phẩm đó. Như vậy có thể nói, ý thức được hình thành và biểu hiện
trong suốt quá trình lao động của con người, thống nhất với quá trình lao động
và sản phẩm lao động do mình làm ra.
+ Vai trò của ngôn ngữ và giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển của
ý thức.
Ngôn ngữ (tiếng nói và sau đó là chữ viết của một cộng đồng người) là
hình thức cụ thể của ý thức con người về thế giới khách quan. Ý thức không thể
tách rời khỏi ngôn ngữ, tồn tại bên ngoài ngôn ngữ. Cũng như ý thức, ngôn ngữ
được hình thành trong quá trình lao động và gắn bó với lao động.
Thoạt đầu, hoạt động lao động của người nguyên thủy có hai chức năng:
chức năng sản xuất và chức năng tác động đến người khác (chức năng giao lưu).
Về sau, hai chức năng này tách ra làm đôi. Lúc đầu giao lưu bằng cử chỉ, điệu
bộ, nét mặt… Về sau, nảy sinh thêm loại hình giao lưu bằng ngôn ngữ khi ngôn
ngữ bắt đầu hình thành. Đây là hình thức giao lưu cao nhất, bắt nguồn từ những
đòi hỏi ngày càng phức tạp của quá trình lao động (trao đổi sản phẩm, kinh
nghiệm, trao đổi tâm tư, tình cảm trong cuộc sống…)

31
Giờ đây, bất kỳ một sự vật và hiện tượng nào đã được nhận thức đều được
con người lưu lại bằng ngôn ngữ nhằm tích lũy tri thức cho bản thân và truyền
đạt tri thức ấy cho những người khác. Điều này lúc ban đầu diễn ra trong hoạt
động thực tiễn của con người trong sản xuất, con người chiếm lĩnh những đối
tượng trong thế giới xung quanh như là những phương tiện để thỏa mãn nhu cầu
của mình. Về sau, họ dùng từ ngữ để chỉ các đối tượng ấy như là chỉ các phương
tiện để thỏa mãn nhu cầu. Việc dùng từ ngữ để chỉ các đối tượng trong quá trình
lao động làm cho những đối tượng ấy mang tính khái quát đối với ý thức con
người tạo nên những khái niệm về các đối tượng có những thuộc tính giống
nhau. Con người nhờ đó dần dần nhận thức thế giới xung quanh một cách khái
quát (bằng những khái niệm ) chứ không phải nhận thức bằng từng sự vật và
hiện tượng đơn lẽ như trước.
Như vậy, ngôn ngữ không chỉ là phương tiện của giao lưu mà còn là
phương tiện, là hình thức của ý thức và tư duy của con người. Ngôn ngữ trở
thành hình thức chứa đựng nội dung khái quát của hiện thực đã được con người
nhận thức.
- Sự hình thành ý thức cá nhân.
+ Ý thức của cá nhân được hình thành trong hoạt động và thể hiện trong
sản phẩm hoạt động của cá nhân.
+ Ý thức cá nhân được hình thành trong mối quan hệ giao tiếp với người
khác, với xã hội.
+ Ý thức cá nhân được hình thành bằng con đường tiếp thu nền văn hóa xã
hội, ý thức xã hội.
+ Ý thức cá nhân còn được hình thành bằng con đường tự nhận thức, tự
đánh giá, tự phân tích hành vi của bản thân.

2. Nhân cách
Vấn đề nhân cách và sự hình thành nhân cách là vấn đề trung tâm của tâm
lý học và cũng là "mắt lưới" của cả hệ thống khoa học về con người, vừa có ý
nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Cùng với các khoa học khác, tâm lý
học đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề xung quanh nhân cách như vấn đề
32
bản chất tâm lý của nhân cách, cấu trúc của nhân cách, các con đường hình
thành nhân cách.
a. Một số quan niệm về nhân cách trong tâm lý học
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về nhân cách, nhưng có thể
khái quát lại trong một số quan điểm sau:
- Quan điểm sinh vật hóa nhân cách: cho nhân cách là thuộc tính sinh vật,
coi bản chất nhân cách nằm trong các đặc điểm hình thể, nhân cách được coi là
bản năng tình dục, bản năng vô thức của con người.
- Quan điểm xã hội hóa nhân cách: coi nhân cách là toàn bộ mối quan hệ xã
hội của cá nhân. Nghĩa là lấy các mối quan hệ của cá nhân với gia đình, làng
xóm, nhà trường, cơ quan, bạn bè …để thay thế một cách đơn giản máy móc các
thuộc tính tâm lý của cá nhân đó.
- Có những quan điểm chỉ chú ý đến cái chung, bỏ qua cái riêng, cái đơn
nhất của con người, đồng nhất nhân cách với con người đã cho rằng nhân cách
là con người có ý thức, ngôn ngữ, lao động … Ngược lại một số quan điểm khác
chú ý tính đơn nhất, có một không hai của nhân cách, cho rằng nhân cách là con
người với toàn bộ những đặc tính và quy luật cá nhân, là tổng số những đặc
điểm cá nhân mà không người nào có, là phương thức tồn tại của con người
trong xã hội, trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Những quan điểm trên cho chúng ta thấy rằng cho đến nay, vấn đề nhân
cách chưa được giải quyết thỏa đáng. Do đó cần thiết phải xây dựng khái niệm
nhân cách.
b. Định nghĩa nhân cách
Nhân cách hiện là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau:
triết học, xã hội học, đạo đức học, mỹ học, văn học, giáo dục học, tâm lý học …
Tùy thuộc góc cạnh nghiên cứu về nhân cách, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra
các định nghĩa khác nhau về nó.
Việc nghiên cứu về nhân cách cũng là một trong những vấn đề trung tâm
của tâm lý học. Tâm lý học có nhiệm vụ tìm hiểu những đặc điểm, bản chất của
nhân cách, nghiên cứu những quy luật hình thành và phát triển của nhân cách sự

33
hình thành và phát triển nhân cách ở các lứa tuổi khác nhau. Chính nhờ việc
nghiên cứu này, tâm lý học tìm ra được cơ sở khoa học cho việc giáo dục thế hệ
trẻ nói riêng, cho việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách cho con
người theo yêu cầu của thời đại, xã hội nói chung.
Từ những điều trình bày ở trên, chúng ta có thể định nghĩa nhân cách như
sau:
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá
nhân quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội của con người
Nói thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định có tính
chất quy luật chứ không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên.
Dùng chữ "tổ hợp" có nghĩa là những thuộc tính tâm lý hợp thành nhân
cách có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau, làm thành một hệ thống,
một cấu trúc nhất định.
Dùng chữ "giá trị xã hội" là muốn nói những thuộc tính tâm lý đó thể hiện
ra ở những việc làm, những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động phổ
biến của người ấy và được xã hội đánh giá là có giá trị hay không, tích cực hay
tiêu cực.
Như vậy nhân cách là sự tổng hòa không phải các đặc điểm cá thể của con
người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của
xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá
nhân. Những thuộc tính tâm lý tạo thành nhân cách phải biểu hiện ra trên ba cấp
độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ biểu hiện ra hoạt động và kết quả của nó và
cấp độ sự hình dung hoặc sự đánh giá của người khác về cá nhân đó. Trong tâm
lý học vẫn gọi cấp độ bên trong cá nhân và cấp độ biểu hiện ra hoạt động là bộ
mặt tâm lý của cá nhân.
c. Đặc điểm của nhân cách
- Tính thống nhất của nhân cách: nhân cách là một cấu trúc tâm lý, tức là
một chỉnh thể thống nhất các thuộc tính các thuộc tính, đặc điểm tâm lý, trong đó
mỗi thuộc tính, đặc điểm đều có liên quan không thể tách rời với những thuộc
tính, đặc điểm khác làm cho nhân cách mang tính trọn vẹn. Vì vậy, khi nói về một

34
phẩm chất, một đặc điểm nào đó của nhân cách là phải đặt trong mối quan hệ,
trong sự kết hợp với những thuộc tính, phẩm chất tâm lý khác ở con người đó.
Nhân cách luôn được hình thành như một thể thống nhất, vì vậy giáo dục
nhân cách cũng phải được tiến hành đồng bộ, vừa rèn luyện đạo đức, vừa bồi
dưỡng năng lực, phải giáo dục con người như một nhân cách hoàn chỉnh.
- Tính ổn định của nhân cách: nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý
của con người. Vì thế khó hình thành và cũng khó mất đi. Trong quá trình sống
và hoạt động, mỗi thuộc tính tâm lý của cá nhân có thể được biến đổi, được
chuyển hóa, nhưng trong tổng thể thì chúng vẫn tạo thành một cấu trúc trọn vẹn
của nhân cách. Cấu trúc này tương đối ổn định, nhớ có tính ổn định này chúng ta
mới có thể dự kiến trước được hành vi của một nhân cách nào đó trong các tình
huống, hoàn cảnh nhất định.
- Tính tích cực của nhân cách: nhân cách là chủ thể của hoạt động và giao
tiếp, là sản phẩm của xã hội, vì thế nhân cách có tính tích cực. Tính tích cực của
nhân cách được thể hiện ở những hoạt động muôn màu, muôn vẽ và đa dạng của
cá nhân nhằm biến đổi và cải tạo thế giới xung quanh, biến đổi chính bản thân
mình. Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội vá cốt cách làm người
của cá nhân thể hiện rõ nét tính tích cực của nhân cách.
Tính tích cực của nhân cách cũng biểu hiện rõ trong quá trình thỏa mãn các
nhu cầu ngày càng cao của con người. Đó luôn là quá trình hoạt động có mục
đích tự giác, trong đó con người làm chủ các hình thức hoạt động của mình.
- Tính giao tiếp của nhân cách: nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển và
tồn tại trong hoạt động và trong mối quan hệ giao lưu với các nhân cách khác.
Thông qua quan hệ tiếp xúc, giao lưu với người khác, con người gia nhập các quan
hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội, đồng thời
được đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Cũng trong quá trình ấy, con
người còn đóng góp các giá trị nhân cách của mình cho người khác, cho xã hội.
d. Cấu trúc nhân cách
Bàn đến cấu trúc của nhân cách có nghĩa là xem xét nhân cách gồm có các
thành phần nào? Các thành phần đó được sắp xếp ra sao và giữa chúng có liên

35
quan với nhau như thế nào? v.v… Về vấn đề này có nhiều quan niệm khác nhau,
một khi dựa trên các phương tiện và các tiêu chuẩn khác nhau.
Phổ biến nhất, khi căn cứ vào các đặc điểm biểu hiện và vai trò của chúng
trong đời sống tâm lý của con người, cấu trúc của nhân cách gồm 4 thuộc tính
tâm lý phức hợp, điển hình của cá nhân: xu hướng, năng lực, tính cách và khí
chất.

3. Hoạt động
a. Định nghĩa
Muốn cho cuộc sống của con người tồn tại và phát triển thì những nhu cầu
(vật chất và văn hóa) của con người phải được thỏa mãn bằng những hoạt động
thích hợp của chính bản thân họ. Như vậy hoạt động là gì?
Thông thường người ta coi hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh
và cơ bắp của con người tác động vào hiện thực khách quan, nhằm thỏa mãn
những nhu cầu của mình.
Về phương diện triết học, tâm lý học người ta quan niệm hoạt động là
phương thức tồn tại của con người trong thế giới.
Hoạt động là quá trình thiết lập và thực hiện mối quan hệ tác động qua lại
giữa con người (chủ thể) và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cho cả về
phía thế giới, cả về phía con người.
Trong mối quan hệ đó có hai quá trình diễn ra đồng thời và bổ sung cho
nhau, thống nhất với nhau:
+ Quá trình thứ nhất là quá trình đối tượng hóa chủ thể, trong đó chủ thể
chuyển năng lực của mình thành sản phẩm của hoạt động. Hay nói khác đi, tâm lý
của con người (của chủ thể) được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm.
Quá trình đối tượng hóa (khách thể hóa) chủ thể còn gọi là quá trình xuất tâm.
+ Quá trình thứ hai là quá trình chủ thể hóa đối tượng, có nghĩa là khi hoạt
động con người chuyển từ phía khách thể vào bản thân mình những quy luật,
bản chất của thế giới để tạo nên tâm lý, ý thức, nhân cách của bản thân, bằng
cách chiếm lĩnh (lĩnh hội) thế giới. Quá trình chủ thể hóa đối tượng còn gọi là
quá trình nhập tâm.
36
Cuộc sống con người là một dòng hoạt động, con người là chủ thể của các
hoạt động thay thế nhau. Hoạt động con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế
giới, vừa tạo ra tâm lý của mình, hay nói khác đi, tâm lý, ý thức, nhân cách được
bộc lộ và hình thành trong hoạt động.
b. Những đặc điểm của hoạt động
- Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng: Đối tượng của hoạt
động là cái mà con người cần tác động vào nhằm làm thay đổi hay chiếm lĩnh.
Đó là động cơ, động cơ luôn thúc đẩy con người hoạt động nhằm tác động vào
khách thể để thay đổi nó, biến nó thành sản phẩm, hoặc tiếp nhận nó chuyển vào
đầu óc mình, tạo nên một cấu tạo tâm lý mới, một năng lực mới.
- Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể: Hoạt động do chủ thể thực hiện, chủ
thể hoạt động là con người có ý thức, có thể là một hoặc nhiều người.
Tính chủ thể trước hết bao hàm tính tự giác và tích cực, ở con người tính
tích cực phát triển tới đỉnh cao thành tính chủ động say sưa. Ở trình độ này con
người bắt đầu thực sự làm chủ bản thân. Đương nhiên muốn cho hoạt động có
thể triển khai được cần có những điều kiện khách quan tương ứng, những điều
kiện xã hội và những công cụ thích hợp.
- Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích: Mục đích của hoạt động là làm
biến đổi thế giới khách quan và biến đổi bản thân chủ thể để thỏa mãn nhu cầu
của con người và xã hội. Tính mục đích (nói cách khác là tính lợi ích) là quy luật
điều khiển của mọi hoạt động.
Tính mục đích gắn liền với tính đối tượng, không nên hiểu mục đích một
cách thuần túy chủ quan như là ý thích riêng, mong muốn, ý định chủ quan …
Tính mục đích bị chế ước bởi nội dung xã hội .
- Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: Trong hoạt động con
người gián tiếp tác động đến khách thể qua hình ảnh tâm lý, qua việc sử dụng
công cụ lao động và sử dụng phương tiện ngôn ngữ. Trong hoạt động lao động,
người ta dùng công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động, công cụ lao
động giữ vai trò trung gian giữa chủ thể lao động và đối tượng lao động tạo ra
tính chất gián tiếp trong hoạt động lao động. Ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết, con

37
số) và các hình ảnh tâm lý khác là các công cụ tâm lý được sử dụng để tổ chức,
điều khiển thế giới tinh thần ở mỗi người. Như vậy công cụ tâm lý, ngôn ngữ và
công cụ lao động giữ chức năng trung gian giữa chủ thể và khách thể, tạo ra tính
gián tiếp của hoạt động.
c. Cấu trúc của hoạt động
Muốn vận dụng hoạt động vào thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo con người, tất yếu phải phát hiện ra cấu trúc của hoạt động và
điều quan trọng hơn, là phải hiểu sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các thành tố trong cấu trúc ấy.
Bất kỳ loại hình hoạt động nào cũng có cấu trúc theo sơ đồ sau đây:
Dòng các hoạt động
Chủ thể Khách thể

Hoạt động cụ thể Động cơ

Hành động mục đích

Thao tác phương tiện

Sản phẩm

Giải thích sơ đồ cấu trúc của hoạt động


Khi tiến hành hoạt động: về phía chủ thể bao gồm ba thành tố và mối quan
hệ giữa ba thành tố này, đó là: hoạt động - hành động - thao tác. Ba thành tố này
thuộc vào các đơn vị thao tác (mặt kỹ thuật) của hoạt động .
Còn về phía khách thể (về phía đối tượng hoạt động) bao gồm ba thành tố và
mối quan hệ giữa chúng với nhau, đó là: động cơ - mục đích - phương tiện. Ba
thành tố này tạo nên "nội dung đối tượng" của hoạt động (mặt tâm lý), cụ thể là:
Hoạt động hợp bởi các hành động. Các hành động diễn ra bằng các thao
tác. Hoạt động luôn luôn hướng vào động cơ (nằm trong đối tượng) đó là mục
đích chung, mục đích cuối cùng của hoạt động. Mục đích chung này (động cơ)

38
được cụ thể hóa bằng những mục đích cụ thể, mục đích bộ phận mà từng hành
động hướng vào. Để đạt mục đích, con người phải sử dụng các phương tiện. Tùy
theo các điều kiện, phương tiện mà con người thực hiện các thao tác để tiến
hành hành động đạt mục đích, hay nói cách khác hành động thực hiện nhờ các
thao tác. Sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, giữa đơn vị thao tác và
nội dung đối tượng của hoạt động tạo ra sản phẩm của hoạt động (cả về phía
khách thể, cả về phía chủ thể "sản phẩm kép").
Ví dụ: Khi một vụ án mạng xảy ra thường các cấp công an cơ sở thành lập
ban chuyên án. Hoạt động của ban chuyên án được thúc đẩy bởi nhu cầu khám
phá án phục vụ cho việc đấu tranh chống tội phạm, đó là động cơ của hoạt động.
ban chuyên án có những nhận định dưới những giả định ban đầu và dựa vào
những giả định mà phân ra các hướng điều tra: khám nghiệm hiện trường, điều
tra trinh sát, lấy lời khai của người làm chứng… Đó là các hành động cụ thể. Để
hoàn thành từng hành động nói trên thì các mục đích hành động và phương pháp
thực hiện chúng phải xuất phát từ động cơ của hoạt động, nghĩa là phải khách
quan toàn diện để không làm oan người ngay và không để lọt kẻ phạm tội.
Mỗi hành động được cấu thành từ tổng hợp những thao tác nhất định,
chẳng hạn khám nghiệm hiện trường phải quan sát bằng mắt, phải chụp ảnh, ghi
chép lấy dấu vết bằng các phương pháp và dùng các phương tiện khác nhau.
d. Ý nghĩa
Không phải mọi vấn đề về tâm lý người đều đã được giải đáp dưới ánh
sáng của thuyết hoạt động và sơ đồ cấu trúc của hoạt động. Hiện nay các nhà
tâm lý học vẫn đang tiếp tục phát triển thuyết này. Tuy nhiên, đã có thể khẳng
định ý nghĩa to lớn của nó về mặt lí luận cũng như về mặt thực tiễn. Do tính
khoa học nghiêm túc của nó, thuyết hoạt động khắc phục được các thuyết sai
lầm về tâm lý, ý thức và nhân cách con người vốn lưu hành lâu trong các trào
lưu của tâm lý học phi mác xít. Thuyết hoạt động trong tâm lý học mác xít làm
sáng tỏ bản chất xã hội – lịch sử của tâm lý người, và là cơ sở khoa học đáng tin
cậy cho các lý thuyết dạy học và giáo dục con người.
Ghi chú:

39
- Thao tác là phương thức thực hiện hành động. Thực hiện một hành động
có nghĩa là thực hiện trình tự những thao tác thích hợp. Ví dụ: hành động viết
gồm các thao tác như cầm bút, tì ngòi bút lên mặt giấy, vận động ngòi bút theo
các nét chữ…
- Trong cuộc sống hàng ngày có thể có sự chuyển hóa giữa hành động và
hoạt động, có thể lúc này nó là hoạt động, nhưng lúc khác trong trường hợp
khác, trong mối quan hệ khác, hoạt động đó lại chỉ là hành động của một hoạt
động khác. Ví dụ: đọc sách vì động cơ thúc đẩy là để lĩnh hội tri thức, đó gọi là
hoạt động đọc sách. Nhưng đọc sách vì động cơ là để đối phó với thi cử thì đó là
hành động đọc sách bởi vì lĩnh hội tri thức là mục đích của hành động đó.

4. Giao tiếp
a. Định nghĩa giao tiếp
Giao tiếp là quá trình xác lập và vận hành mối quan hệ người – người, hiện
thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác.
Giao tiếp vừa mang tính chất xã hội vừa mang tính chất cá nhân:
- Tính chất xã hội của giao tiếp thể hiện ở chổ nó nảy sinh, hình thành
trong xã hội và sử dụng các phương tiện do con người làm ra, được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
- Tính chất cá nhân thể hiện ở nội dung, phạm vi, nhu cầu, phong cách,
kỹ năng… giao tiếp của mỗi người.
Trong cuộc sống, giao tiếp là một trong những nhu cầu quan trọng, một
điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của con người. Nhu cầu
giao tiếp không chỉ thể hiện trong sinh hoạt hàng ngày mà còn có trong tất cả
các lĩnh vực hoạt động của con người. Ở đâu có con người thì ở đó có giao tiếp,
nếu không có giao tiếp với người khác thì sẽ không có tâm lý người.
Mối quan hệ giao tiếp giữa con người với con người có thể được thực hiện
với các hình thức: giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với nhóm, giữa nhóm
với nhóm, giữa nhóm với cộng đồng.
b. Chức năng của giao tiếp

40
- Chức năng thông tin: mỗi cá nhân không thể tồn tại biệt lập với cá nhân
khác, với xã hội. Qua giao tiếp, con người trao đổi, truyền đạt tri thức, kinh
nghiệm với nhau, chia sẽ tình cảm, hỗ trợ nhau về ý chí, trí tuệ. Trong hoạt
động, con người cũng cần có sự trao đổi, phối hợp thống nhất nhịp nhàng với
nhau… những điều đó được thực hiện nhờ giao tiếp. Mỗi cá nhân vừa là nguồn
phát thông tin vừa là nơi tiếp nhận thông tin. Thu nhận và xử lý thông tin là một
con đường quan trọng để phát triển nhân cách.
Chức năng trao đổi thông tin của giao tiếp chính là điều kiện để tạo ra sự
gắn kết các cá nhân trong xã hội.
- Chức năng nhận thức: nhờ giao tiếp mà mỗi cá nhân, nhất là trẻ em mới
lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội – lịch sử một cách đúng đắn để phát triển tâm lý
của mình phù hợp với yêu cầu xã hội. Không có giao tiếp với người khác, với xã
hội, cá nhân không thể nhận thức và không thể hình thành phát triển tâm lý người.
- Chức năng đánh giá và điều chỉnh: Thông qua giao tiếp con người đánh
giá về mình và yêu cầu của xã hội đối với mình, đồng thời qua giao tiếp cá nhân
cũng chủ động trao đổi, truyền cho người khác những yêu cầu của xã hội để họ
có căn cứ điều chỉnh bản thân. Giao tiếp còn tạo ra yếu tố kích thích, thúc đẩy
nhu cầu tự hoàn thiện của cá nhân, thúc đẩy hoạt động tự tu dưỡng. Chỉ có thông
qua giao tiếp, cá nhân mới được đánh giá và tự đánh giá để điều chỉnh theo yêu
cầu của xã hội.
c. Phân loại giao tiếp
Có nhiều cách phân loại giao tiếp tùy theo căn cứ phân chia.
- Căn cứ vào các phương tiện được sử dụng, giao tiếp được chia thành:
+ Giao tiếp vật chất: là loại giao tiếp thông qua hành động với vật thể.
+ Giao tiếp bằng tín hiệu phi ngôn ngữ: thông qua nét mặt, cử chỉ, điệu
bộ… cá nhân biểu lộ thái độ, tình cảm của mình với người khác.
+ Giao tiếp bằng ngôn ngư: là hình thức giao tiếp đặc trưng của con
người bằng cách sử dụng tiếng nói, chữ viết. Thông qua ngôn ngữ, con người
hiểu biết, trao đổi thông tin và tác động ảnh hưởng lẫn nhau.
- Căn cứ vào hình thức thể hiện, giao tiếp được chia thành:

41
+ Giao tiếp trực tiếp: là hình thức giao tiếp được tiến hành trong một thời
điểm có mặt hai hay nhiều người, ngoài việc sử dụng ngôn ngữ có thể sử dụng
ánh mắt, nụ cười, dáng điệu, cử chỉ… để nhấn mạnh hoặc thể hiện thái độ của các
chủ thể giao tiếp. Sự kết hợp ấy làm cho nội dung và những ý muốn của các bên
giao tiếp được cảm thụ, nhận biết và tác động ảnh hưởng lẫn nhau sâu sắc hơn.
+ Giao tiếp gián tiếp: là hình thức giao tiếp mà các bên giao tiếp không
cùng có mặt tại một thời điểm, với phương tiện chủ yếu là chữ viết. Thông qua
chữ viết, phương tiện kỹ thuật… tư tưởng, tình cảm, ý muốn của các bên được
thể hiện ra. Do không có sự hổ trợ của nét mặt, cử chỉ… nên có thể có những
hạn chế trong việc truyền đạt, tiếp thu tư tưởng, tình cảm của người giao tiếp.
- Căn cứ vào quy cách của giao tiếp, giao tiếp được chia thành:
+ Giao tiếp chính thức: là giao tiếp được quy định bởi yếu tố công việc,
diễn ra theo quy định, chức trách… các chủ thể giao tiếp phải tuân thủ một số
yêu cầu mang tính cưỡng bức, bị khống chế cả về nội dung, quy trình, hình thức
và những điều kiện khác.
+ Giao tiếp không chính thức: là giao tiếp không bị ràng buộc bởi các
nghi thức mà dựa vào tính tự nguyện, tự giác, phụ thuộc vào nhu cầu, hứng thú,
cảm xúc… của các chủ thể.

VI. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT


TRIỂN TÂM LÝ CÁ NHÂN

1. Yếu tố thể chất


a. Thể chất là gì?
Thể chất là toàn bộ những đặc điểm sinh lý giải phẩu và hoạt động của cơ
thể, đặc biệt trong đó là não bộ và các giác quan của cá nhân.
Yếu tố thể chất là thuộc tính tự nhiên của cá nhân, một mặt kế thừa của thế
hệ trước bằng con đường di truyền, bẩm sinh. Mặt khác, do cá nhân tự tạo trong
quá trình sống hoạt động.
Mỗi cá nhân đều được di truyền những dấu hiệu cơ bản, đặc trưng của cơ
thể con người: có khả năng đứng thẳng, có các giác quan thuận tiện cho nhận
thức và lao động, đặc biệt là bộ não phát triển cao trong điều kiện sống xã hội có

42
khả năng phản ánh và cải tạo thế giới cho phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng
của con người .
Phải nhờ có sinh lý, thể chất người đó thì khi sống, hoạt động trong môi
trường xã hội, cá nhân mới có thể phát triển thành một nhân cách được. Nếu
thiếu cơ sở vật chất đó của con người thì không thể có tâm lý người được.
b. Vai trò của yếu tố thể chất
Khi xem xét về vai trò của yếu tố thể chất đối với sự hình thành và phát
triển tâm lý cá nhân, cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
- Những thuyết tuyệt đối hóa vai trò của thể chất như: thuyết "di truyền
quyết định", thuyết sinh vật hóa, quan niệm siêu hình về bản chất của năng
lực…
+ Thuyết di truyền quyết định cho rằng: Tâm lý cá nhân chẳng qua chỉ là sự
nhớ lại những cái mà cha mẹ trước đây đã có, truyền lại cho cá nhân theo gien.
Chương trình tâm lý của con người đã được ghi lại trong gien .
Theo họ, tâm lý của một cá nhân đã được ghi sẵn trong các gien di truyền
của tổ chức cơ thể. Sự phát triển tâm lý cá nhân chỉ là sự triển khai những thuộc
tính vốn có, là “thời sự hóa” những cơ cấu bẩm sinh di truyền. Họ cho rằng:
người ta thông minh hay dốt nát, xấu hay tốt, thiện hay ác… đều đã được ghi sẵn
trong mã di truyền, chẳng hạn một người trở thành lưu manh, côn đồ, phạm
tội… là do tổ chức cơ thể đã quy định sẵn như vậy.
Quan điểm này hết sức sai lầm. Nó quy tất cả sự phát triển tâm lý cá nhân
vào nguyên nhân di truyền. Nhưng thực ra những quy luật di truyền chỉ tác động
trong phạm vi phát triển của vật chất sống chứ không ảnh hưởng trực tiếp đến
phạm vi đời sống đạo đức, tinh thần. Họ không thấy được bản chất tâm lý là
phản ánh hiện thực khách quan, họ phủ nhận tác động của hoàn cảnh sống, giáo
dục và tính chủ động, tích cực của cá nhân trong sự hình thành phát triển tâm lý
của họ.
Thuyết “di truyền quyết định” là một trong những cơ sở lí luận của chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc, nhằm bào chữa cho chính sách bóc lột, thống trị, xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc.

43
+ Thuyết sinh vật hóa quan niệm: cơ thể con người cứ tăng dần, tâm lý
cũng tăng theo, tất cả đều vốn có cứ mọc dần ra để chịu sự tác động của mọi
hoàn cảnh như cây cối trước nắng mưa, gió bão, hay cá dưới biển sâu, thú trong
rừng rậm.
Con người có được giáo dục đi chăng nữa, thì giỏi lắm cũng chỉ có thể làm
cho cái tự nhiên" trong con người mọc sớm lên một tý, mạnh thêm một tý.
Thuyết này coi con người như con vật, tâm lý người như tâm lý động vật
+ Quan niệm siêu hình về bản chất của năng lực cho rằng: Năng lực không
thay đổi về chất, trong quá trình phát triển chỉ thay đổi về lượng, theo hướng
nhất định, tương ứng với chất của gien bẩm sinh. Như vậy, quan niệm trên đã
quy tất cả sự phát triển tâm lý người như tâm lý con vật, phủ nhận sự tác động
của hoàn cảnh sống và hoạt động của cá nhân, phủ nhận tính năng động, tích cực
của con người đối với quá trình phát triển xã hội. Thuyết đó là cơ sở lý luận cho
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, phục vụ và bào chữa cho chính sách bóc lột,
thống trị xâm lược dưới mọi màu sắc.
- Tâm lý học mácxít bác bỏ những quan điểm sai lầm của những thuyết trên
đối với sự hình thành và phát triển tâm lý con người. Tâm lý học mácxít thừa
nhận có sự di truyền về mặt sinh học - ảnh hưởng gián tiếp đối với hoạt động
tâm lý cá nhân, nhưng không di truyền bất cứ một hiện tượng tâm lý nào.
Yếu tố thể chất là cơ sở vật chất, là tiền đề và tạo điều kiện thuận lợi hay
khó khăn cho sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân.
+ Yếu tố thể chất là cơ sở vật chất của sự hình thành và phát triển tâm lý
cá nhân, có nghĩa là: Trong quá trình tác động qua lại giữa cá nhân với môi
trường thì bộ óc người, giác quan người … là các cơ quan phản ánh các hiện
thực bên ngoài. Những bộ não kém phát triển hoặc phát triển không bình thường
đều ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý cá nhân. Ngay ở những bộ não bình
thường mà có những đặc điểm sinh lý khác nhau như: tính mẫn cảm, tính linh
hoạt, tính cân bằng… thì biểu hiện tâm lý cũng khác nhau. Không có não người
thì không có tâm lý người.

44
+ Yếu tố thể chất là tiền đề cho sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân,
có nghĩa là: yếu tố thể chất không trực tiếp quyết định đặc điểm tâm lý cá nhân
mà chỉ đặc ra trước cá nhân các khả năng khác nhau. Còn tâm lý của cá nhân
phát triển như thế nào tùy thuộc vào chủ thể và hoạt động của chủ thể đó.
Yếu tố thể chất không định trước một đặc điểm tâm lý cá nhân nào. Bất cứ
một chức năng tâm lý nào có tính chất con người chỉ được phát triển trong quá
trình hoạt động của bản thân cá nhân đó trong điều kiện xã hội loài người. Nếu
được sống và giáo dục trong những điều kiện thuận lợi thì bất kỳ một trẻ em
bình thường nào về mặt sinh học cũng đều có thể đạt được mức độ phát triển
chung của con người xã hội.
+ Yếu tố thể chất của cá nhân được tạo ra do bẩm sinh, di truyền nhưng
không phải là cái bất biến cố định. Quá trình sống, hoạt động của cá nhân làm
chúng có thể thay đổi. Tuy nhiên sự biến đổi đó phụ thuộc vào điều kiện sống
của cá nhân.
Công tác công an đều liên quan đến con người nói chung, cá nhân nói
riêng. Khi nghiên cứu đối tượng của công tác công an cần thiết phải nghiên cứu
đặc điểm về sinh lý – thể chất của họ. Trong cuộc sống, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần
chú ý rèn luyện, bảo vệ não và các giác quan của mình.

2. Môi trường sống


a. Môi trường sống là gì?
Môi trường sống (hay hoàn cảnh sống) của cá nhân là toàn bộ những điều
kiện bên ngoài của con người có quan hệ đến sự sống và hoạt động của cá nhân,
phát sinh và phát triển tuân theo quy luật riêng, không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của cá nhân.
Cá nhân và môi trường có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Cá nhân chỉ
tồn tại khi cá nhân có quan hệ tác động qua lại với môi trường. Tất cả điều kiện
bên ngoài đó đều có ảnh hưởng đến đời sống tâm lý cá nhân. Môi trường là
nguồn gốc của tâm lý người: Cái gì cần phải xuất hiện trong bước đường phát
triển của cá nhân và sự phát triển phải đạt bằng được thì ngay từ đầu đã có sẵn

45
trong môi trường. Môi trường sống quy định nội dung đặc điểm tâm lý cá
nhân.
Môi trường sống bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
b. Vai trò của môi trường sống
* Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên không chỉ quan hệ gắn bó với mặt sinh học của cá
nhân mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của cá nhân, đặc biệt là những nét biểu hiện
của đời sống tâm lý cá nhân.
Tự nhiên ảnh hưởng đến con người, để lại dấu ấn trong đời sống tâm lý cá
nhân không phải trực tiếp mà phải thông qua môi trường xã hội. Môi trường xã
hội đã làm thay đổi cả tính chất “nguyên sinh” của tự nhiên, đưa vào tự nhiên
những yếu tố “người hóa”.
* Môi trường xã hội
Môi trường xã hội có ý nghĩa chủ yếu đối với sự hình thành, phát triển tâm
lý cá nhân. Nó quy định bản chất, nội dung của tâm lý cá nhân.
Không có môi trường xã hội, thì tư chất loài người của cá nhân không phát
triển được, không thể có tâm lý người. Cá nhân sống trong xã hội, có rất nhiều
mối quan hệ xã hội như: quan hệ sản xuất, quan hệ chính trị, pháp luật, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, lịch sử, gia đình, nhà trường, văn hóa… trong những
mối quan hệ đó thì quan hệ sản xuất là nguồn gốc sâu xa quyết định tâm lý cá
nhân.
- Quan hệ sản xuất là nguồn gốc sâu xa quyết định đời sống tâm lý cá nhân.
Tùy theo cá nhân có vai trò, địa vị như thế nào trong một quan hệ sản xuất nhất
định mà ở cá nhân đó hình thành những nét tâm lý cơ bản tương ứng khác nhau.
Những cá nhân thuộc giai cấp bóc lột hình thành những nét tâm lý ích kỷ, sa
đọa, hưởng lạc. Ngược lại dưới chế độ XHCN thì cá nhân sẽ hình thành, phát
triển những nét tâm lý như tinh thần làm chủ, tinh thần tập thể, đoàn kết tương
trợ “mỗi người vì mọi người và mọi người vì mỗi người”.

46
Trong xã hội, những người có địa vị giống nhau trong quan hệ sản xuất
thường có những nét tâm lý giống nhau. Chính vì vậy, trong công tác cần phải
chú ý tâm lý giai cấp, tâm lý nghề nghiệp của cá nhân.
- Các quan hệ tinh thần như: chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, văn hóa
nghệ thuật, hệ tư tưởng và tâm lý xã hội… tất cả những cái đó đều để lại dấu ấn
trong tâm lý cá nhân. Trong các yếu tố tinh thần thì hệ tư tưởng chính trị giữ vai
trò chủ yếu, chi phối sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân. Hệ tư tưởng
chính trị quyết định chiều hướng của các yếu tố khác, quyết định xu hướng nội
dung chủ yếu của đời sống tâm lý cá nhân. Vì thế, khi xem xét một cá nhân trước
hết cũng phải xem cá nhân đó chịa ảnh hưởng của hệ tư rưởng giai cấp nào.
- Tất cả các điều kiện về kinh tế, chính trị tư tưởng, văn hóa… của xã hội
tác động đến cá nhân đều thông qua hoạt động giao tiếp của cá nhân trong các
nhóm xã hội. Vì mỗi cá nhân sinh ra, lớn lên và phát triển đều thuộc một dân
tộc, giai cấp, địa phương, gia đình và học tập, lao động, công tác vui chơi trong
một tập thể, một nhóm nhất định. Tâm lý cá nhân được hình thành do ảnh hưởng
tác động của các nhóm đó.
Cá nhân không chỉ chịu tác động của nhóm với tư cách là khách thể mà còn
với tư cách là chủ thể tích cực tham gia vào các quan hệ của nhóm. Do đó, cá
nhân nhất thiết phải phản ánh và thích ứng với các nhóm đó. Tâm lý cá nhân
mang theo những đặc điểm tâm lý của nhóm.
- Về cơ bản tâm lý cá nhân là biểu hiện cụ thể của tâm lý xã hội, tâm lý giai
cấp. Nhưng nói như vậy không có nghĩa tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội là một,
không phải những người cùng một giai cấp, một tập đoàn xã hội lại không có
những nét riêng biệt về tâm lý.
Tâm lý cá nhân ngoài những nét chung còn có những nét riêng do sống
trong các quốc gia, dân tộc, nhóm nhỏ khác nhau; do những điều kiện sống và
hoạt động giao tiếp cụ thể (quan hệ gia đình, xã hội, giáo dục, chính trị, tư
tưởng, văn hóa…) của từng cá nhân khác nhau. Điều đó đã tạo ra tính muôn
màu, muôn vẽ của tâm lý cá nhân.

47
Trong việc xem xét tâm lý cá nhân,nếu quá nhấn mạnh hoàn cảnh sống riêng
biệt, thổi phồng những nét độc đáo của cá nhân thì không hiểu được bản chất đời
sống tâm lý của cá nhân. Ngược lại, chỉ chú ý đến những nét chung mà coi
thường những nét riêng biệt trong đời sống cá nhân thì sẽ dễ dẫn đến chủ quan,
đơn giản hóa trong việc xem xét tâm lý cá nhân. Từ đó sẽ không giải thích được
tình hình thực tế. Tuy hai người cùng giai cấp nhưng lại có những đặc điểm khác
nhau về lối sống, cách suy nghĩ và hành động, thậm chí anh em sinh đôi trong
cùng một gia đình cũng có những tâm tư, tình cảm, phong cách khác nhau.
Trong công tác giáo dục, nếu không phân tích tình hình cụ thể, không
nghiên cứu tâm lý của từng con người cụ thể thì dễ máy móc, rập khuôn, không
sát đối tượng, không phát huy được đầy đủ mặt tích cực trong từng con người cụ
thể, và do đó hiệu quả của giáo dục sẽ bị hạn chế.
Như vậy, chính các quan hệ xã hội quy định bản chất, nội dung tâm lý của cá
nhân. Tâm lý cá nhân phản ánh hoàn cảnh sống của cá nhân đó, phản ánh tính chất
các quan hệ về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa… của cá nhân trong xã hội.
Nguyên lý trên yêu cầu chúng ta khi tìm hiểu tâm lý của một người nào đó,
cần phải tìm hiểu kỹ hoàn cảnh sống, các mối quan hệ và vị trí của họ trong các
quan hệ đó. Muốn cải tạo những nét tâm lý tiêu cực, xây dựng tâm lý tích cực
cho cá nhân nào đó, phải chú ý tách họ khỏi môi trường cũ, khỏi các mối quan
hệ tiêu cực, đưa họ vào hoàn cảnh mới, xây dựng mối quan hệ tích cực giữa họ
với điều kiện mới, sao cho môi trường mới có ảnh hưởng tác động tốt nhất đến
cá nhân đó. Môi trường mới, điều kiện mới đó không phải là sự cách ly, tách
biệt hoàn toàn mà phải phù hợp, hài hòa theo hướng mở với xung quanh.
* Môi trường sống tác động đến cá nhân có thể diễn ra một cách tự
phát hoặc tự giác.
Tác động tự phát của môi trường sống đến tâm lý cá nhân là do cá nhân sống,
hoạt động trong môi trường chịu sự tác động ngẫu nhiên của môi trường đó.
Sự tác động tự giác của môi trường xã hội đến cá nhân có nghĩa là môi
trường đó thông qua ý thức tự giác của người khác mà tác động đến cá nhân
nhằm hình thành ở cá nhân những nét tâm lý nhất định.

48
Giáo dục là một hình thức tác động tự giác của môi trường xã hội đến cá
nhân.
Giáo dục là sự tác động tự giác của môi trường sống đến cá nhân theo mục
đích, kế hoạch, biện pháp định trước nhằm hình thành ở cá nhân những đặc
điểm tâm lý nhất định.
+ Khi bàn đến vai trò của giáo dục đối với sự hình thành, phát triển tâm lý
cá nhân cũng có nhiều quan điểm khác nhau:
Có người cho rằng: giáo dục có thể làm được tất cả, giáo dục là vạn năng.
Con người phát triển như thế nào, tốt hay xấu hoàn toàn do giáo dục, bất kể môi
trường hoàn cảnh, "giồng giống" như thế nào.
Một số người khác lại cho rằng: vai trò của giáo dục rất hạn chế, không một
thay đổi nào của điều kiện giáo dục và dạy học lại có thể làm biến đổi được quá
trình phát triển tự nhiên của con người.
Đó là những quan điểm tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục hoặc phủ nhận
vai trò của giáo dục, đi đến phủ nhận vai trò của hoàn cảnh cũng như vai trò tích
cực chủ động của cá nhân đối với sự hình thành, phát triển tâm lý cá nhân.
+ Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin các nhà tâm lý học
mácxít đã đánh giá đúng vai trò của giáo dục: trong sự hình thành và phát triển
tâm lý cá nhân, giáo dục bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo. Vì:
. Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành, phát triển tâm lý cá
nhân và dẫn dắt sự hình thành, phát triển tâm lý cá nhân theo chiều hướng đó.
Bởi vì giáo dục là sự tác động tự giác, là sự tác động có mục đích xác định, có
chương trình, kế hoạch, biện pháp, phương tiện định trước nhằm hình thành một
mẫu người cụ thể cho xã hội, đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống.
. Thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau lĩnh hội, tiếp
thu nền văn hóa xã hội – lịch sử để tạo nên đời sống tâm lý riêng của mình.
Người giáo dục chọn trong kho tàng văn hóa xã hội những cái cần thiết để biến
nó thành vốn kinh nghiệm riêng của từng người được giáo dục.
. Giáo dục đưa con người, thế hệ trẻ vào “vùng phát triển gần”, vươn tới
những cái mà thế hệ trẻ sẽ có, tạo cho thế hệ trẻ một sự phát triển nhanh, mạnh

49
và hướng về tương lai. Như vậy, giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác
động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó mà
thôi.
. Giáo dục kết hợp với hoàn cảnh sống và hoạt động của cá nhân có thể
thay đổi những mối quan hệ cũ, thiết lập mối quan hệ mới lành mạnh, tiến bộ
cho người được giáo dục, trên cơ sở đó có thể cải tạo những nét tâm lý cũ, xây
dựng nét tâm lý mới theo yêu cầu của xã hội. Tức là, trong những điều kiện nhất
định, giáo dục có thể đào tạo được cá nhân theo “mẫu người” mà xã hội đòi hỏi.
. Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do yếu tố thể chất đem lại cho cá
nhân. Nghĩa là giáo dục có khả năng giúp cho cá nhân phục hồi, khắc phục một
số thiếu hụt so với thể chất bình thường.
. Giáo dục có thể uốn nắn những lệch lạc về mặt nào đó so với các chuẩn
mực do tác động tự phát của môi trường sống gây nên và làm cho nó phát triển
theo hướng mong muốn của xã hội (ví dụ: công tác giáo dục lại).
Giáo dục chỉ phát huy vai trò chủ đạo khi giáo dục gắn chặt với đặc điểm
của môi trường nhất là đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa của môi trường; phù
hợp với quy luật khách quan. Nếu giáo dục tách rời hoàn cảnh thì nhất định sẽ
thất bại, rơi vào sự giáo dục không tưởng.
Mặt khác, giáo dục muốn phát huy vai trò chủ đạo thì tác động của nó phải
phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của đối tượng. Muốn xây dựng ở cá nhân một
nét tâm lý nào đó, thì nội dung và phương pháp giáo dục phải thích hợp với khả
năng của cá nhân. Giáo dục cũng chỉ thực sự phát huy được tác dụng khi cá
nhân có những hoạt động tương ứng để lĩnh hội sự giáo dục đó.
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát triển tâm lý cá
nhân. Bác Hồ đã viết:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn.
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Song không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục vì giáo dục không phải
là vạn năng. Giáo dục chỉ vạch ra phương hướng cho sự hình thành, phát triển
tâm lý cá nhân và thúc đẩy sự hình thành, phát triển theo hướng đó. Còn cá nhân

50
có phát triển theo hướng đó hay không, phát triển đến mức độ nào, điều này giáo
dục không quyết định trực tiếp được. Cần phải tiến hành giáo dục trong mối
quan hệ hữu cơ với việc tổ chức hoạt động, tổ chức giao tiếp, hoạt động cùng
nhau trong các mối quan hệ xã hội, nhóm và tập thể. Giáo dục cũng không được
tách rời với tự giáo dục, tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi người.

3. Yếu tố hoạt động


a. Hoạt động là gì?
Cá nhân bao giờ cũng sống trong một môi trường hoặc hoàn cảnh nhất định
và luôn luôn chịu sự tác động của nó. Song cá nhân không chịu sự tác động của
môi trường, hoàn cảnh một cách thụ động mà luôn có sự tác động trở lại môi
trường bằng hoạt động của mình.
Cá nhân muốn sống, muốn tồn tại phải hoạt động. Hoạt động là phương
thức tồn tại của cá nhân bằng cách tác động vào đối tượng (S - O), để tạo ra một
sản phẩm tương ứng nhằm thỏa mãn (trực tiếp hay gián tiếp) sự sống của cá
nhân. Sự sống không chỉ đơn thuần là sự sống còn của cơ thể cá nhân mà bao
gồm cả thế giới tinh thần, văn hóa, văn minh... Hoạt động với nghĩa đó có vai trò
rất lớn đối với sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân.
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người trong thế giới, biểu thị
mối quan hệ tác động qua lại tích cực giũa con người và hoàn cảnh, qua đó làm
biến đổi hòan cảnh và biến đổi chính bản thân mình.
b. Vai trò của hoạt động
Hoạt động có vai trò là nhân tố quyết định trực tiếp tới sự hình thành và
phát triển tâm lý cá nhân.
- Thông qua hoạt động, một mặt con người tác động vào hoàn cảnh để tạo
ra những sản phẩm cần thiết cho mình và xã hội, mặt khác giúp cho cá nhân có
thể phản ánh được các thuộc tính, các quy luật của sự vật hiện tượng trong hiện
thực khách quan và tạo nên đời sống tâm lý và nhân cách của mình.
- Thông qua hoạt động giúp cá nhân thỏa mãn những nhu cầu của mình,
trên cơ sở đó tình cảm của cá nhân đối với sự vật hiện tượng được nảy sinh, hình
thành, cũng cố và phát triển.
51
- Năng lực nhận thức cũng như những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của cá
nhân chỉ được nảy sinh, phát triển trong hoạt động. Điều này thể hiện rõ ở
những cá nhân sống hoạt động bằng những nghề nghiệp khác nhau thì có những
kinh nghiệm hiểu biết, năng lực chuyên môn khác nhau.
- Thông qua hoạt động, tính cách của cá nhân được hình thành, được tôi
luyện và phát triển.
Mỗi loại hoạt động đều nảy sinh ở chủ thể những đặc điểm tâm lý tương
ứng. Người nào hoạt động càng đa dạng, phức tạp thì đời sống tâm lý của người
đó càng phong phú, sâu sắc. Tùy theo mục đích hoạt động của cá nhân tốt hay
xấu sẽ là nảy sinh những đặc điểm tâm lý có ý nghĩa tích cực hay tiêu cực.
- Trong từng giai đoạn phát triển của cá nhân thì hoạt động chủ đạo sẽ
quyết định sự hình thành và phát triển những đặc điểm tâm lý cá nhân trong giai
đoạn đó. Muốn hình thành và phát triển toàn diện tâm lý của mình, cá nhân phải
tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý tới vai trò
của hoạt động chủ đạo. Vì thế phải lựa chọn, tổ chức và hướng dẫn các hoạt
động đảm bảo tính giáo dục và tính hiệu quả đối với sự hình thành và phát triển
tâm lý cá nhân.
Trong quá trình lao động một mặt cá nhân tách tâm lý đã được đặt vào đối
tượng và công cụ kỹ thuật chuyển thành tâm lý của mình. Mặt khác cá nhân đối
tượng hóa (vật chất hóa) suy nghĩ, tri thức, quan niệm của mình vào đối tượng
để sản xuất ra sản phẩm lao động. Hoạt động bằng quá trình "nội tâm hóa" và
quá trình "xuất tâm hóa" đã giúp cho cá nhân phản ánh hiện thực khách quan,
hình thành nên tâm lý của mình, cá nhân đã thực hiện sự tác động đối với thế
giới bên ngoài, cải tạo tự nhiên, xã hội.
Những người không lao động thì khó tiếp thu những tập quán xã hội tốt
đẹp, khó có những khuynh hướng xã hội đúng đắn và dễ bị ảnh hưởng những tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa và những thói hư tật xấu khác. Điều đó phần nào nói
lên vai trò quan trọng của lao động đối với việc hình thành nhân cách của con
người mới .

52
Trong hoạt động, cá nhân tác động qua lại với những thế hệ đi trước bằng
những kinh nghiệm, tri thức. Mỗi loại hoạt động, nghề nghiệp đòi hỏi ở cá nhân
những yêu cầu nhất định, nhất là những phẩm chất tâm lý tương ứng vì đó là
hoạt động có mục đích, có tính xã hội, phải tiến hành những hành động và các
thao tác với những công cụ phù hợp…

4. Yếu tố tự tu dưỡng
a. Tự tu dưỡng là gì?
Tự tu dưỡng của cá nhân là việc làm tự giác, có hệ thống mà cá nhân thực
hiện với bản thân mình nhằm loại trừ khuyết điểm, bồi dưỡng ưu điểm để đáp
ứng những nhu cầu nhất định của xã hội và kế hoạch phát triển của cá nhân.
Ý thức tự tu dưỡng không có ngay từ lúc cá nhân ra đời mà được hình
thành dưới ảnh hưởng của hoàn cảnh sống, đặc biệt là của giáo dục trong quá
trình sống và hoạt động cá nhân.
Dưới ảnh hưởng của giáo dục con người dần dần nhận thức được quy luật
phát triển của tự nhiên, xã hội, biết đối chiếu nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng,
trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức của mình với yêu cầu của xã hội. Từ đó cá
nhân biết tự kiềm chế và tự rèn luyện mình một cách có ý thức, toàn diện cả về
phẩm chất đạo đức, năng lực và thể lực theo yêu cầu của xã hội.
b. Vai trò của tự tu dưỡng
Tự tu dưỡng là một trong những yếu tố rất quan trọng đối với sự hình
thành và phát triển tâm lý cá nhân. Tự tu dưỡng của cá nhân là sự tác động của
cá nhân đối với bản thân, nên được coi là yếu tố bên trong, có ý nghĩa đặc biệt
trong việc hình thành và phát triển tâm lý cá nhân, nó trực tiếp quyết định sự
hình thành và phát triển tâm lý cá nhân.
Tự tu dưỡng cá nhân có vai trò trên là do:
- Quá trình tự tu dưỡng của cá nhân là hoạt động tích cực, tự giác của cá
nhân nhằm bồi dưỡng và phát huy những ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, đấu
tranh xóa bỏ những tâm lý tiêu cực, lạc hậu, xây dựng tâm lý tích cực, tiến bộ
theo quy luật phát triển của lịch sử, của xã hội, theo tiêu chuẩn con người mới.

53
- Tự tu dưỡng của cá nhân giúp cá nhân tiếp nhận sự tác động của môi
trường sống một cách có chọn lọc theo mục đích đã định, hay nói cách khác cá
nhân chủ động tiếp nhận sự tác động của môi trường sống.
- Tự tu dưỡng giúp cá nhân khắc phục được những nhược điểm của cá nhân
về sinh lý, thể chất, tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân.
- Nhờ có tự tu dưỡng của cá nhân mà giáo dục mới phát huy được vai trò
chủ đạo trong sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân.
Để tự tu dưỡng của cá nhân phát huy được vai trò quan trọng trên, cá nhân
cần phải nhận thức được yêu cầu của xã hội, nâng cao nhận thức của mình về
chân lý, có quan niệm rõ ràng về viễn cảnh của cuộc sống. Đồng thời cá nhân
phải hiểu rõ khả năng của bản thân mình, có niềm tin, ý chí và nghị lực để vươn
lên đạt được mục đích đã đề ra.
Trong quá trình tự tu dưỡng cá nhân biết sử dụng vũ khí tự phê bình và phê
bình để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, lấy đó làm nguyên tắc rèn
luyện bản thân.
Tóm lại, các yếu tố thể chất, môi trường sống, hoạt động và tự tu dưỡng là
những yếu tố tác động đến sự phát triển tâm lý cá nhân. Những yếu tố trên đây
có quan hệ tác động và ảnh hưởng lẫn nhau và không phải có vai trò như nhau
trong sự phát triển tâm lý con người. Mỗi yếu tố có vai trò quan trọng nhất định
trong sự hình thành và phát triển tâm lý cá nhân, nhưng nó chỉ thực sự có ý
nghĩa khi nằm trong mối liên hệ tác động qua lại với các yếu tố khác. Khi tìm
hiểu nguyên nhân của đời sống tâm lý cá nhân không thể tuyệt đối hóa yếu tố
nào mà chúng ta phải thấy được sự tác động tổng hợp của các yếu tố nói trên.
Trong công tác công an, hiểu rõ quy luật hình thành, phát triển tâm lý cá
nhân chúng ta có thể rút ra một số vấn đề cần lưu ý sau:
- Khi xem xét tâm lý của từng cán bộ chiến sĩ công an phải phân tích, tổng
hợp nhiều mặt: hoàn cảnh sống, tác động giáo dục của gia đình, nhà trường, xã
hội, ảnh hưởng của hệ tư tưởng chính trị, tôn giáo, truyền thống, phong tục tập
quán, quá trình hoạt động và tự giáo dục, tự rèn luyện của người cán bộ, chiến sĩ
công an trước và trong quá trình tham gia lực lượng Công an nhân dân.

54
- Muốn hiểu được đặc điểm tâm lý của đối tượng để phục vụ cho công tác
phải nghiên cứu kỹ tiểu sử, lai lịch đối tượng. Qua nghiên cứu chúng ta biết
được cá nhân đó thuộc giai cấp, dân tộc, tôn giáo, gia đình nào, đã tham gia
những hoạt động chính trị, xã hội nào, làm nghề gì và đã được giáo dục ra sao.
Qua đó giúp ta phần nào hiểu được đời sống tâm lý của đối tượng, thấy được
đặc điểm chung và riêng trong tâm lý của đối tượng để có biện pháp đấu tranh
thích hợp hoặc sử dụng đối tượng sao cho có lợi nhất.
- Trong trường hợp cần biến đổi tâm lý của đối tượng để phục vụ yêu cầu
công tác, chúng ta phải phát huy mạnh mẽ vai trò chủ đạo của giáo dục, chủ
động tạo nên những điều kiện, hoàn cảnh thích hợp và bằng nhiều biện pháp
khác nhau để tác động vào đối tượng.
Muốn chuyển đổi tâm lý của đối tượng, một mặt chúng phải dùng lời lẽ
giáo dục thuyết phục, mặt khác phải chủ động đưa đối tượng vào hoàn cảnh
sống, hoạt động khác trước. Điều đó buộc tâm lý của đối tượng phải chuyển đổi.
Chẳng hạn, bằng cách nào đó ta gây ra sự biến động về hoàn cảnh gia đình, hoàn
cảnh công tác, hoàn cảnh về làm ăn hoặc cách quan hệ khác của đối tượng, dẫn
đến làm thay đổi ý nghĩ, tình cảm, nếp sống của họ.

55
CHƯƠNG 2: NHỮNG HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ CÁ NHÂN

I. HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA CÁ NHÂN

1. Cảm giác.
a. Định nghĩa
Cảm giác là quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẽ bề ngoài
của sự vật và hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động đến các giác quan
của chúng ta
b. Đặc điểm của cảm giác
Cảm giác có những đặc điểm cơ bản sau:
- Cảm giác là một qúa trình tâm lý, nghĩa là nó có nảy sinh, diễn biến và
kết thúc.
- Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẽ của sự vật, hiện tượng chứ
không phản ánh được trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng, do đó chưa
cho chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng đó là cái gì.
- Cảm giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp, tức là sự vật,
hiện tượng phải trực tiếp tác động vào các giác quan của chúng ta thì mới tạo ra
được cảm giác.
- Sự phát triển của cảm giác là kết quả của sự hoàn thiện của giác quan (do
ảnh hưởng của môi trường) và hoạt động của cá nhân.
Các đặc điểm trên của cảm giác chứng tỏ mức độ phản ánh tâm lý thấp và
tính chất hạn chế của cảm giác. Trong thực tế, để tồn tại và phát triển, con người
còn phải nhận thức cả những sự vật, hiện tượng không trực tiếp tác động vào
giác quan của mình.
c. Phân loại cảm giác
Có nhiều cách phân loại dựa trên các tiêu chuẩn khác nhau. Ở đây chúng ta
phân loại cảm giác dựa trên vị trí của nguồn kích thích gây ra cảm giác là nằm ở
bên ngoài hay bên trong cơ thể.
* Cảm giác bên ngoài
- Cảm giác nhìn (thị giác): Cảm giác nhìn được nảy sinh do sự tác động
của các sóng ánh sáng phát ra hoặc phản xạ từ sự vật. Cơ sở giải phẩu sinh lý

56
của cảm giác nhìn là cơ quan phân tích thị giác. Cảm giác nhìn giúp chúng ta
nhận biết hình dạng, độ sáng, màu sắc, kích thước, khối lượng và độ xa của các
sự vật, hiện tượng. Cảm giác nhìn có vai trò cơ bản trong sự nhận thức thế giới
bên ngoài của con người. Những tài liệu hiện đại cho thấy 90% lượng thông tin
từ bên ngoài đi vào não của chúng ta là qua mắt.
- Cảm giác nghe (thính giác): Cảm giác nghe được nảy sinh do sự tác động
của sóng âm tức là những giao động của không khí gây nên. Cơ sở giải phẩu
sinh lý của chúng là bộ máy phân tích thính giác. Cảm giác nghe phản ánh
những thuộc tính của âm thanh, tiếng nói: cao độ (tần số dao động), cường độ
(biên độ dao động) và âm sắc (hình thức dao động). Cảm giác nghe có ý nghĩa
rất lớn trong đời sống con người, đặc biệt là trong giao lưu ngôn ngữ với người
khác.
- Cảm giác ngửi (khứu giác): Cảm giác ngửi do các phân tử của các chất
bay hơi tác động lên màng ngoài của khoang mũi cùng không khí gây ra. Cơ sở
giải phẩu sinh lý của cảm giác ngửi là bộ máy phân tích khứu giác. Cảm giác
ngửi cho biết tính chất của mùi.
- Cảm giác nếm (vị giác): Cảm giác nếm được tạo nên do tác động của các
thuộc tính hóa học của các chất hòa tan trong nước lên các cơ quan thụ cảm vị
giác ở lưỡi, họng và vòm khẩu. Cơ sở giải phẩu sinh lý của cảm giác nếm là bộ
máy phân tích vị giác. Cảm giác nếm giúp chúng ta biết được thuộc tính vị của
đối tượng. Có các loại cảm giác nếm như: ngọt, bùi, chua, chát, mặn, đắng,
cay…
- Cảm giác da (xúc giác): Cảm giác da do những kích thích cơ học và nhiệt
độ tác động lên da tạo nên. Cảm giác da gồm các loại như: Cảm giác đụng chạm,
cảm giác nén, nóng, lạnh, đau. Độ nhạy cảm của các phần khác nhau của da đối
với mỗi loại cảm giác này là khác nhau.
* Cảm giác bên trong
- Cảm giác vận động và cảm giác sờ mó:

57
Cảm giác vận động là cảm giác phản ánh những biến đổi xảy ra trong các
cơ quan vận động, báo hiệu cho ta biết về mức độ co của cơ, độ tăng, độ gập của
các bắp thịt, gân, dây chằng, khớp xương của cơ thể.
Sự kết hợp giữa cảm giác vận động và cảm giác đụng chạm tạo thành cảm
giác sờ mó. Bàn tay là một cơ quan sờ mó, ở người nó được phát triển rất mạnh
và trở thành công cụ lao động, nhất là những động tác đòi hỏi sự chính xác cao.
- Cảm giác thăng bằng: Phản ánh vị trí và những chuyển động của đầu. Cơ
quan của cảm giác cân bằng (loa ống bán khuyên) nằm ở tai trong. Khi cơ quan
này bị kích thích quá mức thì gây ra chóng mặt và nôn mửa. Cảm giác này rất
quan trọng đối với hoạt động của con người.
- Cảm giác cơ thể: Cho ta biết hoạt động của các cơ quan nội tạng và trạng
thái bất thường của cơ thể như đói, no, khát, buồn nôn, đau ở các cơ quan bên
trong và những cảm giác có liên quan đến các quá trình hô hấp và tuần hoàn.
- Cảm giác rung: Là một loại cảm giác đặc biệt do các dao động của không
khí tác động lên bề mặt của thân thể (da) gây nên. Những dao động này do
những vật thể bị rung động hay chuyển động tạo nên. Cảm giác rung phản ánh
sự rung động của các sự vật. Nó thường kết hợp với những cảm giác khác giúp
cho chúng ta phản ánh sự vật hoặc phản ánh tình trạng của cơ thể được đầy đủ,
chính xác hơn. Ở những người thính giác phát triển bình thường thì cảm giác
này kém phát triển, nhưng ở những người bị điếc, đặc biệt là người vừa điếc,
vừa mù thì loại cảm giác này phát triển mạnh giúp cho sự định hướng của cơ thể
trong không gian.
Những điều trên đây về phân loại cảm giác cho chúng ta thấy quan niệm cũ
cho rằng con người chỉ có 5 giác quan (ngũ quan) là không đầy đủ.
d. Các quy luật của cảm giác
* Quy luật về ngưỡng cảm giác
Muốn tạo nên một cảm giác thì kích thích tác động phải đạt đến một giới
hạn nhất định. Giới hạn (có thể gọi là cường độ của kích thích) mà ở đó kích
thích gây ra được cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác.
Có hai loại ngưõng cảm giác:

58
- Ngưỡng cảm giác phía dưới là cường độ tối thiểu của kích thích đủ để gây
ra được cảm giác. Ngưỡng cảm giác phía dưới còn gọi là ngưỡng tuyệt đối.
- Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ tối đa của kích thích mà ở đó vẫn
gây được cảm giác.
Khoảng cách giữa ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên gọi là vùng cảm
giác được, trong đó có một vùng mà cảm giác dễ dàng thuận lợi hơn cả, đó là
vùng phản ánh tốt nhất.
Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích
đủ để ta phân biệt được hai kích thích đó gọi là ngưỡng sai biệt.
Năng lực cảm nhận được các kích thích tác động vào các giác quan đủ gây
ra cảm giác gọi là độ nhạy cảm của giác quan đó. Năng lực cảm giác thấy có sự
khác nhau giữa hai kích thích gọi là tính nhạy cảm sai biệt
Ngưỡng cảm giác và ngưỡng sai biệt của cảm giác là khác nhau ở mỗi loại
cảm giác khác nhau và mỗi người khác nhau. Ngưỡng cảm giác có thể thay đổi
tùy theo lứa tuổi, trạng thái sức khỏe, trạng thái tâm – sinh lý, tính chất nghề
nghiệp và do việc rèn luyện của mỗi người.
Ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng sai biệt tỷ lệ nghịch với độ nhạy
cảm của cảm giác và độ nhạy cảm sai biệt. Có nghĩa là:
- ngưỡng cảm giác phía dưới càng nhỏ thì độ nhạy cảm của cảm giác càng
cao. Ví dụ: nghe được tiếng nói càng nhỏ thì chứng tỏ độ nhạy cảm của thính
giác càng cao (thính tai); trong một khoảng cách nhất định, nhìn thấy được vật
càng nhỏ thì chứng tỏ độ nhạy cảm của thị giác càng cao (mắt càng sáng).
- Ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt càng lớn.
Việc rèn luyện năng lực cảm giác chủ yếu là rèn luyện để có tính nhạy cảm
và tính nhạy cảm sai biệt ngày càng cao.
* Quy luật về tính thích ứng của cảm gíác
Sự thích ứng của cảm giác là khả năng thay đổi tính nhạy cảm của cảm
giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích: giảm độ nhạy cảm
khi cường độ kích thích tăng quá mạnh, tăng độ nhạy cảm khi cường độ kích
thích quá yếu.

59
Ví dụ: Từ phòng máy lạnh ra ngoài, lúc đầu cảm thấy nóng nhưng sau đó
bình thường. Từ ngoài bước vào phòng máy lạnh, lúc đầu cảm thấy lạnh nhưng
sau đó bình thường (thích ứng).
Nhờ có tính thích ứng, cảm giác của con ngưởi có thể phản ánh những kích
thích có cường độ biến đổi trong một phạm vi rất lớn. Nếu được rèn luyện lâu
dài và có phương pháp, tính thích ứng sẽ phát triển rất cao và trở nên bền vững.
Nếu tính nhạy cảm tăng lên nhiều, cảm giác của con người trở nên nhạy bén và
tinh tế: Tai của nhạc sĩ có thể phân biệt được nhiều mức độ âm thanh cao thấp
khác nhau; mắt của thợ nhuộm lành nghề có thể phân biệt được mấy chục màu
đen, màu đỏ … Nếu tính nhạy cảm giảm xuống nhiều, con người trở nên chai
sạn, giúp cho con người chịu đựng được những kích thích mạnh và lâu, Như
người công nhân đốt lò hoặc luyện kim có thể làm việc hàng giờ ở nhiệt độ 50oC
– 60oC. Người thợ lặn chịu đựng được áp xuất 2 atmốtphe trong vài chục phút…
Từ đó, cảm giác con người có thể phát triển vô hạn nếu biết rèn luyện đúng
mức, đúng phương pháp và kiên trì.
* Quy luật tác động lẫn nhau giữa các cảm giác
Các cảm giác của con người không tồn tại một cách độc lập, riêng rẽ, tách
rời mà chúng luôn tác động qua lại với nhau. Trong sự tác động này các cảm
giác làm thay đổi tính nhạy cảm của nhau và diễn ra theo quy luật sau.
- Sự kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm
của một cơ quan phân tích khác; và ngược lại sự kích thích mạnh lên một cơ
quan phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia.
Ví dụ: Khi uống một ly nước đường còn nóng thì ta cảm thấy ít ngọt hơn
khi uống ly nước đường đó để nguội. Như vậy, nhiệt độ đã làm ảnh hưởng đến
vị giác.
- Sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác có thể diễn ra một cách đồng thời
hay nối tiếp, có thể những cảm giác đồng loại hay khác loại.
Sự tác động qua lại giữa những cảm giác cùng một loại được gọi là hiện tượng
tương phản của cảm giác. Đó là sự thay đổi cường độ hay chất lượng của cảm giác

60
do ảnh hưởng của kích thích cùng loại diễn ra trước đó hay đồng thời. Có hai loại
tương phản trong cảm giác: tương phản đồng thời và tương phản nối tiếp.
Ví dụ: Cùng một nét phấn nếu viết trên bảng đen còn mới thì có cảm giác
trắng hơn viết trên bảng đen đã cũ, màu đen đã nhạt đi; thấy tờ giấy trắng trên
nền đen sẽ trắng hơn khi thấy nó trên nền xám (tương phản đồng thời). Hoặc sau
khi cầm một cục nước đá, cho tay vào nước ấm sẽ cảm thấy nước nóng hơn lúc
bình thường (tương phản nối tiếp).
- Trong sự tác động qua lại giữa các cảm giác, do sự kết hợp khá vững chắc
giữa một số cảm giác đến mức khi có vật kích thích gây ra cảm giác này thì
đồng thời cũng sẽ làm xuất hiện cảm giác khác, đó là hiện tượng chuyển cảm
giác. Ví dụ: Các hiện tượng: nhà sạch thì mát, bát sạch thì ngon cơm, màu xanh
mát rượi, giọng nói nghe ngọt ngào, giọng nói nghe ấm áp (tiếng em ấm như hơi
thở), giọng chua như giấm...
- Cơ sở sinh lý của quy luật này là các mối liên hệ trên vỏ não của các cơ
quan phân tích và quy luật cảm ứng qua lại giữa hưng phấn và ức chế trên vỏ não.
e. Vai trò của cảm giác
Trong cuộc sống nói chung và trong hoạt động nhận thức nói riêng của con
người, cảm giác giữ những vai trò quan trọng như sau:
- Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người trong hiện thực
khách quan. Trong mỗi giây đồng hồ các cơ quan cảm giác đã nhận, chọn lọc và
gởi về não hàng ngàn thông tin của môi trường xung quanh và của chính cơ thể
mình, nhờ đó con người định hướng được trong không gian và thời gian. Tất
nhiên đây là hình thức định hướng đầu tiên và đơn giản nhất.
- Cảm giác là nguồn cung cấp những nguyên vật liệu đầu tiên cho các hình
thức nhận thức cao hơn (tư duy, tưởng tượng). Có thể hình dung cảm giác là
những viên gạch đầu tiên để xây dựng nên tòa lâu đài nhận thức.
- Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động của vỏ
não, do đó, đảm bảo cho hoạt động tinh thần bình thường của con người.

61
- Cảm giác là con đường nhận thức hiện thực khách quan đặc biệt quan
trọng đối với những người bị khuyết tật. Những người mù, câm, điếc đã nhận ra
những người thân và hàng loạt đồ vật nhờ cảm giác, đặc biệt là nhờ xúc giác.

2. Tri giác
a. Định nghĩa
- Tri giác là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề
ngoài của sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan
của chúng ta.
b. Đặc điểm của tri giác
- Tri giác có những đặc điểm giống với cảm giác như:
Tri giác cũng là một quá trình tâm lý; phản ánh những thuộc tính bề ngoài
của sự vật, hiện tượng; phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp.
- Tuy vậy tri giác có những đặc điểm nổi bậc như sau:
+ Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn. Nghĩa là chúng
ta có thể nhận biết được sự vật là cái gì. Tính trọn vẹn của tri giác là do tính trọn
vẹn khách quan của bản thân sự vật, hiện tượng qui định.
+ Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng theo những cấu trúc nhất định.
+ Tri giác là quá trình tích cực, được gắn liền với hoạt động của con người.
Tri giác mang tính tự giác, giải quyết một nhiệm vụ nhận thức cụ thể nào
đó, là một hành động tích cực trong đó có sự kết hợp chặt chẻ của các yếu tố của
cảm giác và vận động.
Những đặc điểm nói trên của tri giác cho thấy tuy tri giác là mức độ phản
ánh cao hơn của cảm giác, nhưng vẫn thuộc giai đoạn nhận thức cảm tính, chỉ
phản ánh được các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác
động vào chúng ta.
c. Phân loại tri giác
Dựa vào đối tượng được phản ánh trong tri giác, ta có các loại tri giác sau:
- Tri giác không gian: Nhờ có khả năng tri giác các thuộc tính không gian
của đối tượng mà ta biết được hình dạng, độ lớn, vị trí của sự vật, hình nổi, độ
xa và phương hướng của chúng.
62
- Tri giác thời gian: Loại tri giác này cho ta biết độ lâu, độ nhanh, nhịp
điệu, tính liên tục, hoặc gián đoạn của các hiện tượng trong thực tế khách quan.
- Tri giác vận động: Loại tri giác này giúp chúng ta phản ánh sự chuyển
động, di động của các vật thể. Tri giác chuyển động phụ thuộc vào tri giác
không gian và thời gian, tức là phụ thuộc vào khoảng cách của vật chuyển động
đối với ta, vận tốc chuyển động của vật và phụ thuộc vào chính sự di động của
người đang tri giác.
Căn cứ vào sự chủ định hay không có chủ định trong quá trình tri giác:
Tri giác không chủ định: tiến hành tri giác không có mục đích từ trước.
Tri giác có chủ định: tiến hành tri giác có mục đích từ trước.
Khi tri giác có chủ định diễn ra tương đối độc lập và lâu dài nhằm phản ánh
đầy đủ, rõ rệt sự vật, hiện tượng và những biến đổi, những khía cạnh khác nhau
của chúng thì được gọi là quan sát.
- Quan sát là hình thức tri giác cao nhất, mang tính tích cực, chủ động và có
mục đích rõ rệt, làm cho con người khác xa với con vật.
- Năng lực quan sát là khả năng tri giác có chủ định, diễn ra tương đối độc
lập và lâu dài, nhằm phản ánh đầy đủ, rõ rệt các sự vật, hiện tượng.
Năng lực tri giác ở mỗi người là khác nhau và phụ thuộc vào những đặc
điểm nhân cách biểu hiện ở kiểu tri giác thể hiện ở mục đích tri giác nhanh
chóng, chính xác những điểm quan trọng, chủ yếu và đặc sắc của sự vật, hiện
tượng.
Năng lực này không phải bẩm sinh, mà có thể hình thành ở mọi người
trong quá trình hoạt động và rèn luyện.
- Muốn quan sát tốt cần thực hiện các yêu cầu cơ bản sau đây:
+ Xác định rõ ý nghĩa, mục đích, yêu cầu của việc quan sát.
+ Chuẩn bị chu đáo cho quá trình quan sát trước khi quan sát như: Kiến
thức, tài liệu lẫn phương tiện.
+ Tiến hành quan sát có kế hoạch, có hệ thống.
+ Khi quan sát cần tích cực sử dụng phương tiện ngôn ngữ.
+ Cần ghi lại những kết quả quan sát một cách khách quan .

63
+ Cần xử lý những kết quả quan sát được một cách tích cực.
d. Các quy luật của tri giác
* Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Hình ảnh trực quan mà tri giác mang lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật,
hiện tượng nhất định của thế giới khách quan.
Tính đối tượng của tri giác nói lên sự phản ánh hiện thực khách quan chân
thực của tri giác và nó được hình thành do sự tác động của sự vật, hiện tượng
xung quanh vào giác quan con người trong hoạt động vì những nhiệm vụ của
thực tiễn. Tính đối tượng của tri giác có vai trò quan trọng: Nó là cơ sở định
hướng, điều chỉnh hành vi và hoạt động của con người phù hợp với thế giới.
* Quy luật về tính lựa chọn của tri giác
Hoạt động tri giác của con người có khả năng chỉ phản ánh một vài đối
tượng nào đó trong vô số những sự vật, hiện tượng xung quanh họ. Đó là tính
lựa chọn của tri giác. Con người có thể tri giác đối tượng nào đó mà họ muốn.
Tính lựa chọn của tri giác biểu hiện tính tích cực của con người trong khi
tri giác. Quá trình tri giác chính là quá trình tách đối tượng ra khỏi bối cảnh, nếu
những sự vật (hay những thuộc tính của sự vật) càng khác biệt với bối cảnh thì
càng được ta tri giác dễ dàng, đầy đủ.
Vai trò của đối tượng và bối cảnh có thể giao hoán cho nhau: Khi ta tri giác
vật này thì các vật khác còn lại ở chung quanh trở thành bối cảnh, khi ta chuyển
sang tri giác vật khác, thì vật vừa là đối tượng tri giác trước đây lại trở thành bối
cảnh. Sự tri giác những bức tranh hai nghĩa nói lên điều đó.

64
Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào yếu tố chủ quan: Hứng thú, tâm
thế, nhu cầu của cá nhân. Quan hệ thái độ của con người đối với cái được tri
giác sẽ quyết định sự tổ chức và diễn biến của quá trình tri giác (yêu nên tốt,
ghét nên xấu).
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác có nhiều ứng dụng trong thực tế như
trong kiến trúc, trang trí, ngụy trang và dạy học…
* Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác
Những hình ảnh tri giác luôn luôn có một ý nghĩa xác định. Tri giác ở con
người được gắn chặt với tư duy, với sự hiểu biết về bản chất sự vật.
Khi tri giác một vật, chúng ta gọi được tên nó hoặc xác định được công
dụng, tính chất của nó, hoặc ít nhất cũng có thể xếp nó vào một loại nào đó. Đó
là tính ý nghĩa của tri giác.
* Quy luật về tính ổn định của tri giác
Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh sự vật một cách không thay
đổi khi điều kiện tri giác bị thay đổi.
Tính ổn định của tri giác phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của cá nhân.
Nhờ có vốn kinh nghiệm mà hình ảnh tri giác mang tính ổn định.
Tính ổn định của tri giác là điều kiện cần thiết của đời sống và hoạt động
của con người. Giúp con người định hướng trong thế giới đa dạng và biến đổi vô
tận. Tuy nhiên, trong khi tri giác cần khắc phục cách nhìn phiếm diện, tỉnh tại về
thế giới.
* Quy luật tổng giác
Trong khi tri giác thế giới, con người không chỉ phản ánh thế giới bằng
những giác quan cụ thể mà bằng toàn bộ hoạt động, hành động của mỗi chủ thể.
Bởi vậy, toàn bộ những đặc điểm nhân cách như nhu cầu, hứng thú, sở thích,
tình cảm, thái độ, tâm thế, vốn kinh nghiệm và năng lực nhận thức nói chung
của con người có ảnh hưởng quan trọng đến tri giác.
Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung của đời sống tâm lý con người, vào
đặc điểm nhân cách của họ được gọi là hiện tượng tổng giác. Điều này chứng
minh rằng tri giác mang màu sắc chủ thể rõ nét.

65
Khả năng tổng giác của con người được hình thành và phát triển trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Khả năng tổng giác trở thành một năng
lực nhận thức đặc biệt của con người, giúp cho con người nhận thức thế giới
ngày càng tinh vi, nhạy bén hơn.
* Ảo giác
Trong một số trường hợp với những điều kiện thực tế xác định, tri giác có
thể không cho ta hình ảnh đúng về sự vật. Hiện tượng này gọi là ảo giác.
Ảo giác là tri giác không đúng, bị sai lệch. Những hiện tượng tri giác này
tuy không nhiều, nhưng có tính quy luật, xảy ra ở tất cả mọi người bình thường,
có ở các loại tri giác: Tri giác không gian, tri giác thời gian, tri giác vận động…
e. Vai trò của tri giác
Tri giác là thành phần chính của nhận thức cảm tính, nhất là ở người trưởng
thành. Nó là một điều kiện quan trọng cho sự định hướng hành vi và hoạt động
của con người trong môi trường xung quanh. Hình ảnh của tri giác (hình tượng)
thực hiện chức năng điều chỉnh các hành động. Đặc biệt hình thức tri giác cao
nhất là quan sát, do những điều kiện xã hội, chủ yếu là lao động đã trở thành một
mặt tương hổ độc lập của hoạt động và đã trở thành một phương pháp nghiên
cứu quan trọng của nhiều khoa học, cũng như của nhận thức thực tiễn.
Đối với công tác công an, vai trò của tri giác trong đó có quan sát thể hiện
rất rõ: khi tiến hành các hoạt động khác nhau như hoạt động trinh sát, khám
nghiệm hiện trường, xét hỏi bị can, lấy lời khai của người làm chứng, tổ chức
đối chất… đặc biệt là trong tình huống khẩn cấp, bất ngờ thì năng lực quan sát
của chủ thể góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của những hoạt động này,
thậm chí tránh được những tổn thất hy sinh có thể xảy ra chỉ trong “tích tắc”.

3. Tư duy
a. Định nghĩa tư duy
Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong
hiện thực khách quan mà trước đó cá nhân chưa biết.
b. Bản chất xã hội của tư duy
66
Mặc dù tư duy được tiến hành trong bộ óc từng người cụ thể, được hình
thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức tích cực của bản thân
mỗi người, nhưng tư duy bao giờ cũng có bản chất xã hội được thể hiện ở những
mặt sau đây:
- Hành động tư duy phải dựa vào kinh nghiệm của các thế hệ trước đã tích
lũy được, tức là dựa vào kết quả hoạt động nhận thức mà xã hội loài người đã
đạt được ở trình độ phát triển lúc đó.
- Tư duy phải sử dụng ngôn ngữ do các thế hệ trước đã sáng tạo ra, tức dựa
vào phương tiện khái quát (nhận thức) hiện thực và giữ gìn các kết quả nhận
thức của loài người trước đó.
- Quá trình tư duy được thúc đẩy do nhu cầu của xã hội trong từng giai
đoạn lịch sử, tức là ý nghĩ con người được hướng vào giải quyết các nhiệm vụ
nóng hổi nhất của giai đoạn lịch sử lúc đó.
- Tư duy mang tính chất chung của loài người, tức tư duy phải sử dụng các
tài liệu thu được trong các lĩnh vực tri thức liên quan, nếu không sẽ không giải
quyết được các nhiệm vụ đã đặt ra.
c. Đặc điểm của tư duy
* Tính "có vấn đề" của tư duy
Muốn kích thích được tư duy phải đồng thời có hai điều kiện sau đây:
- Trước hết phải gặp hoàn cảnh (tình huống) có vấn đề: Vấn đề thường là
một câu hỏi, một bài tập, một nhiệm vụ được đặc ra trong hoạt động thực tiễn.
Hoàn cảnh có vấn đề là hoàn cảnh có chứa đựng một mục đích mới, một vấn đề
mới, một cách thức giải quyết mới mà những phương tiện, phương pháp hoạt
động cũ không còn đủ sức để giải quyết vấn đề mới đó, để đạt được mục đích
mới đó. Muốn giải quyết vấn đề mới đó, để đạt được mục đích mới đó phải tìm
cách thức giải quyết mới, tức là phải tư duy.
- Thứ hai, hoàn cảnh có vấn đề đó phải được cá nhân nhận thức đầy đủ,
được chuyển thành nhiệm vụ tư duy của cá nhân.
* Tính gián tiếp của tư duy

67
Con người sử dụng ngôn ngữ để tư duy. Nhờ có ngôn ngữ mà con người sử
dụng các kết quả nhận thức vào quá trình tư duy để nhận thức được cái bên
trong, bản chất của sự vật, hiện tượng.
Con người thường sử dụng những công cụ, phuơng tiện (đồng hồ, nhiệt kế,
máy móc...) để nhận thức đối tượng mà không thể trực tiếp tri giác chúng.
Nhờ tính gián tiếp của tư duy mà con người đã mở rộng không giới hạn
những khả năng nhận thức của con người.
* Tính trừu tượng và khái quát của tư duy
Tư duy phản ánh cái bản chất nhất, chung cho nhiều sự vật hợp thành một
nhóm, một loại, một phạm trù (khái quát), đồng thời gạt bỏ khỏi những sự vật đó
những cái cụ thể cá biệt, chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết.
Tư duy không chỉ giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà còn cả những
nhiệm vụ trong tương lai.
* Tư duy có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ làm
phương tiện
Tư duy không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ. Ngôn ngữ là vỏ vật chất của
tư duy, là phương tiện biểu đạt kết quả tư duy.
Nếu không có quá trình tư duy (với những sản phẩm của nó) thì ngôn ngữ
chỉ là một chuổi những âm thanh vô nghĩa, không có nội dung và chẳng khác
nào những tín hiệu âm thanh trong giới động vật.
Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ là mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức, nhưng tư duy và ngôn ngữ không đồng nhất, bởi vì đó là những quá trình
tâm lý có chức năng khác nhau, cho những sản phẩm khác nhau và tuân theo
những quy luật khác nhau.
* Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính
Tư duy phải dựa trên những tài liệu cảm tính, trên kinh nghiệm, trên cơ sở
trực quan sinh động. Nhận thức cảm tính là một khâu của mối liên hệ trực tiếp
giữa tư duy với hiện thực, là cơ sở của những khái quát kinh nghiệm dưới dạng
các khái niệm, quy luật.

68
Ngược lại, tư duy và sản phẩm của nó cũng ảnh hưởng đến các quá trình
nhận thức cảm tính (quy luật thứ ba của cảm giác, tính lựa chọn, tính ý nghĩa,
tính ổn định của tri giác...) và các quá trình tâm lý khác.
Từ những đặc điểm trên đây của tư duy, có thể rút ra những kết luận cần
thiết cho công tác rèn luyện của bản thân như sau:
- Tích cực tham gia vào các hoạt động thực tiễn.
- Việc phát triển tư duy không thể tách rời việc trau dồi ngôn ngữ.
- Việc phát triển tư duy không thể thay thế được việc rèn luyện cảm giác,
tri giác, năng lực quan sát, trí nhớ và tưởng tượng.
d. Các giai đoạn của tư duy
- Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề.
Đây là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình tư duy.
- Huy động các tri thức, kinh nghiệm (có liên quan đến vấn đề đã xác định được).
Việc làm xuất hiện những tri thức, kinh nghiệm, những liên tưởng này hoàn
toàn tùy thuộc vào nhiệm vụ đã xác định (đúng hướng hay lạc hướng là do
nhiệm vụ đặt ra chính xác hay không).
- Sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết.
Các tri thức, kinh nghiệm và liên tưởng xuất hiện đầu tiên còn mang tính
chất rộng rãi, bao trùm, chưa được khu biệt và phân hóa kỹ càng nên chúng cần
được sàng lọc, lựa chọn sao cho phù hợp với nhiệm vụ đề ra.
Ví dụ: Khi khám nghiệm hiện trường, ĐTV thu thập được rất nhiều dấu
vết, sự vật hiện tượng có trên hiện trường. Sau đó ĐTV phải sàng lọc dần các
dấu vết, sự vật... để có được những thông tin chính xác về vụ án, có liên quan
đến vụ án.
Trên cơ sở sàng lọc đó sẽ hình thành giả thuyết, tức là cách giải quyết có
thể có đối với nhiệm vụ tư duy (đề ra phương án để điều tra vụ án).
- Kiểm tra giả thuyết .
Việc kiểm tra có thể diễn ra trong đầu hay trong hoạt động thực tiễn. Kết
quả kiểm tra sẽ dẫn đến sự khẳng định, phủ định hay chính xác hóa giả thuyết đã

69
nêu. Trong quá trình kiểm tra này có thể lại phát hiện ra những nhiệm vụ mới,
do đó lại bắt đầu một quá trình tư duy mới.
- Giải quyết nhiệm vụ.
Trong quá trình tư duy giải quyết nhiệm vụ, con người thường gặp những
khó khăn do ba nguyên nhân thường gặp là:
+ Chủ thể tư duy không nhận thấy một số dữ kiện của vấn đề.
+ Chủ thể đưa vào vấn đề một điều kiện thừa.
+ Tính chất khuôn sáo, cứng nhắc của tư duy.
Sơ đồ các giai đoạn của một quá trình tư duy:

Nhận thức vấn đề

Xuất hiện các liên tưởng

Sàng lọc liên tưởng và hình


thành giả thuyết

Kiểm tra giả thuyết

Chính xác hoá Khẳng định Phủ định

Hành động tư
Giải quyết vấn đề duy mới

Trên đây là logic của quá trình tư duy, số lượng các giai đoạn có thể
không đầy đủ, bị rút gọn trong những trường hợp nhất định, nhưng thứ tự các
giai đoạn không thể bị đảo lộn mà phải tuân thủ theo sơ đồ trên.
e. Các thao tác tư duy
Hành động tư duy được thực hiện bằng những động tác trí tuệ nhất định -
những thao tác tư duy. Chúng ta hãy tìm hiểu các thao tác tư duy chủ yếu:
- Phân tích - tổng hợp

70
Phân tích là quá trình dùng trí óc để phân chia đối tượng nhận thức thành
các bộ phận, các thành phần khác nhau. Tổng hợp là quá trình dùng trí óc để hợp
nhất các thành phần đã được tách rời nhờ sự phân tích thành một chỉnh thể. Phân
tích và tổng hợp có quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo thành sự thống nhất
không tách rời được: Sự phân tích được tiến hành theo hướng tổng hợp, còn sự
tổng hợp được thực hiện theo kết quả của phân tích.
- So sánh
So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau hay khác nhau,
sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa các
đối tượng nhận thức (sự vật, hiện tượng). Thao tác này liên quan chặt chẽ với
thao tác phân tích - tổng hợp và rất quan trọng ở giai đoạn đầu ở đứa trẻ nhận
thức thế giới xung quanh.
- Trừu tượng hóa và khái quát hóa
Trừu tượng hóa là quá trình dùng trí óc để gạt những mặt, những thuộc
tính, những liên hệ, quan hệ thứ yếu, không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố
cần thiết cho tư duy.
Khái quát hóa là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác
nhau thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ
chung nhất định do nhiệm vụ tư duy quy định.
Khi xem xét tất cả các thao tác tư duy đã trình bày trên đây trong một hành
động tư duy cụ thể cần chú ý mấy điểm sau:
+ Các thao tác tư duy đều có quan hệ mật thiết với nhau, thống nhất theo
một hướng nhất định, do nhiệm vụ tư duy quy định.
+ Trong thực tế tư duy, các thao tác đó đan chéo nhau chứ không theo trình
tự máy móc nêu trên.
+ Việc sử dụng các thao tác tư duy tùy thuộc vào nhiệm vụ, điều kiện tư
duy, không nhất thiết trong hành động tư duy nào cũng phải thực hiện tất cả các
thao tác trên.
f. Phân loại tư duy

71
- Theo lịch sử hình thành (chủng loại và cá thể) và mức độ phát triển của tư
duy được chia làm 3 loại như sau:
+ Tư duy trực quan hành động: Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm
vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ thực tế các tình huống và nhờ các hành động
vận động có thể quan sát được (loại tư duy này có cả ở những động vật cấp
thấp). Ví dụ: trẻ em làm toán bằng cách dùng tay di chuyển các vật thật (như cái
bánh chẳng hạn) hay các vật thay thế (như que tính) tương ứng với các dữ kiện
của bài toán.
+ Tư duy trực quan hình ảnh: Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm
vụ được thực hiện bằng sự cải tổ tình huống chỉ trên bình diện hình ảnh. Loại tư
duy này chỉ có ở người, đặc biệt ở trẻ nhỏ. Ví dụ: trẻ làm toán bằng cách dùng
mắt quan sát các vật thật hay vật thay thế tương ứng với các dữ kiện của bài
toán.
+ Tư duy trừu tượng (hay tư duy từ ngữ - lôgic): Đây là loại tư duy mà việc
giải quyết nhiệm vụ được dựa trên sự sử dụng các khái niệm, các kết cấu logic,
được tồn tại và vận hành nhờ ngôn ngữ. Ví dụ: học sinh làm toán bằng cách chỉ
dùng ngôn ngữ làm phương tiện.
Các loại tư duy trên tạo thành các giai đoạn phát triển của tư duy trong quá
trình phát sinh chủng loại và cá thể.
- Theo hình thức biểu hiện và phương thức giải quyết nhiệm vụ (vấn đề) tư
duy ở người trưởng thành được chia làm 3 loại sau đây:
+ Tư duy thực hành: Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra một cách
trực quan, dưới hình thức cụ thể, phương thức giải quyết là những hành động
thực hành. Ví dụ: tư duy của người thợ sữa xe máy, dùng sa bàn, bản đồ...
+ Tư duy hình ảnh cụ thể: Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra dưới
hình thức hình ảnh cụ thể và việc giải quyết nhiệm vụ cũng được dựa trên những
hình ảnh trực quan đã có. VD: sau khi đã đi thực tế quan sát đồng ruộng, người
ta họp nhau lại và vạch ra phương án để làm mương tưới tiêu nước tốt nhất cho
khu đồng ruộng đó.

72
+ Tư duy lý luận: Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra và việc giải
quyết nhiệm vụ đó đòi hỏi phải sử dụng những khái niệm trừu tượng, những tri
thức lý luận. Thí dụ: sự tư duy của học sinh khi nghe giảng bài trên lớp, sự tư
duy của giáo viên khi soạn bài giảng...

4. Tưởng tượng
a. Định nghĩa tưởng tượng
Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có
trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những biểu tuợng mới trên
cơ sở những biểu tượng đã có.
b. Đặc điểm của tưởng tượng
- Tính có “vấn đề” của tưởng tượng.
Tưởng tượng chỉ nảy sinh trước hoàn cảnh có vấn đề, tức là trước đòi hỏi
mới, thực tiễn chưa từng gặp, trước những nhu cầu khám phá, phát hiện, làm
sáng tỏ cái mới, nhưng chỉ khi tính bất định (không xác định rõ ràng) của hoàn
cảnh quá lớn. Khi mà chúng ta chỉ có những thông tin gần đúng về hoàn cảnh,
khó có thể dùng tư duy để giải đáp thì tưởng tượng là cần thiết.
- Tưởng tượng là một quá trình phản ánh cái mới: tưởng tượng phản ánh
những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân hoặc của xã hội, nghĩa là
tưởng tượng là một quá trình phản ánh cái mới. Về điểm này thì tưởng tượng
giống với tư duy và vì vậy nó được xem là một quá trình nhận thức cao cấp –
nhận thức lý tính
- Tưởng tượng được thực hiên chủ yếu từ biểu tượng của trí nhớ: tưởng
tượng là một quá trình nhận thức được bắt đầu và thực hiện chủ yếu bằng hình
ảnh, nhưng vẫn mang tính gián tiếp và khái quát cao so với trí nhớ. biểu tượng
của tưởng tượng là một hình ảnh mới được xây dựng từ những biểu tượng của trí
nhớ, nó là biểu tượng của biểu tượng.
- Tưởng tượng liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính: tưởng tượng sử
dụng những biểu tượng của trí nhớ, do nhận thức cảm tính thu lượm, cung cấp.
c. Phân loại tưởng tượng
Căn cứ vào tính tích cực, tưởng tượng phân ra thành hai loại
73
- Tưởng tượng tích cực: là tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp
ứng những nhu cầu, kích thích tính tích cực thực tế của con người.
Tưởng tượng này gồm hai loại: tái tạo và sáng tạo.
Khi tưởng tượng tạo ra những hình ảnh chỉ là mới đối với cá nhân người
tưởng tượng và dựa trên sự mô tả của người khác thì gọi là tưởng tượng tái tạo.
Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng hình ảnh mới, độc lập với cả
cá nhân lẫn xã hội, chúng được hiện thực hóa trong các sản phẩm vật chất độc
đáo và có giá trị. Nẩy sinh trong quá trình lao động, tưởng tượng sáng tạo là một
mặt không thể thiếu được của mọi hoạt động sáng tạo (hoạt đông nghiên cứu
khoa học, sáng tạo kỹ thuật, sáng tạo nghệ thuật…).
- Tưởng tượng tiêu cực: Loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh không
được thể hiện trong cuộc sống, vạch ra những chương trình hành vi không được
thực hiện và không thể thực hiện được gọi là tưởng tượng tiêu cực.
Tưởng tượng tiêu cực có thể xảy ra có chủ định, nhưng không gắn liền với
ý chí thể hiện hình ảnh tưởng tượng trong đời sống gọi là mơ mộng. Đây là con
người hèn nhát, lười biếng, cuộc sống hiện tại khó khăn sầu thảm nhưng mơ
mộng cho mình một cuộc sống giàu sang danh vọng hảo huyền.
Tưởng tượng tiêu cực cũng có thể nảy sinh một cách không chủ định. Điều
này chủ yếu xảy ra khi mà hoạt động của ý thức suy yếu, khi con người ở tình
trạng không hoạt động, trong giấc ngủ (chiêm bao), trong trạng thái nữa thức,
nữa ngủ, trong trạng thái xúc động hay trong những rối loạn bệnh lý của ý thức
(ảo giác, hoang đường).
d. Vai trò của tưởng tượng
Tưởng tượng có vai trò rất lớn trong hoạt động lao động và trong đời sống
con người. Cụ thể là:
- Tưởng tượng cần thiết cho bất kỳ hoạt động nào của con người. Sự khác
nhau cơ bản giữa lao động của con người và hoạt động bản năng của con vật
chính là ở biểu tượng và kết quả mong đợi do tưởng tượng tạo nên. Ý nghĩa
quan trọng nhất của tưởng tượng là nó cho phép con người hình dung được kết

74
quả trước khi bắt đầu lao động, hình dung được kết quả trung gian và cuối cùng
của lao động.
Trong việc sáng tạo của các nhà văn, họa sĩ, điêu khắc hay khi các nhà
khoa học phát minh sáng chế, các giáo viên chuẩn bị bài giảng… đều cần phải
tưởng tượng ra trước sản phẩm của mình, hoạt động của mình.
- Tưởng tượng tạo nên những hình mẫu tươi sáng và hoàn hảo mà con
người mong đợi và vươn tới (lý tưởng), nó nâng con người lên trên hiện thực,
làm nhẹ bớt những nặng nề, khó khăn của cuộc sống, hướng con người về phía
tương lai, kích thích con người hành động để đạt được những kết quả lớn lao.
- Tưởng tượng có vai trò rất quan trọng đối với quá trình hình thành nhân
cách của sinh viên. Nó giúp người sinh viên hình dung mẫu người công an lý
tưởng và trở thành động lực của quá trình phấn đấu, rèn luyện và học tập trong
nhà trường

II. TRÍ NHỚ


1. Khái niệm trí nhớ
a. Định nghĩa
Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh vốn kinh nghiệm của cá nhân bằng
cách ghi lại, giữ lại và làm xuất hiện lại những gì cá nhân thu được trong hoạt
động sống của mình.
b. Phân loại trí nhớ
Có nhiều cách phân loại trí nhớ:
* Căn cứ vào nội dung phản ánh để phân loại trí nhớ:
- Trí nhớ vận động: là loại trí nhớ gắn liền với những cử động trong quá
trình vận động của cá nhân. Trí nhớ vận động có vai trò rất quan trọng trong
việc hình thành các kỹ năng, kỹ xảo thực hành và lao động chân tay. Ví dụ như
học lái xe, đội ngũ, quân sư, võ thuật… bước đầu rất cần trí nhớ này khi để nắm
vững các động tác và rèn luyện thành kỹ xảo.
- Trí nhớ xúc cảm: là loại trí nhớ gắn liền với những rung cảm của cá nhân.
Nhờ có trí nhớ này mà cá nhân có thể cảm nhận được cái hay cái đẹp và thể hiện
sự cảm thông đồng cảm với người khác
75
- Trí nhớ hình ảnh: gắn liền với việc ghi nhớ và nhớ lại những hình ảnh
được ghi lại thông qua hoạt động của một số cơ quan cảm giác.
- Trí nhớ từ ngữ - logic: là loại trí nhớ phản ánh những ý nghĩ, tư tưởng của
cá nhân. Hệ thống tín hiệu thứ hai có vai trò quan trọng trong việc phát triển trí
nhớ này.
Sự phân loại các trí nhớ trên chỉ có tính chất tương đối, chúng luôn đan
quyện vào nhau, tác động lẫn nhau làm thành thể thống nhất trí nhớ. Trong bất
kỳ một loại trí nhớ nào, đều tìm thấy và cần phải có các loại trí nhớ khác. Do
con người với hệ thống tín hiệu thứ 2 ngày càng phát triển, cuộc sống đòi hỏi tự
lao động sáng tạo nên trí nhớ từ ngữ - logic chiếm vị trí chủ đạo, nó chi phối
mạnh mẽ các loại trí nhớ khác, giữ vai trò chính trong sự lĩnh hội tri thức của cá
nhân. Vì vậy, mỗi cá nhân cần phải phát triển ngôn ngữ với những khái niệm
khoa học, điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển trí nhớ của mình.
* Căn cứ vào tính chủ động của chủ thể để phân loại trí nhớ.
- Trí nhớ không chủ định: là loại trí nhớ không có mục đích từ trước, nhưng
cá nhân vẫn ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện được điều nào đó.
- Trí nhớ có chủ định: là loại trí nhớ có mục đích (đặt ra mục đích phải nhớ
một cái gì đó).
Hai loại trí nhớ này đều giữ vai trò quan trọng trong đời sống cá nhân.
* Căn cứ vào thời gian cũng cố và giữ gìn tài liệu trong trí nhớ để phân
loại.
- Trí nhớ ngắn hạn: là loại trí nhớ diễn ra ngắn ngủi, chốc lát, nhất là diễn
ra gắn liền với những hành động cấp bách.
- Trí nhớ dài hạn: là loại trí nhớ có khả năng ghi nhớ, giữ gìn tài liệu lâu
dài, bền vững, thường xuyên nhắc lại và tái hiện nó.
c. Vai trò của trí nhớ
- Với nhận thức: trí nhớ là “kho nguyên liệu” cung cấp tài liệu cho nhận
thức lý tính.

76
- Với đời sống: nhờ có trí nhớ mà vốn kinh nghiệm được tích lũy và cá
nhân mới có thể đem kinh nghiệm ấy vận dụng vào cuộc sống, đáp ứng ngày
càng cao những yêu cầu của cuộc sống cá nhân và của xã hội.
- Với sự phát triển tâm lý, nhân cách:
+ Không có trí nhớ thì không thể phát triển tâm lý, nhân cách con người.
+ Không có trí nhớ thì không có một sự phát triển nào trong lĩnh vực trí tuệ
cũng như hoạt động cải tạo, sáng tạo của con người
+ Trong lĩnh vực học tập, giáo dục, Không có trí nhớ hoặc trí nhớ kém phát
triển thì việc học tập kém, tư duy và sự hiểu biết thế giới có rất nhiều hạn chế.
Quá trình trí nhớ bao gồm trong nó nhiều quá trình, thành phần như: quá
trình ghi nhớ (tạo vết), quá trình giữ gìn (cũng cố vết), quá trình tái hiện (từ những
dấu vết làm sống lại những hình ảnh…) và quá trình quên (không tái hiện được).
Mỗi quá trình riêng lẽ này có một chức năng xác định, nhưng chúng không đối
lập nhau (ghi nhớ, giữ gìn tốt thì mới tái hiện tốt), thâm nhập vào nhau và chuyển
hóa cho nhau (khi tái hiện cũng chính là để giữ gìn, muốn tái hiện tài liệu nào đó
cho hành động thì phải có khả năng quên đi những tài liệu khác…)

2. Các giai đoạn của trí nhớ


a. Giai đoạn ghi nhớ
Ghi nhớ là quá trình ghi lại, tạo nên "dấu vết" của đối tượng trên vỏ não,
đồng thời cũng là quá trình gắn tài liệu cần ghi nhớ ấy vào chuổi kinh nghiệm
của cá nhân. Hiệu quả của việc ghi nhớ phụ thuộc không chỉ vào nội dung, tính
chất của tài liệu cần ghi nhớ mà còn phụ thuộc vào động cơ, mục đích và
phương thức hành động của cá nhân.
Căn cứ vào mục đích của sự ghi nhớ thì ghi nhớ bao gồm hai loại:
- Ghi nhớ không chủ định: là ghi nhớ không có mục đích đặt ra từ trước,
không đòi hỏi có nổ lực ý chí, không cần phải xem xét cách thức ghi nhớ mà cá
nhân vẫn ghi nhớ được tài liệu một cách "tự nhiên". Ghi nhớ không chủ định
diễn ra phụ thuộc vào xúc cảm mạnh mẽ của cá nhân thỏa mãn nhu cầu nào đó.
- Ghi nhớ có chủ định thì mục đích ghi nhớ được cá nhân tự giác đặt ra,
đồng thời có tìm kiếm những biện pháp mang tính chất kỹ thuật để đạt mục đích
77
ghi nhớ. Cho nên ghi nhớ có chủ định là sản phẩm của những hành động mang
tính kỹ thuật đặc thù, trong đó bản thân sự ghi nhớ là mục đích của những hành
động ấy. Kết quả của sự ghi nhớ này phần lớn phụ thuộc vào động cơ, mục đích
của sự ghi nhớ.
Trong ghi nhớ có chủ định việc sử dụng phương pháp hợp lý là một điều
kiện rất quan trọng để đạt hiệu quả cao. Ghi nhớ có chủ định thường có hai loại:
+ Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ dựa trên sự lập lại nhiều lần một cách
đơn giản, tạo ra mối liên hệ bề ngoài giữa các phần tài liệu cần ghi nhớ mà
không cần thông hiểu nội dung tài liệu đó. "Học vẹt" là biểu hiện cụ thể của loại
ghi nhớ máy móc. (Đôi khi cũng cần thiết như học ngoại ngữ, vi tính…)
+ Ghi nhớ có ý nghĩa (ghi nhớ logic): là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu
nội dung của tài liệu, sự nhận thức được những mối liên hệ logic giữa các tài
liệu đó. Ở quá trình ghi nhớ này có sự tham gia tích cực của tư duy và tưởng
tượng nhằm nắm lấy logic nội tại của tài liệu.
b. Giai đoạn giữ gìn (lưu giữ)
Giữ gìn những điều đã ghi nhớ được là một khâu cần thiết của hoạt động trí
nhớ, đó là sự giữ gìn thông tin bằng cách cũng cố những đường liên hệ tạm thời
trên vỏ não. Có hai hình thức giữ gìn:
- Giữ gìn dựa trên sự tri giác lặp đi lặp lại nhiều lần, sử dụng thường xuyên
tài liệu đã được ghi nhớ.
- Đào dâu phân tích, xác định ý nghĩa của tài liệu, vận dụng tài liệu vào
thực tiễn.
c. Giai đoạn tái hiện
Những tài liệu được ghi lại và giữ gìn trong trí nhớ làm thành kho tàng kinh
nghiệm của cá nhân. Về sau này trong những điều kiện nhất định, những kinh
nghiệm đó được sống lại trong trí nhớ nhờ nhận lại và nhớ lại.
- Nhận lại là khả năng nhận ra đối tượng nào đó khi tri giác lại đối tượng
đó. Lúc nhận ra được là lúc biểu tượng cũ và hình ảnh tri giác lần thứ hai nhập
lại làm một.

78
Cũng có khi kết quả nhận lại sai do biểu tượng cũ còn mờ nhạt mà những
đối tượng tri giác lần hai có nhiều nét gần giống nhau. Sự nhận lại cũng có thể
không đầy đủ và do đó không xác định (như khi gặp lại một người, biết là người
quen đã gặp, nhưng không nhớ được tên người đó). Vì vậy, không nên xem khả
năng nhận lại là tiêu chuẩn đánh giá trí nhớ của cá nhân.
- Nhớ lại là khả năng làm xuất hiện lại trong óc những hình ảnh của sự vật hiện
tượng đã được ghi nhớ trước đây mà không cần tri giác sự vật hiện tượng đó.
+ Nhớ lại không chủ định là sự nhớ lại một cách tự nhiên (chợt nhớ, sực
nhớ) một cái gì đó khi cá nhân gặp một hoàn cảnh cụ thể, không cần phải xác
định nhiệm vụ cần nhớ lại.
+ Nhớ lại có chủ định là sự nhớ lại một cách tự giác, chịu sự chi phối của
nhiệm vụ cần nhớ lại.
+ Hồi tưởng là sự nhớ lại có chủ động, nhưng dù có cố gắng cá nhân vẫn
không nhớ hết các sự kiện, các tài liệu được nhớ lại, được sắp xếp lại phục vụ
cho mục đích nào đó của cá nhân.

3. Một số quy luật của trí nhớ


a. Quy luật liên tưởng.
Khi ghi nhớ hay hồi tưởng lại đối tượng nhớ, cá nhân bao giờ cũng nhớ cả
về những đối tượng khác có liên quan với đối tượng nhớ. Hiện tượng đó gọi là
sự liên tưởng.
Có 4 loại liên tưởng trong trí nhớ là: liên tưởng gần nhau, liên tưởng giống
nhau, liên tưởng trái ngược và liên tưởng nhân – quả.
Trong công tác và đời sống, quy luật này được vận dụng rất nhiều để tác
động giúp cho cá nhân nhớ lại chính xác vấn đề hoặc kiểm tra sự thật nào đó.
b. Quy luật ấn tượng.
Trong quá trình sống của cá nhân, sự tác động của sự vật, hiện tượng hay
loại sự vật, hiện tượng nhiều khi lặp đi, lặp lại nhiều lần với hình thức, cường
độ, tính chấr… không giống nhau. Trong những trường hợp đó, tác động lần đầu
tiên hoặc những tác động gây cảm xúc mạnh thường được ghi nhớ và giữ gìn lâu
bền nhất. Đó là quy luật về tính ấn tượng.
79
Quy luật này được vận dụng nhiều trong giáo dục và giao tiếp. Đặc biệt là
giáo dục trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo, nhi đồng cần phải cung cấp tri thức chuẩn
mực, khuôn mẫu. Còn trong giao tiếp người ta thường cố gắng tạo ra ấn tượng
tốt cho đối tượng ở lần gặp đầu tiên.
c. Quy luật về sự phụ thuộc vào hoạt động chung với đối tượng.
Các đối tượng nào mà cá nhân có hoạt động chung với nó (hợp tác hay sử
dụng nó trong hoạt động của mình) thì sẽ được cá nhân nhớ chi tiết, chính xác
và lâu bền hơn. Chẳng hạn, những điều luật mà điều tra viên phải thường xuyên
vận dụng trong công tác của mình được nhớ tốt hơn, vì qua hoạt động chung với
đối tượng, cá nhân có hiểu biết sâu sắc, đầy đủ hơn cả về cấu trúc, công dụng, ý
nghĩa… của đối tượng đó.
Quy luật này được vận dụng để rèn luyện trí nhớ rất có hiệu quả. Cá nhân
muốn nhớ tốt cái gì, cố gắng đưa nó vào trong hoạt động của mình (vận dụng, sử
dụng nó trong hoạt động thực tiễn).

4. Sự quên và vấn đề rèn luyện trí nhớ


a. Quên và quy luật của quên.
- Quên là không tái hiện lại được nội dung đã ghi nhớ trước đây vào thời
điểm cần thiết. Nó diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau: có cái hình như không thể
nào quên, có cái phải chật vật lắm mới nhớ lại được, thậm chí có cái không thể
nào nhớ lại được. Song tâm lý học chỉ ra rằng, nếu hiện tại ta không thể nhớ lại
được một sự kiện nào đó, thì điều kiện đó chưa có nghĩa là nó đã bị quên hoàn
toàn, một thời điểm khác nó có thể xuất hiện lại. Thường ta không còn nhớ những
hình thức cụ thể của một cái gì đó, nhưng bản chất và ý nghĩa ổn định của nó đã
nhập vào trí thức và kinh nghiệm của ta. Đó là sự giữ gìn tri thức trong trí nhớ.
- Sự quên thường diễn ra theo quy luật sau:
+ Cá nhân thường quên những vấn đề không liên quan hoặc ít liên quan đến đời
sống của mình, những vấn đề không phù hợp với nhu cầu, hứng thú của cá nhân.
+ Những vấn đề không được cũng cố hoặc không sử dụng thường xuyên thì
dễ bị quên.

80
+ Cá nhân cũng hay quên khi gặp những kích thích mạnh hoặc mới lạ gây
ức chế.
+ Sự quên diễn ra theo trình tự: Chi tiết quên trước, cái cơ bản quên sau.
+ Quy luật của EbinGao (Enbinghau): Sự quên diễn ra không đều: ở giai
đoạn đầu mới ghi nhớ tốc độ quên khá nhanh và sau đó chậm dần.
b. Cách chống quên.
Những biện pháp cơ bản để chống quên là:
- Cá nhân phải tiến hành ôn tập ngay sau khi ghi nhớ tài liệu nào đó.
- Do quy luật hưng phấn và ức chế của não, nên phải ôn xen kẻ các tài liệu,
không nên ôn liên tục một loại tài liệu nào đó.
- Cần tiến hành ôn tập thường xuyên, ôn rải rác, phân tán ra nhiều đợt.
- Phải ôn tập một cách tích cực bằng cách tập trung chú ý, nhớ lại và tư duy
khi ôn tập, vận dụng các giác quan khi ôn tập (mắt nhìn tài liệu khi cần thiết, miệng
đọc học nhẩm, tay viết), tích cực vận dụng luyện tập, thực hành khi ôn tập.
- Ôn tập kết hợp với nghỉ ngơi và bồi dưỡng thể chất hợp lý, đặc biệt cần
đủ các yếu tố khoáng chất.
- Cần thay đổi các hình thức và phương pháp ôn tập.
c. Vấn đề rèn luyện trí nhớ
Nội dung rèn luyện trí nhớ bao gồm:
- Rèn luyện thói quen ghi nhớ bằng cách luôn đặt cho mình nhiệm vụ ghi
nhớ các kinh nghiệm lĩnh hội được.
- Rèn luyện bằng cách tích cực vận dụng các ph. pháp ghi nhớ: căn cứ vào đặc
điểm tài liệu để vận dụng các thủ thuật ghi nhớ (theo điểm tựa, ôn tập, sơ đồ, đưa
vào hoạt động…). Kết hợp nhiều giác quan trong tiếp nhận tài liệu cần ghi nhớ.
- Rèn luyện thói quen tìm hiểu, đào sâu suy nghỉ xác định bản chất, ý nghĩa
của vấn đề.
- Cũng cố trí nhớ bằng cách ôn luyện thường xuyên, gắn những kinh
nghiệm cần nhớ vào hoạt động và rèn luyện các biện pháp chống ức chế.

81
III. CHÚ Ý

1. Khái niệm chú ý


a. Định nghĩa
Chú ý là một trạng thái tâm lý luôn đi kèm với các quá trình tâm lý và hoạt
động, là sự tập trung của ý thức vào đối tượng (lựa chọn, quy đối tượng về phạm
vi hẹp) để giúp chủ thể phản ảnh tốt, định hướng cho hoạt động và đảm bảo điều
kiện thần kinh - tâm lý cho hoạt động đạt kết quả.
b. Đặc điểm
- Chú ý không xuất hiện và tồn tại độc lập: với tư cách là một trạng thái
tâm lý, chú ý có đặc điểm là không xuất hiện độc lập mà luôn luôn đi kèm với
các quá trình nhận thức và các hoạt động tâm lý khác, giúp cho các hoạt động
tâm lý đó có kết quả. Chẳng hạn chúng ta vẫn thường nói: chăm chú nhìn, lắng
tai nghe, tập trung suy nghĩ… là những biểu hiện của chú ý.
- Chú ý là sự biểu hiện tính tích cực của chủ thể: chú ý không có đối tượng
riêng, đối tượng của nó chính là đối tượng của hoạt động tâm lý mà nó đi kèm.
Tuy không độc lập, nhưng chú ý không phải là hiện tượng thụ động phụ thuộc,
mà là sự biểu hiện tính tích cực của chủ thể trong việc lựa chọn đối tượng và tập
trung mọi nổ lực giúp cho hoạt động diễn ra thuận lợi, hiệu quả.
- Chú ý là một phẩm chất của nhân cách: hoạt động của mỗi cá nhân gắn
bó với những đặc trưng riêng về nhân cách của họ. Giá trị của mỗi cá nhân được
xã hội đánh giá trên cơ sở ý thức – khả năng – kết quả cống hiến của cá nhân đó.
- Chú ý luôn được biểu hiện qua hành vi của cá nhân: sự chú ý thường biểu
hiện ra qua hệ thống hành vi của con người, có thể nhận thấy sự chú ý biểu lộ rõ
qua nét mặt, ánh mắt, cử chỉ…, nhưng cũng có khi sự chú ý được ngụy trang bởi
những biểu hiện giả vờ như giả vờ ngủ, đọc, giả vờ không nghe… Vì vậy cần
phân biệt trạng thái chú ý với hiện tượng giả vờ chú ý.
c. Vai trò
Chú ý có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tâm lý của con người,
là điều kiện cần thiết của mọi hoạt động.

82
- Đối với nhận thức: chú ý giữ vai trò như người lính gác, nhà tổ chức để
lựa chọn đối tượng thật sự. Con người phát triển theo chiều hướng nào, dung
nạp những gì cho nhân cách, điều đó có ảnh hưởng không nhỏ bởi đặc điểm về
sự chú ý, khả năng chú ý của họ.
- Đối với hoạt động: chú ý giữ vai trò “phông, nền” cho mọi hoạt động của
con người diễn ra, chú ý giúp cho việc tập trung năng lượng, tập trung mọi nổ
lực hướng tới đối tượng và điều khiển hành vi của chủ thể một cách chính xác để
hoạt động đạt hiệu quả. Nếu không có sự tập trung chú ý, các thao tác hành động
của con người sẽ không chính xác.
- Đối với hệ thần kinh: nhờ có chú ý giúp cho chủ thể không phải phân tán
năng lượng để phản ánh tất cả các tác động đến con người. Chú ý giúp chủ thể
chỉ lựa chọn phản ánh một số tác động nhất định (kích thích có ý nghĩa, cường
độ lớn), do đó hoạt động thần kinh không bị quá tải. Chú ý giúp chủ thể bảo vệ
thần kinh.

2. Các loại chú ý


Căn cứ vào mức độ tích cực, chủ động của chủ thể khi lựa chọn đối tượng,
chú ý được chia làm ba loại:
- Chú ý có chủ định: là chú ý có mục đích, có kế hoạch định ra từ trước,
được chủ thể ý thức đầy đủ về nhiệm vụ cần chú ý và đặc điểm đối tượng chú ý,
do đó có sự chuẩn bị tâm thế trước khi hoạt động diễn ra.
- Chú ý không chủ định: là loại chú ý không có mục đích tự giác, không
cần sự nổ lực của bản thân.
- Chú ý “sau chủ định”: loại chú ý này vốn là chú ý chủ định, nhưng không
đòi hỏi sự căng thẳng của chú ý, lôi cuốn con người vào nội dung và phương
thức hoạt động tới mức khoái cảm, đem lại hiệu quả cao của chú ý.
3. Các phẩm chất của chú ý và vấn đề rèn luyện chú ý
a. Các phẩm chất của chú ý
- Sức tập trung chú ý: là khả năng tập trung sự chú ý cao độ vào một vài
đối tượng, không bị phân tán bởi các đối tượng khác, hay còn gọi là khả năng
quy đối tượng chú ý vào phạm vi hẹp.
83
Khả năng này giúp cho chủ thể trong hoạt động tập trung được mọi nổ lực
vào phạm vi đối tượng hẹp, không bị ảnh hưởng của các tác động ngoại lai làm
phân tán, đối tượng đó tiết kiệm được thời gian, năng lượng, có điều kiện phản
ánh kỹ càng, sâu sắc và tác động chính xác đến đối tượng, đem lại hiệu quả cao.
- Khả năng phân phối chú ý: là khả năng cùng một lúc chủ thể chú ý đến
nhiều đối tượng khác nhau, tuy nhiên trong đó đối tượng chính được chú ý tốt
hơn, còn các đối tượng khác được chú ý với mức độ thấp hơn, nhưng vẫn đảm
bảo cho chủ thể phản ánh được ở mức độ cần thiết.
Khả năng phân phối chú ý càng cao chủ thể càng phản ánh được nhiều kích
thích, và do đó có những tác động cần thiết một cách kịp thời, chủ động, đảm
bảo cho chủ thể phát huy được tính tích cực trong hoạt động của mình.
- Tính khối lượng của chú ý: Tính khối lượng cũng là khả năng chủ thể
cùng lúc có thể chú ý đến nhiều đối tượng khác nhau, nhưng với mức độ rõ ràng
như nhau. Khả năng này giúp cho chủ thể có thể thực hiện nhiều công việc cùng
một lúc, tạo ra năng suất lao động cao, song đây là phẩm chất rất hiếm, ít người
có được ở mức độ cao, chủ thể phải khổ công rèn luyện nhiều mới có phẩm chất
này tốt được.
- Sự bền vững của chú ý: là khả năng duy trì chú ý vào đối tượng một thời
gian dài mà không bị phân tán bởi các kích thích khác. Đây là một phẩm chất
giúp cho chủ thể tập trung được nhiều thời gian và sức lực cho hoạt động và do
đó dễ đạt được mục đích.
- Khả năng di chuyển chú ý: là khả năng có thể chuyển chú ý từ đối tượng
này sang đối tượng khác theo yêu cầu của hoạt động. Đây là khả năng giúp cho
chủ thể có thể nhanh chóng chuyển đổi hoạt động, dễ dàng thích ứng với các
hoạt động kế tiếp nhau, mở rộng phạm vi hoạt động.
Các phẩm chất của chú ý đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của kiểu khí chất,
kiểu thần kinh, nhưng chủ yếu là sự rèn luyện của cá nhân. Cả năm phẩm chất
đều có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động và sự phát triển nhân cách của cá
nhân. Vì vậy, mỗi cá nhân đều cần rèn luyện các phẩm chất đó, không được coi
nhẹ bất kỳ một phẩm chất nào.

84
b. Vấn đề rèn luyện, điều khiển chú ý
- Rèn luyện chú ý: khả năng chú ý của cá nhân được biểu hiện và được
đánh giá thông qua sự thể hiện của các phẩm chất chú ý, vì vậy rèn luyện chú ý
là rèn luyện các phẩm chất cụ thể.
Muốn việc rèn luyện chú ý có hiệu quả, cá nhân phải luôn xác định cho
mình ý thức rèn luyện và phải có sự kiên trì, dần dần tạo cho mình thói quen tìm
tòi, phát hiện cái mới của đối tượng và tập tham gia hoạt động với nhiều đối
tượng cùng lúc.
- Điều khiển chú ý:
Các loại chú ý của con người có những cơ sở tồn tại khác nhau, có ưu,
nhược điểm khác nhau. Vì vậy, cá nhân cần chủ động điều khiển sự chú ý, kết
hợp các loại chú ý đề phát huy tác động tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực
của nó, tức là cần biết chủ động chuyển đổi giữa chú ý có chủ định và chú ý
không chủ định.
Muốn chuyển đổi từ chú ý có chủ định sang chú ý không chủ định cá nhân
phải có ý thức và biết cách tìm tòi, phát hiện ra cái mới lạ, cái ý nghĩa của đối
tượng, gắn nó với nhu cầu hứng thú, hoạt động nghề nghiệp của bản thân.
Ngược lại, muốn chuyển từ chú ý không chủ định sang chú ý có chủ định, cá
nhân phải vạch cho mình nhiệm vụ cụ thể và từ đó xác định kế hoạch chú ý. Có
điều khiển được như vậy, cá nhân mới chủ động và duy trì được chú ý lâu bền.

4. Đảng trí và chống đảng trí


a. Hiện tượng đảng trí
Đảng trí là sự không tập trung chú ý vào đối tượng cần chú ý ở thời điểm
cần chú ý. Có 3 loại đảng trí :
- Đảng trí bác học: là hiện tượng chỉ chú ý vào một vài đối tượng nhất định
mà “quên hết” những đối tượng khác xung quanh. Về bản chất nó là sự tập trung
chú ý quá cao, quá sâu vào đối tượng, thường biểu hiện ở các nhà khao học lớn.
- Lơ đảng là hiện tượng không tập trung được chú ý lâu vào đối tượng cần
chú ý, khả năng duy trì chú ý kém. Về bản chất đây là hiện tượng di chuyển chú
ý quá nhanh, chú ý liên tục chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác.
85
Nguyên nhân gây ra trạng thái lơ đảng có thể do tâm lý (không tìm được ý
nghĩa, sức hấp dẫn của đối tượng), cũng có thể là hiện tượng bệnh lý thần kinh.
- Sự « không tập trung chú ý« là hiện tượng không chú ý vào đối tượng
cần chú ý. Về bản chất không phải là sự không chú ý, mà chú ý không đúng đối
tượng cần chú ý vào lúc cần chú ý (ngồi trong lớp không nghe bài giảng mà lại
nghĩ về vấn đề khác). Nguyên nhân của hiện tượng này là do chủ thể không ý
thức được ý nghĩa, nhiệm vụ cần chú ý của mình.
Trên cơ sở hiểu biết về nguyên nhân của các dạng đảng trí, cá nhân cần
phải chủ động tích cực thực hiện các biện pháp chống đảng trí.
b. Chống đảng trí
- Rèn luyện khả năng và thói quen phân phối chú ý, học cách quan tâm tới
nhiều vấn đề xung quanh trong cuộc sống một cách đúng mức.
- Khi cần nhận thức sâu vấn đề nào đó, phải xác định rõ nhiệm vụ, huy
động nổ lực ý chí để tập trung và duy trì chú ý, kết hợp vận dụng các phương
pháp chuyển đổi từ chú ý có chủ định thành chú không chủ định. Rèn luyện thói
quen tìm tòi phát hiện kết hợp với thủ thuật « gán ý nghĩa« để tạo ra hứng thú
với đối tượng, giúp duy trì chú ý tốt.
Chống đảng trí luôn phải đi đôi với việc rèn luyện chú ý.

IV. KHÁI NIỆM VỀ ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM CỦA CÁ NHÂN

1. Định nghĩa
Đời sống tình cảm của cá nhân là các rung cảm thể hiện sự thái độ của
cá nhân đối với những sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan nảy
sinh do sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu của cá nhân.
So với nhận thức thì tình cảm có những đặc điểm riêng, khác với đặc điểm
của hoạt động nhận thức.
- Về nội dung phản ánh: Nhận thức chủ yếu phản ánh bản thân sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan thì tình cảm phản ánh mối quan hệ giữa sự vật,
hiện tượng với nhu cầu của cá nhân .
- Về phạm vi phản ánh: Ở nhận thức, sự vật tác động vào cá nhân đều được
phản ánh với mức độ sáng tỏ, đầy đủ khác nhau. Còn phạm vi phản ánh của tình
86
cảm mang tính lựa chọn, nghĩa là chỉ những sự vật có liên quan đến sự thỏa mãn
hay không thỏa mãn nhu cầu con người mới gây nên tình cảm. Vì thế, phạm vi
phản ánh của tình cảm có tính lựa chọn hơn so với nhận thức.
- Về phương thức phản ánh: Nhận thức phản ánh thế giới bằng hình ảnh,
biểu tượng, khái niệm… Còn tình cảm thể hiện thái độ con người đối với thế
giới bằng các rung cảm.
- Về chức năng: nhận thức cung cấp cho con người tri thức về đối tượng,
soi sáng cho hành động, còn xúc cảm – tình cảm giúp cho con người tỏ thái độ
với đối tượng.

2. Các phương tiện biểu cảm của đời sống tình cảm
Xem xét biểu hiện của đời sống tình cảm qua các hình thức sau:
- Những động tác biểu hiện ra bên ngoài: nét mặt, điệu bộ, sự vận động của
toàn thân, ngôn ngữ… trong đó nét mặt có ý nghĩa quan trọng thể hiện xúc cảm.
- Những thay đổi bên trong cơ thể:
+ Những thay đổi trong hoạt động và trạng thái của các cơ quan bên trong
cơ thể (nội quan), những biến đổi của nội quan trong đa số trường hợp kéo theo
sự thay đổi của diện mạo cá nhân.
+ Những biến đổi mang tính thể dịch, tức là những thay đổi trong thành
phần hóa học của máu và các chất dịch khác của cơ thể, trao đổi chất.
Như vậy, chúng ta thường suy xét tình cảm của cá nhân thông qua những
biểu hiện bên ngoài: động tác và thay đổi diện mạo của cá nhân, nhưng những
thứ “tiếng nói” này của tình cảm lại chịu sự chi phối của giáo dục, ý thức, nền
văn hóa, phong tục, thời đại… Vì vậy, tìm hiểu đời sống tình cảm của con người
thực sự khó khăn và phức tạp.

3. Vai trò của đời sống tình cảm


- Trong đời sống tâm lý của cá nhân, thì tình cảm giữ vai trò quan trọng đặc
biệt, tâm lý học xem tình cảm là mặt tập trung nhất, đậm nét nhất của nhân cách
con người.
- Tình cảm có quan hệ và chi phối toàn bộ các thuộc tính tâm lý của nhân cách:

87
+ Trước hết tình cảm chi phối tất cả các biểu hiện của xu hướng nhân cách,
tình cảm là mặt cốt lõi, là nội dung của tính cách, là điều kiện và động lực để
hình thành năng lực, là yếu tố có quan hệ qua lại với khí chất con người.
+ Đối với nhận thức: tình cảm là động lực mạnh mẽ kích thích cá nhân tìm
tòi khám phá, sáng tạo.
Tuy vậy, không phải lúc nào mối quan hệ giữa tình cảm và nhận thức cũng
diễn ra theo tỷ lệ thuận mà có trường hợp tình cảm có thể làm sai lệch nhận
thức, giữa lý và tình rất phức tạp, có khi mâu thuẫn nhau. Ví dụ như hiện tượng:
yêu nên tốt, ghét nên xấu; yêu nhau chín bỏ làm mười…
+ Với ý chí: tình cảm đúng mức có tác dụng cũng cố ý chí vững vàng, tình
cảm bồng bột hoặc quá mức có thể làm ý chí bị sai lệch, tình cảm hời hợt làm
cho ý chí mất tính quyết đoán, kiên quyết.
- Đối với hành động, tình cảm được nảy sinh và biểu hiện trong hoạt động
và đến lượt nó là một trong những động lực thúc đẩy con người hoạt động nếu là
tình cảm dương tính. Ví dụ hiện tượng: yêu nhau tam tứ núi cũng trèo. Ngược
lại, nếu là tình cảm âm tính thì sẽ làm tiêu tan, ý chí, nghị lực hành động.

4. Một số dạng cơ bản của đời sống tình cảm cá nhân


Tình cảm con người đa dạng cả về nội dung và hình thức biểu hiện. Xét từ
thấp đến cao, đời sống tình cảm của nhân cách có những mức độ sau:
a. Màu sắc xúc cảm của cảm giác
Đây là mức độ thấp nhất của đời sống tình cảm cá nhân, nó là một sắc thái
rung cảm đi kèm theo quá trình cảm giác: cảm giác về màu xanh dễ gây ra rung
cảm dễ chịu, màu đỏ gây ra ở cá nhân rung cảm rạo rực, nóng bức. Ở đây, sự rung
cảm chưa đủ mạnh, chưa đủ rõ để cá nhân có thể ý thức rõ ràng về nó. Vì thế,
rung cảm đó chỉ thoáng qua khi có cảm giác xảy ra, kích thích gây ra màu sắc
rung cảm là các thuộc tính riêng lẽ của sự vật, hiện tượng, gắn liền với cảm giác.
b. Xúc cảm
- Xúc cảm hay cảm xúc là một quá trình tâm lý, gắn với tình huống cụ thể,
là những rung động có cường độ thấp hoặc vừa phải, xảy ra trong thời gian
ngắn, phản ánh dưới dạng những rung động tức thời với kích thích.
88
Xúc cảm là những rung động cụ thể của con người trước những tình huống
cụ thể. Chia tay với người bạn thân đi xa chúng ta thấy buồn. Buồn là rung động
cụ thể của con người trước một tình huống cụ thể (sự chia tay), đó là xúc cảm.
Con người có 10 xúc cảm nền tảng: hứng thú, hồi hộp, vui sướng, ngạc
nhiên, đau khổ, căm giận, khinh bỉ, khiếp sợ, xấu hổ, tội lỗi.
Xúc cảm là mức độ rung cảm đầu tiên thể hiện rõ nét thái độ của cá nhân
dựa trên nhận thức tương đối rõ về đối tượng, là mức độ phổ biến nhất của đời
sống tình cảm.
Ví dụ: tình yêu Tổ quốc, bản thân nó không phải là xúc cảm. Nhưng tình
yêu ấy có thể (và phải) thể hiện ra bên ngoài trong những xúc cảm cụ thể: Vui
mừng, phấn khởi trước những thành tựu và thắng lợi trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước, căm giận đối với những âm mưu và hành động phá hoại,
xâm lược của kẻ thù.
- Xúc cảm dương tính được nảy sinh khi cá nhân được thỏa mãn nhu cầu
hay thực hiện thành công công việc và kế hoạch nào đó. Chúng sẽ thúc đẩy tính
tích cực hoạt động, thôi thúc, động viên con người hành động, tăng cường sức
mạnh thể lực và tinh thần của con người. Khi phấn khởi con người sẵn sàng “dời
non và lấp biển”. Khi thông cảm với bạn, con người tìm mọi cách giúp đỡ bạn
mà không tính thiệt hơn đối với bản thân.
Ngược lại, xúc cảm âm tính được nảy sinh khi cá nhân không được thỏa
mãn nhu cầu hay thực hiện thất bại công việc và kế hoạch nào đó, làm cho con
người trở nên thụ động hoặc hững hờ, làm yếu đi rất nhiều sức hoạt động của
con người. Tuy nhiên, đôi khi xúc cảm được nâng cao quá đáng sẽ dẫn đến sự
phản ánh xuyên tạc các đối tượng, sự giải thích chủ quan các sự kiện và vấp phải
những sai phạm về mặt logic trong kết luận và đánh giá.
c. Xúc động
- Xúc động là một quá trình tâm lý, là những rung cảm có cường độ mạnh
xảy ra trong thời gian ngắn và có khi cá nhân không làm chủ được bản thân
mình, không ý thức được hậu quả của hành vi, phản ánh những biến cố có ý
nghĩa liên quan đến cuộc sống của cá nhân.

89
Xúc động – đó là quá trình xúc cảm nhanh chóng xâm chiếm con người với
một cường độ diễn biến rất mạnh mẽ, làm thay đổi ý thức một cách rõ rệt, làm
phá vỡ sự kiểm soát hành động bằng ý chí (mất tự chủ) và làm thay đổi toàn bộ
hoạt động của con người. Xúc động có ảnh hưởng lớn sinh lý và mọi hoạt động
tâm lý của con người.
Nguyên nhân của các cơn xúc động là cường độ rất mạnh của các tác nhân
kích thích và nội dung của chúng có ý nghĩa rất quan trọng với cá nhân.
+ Các xúc động dương tính được nảy sinh khi cá nhân được thỏa mãn nhu
cầu hay thực hiện thành công công việc và kế hoạch nào đó. Chúng sẽ thúc đẩy
tính tích cực hoạt động.
+ Xúc động âm tính thường ảnh hưởng không tốt đến hoạt động và sức
khỏe của cá nhân, có khi nó còn làm rối loạn hoạt động tâm lý của cá nhân: sự
khiếp đảm, sợ hãi có thể làm cho cá nhân ngất choáng, tồn thương tim mạch; sự
phiền muộn làm cho cá nhân kém minh mẫn, thiếu tế nhị trong giao tiếp…
d. Tâm trạng
Tâm trạng là trạng thái tâm lý, là những rung động của cá nhân có cường
độ trung bình hoặc yếu, tồn tại trong thời gian dài, có khi suốt cả cuộc đời và
nhiều khi cá nhân không ý thức được nguyên nhân gây ra nó.
Có hai loại tâm trạng: tích cực (vui vẻ, lạc quan, phấn khởi) và tiêu cực (lo
lắng, chán nản, buồn phiền). Tâm trạng có xu hướng lan tỏa, bao trùm lên, ảnh
hưởng rõ rệt tới toàn bộ đời sống và hoạt động của cá nhân trong một thời gian
dài: thúc đẩy hoạc kìm hãm hoạt động của cá nhân. Nguyên nhân trực tiếp gây
nên tâm trạng thường là cá nhân gặp biến cố quan trọng. Tâm trạng tiêu cực
thường là do biến cố về sức khỏe suy sụp nhanh, những vấp váp trong cuộc sống
làm ảnh hưởng không tốt tới vị thế xã hội của cá nhân.
Ở những người trưởng thành thì tâm trạng ít chịu ảnh hưởng bởi những tác
động bên ngoài, mà chủ yếu chịu ảnh hưởng của bản lĩnh nhân cách của mình
(tức chịu ảnh hưởng của lý tưởng, niềm tin và kinh nghiệm của mình). Những
người có bản lĩnh vững vàng có thể sống và hoạt động với tâm trạng lạc quan,

90
tin tưởng, yêu đời trong những hoàn cảnh, những tình huống không thuận lợi
chung cho nhiều người hoặc riêng với bản thân mình
đ. Tình cảm
Tình cảm là một thuộc tính tâm lý, là sự rung động biểu thị thái độ ổn định
(tương đối) của cá nhân đối với những đối tượng xác định.
Tình cảm tồn tại tiềm tàng và chỉ bộc lộ thông qua các xúc cảm.
Khi tình cảm có cường độ mạnh, thời gian tồn tại khá lâu dài và được cá
nhân ý thức rõ ràng theo hướng tích cực thì gọi đó là say mê. Có những say mê
tích cực (học tập, nghiên cứu khoa học, làm việc…). Có những say mê tiêu cực
gọi là đam mê (Cờ bạc, rượu chè…).
Có nhiều cách phân loại tình cảm. Nếu căn cứ vào tính chất, nhu cầu thì
tình cảm có hai loại là: tình cảm cấp thấp và tình cảm cấp cao
+ Tình cảm cấp thấp: Có liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn
nhu cầu sinh lý (thể chất) của con người.
+ Tình cảm cấp cao: Có liên quan đến nhu cầu mang tính xã hội, đó là tình
cảm có liên quan tới nhu cầu văn hóa, tinh thần. Những tình cảm cấp cao mang
tính người rất đậm nét, chúng thể hiện cuộc sống tinh thần và nhân cách của mỗi
một con người. Vì thế, phải đặc biệt quan tâm đến những loại tình cảm này. Căn
cứ vào lĩnh vực hoạt động nào hoặc những hiện tượng xã hội nào là đối tượng
của tình cảm mà người ta chia thành những loại tình cảm cấp cao sau đây:
* Tình cảm đạo đức: Biểu thị thái độ của con người đối với các yêu cầu
đạo đức trong xã hội, trong quan hệ con người với con người, với cộng đồng
như: tình mẹ con, bạn bè, đồng chí, tình cảm nhóm xã hội, hạnh phúc, nghĩa vụ,
lẽ sống, lương tâm…
* Tình cảm trí tuệ: Biểu thị thái độ của cá nhân đối với tri thức, với nhu
cầu nhận thức của cá nhân. Nó gắn liền với hoạt động trí tuệ, học tập, sáng tạo.
Tình cảm trí tuệ – đó là biểu hiện thái độ của con người đối với tri thức, với
nhu cầu nhận thức của cá nhân. Nó gắn liền với hoạt động trí tuệ, nảy sinh trong
hoạt động giao tiếp, đặc biệt là trong hoạt động học tập, sáng tạo.

91
Tình cảm trí tuệ ở dạng khái quát nhất thì đó là tình yêu chân lý. Thứ tình
yêu này buộc con người phải khắc phục những khó khăn trong quá trình nhận
thức và con người sẽ cảm thấy niềm hạnh phúc to lớn và sâu sắc khi họ đạt đến
sự khám phá chân lý.
* Tình cảm thẩm mỹ: Là biểu hiện thái độ rung cảm của con người đối với
cái đẹp trong hiện thực khách quan.
Tình cảm thẩm mỹ có mối quan hệ nội tại với tình cảm đạo đức. Và do đó,
giáo dục tình cảm thẩm mỹ có tác động mạnh mẽ đối với giáo dục tình cảm đạo
đức. Thực vậy, một con người có tình cảm chân chính và sâu sắc về cái đẹp thì
họ không thể là con người độc ác.
* Tình cảm hành động: Là thái độ biểu thị sự rung cảm của cá nhân đối với
hành động, liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu thực hiện
hành động đó.
Đối tượng của loại tình cảm này là lĩnh vực thực tiễn của con người (tức
những hoạt động khác nhau của con người). Bởi vậy, tình cảm hoạt động thực
tiễn được hiểu là thái độ xúc cảm của con người đối với sự phong phú và đa
dạng của hoạt động của chính mình.
* Tình cảm mang tính chất thế giới quan: là mức độ cao nhất của tình cảm
con người, thường được diễn đạt bằng các từ: “tinh thần” (tinh thần trách
nhiệm, dân tộc, tập thể, tổ chức kỷ luật…), “chủ nghĩa” (chủ nghĩa yêu nước,
nhân văn, nhân đạo…). Ở mức độ này, tình cảm rất ổn định và bền vững, có tính
khái quát, tính tự giác cao, trờ thành một nguyên tắc trong thái độ và hành vi.
Các loại tình cảm nói trên có mối quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, chi
phối lẫn nhau tạo nên sự phong phú của tình cảm con người. Trong cuộc sống
giáo dục cần chú ý đầy đủ và đúng mức đến việc hình thành và phát triển các loại
tình cảm nói trên cho các cá nhân. Khi giáo dục tình cảm phải thực hiện đồng
thời chứ không phải giáo dục xong tình cảm này rồi mới giáo dục tình cảm kia.
* Những đặc điểm của đời sống tình cảm.
- Tính nhận thức: khi có tình cảm nào đó, con người phải nhận thức được
đối tượng, thấy được ý nghĩa của đối tượng đối với bản thân. Con người biết

92
mình yêu, ghét đối tượng đó là vì sao. Tình cảm bao giờ cũng có đối tượng xác
định vì thế tình cảm mang tính nhận thức. Ba yếu tố nhận thức, rung động và thể
hiện cảm xúc tạo nên tình cảm con người.
- Tính xã hội: tình cảm thực hiện chức năng tỏ thái độ của con người, tình
cảm mang tính xã hội và không phải là phản ứng sinh lý đơn thuần, tình cảm
mang đặc trưng của xã hội loài người, chỉ có ở người. Tình cảm được hình thành
và phát triển trong môi trường xã hội.
- Tính khái quát: tình cảm có được do tổng hợp hóa, động hình hóa, khái
quát hóa những xúc cảm đồng loại. Rung cảm của tình cảm là rung cảm được
khái quát từ nhiều xúc cảm đồng loại.
- Tính ổn định: tình cảm là thuộc tính tâm lý, là những kết cấu tâm lý ổn
định, tiềm tàng của nhân cách, khó mất đi. Tuy nhiên tình cảm không phải là bất
biến mà có thể thay đổi trong quá trình hoạt động và giao tiếp của cá nhân.
- Tính chân thực: tình cảm phản ánh chân thực nội tâm và thái độ của cá
nhân với đối tượng, con người có thể lừa dối người khác, cố che dấu tình cảm của
mình bằng những "động tác giả" ngụy trang chứ không thể tự lừa dối được mình.
- Tính hai mặt (đối cực): tình cảm của cá nhân gắn liền với sự thỏa mãn hay
không thỏa mãn nhu cầu, trong hoàn cảnh này thì những nhu cầu này được thỏa
mãn còn nhu cầu khác thì bị kìm hảm. Tương ứng với điều này khi tình cảm
hình thành và phát triển trở thành tình cảm mang tính đối cực hay hai mặt:
dương tính – âm tính (yêu – ghét, vui – buồn, sướng – khổ, khinh – phục…).
Tính hai mặt trên không phải bao giờ cũng loại trừ nhau mà đôi khi thể
hiện sự xen kẽ hoặc nối tiếp nhau tạo nên sự phong phú, đa dạng của tình cảm.
Hai mặt của tình cảm có thể chuyển đổi cho nhau, tác động lẫn nhau trong
điều kiện nhất định, là cơ sở tồn tại của nhau. Mất một mặt, mặt kia trở nên vô
nghĩa (đau khổ nhiều nên thương yêu lắm, ngọt bùi nhớ lúc đắng cay). Xuất phát
từ tính hai mặt của tình cảm, để hình thành tình cảm tích cực thì ngoài việc giáo
dục xây dựng mặt tốt, tích cực cần phải đi đôi với việc phê phán mặt xấu, tiêu
cực: xây dựng tình cảm yêu nước đi đôi với lòng căm thù quân xâm lược; xây
dựng tính công bằng đi đôi với đấu tranh chống tham nhũng…

93
5. Một số quy luật của đời sống tình cảm cá nhân
a. Quy luật "thích ứng"
Trong lĩnh vực tình cảm, nếu kích thích gây xúc cảm nào đó cứ lặp đi lặp
lại nhiều lần một cách đơn điệu, không thay đổi cường độ, hình thức thì đến một
lúc nào đó sẽ bị suy yếu và lắng xuống không còn gây xúc cảm nữa. Đó là hiện
tượng "chai sạn" của tình cảm. Ví dụ "gần thường, xa thương". Nếu kích thích
cứ tiếp tục tác động còn có thể gây cảm xúc đối lập: kích thích lúc đầu gây sự
hài lòng, thích thú, sau quá nhiều lần lặp lại sẽ gây sự bực bội tức giận.
b. Quy luật cảm ứng (hay "tương phản")
Trong quá trình hình thành và biểu hiện của tình cảm, có sự tác động qua lại
giữa những mặt đối cực của tình cảm cùng loại hoặc của tình cảm khác nhau: tức là
sự xuất hiện hoặc suy yếu của một tình cảm này có thể làm tăng hoặc giảm một
tình cảm khác xảy ra đồng thời hoặc nối tiếp với nó. Ví dụ như càng yêu nước thì
càng căm thù quân xâm lược, kẻ tay sai bán nước; càng yêu sự công bằng, dân chủ
thì càng ghét bất công, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán… Trong giáo dục tư
tưởng tình cảm người ta thường sử dụng quy luật này: Biện pháp như ôn nghèo
nhớ khổ, ôn cổ tri tân (ôn lại những tình cảm lúc nghèo khổ để gia tăng tình cảm
hiện tại khi cuộc sống vật chất đã được cải thiện đầy đủ; ôn lại tình cảm đã qua
để cũng cố, giữ gìn và phát triển tình cảm hiện nay).
c. Quy luật "di chuyển"
Trong cuộc sống có khi cá nhân không kịp làm chủ tình cảm của mình, cho
nên tình cảm của con người có thể di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng
khác có liên quan với đối tượng gây nên tình cảm trước đó. Đó là thể hiện của
quy luật di chuyển tình cảm. Ví dụ hiện tượng "giận cá chém thớt", "yêu nhau
yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng".
d. Quy luật "pha trộn"
Sự pha trộn của tình cảm là sự kết hợp màu sắc âm tính với màu sắc dương
tính. Tính pha trộn cho phép trong đời sống của cá nhân hai tình cảm đối lập
nhau có thể cùng tồn tại trong một con người, có thể cùng xảy ra một lúc, chúng

94
không loại trừ nhau mà quy định lẫn nhau. Quy luật pha trộn phản ánh tính phức
tạp, đa dạng và mâu thuẫn có thực trong hiện thực khác quan.
đ. Quy luật "lây lan"
Tình cảm của người này có thể lan truyền từ người này sang người khác.
Nền tảng của quy luật này là tính xã hội trong tình cảm của con người.
Ví dụ: hiện tượng "vui lây", "buồn lây", “cảm thông”, “đồng cảm”, hiện
tượng hoảng loạn trong xã hội…
Quy luật này có ý nghĩa trong các hoạt động tập thể của con người, là cơ sở
của nguyên tắc “giáo dục trong tập thể và thông qua tập thể".

6. Sự hình thành tình cảm của cá nhân


- Tình cảm được hình thành trên cơ sở nhận thức, nhận thức đúng thì mới
có thể có tình cảm rõ ràng, đúng đắn. Vì vậy trong giáo dục cần chú trọng cung
cấp cho cá nhân những tri thức đúng đắn, chính xác về đối tượng và bồi dưỡng
cho cá nhân khả năng nhận thức khách quan, khoa học.
- Tình cảm của cá nhân được hình thành trong giao tiếp. Cũng như những
hiện tượng tâm lý cá nhân khác, tình cảm được hình thành trong giao tiếp. Giao
tiếp đó của cá nhân bao giờ cũng diễn ra trong điều kiện xã hội - lịch sử nhất
định và vì thế tình vảm cá nhân mang dấu ấn xã hội – lịch sử , con người biệt lập
với xã hội thì không thể có tâm lý người và vì thế không thể có tình cảm, đặc
biệt là tình cảm cấp cao của con người (tình cảm đạo đức, trí tuệ...)
- Tình cảm của cá nhân với sự vật, hiện tượng nào đó bị chi phối bởi hoạt
động của cá nhân với nó. Tình cảm rất chân thực, không vay mượn được, do
vậy để hình thành tình cảm nào đó đối với đối tượng xác định đòi hỏi cá nhân
phải hoạt động tương ứng. Thông quan hoạt động thì nhu cầu hình thành và phát
triển, bằng hoạt động cá nhân sẽ chiếm lĩnh sự vật, hiện tượng để thỏa mãn nhu
cầu của mình. Để có lòng yêu ngành, yêu nghề không còn con đường nào khác
là phải lao vào học tập, công tác trong ngành nghề đó. Sự lây lan xúc cảm, tình
cảm từ cá nhân này sang cá nhân khác không phải là con đường cơ bản để hình
thành tình cảm của con người mà phải trong quá trình hoạt động giao tiếp nhằm
thỏa mãn các nhu cầu cá nhân.
95
- Tình cảm được hình thành và biểu hiện thông qua những xúc cảm cùng
loại. Trong quá trình hoạt động để thỏa mãn nhu cầu, động cơ của cá nhân, có sự
vật hiện tượng làm nảy sinh những xúc cảm cùng loại (đó là những xúc cảm
cùng dương tính hay cùng âm tính do một loại đối tượng gây ra). Khi những xúc
cảm cùng loại được tổng hợp hóa, khái quát hóa, động hình hóa thì hình thành
nên tình cảm của cá nhân đối với đối tượng đó. Cũng trong hoạt động, tình cảm
của cá nhân với ai, với cái gì được biểu hiện thông qua xúc cảm.
Trong công tác giáo dục con người thì tình cảm vừa là nội dung vừa là
phương tiện giáo dục. Giáo dục tình cảm cho cá nhân trước hết là giáo dục lòng
nhân ái của con người

V. Ý CHÍ VÀ HÀNH ĐỘNG Ý CHÍ

1. Khái niệm ý chí


a. Định nghĩa ý chí
Ý chí là mặt năng động của ý thức, được thể hiện ở việc đề ra mục đích,
phương hướng hành động, khắc phục khó khăn và điều khiển hành động của
mình để đạt được mục đích đề ra.
(Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những
hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nổ lực khắc phục khó khăn trở ngại
bên trong và bên ngoài).
- Ý chí chỉ có ở con người, bởi vì ý chí là mặt năng động của ý thức, mặt
biểu hiện cụ thể của ý thức trong hoạt động thực tiễn. Chỉ có con người mới có
khả năng lựa chọn mục đích hành động, điều khiển hành động nhằm đạt mục
đích đề ra. Ý được hình thành trong quá trình hoạt động đấu tranh cải tạo tự
nhiên và xã hội của con người.
- Ý chí là sức mạnh tinh thần, là mặt điều chỉnh của ý thức, giúp con người
làm thay đổi chiều hướng, tính chất, hình thức của hành động, làm tăng hay
giảm cường độ của hành động phù hợp với mục đích đã đề ra. Ý chí cho phép
con người hạ quyết tâm vượt qua những khó khăn tưởmg chừng như không vượt
qua được.

96
Nhờ có ý chí con người đã cải tạo được thiên nhiên, cải tạo xã hội, sáng tạo
được giá trị vật chất và tinh thần, đạt được những chiến công và có những phát
minh khoa học.
b. Bản chất của ý chí
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng: Ý chí trước hết là một hiện tượng
tâm lý, là sự phản ánh hiện thực khách quan của não và có cơ sở vật chất là não
người. Do đó, ý chí có mối liên hệ chặc chẽ với thế giới xung quanh, không có
hiện thực và không có não người thì không có ý chí.
Vấn đề bản chất của ý chí chỉ có thể được xem xét, giải quyết đúng đắn khi
dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin về “tự do và tất yếu”.
Trước khi hành động, con người có khả năng tự đề ra mục đích, xác định
kế hoạch hành động. Việc xác định mục đích hành hành động phụ thuộc vào
trình độ nhận thức, khả năng nắm bắt quy luật của cá nhân. Cá nhân có thể tự do
lựa chọn mục đích hành động nhằm thỏa mãn nguyện vọng, nhu cầu của mình.
Trình độ nhận thức của con người về các quy luật khách quan càng cao bao
nhiêu, thì ý chí và hành động của con người càng biểu thị rõ trình độ tự do bấy
nhiêu.
Tuy nhiên, con người không phải hành động một cách tùy tiện. Hành động
của con người luôn tuân theo quy luật, nghĩa là có tính tất yếu. Con người không
thể hành động trái với quy luật của tự nhiên và xã hội. Và như vậy, ý chí của con
người vừa mang tính tự do vừa thể hiện tính tất yếu.

2. Chức năng của ý chí


Là mặt năng động của ý thức, ý chí là hình thức tâm lý điều chỉnh hành vi
tích cực nhất ở con người. Ý chí gắn với hành động nhằm thực hiện chúc năng
kích thích và kìm hãm hành động.
- Chức năng kích thích, thúc đẩy hành động: chức năng này đem lại tính tích
cực cho chủ thể, làm cho con người có thể vượt qua được mọi khó khăn trở ngại
để đạt được ý muốn, mục đích đã định. Chức năng kích thích thúc đẩy hành động
thể hiện khả năng cải tạo thế giới của con người, làm cho hành động của con
người khác hẳn về chất so với khả năng thích nghi với môi trường của con vật
97
- Chức năng kìm hãm hành động: đây là khả năng tự làm ức chế, tắt dần
hành động, khả năng ngừng lại, khước từ một vấn đề nào đó khi cần thiết.
Những vấn đề này có thể là sự kìm hãm những thói quen, những ham muốn…
không phù hợp với chuẩn mực xã hội. Chức năng kìm hãm hoạt động thể hiện
tính chịu đựng, tính kỷ luật và tính mục đích trong hành động của các nhân.

3. Vai trò của ý chí


a. Đối với hành động
Ý chí luôn luôn và chỉ thể hiện trong hành động đòi hỏi có sự nổ lực vượt
khó khăn. Ý chí giữ vai trò là khởi động hành động, điều khiển tốc độ, kìm hãm
chấm dứt hành động. Trong khi điều khiển hành động của cá nhân nhằm đạt
mục đích, ý chí thể hiện sự tự do tương đối của mình trong việc lựa chọn
phương tiện, biện pháp để thực hiện hành động. Sự tự do tương đối của ý chí
còn thể hiện ở khả năng ra quyết định khi cá nhân đó nắm được quy luật vận
động của hoàn cảnh khi hành động diễn ra.
Tuy nhiên, con người không phải hành động một cách tùy tiện, hành động
của con người luôn tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là nó có tính tất yếu.
Và như vậy, ý chí của con người vừa mang tính tự do vừa thể hiện tính tất yếu.
b. Đối với các hiện tượng tâm lý khác
- Đối với nhận thức
Nhận thức là cơ sở giúp con người có khả năng đề ra mục đích hành động,
nhận thức làm cho ý chí có nội dung, làm cho con người có nổ lực ý chí đúng
lúc, đúng chổ.
Ngược lại, nhờ có ý chí con người biết điều chỉnh được hành vi của mình,
biết có nổ lực trí tuệ hoặc tự kiềm chế những hành động cần thiết nhằm đạt được
các mục đích trong hoạt động nhận thức. Tuy nhiên, giữa nhận thức và ý chí
không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau:
+ Trong cuộc sống có nhiều người có nhận thức, có những quyết định sáng
suốt nhưng lại không có đủ ý chí, quyết tâm, nghị lực để hành động thực hiện
quyết định đó.

98
+ Ngược lại, cá nhân có ý chí cao, nhưng nổ lực đó lại sử dụng một cách vô
ích vì không tính toán, hiểu biết sâu sắc thực tế.
+ Có những người có quyết tâm, có ý chí nhưng lại hướng ý chí to lớn đó
vào những mục đích tầm thường và như vậy không đạt được mục đích cao đẹp
trong đời sống và không được xã hội chấp nhận.
- Đối với tình cảm
Tình cảm thực hiện vai trò điều khiển ý chí của cá nhân trong hành động (là
động cơ thúc đẩy hay kìm hãm cá nhân hành động): tình cảm tích cực sẽ tăng
cường sự nổ lực ý chí của cá nhân trong hành động; tình cảm tiêu cực sẽ làm suy
yếu, tan biến ý chí của cá nhân.
Ngược lại, tình cảm cũng chịu sự kiểm soát chặt chẽ của ý chí. Nếu tình
cảm không phù hợp với hành động và ý chí, cản trở cá nhân hành động thì ý chí
thực hiện chức năng ức chế, kìm hãm sự xuất hiện của tình cảm đó để hành động
đạt được mục đích. Sự vững vàng, sáng suốt của ý chí giúp cá nhân xác định
được tình cảm rõ ràng, đúng đắn.
Trong hành động, nhận thức giữ vai trò chủ đạo, giúp cho hành động của
con người diễn ra theo quy luật, đúng hướng, còn tình cảm giữ vai trò là động
lực thúc đẩy hành động. Nhận thức và tình cảm cuối cùng phải được thể hiện
bằng ý chí và hành động ý chí thì mới có tác dụng cải tạo, biến đổi hoàn cảnh,
bắt hoàn cảnh phục vụ đời sống con người. Như vậy, ý chí chính là mặt năng
động của ý thức được biểu hiện trong thực tiễn, là tính tích cực chủ động của ý
thức nhằm tác động vào hoàn cảnh thông qua hành động có mục đích.
Với vai trò điều khiển, điều chỉnh tích cực nhất ở con người, ý chí là mặt
trụ cột, là phẩm chất cơ bản của nhân cách.

4. Phẩm chất của ý chí


a. Tính mục đích của ý chí
Tính mục đích của ý chí cho phép con người điều chỉnh hành vi hướng vào
mục đích tự giác. Người có tính mục đích cao có đặc trưng là: luôn có một mục
đích chủ đạo, sẵn sàng và kiên quyết dồn sức của mình để thực hiện bằng được
mục đích đã định, mạnh dạn gạt bỏ các mục đích thứ yếu, không cần thiết,
99
không có liên quan đến mục đích chính; biết hành động theo mục đích đã đề ra
một cách có kế hoạch và có hệ thống. Con người nếu thiếu tính mục đích thì
hành động dễ mất phương hướng, dễ nản chí khi gặp khó khăn và do đó sẽ
không hoàn thành được nhiệm vụ.
Tính mục đích của ý chí phụ thuộc vào thế giới quan, vào nội dung đạo
đức và tính giai cấp của nhân cách mang ý chí.
Người cán bộ, chiến sĩ công an có tính mục đích cao phải là người luôn đấu
tranh vì sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, kiên
dịnh nâng cao tinh thần trách nhiệm, tập trung sức lực và tài năng, hành động
sáng tạo trong mọi lĩnh vực.
b. Tính độc lập – tự chủ của ý chí
Là phẩm chất của con người biết chủ động điều khiển và điều chỉnh mọi ý
chí, tình cảm, thái độ và hành động của mình nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Đó là khả năng làm chủ được bản thân.
Người có tính độc lập tự chủ là người biết kiềm hãm tình cảm, làm chủ
được tâm trạng của mình, không có những hành động bộc phát, vội vàng mù
quáng và vô ý thức do những cơn xúc động mạnh mẽ gây ra. Ngay trong những
lúc gặp khó khăn, thử thách, người có phẩm chất này cũng không mất bình tỉnh,
mất tinh thần mà lúc nào cũng làm chủ được lời nói, hành vi, cử chỉ của mình.
Như vậy, người có tính tự chủ cao là người luôn làm chủ được bản thân mình,
làm chủ được đời sống tinh thần và tình cảm của mình.
Tính độc lập của ý chí không loại trừ khả năng cá nhân tự giác nghe theo
ý kiến của người khác và chấp nhận lời khuyên của họ. Cần phân biệt tính độc
lập của ý chí với những người chủ quan, bảo thủ, tự phụ, người có tính bướng
bỉnh (nghĩa là bất luận đúng hay sai đều phủ định) hoặc người dễ bị ám thị (tính
dễ bị ám thị xuất hiện ở những người dễ dàng từ bỏ ý kiến của mình, vui vẽ phục
tùng người khác mặc dù bản thân thấy trái với niềm tin của mình).
Người có tính độc lập ý chí là người luôn biết phân tích ý kiến của những
người xung quanh một cách có suy nghĩ, có cân nhắc và phê phán, biết đánh giá
ý kiến của người khác và sẵn sàng chấp nhận khi thấy hợp lý. Vì vậy, một khi

100
tính độc lập của ý chí được hình thành và cũng cố nó sẽ giúp cho con người hình
thành được niềm tin vào sức mạnh của chính bản thân mình.
c. Tính quyết đoán của ý chí
Là năng lực của cá nhân đưa ra được những quyết định một cách kiên
quyết, kịp thời và chính xác mà không có những giao động không cần thiết.
Con người có tính quyết đoán cao là người luôn tin và tin chắc chắn vào
việc thực hiện hành động của mình, con người luôn khẳng định được hành động
của mình như thế nào là đúng, không thể hành động khác được. Đó là hành động
hợp lý, tối ưu và phải đạo nhất.
Trong công tác công an, Bác Hồ đã dạy “Đối với địch phải kiên quyết,
khôn khéo”.
Cần phân biệt tính quyết đoán với sự độc đoán (là việc cá nhân bất chấp
đúng sai trong việc ra quyết định đó).
d. Tính kiên trì
Đây là khả năng và thói quen thực hiện đến cùng mục đích đề ra cho dù
con đường thực hiện mục đích có lâu dài gian khổ.
Con người có phẩm chất ý chí này có khả năng duy trì sự nổ lực cao, nhiều
khi khó khăn chỉ làm tăng thêm sự mong muốn tiếp tục hoàn thành công việc.
Bác Hồ đã dạy: “Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”.
Cần phân biệt tính kiên trì với sự lì lợm bướng bỉnh. Người bướng bỉnh
thường là người không có đủ can đảm để từ bỏ sự quyết định sai lầm do tính tự
ái nhỏ nhen của mình. Đó là con người thường ý thức được cái sai của mình,
biết được hành động của mình là không đúng, nhưng vẫn ngoan cố theo đuổi và
bảo vệ cho cái sai của mình. Đây là người kém ý chí.
đ. Tính dũng cảm của ý chí
Tính dũng cảm là một phẩm chất của ý chí cho phép con người khắc phục
được sự sợ hãi và bối rối trong hành động, là sự sẵn sàng và can đảm của con

101
người tiến tới mục đích, bất chấp mọi nguy hiểm cho tính mạng nếu thấy hành
động của mình hoàn toàn hợp với đạo đức và hợp với lẽ phải. Tính dũng cảm
của con người luôn gắn liền với một thái độ lành mạnh, với tinh thần trách
nhiệm và với trí tuệ minh mẫn.
Cần phân biệt tính dũng cảm với sự “liều mạng”, “bạt mạng”. Người liều
mạng là người không tính gì đến nguy hiểm kể cả tính mạng. Có nhiều nguyên
nhân để dẫn đến sự liều mạng, nhưng phổ biến nhất vẫn là chưa có một thái độ
lành mạnh, trí tuệ kém minh mẫn.
Tính “bạt mạng” là trường hợp con người muốn tỏ ra sự ngang tàng, táo
bạo, oai vệ của mình mà xem thường những nguy hiểm thực tế. Đây không phải
là những con người có ý chí dũng cảm.
e. Tính tổ chức kỷ luật
Người có tính tổ chức còn là người luôn biết gắn mình, quyền lợi và nghĩa
vụ của mình vào trong tập thể và trong tổ chức mà mình là một thành viên.
Con người có tính kỷ luật là người biết phục tùng những yêu cầu của tập
thể, biết tự giác thực hiện những nội quy, quy chế do tập thể đề ra, tự đặt mình
vào trong tập thể với tinh thần xây dựng và trách nhiệm của mình.
Các phẩm chất cơ bản của ý chí có liên quan chặt chẽ và tác động qua lại
lẫn nhau, hổ trợ cho nhau tạo thành ý chí ở cá nhân, giúp cho cá nhân giữ được
thái độ bình tĩnh, sáng suốt và hành động có kết quả, đạt mục đích đề ra trong
những điều kiện hoàn cảnh của cuộc sống. Trong đó tính mục đích của ý chí có
vai trò quan trọng và có ảnh hưởng nhiều hơn tới các phẩm chất khác.
5. Khái niệm hành động
a. Định nghĩa
Hành động là một bộ phận của hoạt động nhằm thực hiện một mục đích cụ
thể có ý nghĩa nhất định đối với cá nhân.
Là một bộ phận của hoạt động, nhưng hành động có tính độc lập tương đối
so với hoạt động, biểu hiện như sau:
- Một hành động có thể tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau.
- Một hoạt động có thể được thực hiện bằng nhiều hành động khác nhau.

102
- Trong những điều kiện nhất định, hành động và hoạt động có thể chuyển
hóa lẫn nhau.
Hành động của con người là sản phẩm của sự phát triển lịch sử. Nó được hình
thành và phát triển trong lao động, trong quá trình chinh phục và cải tạo thế giới.
Thông qua hành động, con người làm thay đổi hoàn cảnh bên ngoài nhưng đồng
thời cũng làm thay đổi chính bản thân mình. Do đó, hành động là một quá trình,
trong đó bộc lộ đầy đủ nhận thức, tình cảm, ý chí… của cá nhân. Với ý nghĩa đó,
hành động được xem như một đơn vị tâm lý hoàn chỉnh và tập trung nhất.
b. Phân loại hành động
- Hành động bản năng: là hành động không được ý thức về nguyên nhân,
biện pháp. Đây là những hành động gắn liền với những phản xạ bẩm sinh, di
truyền như: bản năng tự vệ, bản năng dinh dưỡng, bản năng sinh dục…, ở người
và các loài động vật đều có hành động bản năng. Cuộc sống của các loài động
vật là dựa vào hành động bản năng, ở con người hành động bản năng giữ vai trò
thứ yếu, nó khác về chất so với hành động bản năng của con vật, bởi vì con
người không có cái bản năng thuần túy, bản năng của con người là bản năng đã
được nhận thức.
- Hành động bộc phát: là hành động được thực hiện ngay lập tức khi có một
động lực đầu tiên thúc đẩy. Đây là những hành động thiếu sự suy nghĩ đầy đủ,
thiếu sự đối chiếu với quan điểm, niềm tin, đạo đức, vào hoàn cảnh thực tế khi
hành động. Hành động bộc phát thường xảy ra ở trẻ em, do ý chí chưa phát triển.
Đối với người lớn, hành động bộc phát thường xảy ra trong những tình huống cụ
thể như: gặp những kích thích mạnh đột ngột, xúc cảm mạnh, đang chờ đợi căng
thẳng hoặc trong lúc hoang mang dao động. Hành động bộc phát cũng dễ xảy ra
ở những người có khí chất nóng nảy, ýchí kém phát triển, khả năng tự kiềm chế
bản thân yếu.
- Hành động ý chí: là hành động có sự tham gia đầy đủ của ý thức, đây là
hành động có sự suy nghĩ, tính toán của cá nhân. Trong quá trình hành động, ý chí
điều khiển, điều chỉnh giúp cá nhân vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt mục
đích đề ra. Trong cuộc sống, con người luôn biết đề ra mục đích trước khi hành

103
động, biết cách khắc phục khó khăn, có sự nổ lực ý chí để hành động thỏa mãn
nhu cầu của mình. Hành động ý chí là hành động đặc trưng ở người trưởng thành.
- Hành động tự động hóa: là những hành động có ý thức của con người.
Ban đầu, đây vốn là hành động ý chí, nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần, do luyện
tập mà trở nên thành thạo, không đòi hỏi sự kiểm soát thường xuyên của ý thức
nhưng vẫn đạt được mục đích.
6. Hành động ý chí
a. Định nghĩa
Hành động ý chí là hành động có sự xác định trước về mục đích, có sự lựa
chọn phương tiện, biện pháp hành động và có sự nỗ lực cố gắng vượt qua khó
khăn để đạt được mục đích đã đề ra.
b. Đặc điểm của hành động ý chí
Hành động ý chí là hành động đặc trưng, bản chất của con người. Đó là
những hành động có đặc điểm sau:
- Hành động ý chí 1à hành động được con người ý thức một cách đầy đủ về
mục đích, biện pháp hành động.
- Kích thích gây ra hành động ý chí không phải là những tác động trực tiếp
của hoàn cảnh mà là những động cơ tâm lý, những kích thích bằng ngôn ngữ
thông qua tư duy của cá nhân.
- Trong hành động ý chí, cá nhân luôn có sự nỗ lực khắc phục khó khăn
nhằm đạt mục đích đã đề ra.
Tóm lại: Hành động ý chí là hành động có sự tham gia của ý thức ở mức độ
cao nhất. Trong hành động đó, con người ý thức được về mục đích, biện pháp
của hành động, luôn theo dõi, điều chỉnh hành động theo đúng mục đích, kế
hoạch đã vạch ra, mặc dù có nhiều khó khăn trở ngại.
c. Các loại hành động ý chí
Căn cứ vàn diễn biến và mức độ khó khăn của hành động ý chí, người ta
thường chia hành động ý chí thành 3 loại: hành động ý chí đơn giản; hành động
ý chí phức tạp và hành động ý chí cấp bách.

104
- Hành động ý chí đơn giản: là những hành động không đòi hỏi sự nỗ lực ý
chí cao. Trước khi hành động, cá nhân ý thức được mục đích cần đạt tới nhưng
không cần cân nhắc, tính toán biện pháp hành động. Đó là những hành động có
mục đích rõ ràng, nhưng dễ dàng thực hiện nên không cần tính toán về biện
pháp, không đòi hỏi phải huy động sự nỗ lực ý chí cao. Mức độ khó khăn đối
với hành động ý chí đơn giản là rất ít, cá nhân dễ dàng vượt qua để thực hiện
hành động.
- Hành động ý chí phức tạp: là hành động có sự lựa chọn mục đích, cân
nhắc, tính toán biện pháp trước khi hành động. Trong quá trình thực hiện, do có
nhiều khó khăn nên cá nhân phải có sự nỗ lực ý chí cao, có quyết tâm mới có thể
đạt mục đích đã đề ra. Hành động này thể hiện một cách đầy đủ các giai đoạn, từ
xác định mục đích, đấu tranh động cơ đến thực hiện kế hoạch hành động, nên
còn gọi là hành động ý chí điển hình. Hành động ý chí phức tạp rất phổ biến
trong cuộc sống của mỗi người.
- Hành động ý chí cấp bách: là những hành động được thực hiện trong thời
gian ngắn nhưng đòi hỏi cá nhân phải huy động tất cả trí tuệ và sức lực để đạt
mục đích. Việc quyết định hành động cũng như thực hiện hành động diễn ra
trong chớp nhoáng, do đó các giai đoạn của hành động như được hòa quyện vào
nhau, không phân biệt rõ ràng.
Hành động ý chí cấp bách thường xảy ra trong những hoàn cảnh đặc biệt,
trong đó các yếu tố cấp bách, khẩn trương, phức tạp, nguy hiểm đan xen nhau
đòi hỏi cá nhân phải nhanh chóng quyết định và giải quyết kịp thời. Trong các
tình huống này, khác với sự vội vàng, bộc phát, cá nhân vẫn ý thức được tính
cấp thiết phải hành động, khẩn trương lựa chọn biện pháp hành động và tập
trung sức lực, huy động tối đa nỗ lực ý chí để thực hiện hành động. So với các
hành động ý chí khác, đây là hành động có mức độ khó khăn nhiều nhất.
d. Các giai đoạn của hành động ý chí phức tạp
* Giai đoạn xác định mục đích, kế hoạch, biện pháp hành động
Hành động bản năng hoặc hành động bộc phát thường diễn ra tức khắc
dưới ảnh hưởng của những tác động bên trong hay bên ngoài. Hành động ý chí

105
khác với những hành động nói trên là, khi có tác động của hoàn cảnh bên ngoài
hay bên trong cơ thể thì trong đầu óc người ta diễn ra quá trình chuẩn bị để phản
ứng đáp lại các kích thích đó. Sự chuẩn bị này, tuỳ theo yêu cầu của công việc
và tùy theo đặc điểm cá nhân mà có thể diễn ra trong thời gian ngắn, dài khác
nhau, nhưng nó thường có các bước sau: hình dung ra mục đích, kế hoạch, biện
pháp hành động; đấu tranh động cơ; quyết định về mục đích, kế hoạch, biện
pháp hành động.
- Hình dung ra mục đích, kế hoạch, biện pháp hành động
Hình dung ra mục đích là bước đầu tiên của mọi hành động ý chí. Đó là sự
suy nghĩ tìm tòi và hình thành trong đầu óc con người về kết quả sẽ đạt được khi
thực hiện hành động. Trước khi thực hiện một hành động nào đó, ta thường đặt
câu hỏi: làm việc này để làm gì? kết quả đạt được sẽ như thế nào? Đó là xác
định phương hướng mục đích hành động.
Mục đích xuất phát từ nhu cầu, vì nhu cầu là động lực đầu tiên thúc đẩy cá
nhân tìm tòi và và nêu lên thành mục đích hành động cần đạt đến. Song mục
đích xuất phát từ nhu cầu không có nghĩa là nó hoàn toàn xuất phát từ chủ quan
của con người. Nguyên nhân đầu tiên của mọi hoạt động vốn nằm bên ngoài con
người. Người ta có nhu cầu này hay nhu cầu khác lại do điều kiện sống, do hoạt
động của xã hội quy định.
Trong phần lớn các trường hợp thì việc hình dung ra mục đích hành động là
do nhu cầu của cá nhân quy định. Nói cách khác đó là khi cá nhân có nguyện
vọng hướng vào những đối tượng nào đó cần thỏa mãn. Tùy theo mức độ phát
triển của nguyện vọng mà mục đích hành động được hình thành dần dần như
sau:
Đầu tiên, ở cá nhân xuất hiện ý hướng hành động. Ý hướng là mức thấp
nhất của nguyện vọng khi mà đối tượng nhu cầu của cá nhân còn chung chung,
mơ hồ. Ở mức độ này con người cảm thấy thiếu, thấy cần cái gì đó, nhưng đó là
cái gì thì chưa nhận thức được. Dần dần, ở mức độ cao hơn, mong muốn,
nguyện vọng phát triển thành ý muốn hành động. Dưới dạng ý muốn, mục đích
hành động hình thành đã tương đối rõ ràng hơn. Tuy nhiên, đối tượng cần thỏa

106
mãn vẫn chưa được xác định cụ thể, còn tiềm ẩn. ở giai đoạn này, cá nhân đã có
những những hình dung ban đầu về biện pháp, cách thức nhằm thỏa mãn mong
muốn của mình. Trong những điều kiện thích hợp, dưới tác động của các yếu tố
bên trong, bên ngoài, nguyện vọng của cá nhân phát triển thành ý định hành
động. ý định là mức độ cao nhất của nhu cầu, khi đó cá nhân đã xác định rõ ràng
đối tượng cần thỏa mãn và đồng thời đã hình dung ra phương thức để thỏa mãn.
Lúc này, nhu cầu đã trở nên cấp bách, nó đã nhằm đến đối tượng cụ thể với các
phương thức thích hợp.
Mục đích được hình dung trước khi con người bắt tay vào hành động.
Song, nhiều khi phải qua một quá trình thực hiện hành động thì người ta mới
nhận thức được nó một cách rõ rệt, đầy đủ. Mục đích còn quy định phương
hướng và tính chất hành động. Mục đích khi đã được xác định rõ ràng, kiên định
lại trở thành động lực thúc đẩy con người tập trung nghị lực, cố gắng phấn đấu
trong hành động để đạt được mục đích.
Sau khi hình dung ra mục đích hành động, con người suy nghĩ tìm tòi và
hình dung ra cách thức, biện pháp để đạt được mục đích đó. Kế hoạch, biện
pháp có thể được hình dung ra ngay sau khi ý thức được mục đích, song cũng có
khi, mục đích đã được xác định cụ thể, rõ ràng rồi con người mới suy tính đến
kế hoạch biện pháp thực hiện.
Việc hình dung ra kế hoạch, biện pháp hành động phụ thuộc vào kinh
nghiệm, tri thức trình độ năng lực từng người .
Kế hoạch, biện pháp để đạt được mục đích có vai trò rất quan trọng trong
hành động ý chí. Hành động thất bại có thể không phải do thiếu mục đích rõ
ràng, đúng đắn mà do kế hoạch, biện pháp không phù hợp, thiếu chính xác Mục
đích một khi được xác định thì tương đối ổn định, còn biện pháp và phương tiện
thì luôn luôn thay đổi. Vì vậy, khi hành động cá nhân phải có kế hoạch và biện
pháp linh hoạt, sáng tạo, sao cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh luôn biến
đổi.
Trong thực tiễn không phải bất cứ kế hoạch và biện pháp nào con người
hình dung ra đều được chấp thuận ngay. Thường thì phải thông qua sự cân nhắc,

107
tính toán đúng, sai, hơn, thiệt rồi mới lựa chọn hay gạt bỏ kế hoạch đó. Việc lựa
chọn mục đích hay biện pháp hành động đều có những động cơ nhất định chi
phối. Đó chính là quá tranh đấu tranh động cơ (đấu tranh tư tưởng) trong hành
động ý chí.
- Đấu tranh động cơ xác định mục đích, kế hoạch và biện pháp hành động
Động cơ là các yếu tố chi phối hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu của con
người, là tập hợp các kích thích gây ra tính tích cực của con người và quy định
xu hướng của tính tích cực đó. Động cơ chính là những nguyên nhân tâm lý bên
trong có ý nghĩa quy định việc lựa chọn hành động của cá nhân, thúc đẩy và
định hướng cho cá nhân theo hành động đó. Động cơ thôi thúc hay kìm hãm
hành động, nếu mục đích của các hành động phù hợp hay không phù hợp vớí
nguyện vọng, nhận thức, tình cảm của cá nhân. Nói cách khác, hành vi của con
người luôn do các yếu tố tình cảm, nhu cầu, niềm tin, quan điểm... đóng vai trò
là những động cơ bên trong chi phối. Những sự vật, hiện tượng của thế giới
khách quan, khi được phản ánh vào trong đầu óc con người đều có thể trở thành
động cơ thúc đẩy con người hành động. Các động cơ thúc đẩy hành động có thể
là các nhu cầu, hứng thú, niềm tin, tình cảm, đạo đức, quan điểm chính trị, tinh
thần trách nhiệm...
Động cơ hành động có thể chia ra làm nhiều loại: động cơ tốt, động cơ xấu;
động cơ lý trí, động cơ tình cảm; động cơ cụ thể, động cơ khái quát.
Một động cơ có thể dẫn tới nhiều hành động khác nhau. Chẳng hạn, vì sự
yên vui, hạnh phúc của nhân dân mà người cán bộ công an kiên quyết truy bắt
những kẻ phạm tội hay sẵn sàng nhận nhiệm vụ trong các điều kiện khó khăn,
gian khổ…
Một hành động có thể do nhiều động cơ khác nhau thúc đẩy. Chẳng hạn, có
người cung cấp tình hình cho cán bộ công an với động cơ vì trách nhiệm của
người công dân nhưng cũng có thể vì muốn gây thiện cảm, muốn được công an
giúp đỡ…
Có những động cơ chi phối hành động trong một thời gian dài, ít phụ thuộc
vào tình huống cụ thể. Đó là những động cơ khái quát. Chẳng hạn, người cán bộ

108
công an vì lý tưởng cộng sản và vì sự nghiệp an ninh của Tổ quốc mà hăng hái
tích cực trong mọi mặt công tác.
Ngoài những động cơ khái quát chi phối hành động của con người, còn có
những động cơ xuất hiện trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể có tác động
trong thời gian ngắn. Đó là động cơ cục bộ.
Động cơ khái quát làm cho hành động mang ý nghĩa rộng lớn hơn và phát
huy tác dụng trong một thời gian dài. Còn động cơ cụ thể có tác dụng làm động
lực trực tiếp thúc đẩy hành động. Hai động cơ này kết hợp tác động thì hành
động cá nhân mạnh mẽ và lâu bền.
Công tác công an có ý nghĩa xã hội lớn lao góp phần vào bảo vệ an ninh
quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, việc xây dựng bồi dưỡng động cơ khái
quát vì Đảng, vì dân, vì sự nghiệp an ninh quốc gia trong hành động của người
cán bộ công an là rất quan trọng. Mặt khác, chúng ta cũng phải chú ý bồi dưỡng
xây dựng những động cơ cục bộ cụ thể một cách đúng đắn vì nó có tác dụng trực
tiếp thúc đẩy hành động một cách mạnh mẽ của cá nhân.
Trong quá trình nảy sinh mục đích, cá nhân thường có sự cân nhắc, tính
toán các khả năng đạt được mục đích bằng các biện pháp, phương tiện và trong
các điều kiện nhất định. Nói cách khác, bên trong tư tưởng cá nhân 1uôn diễn ra
quá trình phân tích, sàng lọc, suy nghĩ, tính toán để quyết định lựa chọn mục
đích hành động. Đây là quá trình đấu tranh giữa các động cơ có tính chất trái
ngược nhau nhằm tìm ra lý do để bênh vực cho mục đích hành động mà cá nhân
sẽ lựa chọn.
Trong các hành động ý chí, đấu tranh động cơ là vấn đề có tính tất yếu, là
quy luật bên trong của quá trình xác định mục đích hành động. Sở dĩ phải đấu
tranh động cơ là vì trong cuộc sống, con người có nhiều nhu cầu, nguyện vọng
khác nhau cần được thoả mãn, từ đó nảy sinh nhiều hành động khác nhau để
thoả mãn nhu cầu đó. Cùng 1 lúc chúng ta không thể thực hiện tất cả các mục
đích, mà phải lựa chọn các nhu cầu, nguyện vọng, mục đích nào là đúng đắn, là
cần thiết nhất để thực hiện.

109
Trong hành động ý chí phức tạp, đấu tranh động cơ để quyết định mục đích
hành động thường diễn ra gay gắt, quyết liệt và căng thẳng. Chẳng hạn, trong
hoạt động hỏi cung, bị can thường phải trải qua quá trình đấu tranh động cơ gay
go, phức tạp giữa việc khai hay không khai, khai cái gì và khai như thế nào có
lợi cho chúng. Chúng thường suy tính rằng nếu khai ra hết thì sẽ phải chịu hình
phạt nặng, che giấu được chừng nào thì hình phạt nhẹ chừng nấy, nhưng nếu sự
che giấu bị vạch trần thì không được giảm nhẹ, không được hưởng lượng khoan
hồng vì có thái độ ngoan cố… Đó là quá trình đấu tranh, tính toán căng thắng
trong đầu óc bị can.
Tính chất quyết liệt, căng thẳng của quá trình đấu tranh động cơ phụ thuộc
vào ý nghĩa quan trọng của mục đích hành động đối với cá nhân; tính cấp thiết
của nhu cầu; điều kiện, hoàn cảnh; trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống, sự
từng trải của mỗi người...
Đấu tranh động cơ lựa chọn mục đích, biện pháp hành động là cuộc đấu
tranh về quan điểm tư tưởng, nhận thức, tình cảm… Đấu tranh giữa cái tiến bộ
và cái lạc hậu, giữa cái mới và cái cũ, giữa cái đúng và cái sai, giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
Đấu tranh động cơ cũng diễn ra cả khi lựa chọn phương tiện, biện pháp
hành động. Trong hành động ý chí phức tạp, mục đích có thể được thực hiện
bằng nhiều kế hoạch, biện pháp khác nhau. Mỗi biện pháp, kế hoạch có ưu điểm
và hạn chế nhất định. Điều đó có thể dẫn đến những tính toán và đôi khi tạo nên
ở cá nhân xung đột về nội tâm mạnh mẽ. Chẳng hạn, có những biện pháp dễ
thực hiện nhưng trái với đạo đức hay trái với tinh thần trách nhiệm. Có biện
pháp tuy khó thực hiện, không phù hợp với hứng thú, sở thích, nhưng lại phù
hợp với đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Việc lựa chọn mục đích kế hoạch và biện pháp hành động chính là quá
trình đấu tranh động cơ giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích
của xã hội, giữa lý trí với lý trí, giữa lý trí với tình cảm, giữa tình cảm với tình
cảm hoặc giữa trình độ năng lực với yêu cầu của nhiệm vụ...
- Quyết định thực hiện hành động

110
Sau quá trình đấu tranh động cơ gay gắt và quyết liệt, người ta đi đến quyết
định về mục đích kế hoạch, biện pháp và phương tiện hành động. Quyết định
nhanh hay chậm, đúng đắn, chính xác hay không, phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: mục đích đề ra có phải là để giải quyết một nhu cầu bức thiết hay không;
cường độ động cơ mạnh hay yếu; quan điểm lập trường, trình độ năng lực, tri
thức, phẩm chất ý chí và khí chất của cá nhân ra sao. Quyết định còn phụ thuộc
vào điều kiện hoàn cảnh khách quan có thuận lợi hay không thuận lợi; dư luận
xã hội của tập thể đồng tình hay phản đối và sự khuyên bảo góp ý của những
người xung quanh…
Quyết định có đúng hay không, cũng phụ thuộc rất nhiều vào lập trường
quan điểm và vào năng lực phân tích một cách chính xác các điều kiện khách
quan và chủ quan của cá nhân. Những phẩm chất ý chí của cá nhân cũng góp
phần tích cực vào sự quyết định này. Người cán bộ công an có tinh thần độc lập,
kiên quyết và sáng tạo thì khi quyết định một vấn đề nào đó đều có sự cân nhắc
nhưng không do dự, hoài nghi. Nếu người đó thiếu tính tự chủ thì chần chừ,
không dám quyết định và khi quyết định rồi cũng chưa hẳn tin tưởng vào quyết
định của mình. Sự do dự, dao động, hoài nghi chính 1à biểu hiện của ý chí yếu
ớt, kém linh hoạt.
Việc lựa chọn kế hoạch biện pháp và phương tiện phụ thuộc rất nhiều vào
năng lực nhận thức, đòi hỏi người ta phải phân tích điều kiện khách quan và chủ
quan một cách cụ thể, khoa học mới tìm ra được những kế hoạch biện pháp tối
ưu để đạt mục đích. Mặt khác việc lựa chọn kế hoạch biện pháp hành động còn
gắn chặt với quan điểm chính trị, đạo đức giai cấp. Bọn tư sản nêu ra phương
châm: bằng bất cứ biện pháp nào cũng được miễn là đem lại kết quả Đối với
chúng ta, kế hoạch biện pháp hành động tốt phải đem lại kết quả tốt nhất và phải
phù hợp với đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, phù hợp
với lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Sau đấu tranh động cơ thì mô hình của hành động được thiết lập một cách rõ
ràng ở trong đầu óc cá nhân. Như vậy cũng có nghĩa là cá nhân đã làm xong công
việc chuẩn bị hành động bên trong để có thể chuyển sang thực hiện quyết định .

111
* Giai đoạn thực hiện hành động
Sau khi đã xác định mục đích, lựa chọn kế hoạch, biện pháp, phương tiện
thì thực hiện là giai đoạn có ý nghĩa hết sức quan trọng của hành động ý chí.
Việc chuyển từ quyết định hành động sang thực hiện hành động là một bước
thay đổi về chất, vì đó là sự chuyển biến từ ý thức, nguyện vọng thành hiện thực.
Quyết định rồi mà không thực hiện thì tất cả mới chỉ là dự kiến, dự định, mới chỉ
là khả năng chứ chưa phải là kết quả thực tế, chỉ có bắt tay vào thực hiện thì mới
biến khả năng thành hiện thực.
Thực hiện hành động có nghĩa là tiến hành giải quyết các công việc cụ thể theo
kế hoạch đã vạch ra để đạt được mục đích trong một thời hạn nhất định nào đó.
Khi thực hiện hành động, cá nhân luôn gặp phải những khó khăn nhất định
đòi hỏi phải có sự nỗ lực ý chí khắc phục nhằm đạt mục đích đã đề ra. Có những
khó khăn khách quan và những khó khăn thuộc về chủ quan. Có những khó
khăn có thể được vượt qua một cách tương đối dễ dàng nhanh chóng, song có
những khó khăn đòi hỏi cá nhân phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn mới vượt qua
được. Quá trình thực hiện quyết định cũng đồng thời là quá trình thể hiện sự nỗ
lực ý chí cá nhân, khắc phục khó khăn chủ quan và khó khăn khách quan. Sự nỗ
lực ý chí là một yếu tố không thể thiếu được trong quá trình thực hiện quyết
định. Đó là một trong những đặc trưng của hành động ý chí.
Trong quá trình thực hiện quyết định, cá nhân có cố gắng, nỗ lực vượt qua
khó khăn, trở ngại hay không, nỗ lực cố gắng nhiều hay ít, điều đó phụ thuộc rất
nhiều vào ý nghĩa, tầm quan trọng của mục đích hành động. Nếu mục đích càng
có ý nghĩa lớn lao, càng quan trọng bao nhiêu thì càng cổ vũ cá nhân nỗ lực cố
gắng bấy nhiêu trong hành động. Cá nhân cũng sẽ nỗ lực cố gắng hơn khi đã
hoàn toàn tin tưởng vào sự đúng đắn của mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương
tiện đã chọn cũng như tin tưởng vào năng lực của mình. Nếu thiếu niềm tin thì
hành động trở nên do dự, rời rạc, thậm chí có thể dẫn đến bỏ dở công việc.
Những phẩm chất, ý chí của cá nhân cũng có ý nghĩa quan trọng tác động
đến sự cố gắng nỗ lực. Trong công tác, người cán bộ CA có tính kiên quyết,
dũng cảm, kiên trì, có thói quen thực hiện đến nơi đến chốn những kế hoạch đã

112
vạch ra thì dù có gặp khó khăn đến mấy cũng tìm mọi cách khắc phục để đạt
mục đích.
Ngoài ra, sự đánh giá cổ vũ của những người xung quanh hoặc sự động
viên của lãnh đạo, của tập thể đối với cá nhân cũng như phong trào thi đua đều
có tác động thúc đẩy cá nhân cố gắng hơn trong hành động.
Như vậy quá trình thực hiện hành động như thế nào không chỉ tùy thuộc
vào hoàn cảnh, điều kiện, phương tiện mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự nỗ lực,
quyết tâm của chính cá nhân. ý chí thể hiện tập trung và đầy đủ nhất khi khắc
phục khó khăn, giúp cá nhân quyết tâm đạt mục đích đã đề ra bằng sự nỗ lực của
bản thân. Điều đó dẫn đến các khả năng:
Một là, cá nhân dễ dàng thực hiện hành động, diễn hiến của hành động
đúng như kế hoạch đã đề ra, nhất là trong các trường hợp điều kiện, hoàn cảnh
bên ngoài có nhiều thuận lợi, phù hợp với kế hoạch của cá nhân.
Hai là, cá nhân có thể điều chỉnh hành động của mình cho phù hợp với
thực tế, do những khó khăn nhất định.
Ba là, cá nhân không tiếp tục thực hiện hành động nữa do hoàn cảnh không
phù hợp, hoặc do khó khăn quá nhiều, ý chí kém...
* Kết thúc, đánh giá kết quả hành động
Khi đã đạt mục đích hoặc không thể tiếp tục thực hiện hành động nữa do
những lý do nào đó, cá nhân kết thúc hành động của mình. Đây là giai đoạn cuối
cùng khép kín một hành động ý chí phức tạp. Đồng thời cũng là lúc cá nhân có
sự đối chiếu quá trình thực hiện hành động với kế hoạch đã vạch ra; đối chiếu
kết quả đã đạt được với mục đích ban đầu. Sự kiểm tra đối chiếu đó giúp cho cá
nhân có sự điều chỉnh, tạo nên động cơ mới giúp việc thực hiện các hành động
tiếp theo có kết quả tốt hơn. Sự điều chỉnh này chính là chức năng của ý chí, do
ý chí thực hiện.
Kết quả của hành động có thể làm con người cảm thấy hài lòng, thỏa mãn
nhưng cũng có thể không thỏa mãn, không hài lòng.
Trong khi so sánh, đối chiếu mục đích kế hoạch đã vạch ra với điều kiện,
hoàn cảnh thực tế, đối chiếu với quan điểm đạo đức, với những nhu cầu, nguyện

113
vọng và năng lực của bản thân, người ta có thể thấy mục đích, biện pháp đã
chọn là đúng đắn, nhưng lại chùn bước, từ bỏ quyết định khi gặp khó khăn trở
ngại. Đó là biểu hiện của người có ý chí yếu đuối, thấp hèn. Có trường hợp khi
tình hình đã biến đổi, mục đích kế hoạch ban đầu không phù hợp nữa nhưng cá
nhân vẫn không chịu thay đổi thì đó là biểu hiện của người có tính bảo thủ. Nếu
cá nhân biết phân tích rõ tình hình khách quan, chủ quan và điều chỉnh mục
đích, kế hoạch, biện pháp cho phù hợp và cố gắng nỗ lực đạt cho được thì đó là
biểu hiện của người có ý chí linh hoạt và kiên cường. Vì vậy thay đổi quyết định
khi cần thiết cũng là một vấn đề quan trọng trong hành động ý chí của cá nhân.
Ba giai đoạn trên đây của hành động ý chí có quan hệ gắn bó mật thiết với
nhau, nối tiếp và bổ sung cho nhau. Nó được thể hiện đầy đủ, rõ ràng nhất ở các
hành động ý chí phức tạp. Trong các hành động ý chí khác, do khó khăn không
nhiều hoặc do điều kiện hoàn cảnh đặc biệt (cấp bách, khẩn trương, nguy
hiểm...) nên các giai đoạn của hành động thể hiện không rõ ràng. Chúng dường
như hòa quyện, đan xen vào nhau, khó phân biệt.

VI. CÁC THUỘC TÍNH TÂM LÝ CỦA NHÂN CÁCH


1. Xu hướng
a. Định nghĩa xu hướng
Xu hướng là ý định hướng tới những mục tiêu có nhiều ý nghĩa đối với đời
sống cá nhân, là hướng hoạt động chủ yếu nhằm vươn tới mục tiêu đó trong thời
gian tương đối dài.
b. Các mặt biểu hiện của xu hướng.
Trong cuộc sống của cá nhân, xu hướng được biểu hiện ở các mặt như: nhu
cầu, hứng thú, thế giới quan, lý tưởng.
* Nhu cầu
- Định nghĩa: Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu về những cái cần thiết mà con
người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển trong những điều kiện xã
hội, lịch sử nhất định.
Nhu cầu là những đòi hỏi khách quan của mỗi người trong những điều kiện
nhất định đảm bảo cho sự sống, sự phát triển của con người
114
- Những đặc điểm cơ bản của nhu cầu.
+ Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng cụ thể.
Nhu cầu của cá nhân là sự đòi hỏi của cá nhân về “một cái gì đó” (vật chất
hoặc tinh thần), không có nhu cầu chung chung. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng
có khả năng đáp ứng sự thỏa mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy
con người hoạt động tích cực nhằm tới chiếm lĩnh đối tượng. Vì vậy, cần giáo
dục nhu cầu tích cực, có ý nghĩa đối với đời sống của bản thân và xã hội cho
sinh viên.
+ Nội dung của nhu cầu do điều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy
định.
. Điều kiện sống của cá nhân quy định nội dung, đối tượng của nhu cầu.
Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật (mang tính
bản năng) bởi vì điều kiện thỏa mãn nhu cầu của cá nhân nằm trong xã hội, do
đó, nhu cầu của con người mang bản chất xã hội, phát triển cùng với sự phát
triển của xã hội.
. Nội dung cụ thể của nhu cầu phụ thuộc vào phương thức thỏa mãn nhu
cầu đó
Nhu cầu cá nhân phụ thuộc vào những điều kiện phương thức thỏa mãn nhu
cầu trong gia đình và xã hội. Muốn làm nảy sinh các nhu cầu tích cực, phải tạo
ra những điều kiện và phương thức sinh hoạt tương ứng với nó.
+ Nhu cầu có tính chất chu kỳ.
Khi một nhu cầu nào đó được thỏa mãn, không có nghĩa là nhu cầu ấy
chấm dứt, mà nó vẫn tiếp tục được tái diễn nếu như cá nhân vẫn tiếp tục sống và
hoạt động trong những điều kiện và phương thức sinh hoạt như trước đây. Sự tái
diễn đó thường có tính chu kỳ. Tính chất chu kỳ đó là do sự biến đổi có tính chất
chu kỳ của hoàn cảnh xung quanh và của trạng thái cơ thể gây ra. Nhu cầu nảy
sinh sau có thể lặp lại nhu cầu trước hoặc có thể cao hơn so với nhu cầu trước.
- Quá trình thỏa mãn nhu cầu của cá nhân thường trải qua 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn khởi đầu: Hình thành nhu cầu và thúc đẩy cá nhân tìm kiếm
đối tượng để thoả mãn.

115
+ Giai đoạn 2: Là sự chiếm lĩnh và hưởng thụ đối tượng. Chính lúc này
xuất hiện cảm giác, xúc cảm dương tính hoặc âm tính.
+ Giai đoạn 3: Là khi nhu cầu được thỏa mãn, cá nhân lại nảy sinh nhu cầu
mới và lại thúc đẩy con người hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng mới.
Từ những vấn đề trên, chúng ta cần phải vừa phát triển sản xuất để thỏa
mãn nhu cầu của cá nhân trong cộng đồng về mọi mặt, vừa có sự hướng dẫn nhu
cầu và hoạt động của cá nhân, tránh những hiện tượng tự phát nảy sinh những
nhu cầu tiêu cực.
- Các loại nhu cầu.
+ Nếu căn cứ vào tính chất của nhu cầu thì có hai loại là nhu cầu tự nhiên
liên quan đến bẩm sinh di truyền (như nhu cầu ăn, uống, sinh đẻ…) và nhu cầu
xã hội (như nhu cầu học tập, nghiên cứu khoa học, chính trị…)
+ Nếu căn cứ vào đối tượng thỏa mãn thì thường chia thành 2 loại là nhu
cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại của cơ thể (ăn, uống, mặc, ở…) và nhu cầu
tinh thần (nhận thức, nghệ thuật, lao động, giao lưu, hoạt động xã hội…)
Sự phân chia như trên chỉ có tính chất tương đối. Những nhu cầu này đều
mang bản chất người và được quy định bởi điều kiện xã hội - lịch sử.
- Vai trò của nhu cầu.
+ Nhu cầu là nguồn gốc bên trong tạo nên tính tích cực của cá nhân và là
động cơ thúc đẩy cá nhân hoạt động.
+ Nhu cầu là cơ sở đầu tiên để hình thành xu hướng cá nhân: Cá nhân có
nhu cầu tích cực là cơ sở để hình thành xu hướng tích cực và ngược lại.
+ Nhu cầu là một trong những động lực của sự phát triển nhân cách. Đó
chính là quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu đã hình thành và khả năng
thực tế để thỏa mãn các nhu cầu đó của cá nhân. Khi mâu thuẫn trên được giải
quyết theo hướng tích cực sẽ trở thành động lực của sự phát triển nhân cách.
(Liên hệ với sinh viên công an)
* Hứng thú
- Định nghĩa: Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng
nào đó trong hiện thực khách quan, đối tượng đó vừa thỏa mãn nhu cầu có ý

116
nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại tình cảm, khoái cảm cho cá
nhân trong quá trình hoạt động.
Đặc trưng của hứng thú thể hiện ở hai yếu tố là nhận thức và tình cảm
- Các loại hứng thú.
+ Căn cứ vào nội dung của hứng thú, có hai loại:
. Hứng thú vật chất: biểu hiện sự ham thích của cá nhân về các đối tượng
thuộc lĩnh vực vật chất như ăn, mặc, ở, tiện nghi sinh hoạt…
. Hứng thú tinh thần: biểu hiện sự ham thích của cá nhân về các đối tượng
thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần như học tập, nghiên cứu khoa học, văn hóa,
nghệ thuật, thể dục thể thao…
+ Căn cứ vào tính chất xã hội của hứng thú, có hai loại:
. Hứng thú tích cực: là những hứng thú có tác dụng định hướng, thúc đẩy cá
nhân hoạt động vì lợi ích chung, phù hợp với chuẩn mực xã hội.
. Hứng thú tiêu cực: là những hứng thú có tác dụng định hướng, thúc đẩy cá
nhân hoạt động vì lợi ích riêng của cá nhân, không phù hợp với chuẩn mực xã
hội.
Như vậy, trong cuộc sống cần lựa chọn cho mình những hứng thú tích cực,
đồng thời phát triển nhiều hứng thú trên các lĩnh vực khác làm cho đời sống tâm
lý phong phú (liên hệ với sinh viên công an).
- Vai trò của hứng thú.
+ Hứng thú có vai trò đặc biệt trong xu hướng cá nhân, góp phần quan
trọng trong việc định hướng cuộc sống của cá nhân
+ Đối với hoạt động: Hứng thú là động lực mạnh mẽ thúc đẩy, kích thích cá
nhân hoạt động. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả
của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. Vì thế, cùng với nhu cầu, hứng thú
là một trong hệ thống động lực của nhân cách. Muốn học tập tốt phải có hứng
thú học tập, muốn có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng phải có hứng
thú say mê nghề nghiệp, yêu công việc.
+ Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp dẫn bởi
nội dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú.

117
Hứng thú ở các cá nhân khác nhau thì khác nhau cả về số lượng (nhiều hay
ít đối tượng) và chất lượng (hứng thú sâu hay nông). Những hứng thú này còn
thay đổi theo lứa tuổi, giới tính, lịch sử, sự phong phú của đời sống tâm lý…
- Hứng thú của cá nhân được hình thành trong quá trình hoạt động theo hai
con đường:
+ Con đường thứ nhất: Do những rung động, những khoái cảm thu được
trong quá trình hành động.
+ Con đường thứ hai: Do cá nhân nhận thức được ý nghĩa, vai trò của đối
tượng, hoặc bản thân quá trình ấy có ý nghĩa với lý tưởng sống của cá nhân.
Dù hứng thú được hình thành bằng con đường nào, thì hứng thú của cá
nhân cũng là sự phản ánh quan hệ giữa 2 yếu tố chủ quan và khách quan.
* Thế giới quan.
- Định nghĩa: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, quan niệm của
cá nhân, thể hiện trong việc xem xét, đánh giá và giải quyết các vấn đề trong tự
nhiên, xã hội và bản thân.
- Những tính chất cơ bản của thế giới quan:
+ Thế giới quan phản ánh tồn tại xã hội nên nó mang tính chất lịch sử xã
hội.
+ Tính khoa học: Tính khoa học của thế giới quan cá nhân được thể hiện ở
chổ các quan điểm đều nhất quán, logic với nhau và các luận diểm mà cá nhân
đó bảo vệ đều được chứng minh, kiểm nghiệm.
Việc kết hợp giữa dạy học với lao động, với cuộc sống và với thực tiễn đấu
tranh là phương thức thuận lợi hơn cả trong việc hình thành thế giới quan khoa
học cho con người.
+ Tính hệ thống và nhất quán: Tính nhất quán của thế giới quan được biểu
hiện ở chổ cá nhân tạo cho mình những quan điểm nhất định về các vấn đề cơ
bản của tồn tại tự nhiên và xã hội, của cuộc sống và hoạt động của bản thân và
những người xung quanh.
Những quan điểm về mỗi vấn đề riêng lẽ ấy được liên kết với nhau tạo
thành một hệ thống quan điểm và phương pháp luận thống nhất.

118
Nếu quan điểm, quan niệm của cá nhân thể hiện mọi nơi, mọi lúc đều như
nhau và liên kết với nhau thành một hệ thống duy nhất thì thế giới quan của cá
nhân đó mang tính nhất quán và hệ thống cao. Đó là những người có lập trường
kiên định, vững vàng sống có bản lĩnh.
Ngược lại, đó là loại người “tiền hậu bất nhất”, dễ dao động ngả nghiêng
hay bị lệ thuộc vào quan điểm của người khác.
+ Tính khái quát và tính cụ thể.
. Tính khái quát của thế giới quan được biểu hiện ở các quan điểm, quan
niệm của cá nhân phản ánh được bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, giúp
cho cá nhân vạch ra được những nguyên tắc chỉ đạo cuộc sống. Nhờ đó, cá nhân
mới nắm được bản chất, quy luật phát triển khách quan của tự nhiên và xã hội.
. Tính cụ thể được thể hiện các quan điểm, quan niệm của cá nhân có tác
dụng giúp cho cá nhân giải quyết được các vấn đề cụ thể trong cuộc sống.
Thế giới quan cá nhân là sự thống nhất giữa hai phẩm chất này. Nếu thiếu
tính khái quát sẽ không thấy nguyên tắc, quy luật chung, sẽ rơi vào “kinh
nghiệm chủ nghĩa”. Nếu thiếu tính cụ thể sẽ rơi vào “giáo điều chung chung” lời
nói không đi đôi với việc làm.
+ Tính hiệu lực
Khi đề cập đến tính hiệu lực của thế giới quan là nói đến vai trò của thế
giới quan đối với hoạt động của cá nhân, được thể hiện các quan điểm, quan
niệm của cá nhân khi đã hình thành nó điều chỉnh thái độ và hành vi của mình
cho phù hợp với mục đích cuộc sống đặt ra. Tính hiệu lực tạo cho con người
niềm tin vào hiện tại và tương lai.
- Vai trò của thế giới quan
+ Với xu hướng: Thế giới quan giữ vai trò chủ đạo, quyết định việc lựa
chọn xu hướng cá nhân. Thế giới quan điều chỉnh nhu cầu, hứng thú của cá nhân
cho phù hợp với hiện thực, là cơ sở hình thành lý tưởng cuộc sống.
+ Với hoạt động: thế giới quan là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của cá
nhân, điều chỉnh định hướng cho hoạt động và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy cá
nhân hoạt động.

119
d. Niềm tin của cá nhân.
- Niềm tin là cái kết tinh các quan điểm, tri thức, rung cảm, ý chí được con
người thể nghiệm, trở thành chân lý bền vững trong mỗi cá nhân.
Niềm tin tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động phù hợp với quan
điểm đã chấp nhận.
Niềm tin được cũng cố nhờ có nhu cầu được thỏa mãn, niềm tin sẽ mất đi
nếu những nhu cầu đó không được đáp ứng.
- Niềm tin giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của cá nhân. Nhờ có
niềm tin vào tương lai tốt đẹp mà cá nhân sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian
khổ trong cuộc đấu tranh, nhưng vẫn tràn đầy hy vọng.
- Niềm tin có tác dụng giúp cho cá nhân khỏe mạnh về tâm lý để vui sống
thoải mái tâm hồn, tăng sức lực cho hoạt động. Niềm tin được hình thành trong
quá trình hoạt động, do đó để xây dựng niềm tin đúng đắn, khoa học cho cá
nhân, chúng ta phải đưa họ vào hoạt động, thông qua hoạt động để họ thấy được
niềm tin, thỏa mãn nhu cầu của chính bản thân.
e. Lý tưởng
- Lý tưởng là một mục tiêu mà cá nhân cho là cao đẹp, một hình ảnh mẫu
mực hoàn chỉnh nhất của cuộc sống, có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ
cuộc sống và hoạt động của cá nhân trong một thời gian tương đối dài để đạt tới
mục tiêu đó.
Nói đến lý tưởng là đề cập đến ba yếu tố: nhận thức, tình cảm và hành động.
- Tính chất cơ bản của lý tưởng: Lý tưởng vừa có tính hiện thực, vừa có
tính lãng mạn:
+ Lý tưởng có tính hiện thực bởi vì những hình ảnh lý tưởng bao giờ cũng
được xây dựng từ nhiều "chất liệu" có trong hiện thực, nó có sức mạnh thúc đẩy
con người hoạt động để đạt mục đích hiện thực.
+ Lý tưởng có tính lãng mạn bởi vì mục tiêu của lý tưởng bao giờ cũng là
cái gì đó có thể đạt được trong tương lai, trong một chừng mực nào đó đi trước
cuộc sống và phản ánh xu thế phát triển con người.

120
Trong lý tưởng tính hiện thực và tính lãng mạng không tách rời nhau, liên
hệ với nhau. Nếu hình ảnh lý tưởng thiếu cơ sở hiện thực thì chỉ còn là hình ảnh
của mơ mộng viễn vông. Nếu thiếu tính lãng mạn thì hình ảnh đó thể hiện ước
muốn tầm thường.
- Vai trò của lý tưởng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
Lý tưởng có vai trò quan trọng trong đời sống cá nhân, có ảnh hưởng đến
sự hình thành và phát triển nhân cách theo hai hướng tích cực và tiêu cực.
+ Theo hướng tích cực: Lý tưởng có vai trò quan trọng trong đời sống cá
nhân. Lý tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách, nó có chức
năng xác định mục tiêu, chiều hướng phát triển của cá nhân, là động lực thúc
đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người, trực tiếp chi phối sự hình
thành và phát triển cá nhân.
Trong lý tưởng có sự thống nhất hài hòa giữa nhận thức sâu sắc, tình cảm
nồng cháy và ý chí kiên cường khiến cho lý tưởng có tác dụng như là động cơ cực
mạnh thúc đẩy hành động vượt mọi trở ngại trên con đường hiện thực hóa lý tưởng.
+ Nếu lý tưởng cá nhân mang tính không tưởng, viễn vong, cá nhân sẽ rơi
vào trạng thái chán nản, thất vọng, bi quan và hình thành những nét tâm lý tiêu
cực, dẫn đến nhân cách phát triển theo hướng tiêu cực.
Việc tự rèn luyện, tự ý thức về ước mơ, hoài bảo, lý tưởng của cá nhân có
một ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách .
KL: Các mặt biểu hiện của xu hướng nêu trên tuy có vai trò khác nhau
nhưng giũa chúng có quan hệ với nhau rất chặt chẽ tạo nên chiều hướng phát
triển của nhân cách.
c. Vấn đề giáo dục, rèn luyện xu hướng
- Cần hình thành, phát triển các nhu cầu, hứng thú phong phú, cân đối, có ý
nghĩa xã hội tích cực, đề phòng, ngăn chặn các nhu cầu, hứng thú tiêu cực.
- Tự rèn luyện bồi dưỡng thế giới quan của CNMLN, hình thành niềm tin
khoa học đối với các vấn đề xảy ra trong hiện thực.
- Việc giáo dục, bồi dưỡng xu hướng cho cá nhân phải tiến hành thường
xuyên, bằng nhiều biện pháp khác nhau, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.

121
2. Tính cách cá nhân
a. Tính cách và nét tính cách.
Tính cách cá nhân bao gồm nhiều nét tính cách.
- Nét tính cách là một thuộc tính tâm lý nói lên thái độ đặc trưng của cá
nhân đối với từng mặt, từng khía cạnh, từng lĩnh vực của hiện thực, được biểu
hiện bằng các hành vi xử sự tương ứng quen thuộc của cá nhân.
Mỗi nét tính cách là một thuộc tính tâm lý cá nhân. Tổng hợp nhiều nét tính
cách tạo thành tính cách cá nhân.
- Tính cách là hệ thống thái độ đặc trưng của cá nhân với hiện thực được
thể hiện bằng hệ thống các hành vi, cách xử sự tương ứng quen thuộc của cá
nhân đó.
- Nhận biết tính cách không phải qua một vài hành vi mà phải xem xét một
hệ thống hành vi của cá nhân.
b. Đặc điểm của tính cách
* Tính ổn định, bền vững và tính linh hoạt của tính cách.
Thái độ trong nét tính cách và tính cách phải là thái độ điển hình của cá
nhân, xuất hiện nhiều lần trở thành thuộc tính tâm lý. Những hành vi, cử chỉ,
cách nói năng tương ứng với chúng được lặp đi, lặp lại nhiều lần trở thành thói
quen thì mới trở thành nét tính cách và tính cách. Tính ổn định của tính cách
biểu hiện ở chỗ những thuộc tính tâm lý đã có bền vững trong mọi hoàn cảnh,
mọi tình huống. Tính cách có tính ổn định nhưng không có nghĩa một nét tính
cách nào đó ở con người là bất biến. Tính ổn định ở đây có ý nghĩa tương đối .
Tính cách của con người có thể biến đổi trong quá trình sống của cá
nhân. Đó là tính linh hoạt của tính cách. Nhờ đó, người ta có thể giáo dục và cải
tạo con người, có thể làm mất đi hoặc hình thành một nét tính cách nào đó của
con người.
* Tính phức hợp: tính cách là một loại thuộc tính tâm lý cá nhân do nhiều
thuộc tính tâm lý cá nhân kết hợp lại với nhau biểu hiện hệ thống thái độ và thể
hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ của cá nhân.

122
* Tính thống nhất: tính cách là sự kết hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân
(nhu cầu, hứng thú, thế giới quan, tình cảm, ý chí, khí chất…) thành một thể
thống nhất. Trong tính cách không có các thuộc tính tâm lý bài trừ lẫn nhau cùng
tồn tại.
* Tính riêng biệt của tính cách.
Tùy theo phương thức kết hợp giữa các thuộc tính tâm lý làm cho tính cách
của mỗi người mang sắc thái độc đáo, riêng biệt. Tính cách của một người
thường khác với những người xung quanh, nó mang những đặc điểm riêng biệt
của người đó. Nó là cái riêng của từng người, là kiểu đối xử, kiểu sống của mỗi
cá nhân. Đó là tính độc đáo của tính cách. Bởi vậy, người ta thường nói “sống
mỗi người mỗi nết”.
* Tính điển hình của tính cách (tính xã hội – lịch sử).
Tính cách của con người mang tính lịch sử, xã hội. Nó phản ánh điều kiện
lịch sử xã hội. Những điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa nhất định,
thậm chí cả những điều kiện đất đai, thời tiết… đều ảnh hưởng đến tính cách con
người. Đặc biệt là giáo dục, những người xung quanh, chế độ xã hội, phong tục
tập quán ảnh hưởng rất mạnh đến tính cách. Tất cả những đặc điểm ấy tạo nên
tính điển hình của tính cách.
Như vậy, tính điển hình của tính cách phản ánh những điều kiện chung của
xã hội, lịch sử, của dân tộc, giai cấp, phản ánh những điều kiện chung của cuộc
sống con người. Tính cách con người có cái chung và có cái riêng, có tính điển
hình và tính độc đáo. Cái chung và cái riêng đó không phải là hai thành phần
riêng biệt, độc lập, nằm cạnh nhau mà là một khối thống nhất, quyện chặt với
nhau. Tính cách con người là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, cái điển
hình và cái cá biệt.
c. Những thành phần biểu hiện chủ yếu của tính cách.
Tính cách cá nhân được biểu hiện chủ yếu thông qua hệ thống thái độ của
cá nhân đối với hiện thực và hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá
nhân. Đó chính là nội dung và hình thức biểu hiện của tính cách.

123
* Nội dung của tính cách: Là hệ thống thái độ của cá nhân đối với hiện
thực. Hệ thống thái độ này có thể bao gồm các mặt như sau:
- Thái độ đối với xã hội, tập thể: đó là thái độ của cá nhân đới với chế độ
chính trị, với Nhà nước, các đoàn thể, các giai cấp, tầng lớp, các phong tục tập
quán, với dư luận xã hội… Những nét tính cách có ý nghĩa quan trọng biểu thị
thái độ đối với xã hội thường là:
Lòng trung thành đối với Tổ quốc, đối với nhân dân
Lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội
Tinh thần làm chủ, hy sinh vì mọi người, vì lợi ích của tập thể
Tinh thần tổ chức, kỷ luật
Lòng thương người, tinh thần đoàn kết, tương trợ
Lòng tôn trọng mọi người, sự lễ độ đối với người trên, người già.
- Thái độ đối với lao động:
Những nét tính cách tiêu biểu của thái độ đối với lao động là: Lòng yêu lao
động, đức tính cần cù lao động, tinh thần sáng tạo trong lao động, tính kỷ luật
trong lao động, tinh thần tiết kiệm, bảo vệ của công…
- Thái độ đối với bản thân: đò là sự tự đánh giá về vị trí, vai trò của mình
trong hệ thống quan hệ xã hội. Những nét tính cách biểu hiện thái độ đối với bản
thân thường là: tính khiêm tốn, tinh thần tự trọng, tinh thần tự phê bình.
Hệ thống thái độ của cá nhân đối với hiện thực khách quan là mặt bên trong
của tính cách, đó là mặt bản chất, mặt động cơ của tính cách. Chúng ta thường
gọi đó là tư tưởng của con người. Giáo dục tư tưởng cho con người chính là hình
thành ở con người những thái độ đúng đắn đối với xã hội, đối với lao động, hình
thành nên những tính cách tốt đẹp, phù hợp với yêu cầu của xã hội.
* Hình thức của tính cách: Là sự biểu hiện ra bên ngoài của hệ thống thái
độ của cá nhân, là sự cư xử của cá nhân đối với xã hội, đối với hiện thực, là hệ
thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân đó.
* Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tính cách.

124
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tính cách, tức là mối quan hệ
giữa hệ thống thái độ với hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân, là
mối quan hệ rất mật thiết và phức tạp.
Nói chung, thái độ đúng sẽ được thể hiện bằng những hành vi, cử chỉ, lời
nói đúng và ngược lại. Thái độ đúng đến mức nào sẽ được thể hiện bằng hành
vi, cử chỉ, cách nói năng đúng đến mức ấy. Tuy nhiên cũng có những trường
hợp không phải như vậy. Do đó, khi nghiên cứu đánh giá hành vi, cử chỉ, cách
nói năng của cá nhân, cần phải lưu ý rất nhiều yếu tố để có thể rút ra được thực
chất của họ.
Mặc dù mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tính cách rất phức tạp,
nhưng chúng ta có thể rút ra 4 kiểu quan hệ tiêu biểu:
Nội dung tốt - hình thức tốt (con người tốt toàn diện)
Nội dung tốt - hình thức chưa tốt (con người cần được giáo dục)
Nội dung xấu - hình thức tốt (con ngưỡi giả dối)
Nội dung xấu - hình thức xấu (con người xấu toàn diện)
Hai mặt nội dung và hình thức của tính cách không tách rời nhau mà là một
khối thống nhất, liên quan biện chứng với nhau. Nội dung quyết định hình thức
biểu hiện, ngược lại hình thức nếu được rèn luyện, giáo dục theo hướng đúng
đắn sẽ có ảnh hưởng tốt đến nội dung và làm phong phú cho nội dung. Trong
việc giáo dục tính cách cần chú ý đến việc giáo dục cả nội dung lẫn hình thức
của nó. Phải căn cứ vào hành vi, vào cách cư xử để tìm hiểu thái độ con người,
nhưng lại rất cần phải xem xét hành vi trong hệ thống những mối quan hệ của
con người trong xã hội, trong hiện thực khách quan.
d. Cấu trúc của tính cách
Cấu trúc của tính cách bao gồm các thành phần sau:
- Xu hướng: hệ thống thái độ của cá nhân với hiện thực như thế nào là do
sự tham gia của các thành phần xu hướng tạo nên. Nhu cầu, hứng thú quy định
sự lựa chọn thái độ của cá nhân với hiện thực. Thế giới quan, lý tưởng, niềm tin
quy định nội dung đạo đức trong thái độ của tính cách và quy định nguyên tắc
hành vi, cách xử sự, cách nói năng của cá nhân.

125
Xu hướng là cơ sở hình thành tính cách, là nhân tố chỉ đạo tính cách.
- Tình cảm: trong tính cách hệ thống thái độ của cá nhân với hiện thực chứa
đựng nội dung tình cảm của cá nhân với hiện thực đó. Tình cảm là mặt chủ yếu
bao trùm của tính cách. Phẩm chất và nội dung của tình cảm được coi là phẩm
chất và nội dung của tính cách.
- Ý chí: đây chính là mặt sức mạnh của tính cách. Nhờ có ý chí cá nhân
mới biến được nội dung bên trong của tính cách (hệ thống thái độ đối với hiện
thực) thành hệ thống hành vi cụ thể.
- Khí chất: khí chất quy định sắc thái biểu hiện của tính cách (quy định
trong kiểu hành vi). Nhờ có khí chất mà tính cách của con người có màu sắc
biểu hiện trong hành vi khác nhau. Khí chất thể hiện tính độc đáo của tính cách.
- Kỹ xảo và thói quen: những hành vi, cử chỉ, cách nói năng được lặp đi,
lặp lại nhiều lần và trở thành những hành động tự động hóa – thành những kỹ
xảo, thói quen trong tính cách của cá nhân.
e. Sự hình thành và giáo dục tính cách cá nhân
- Sự hình thành tính cách cá nhân.
Tính cách cá nhân được hình thành và phát triển dưới ảnh hưởng của điều
kiện lịch sử - xã hội (môi trường sống) ảnh hưởng bởi kinh nghiệm sống của cá
nhân và tác động của giáo dục. Do vậy, tính cách cá nhân bao gồm cả những nét
giống nhau (do điều kiện của lịch sử - xã hội…) và cả những nét độc đáo. Giáo
dục hình thành tính cách cá nhân phải chú ý cả 2 phương diện đó.
- Vấn đề giáo dục, rèn luyện tính cách cá nhân.
Khi giáo dục để hình thành tính cách cá nhân cần phải chú ý:
+ Phải đồng thời chú trọng bồi dưỡng hệ thống thái độ đối với hiện thực
một cách đúng đắn và rèn luyện những thói quen phù hợp với chuẩn mực xã hội.
+ Về nội dung: tính cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân, nên khi
giáo dục tính cách cần đặc biệt chú ý đến các thành phần như xu hướng, tình
cảm, các phẩm chất ý chí và khí chất.
+ Về con đường hình thành: phải đi từ giáo dục nhận thức, tình cảm… đến
tổ chức hoạt động cho cá nhân để hình thành thói quen hành vi. Bắt đầu từ sự ý

126
thức sâu sắc các chuẩn mực đến sự lặp đi lặp lại nhiều lần của hành vi, từ hành
vi mang tính bắt buộc đến hành vi thói quen.
+ Về quy luật: phải giáo dục tính cách cho cá nhân ngay từ khi mới sinh ra
trong quá trình trình đáp ứng nhu cầu đầu tiên của trẻ, vì những hành vi thói
quen của tuổi ấu thơ sẽ ổn định, khó thay đổi và có thể theo cá nhân trong suốt
cuộc đời. Đồng thời cần có sự phối hợp thống nhất của gia đình, nhà trường và
xã hội với những biện pháp tác động phù hợp với tính riêng biệt của mỗi cá
nhân.
+ Hoạt động và giao tiếp của cá nhân vẫn là yếu tố quyết định sự hình
thành những nét tính cách cá nhân. Do đó phải tổ chức các hoạt động, giao tiếp
tương ứng để hình thành những nét tính cách ở cá nhân. Đưa cá nhân vào hoàn
cảnh điển hình "lửa thử vàng" để uốn nắn những nét tính cách tiêu cực, hình
thành những nét tính cách tích cực. Bắt đầu từ sự ý thức sâu sắc các chuẩn mực
đến sự lặp đi lặp lại nhiều lần của hành vi.
Phải tổ chức tốt các hoạt động trong nhà trường để thu hút sinh viên tích
cực tham gia vào các hoạt động đó để hình thành nét tính cách tích cực ở sinh
viên. Đây là yếu tố rất quan trọng, bởi hoạt động của cá nhân là yếu tố trực tiếp
quyết định sự hình thành các hiện tượng tâm lý cá nhân. Đó là các hoạt động học
tập, nghiên cứu khoa học, các sinh hoạt đoàn thể, chấp hành điều lệnh nội vụ…
Để hình thành nét tính cách, tính cách tốt đáp ứng các yêu cầu của xã hội
không phải dễ dàng trong thời gian ngắn mà phải qua quá trình giáo dục ở gia
đình, nhà trường, xã hội và đặc biệt là sự tự rèn luyện của cá nhân.

3. Năng lực cá nhân


a. Định nghĩa
Năng lực là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của cá nhân, phù hợp với
những yêu cầu đặc trưng của một loại hoạt động nhất định nhằm hoàn thành có
kết quả cao trong lĩnh vực hoạt động ấy
b. Phân loại năng lực
Người ta chia năng lực của cá nhân ra những loại khác nhau tùy thuộc vào
cơ sở và mục đích phân loại:
127
- Nếu lấy hoạt động của con người làm cơ sở, người ta có những loại năng
lực tương ứng như: năng lực lãnh đạo, năng lực điều tra, năng lực ngoại giao,
năng lực sư phạm…
- Nếu phân loại theo mức độ chuyên biệt của năng lực thì chia thành năng
lực chung và năng lực riêng:
+ Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác
nhau, chẳng hạn như những thuộc tính về thể lực, về trí tuệ (quan sát, trí nhớ, tư
duy, tưởng tượng, ngôn ngữ…) là những điều kiện cần thiết để giúp cho nhiều
lĩnh vực hoạt động có kết quả.
+ Năng lực riêng (năng lực chuyên biệt, chuyên môn) là sự thể hiện độc đáo
các phẩm chất riêng biệt, có tính chuyên môn, nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh
vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao. ví dụ như năng lực toán học, năng lực
thơ văn, năng lực hội họa, năng lực âm nhạc, năng lực thể dục, thể thao…
Hai loại năng lực chung và riêng luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ
sung, hổ trợ cho nhau.
c. Các mức độ của năng lực
Thực chất năng lực là sự phù hợp giữa một bên là những thuộc tính tâm lý
cá nhân và một bên là những yêu cầu đặc trưng của một loại hoạt động nhất
định. Năng lực cá nhân chia thành 3 mức độ:
- Mức năng lực thông thường: biểu thị sự hoàn thành có kết quả một hoạt
động nào đó (mức độ phù hợp vừa phải giữa các thuộc tính tâm lý của cá nhân
với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định). Nhiều cá nhân có thể đạt
được.
- Tài năng: Là biểu thị sự hoàn thành một cách sáng tạo một hoạt động nào
đó, phát hiện ra những điều mới mẽ của cá nhân. Lịch sử nhân loại và lịch sử
của sự phát triển khoa học cho thấy tài năng không phải ai cũng đạt tới, sự phát
triển trở thành tài năng phụ thuộc rất lớn vào lao động với khả năng lao động to
lớn, sức chịu đựng cao.

128
- Thiên tài biểu thị ở mức kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất của những vĩ nhân
trong lịch sử nhân loại, ở sự sáng tạo to lớn tạo ra một bước ngoặt phát triển
mới, góp phần thúc đẩy dân tộc, nhân loại tiến lên.
d. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển năng lực
- Tư chất
Tư chất là những đặc điểm riêng của cá nhân về giải phẩu sinh lý, đặc biệt
là đặc điểm cấu tạo của não bộ, các giác quan, kiểu hoạt động thần kinh cấp cao.
Tư chất có ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành và phát triển năng lực.
Tư chất là cơ sở, là tiền đề để hình thành và phát triển năng lực.
Tư chất ảnh hưởng đến chiều hướng và tốc độ của sự hình thành và phát
triển năng lực. Những người có tư chất phù hợp với sự phát triển năng lực tương
ứng với tư chất đó thì sẽ dễ dàng phát triển năng lực ấy và dễ đạt được thành
tích hơn những người không có tư chất phù hợp.
Tuy nhiên, tư chất là điều kiện cần nhưng chưa đủ để phát triển năng lực.
Một người có tư chất tốt nhưng nếu không tham gia những hoạt động thích hợp
thì năng lực cũng không thể phát triển được. Tư chất không quyết định trước sự
phát triển năng lực. Năng lực chỉ được hình thành, phát triển trong những điều
kiện sống và hoạt động cụ thể của cá nhân trong xã hội.
- Điều kiện xã hội – lịch sử
Đây là yếu tố ảnh hưởng rất quan trọng đến sự hình thành và phát triển
năng lực của cá nhân.
Điều kiện xã hội – lịch sử quy định nội dung, phẩm chất năng lực cá nhân.
Nói cách khác, sự phát triển năng lực cá nhân chịu sự quy định của hoàn cảnh
lịch sử – xã hội: sự phân công lao động; trình độ phát triển của khoa học, kỹ
thuật; chế độ chính trị của xã hội, điều kiện giáo dục…
- Hoạt động của cá nhân
Hoạt động của cá nhân là yếu tố có ý nghĩa trực tiếp quyết định sự hình
thành và phát triển năng lực cá nhân:
+ Thông qua hoạt động những thuộc tính của năng lực mới được hình thành
và những tiền đề bẩm sinh chưa hoàn thiện được hoàn thiện thêm.

129
+ Thông qua hoạt động những thuộc tính của năng lực được phát triển
mạnh mẽ.
Như vậy, năng lực chỉ được nảy sinh và phát triển trong hoạt động. Hoạt
động càng nhiều mặt, càng có nội dung phong phú bao nhiêu, năng lực càng
phát triển rõ rệt và đầy đủ bấy nhiêu.
- Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo là vốn kinh nghiệm của loài người mà cá nhân
thu nhận được trong quá trình học tập và rèn luyện.
Tri thức, kỹ năng, kỹ xảo là điều kiện cần thiết để năng lực hình thành và
phát triển.
Muốn hình thành và phát triển năng lực, con người phải nắm vững và vận
dụng một cách sáng tạo nhũng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Không tiếp thu những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo con người sẽ không thể hình thành một năng lực nào
hết.
Mức độ phát triển năng lực phụ thuộc vào mức độ nắm vững tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo. Mặt khác năng lực lại giúp cho việc nắm vững tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo được nhanh chóng hơn, dễ dàng hơn.
Ngoài các yếu tố trên, những thuộc tính tâm lý khác như xu hướng và tính
cách cũng là điều kiện và cơ sở để hình thành và phát triển năng lực. Để phát
triển tài năng, cần phát hiện sớm năng khiếu và bồi dưỡng đúng hướng, không
để các năng khiếu bị thui chột hoặc phát triển lệch lạc do tự phát, không được
bồi dưỡng.
Những yếu tố trên đây tuy có vị trí, vai trò khác nhau trong sự hình thành
và phát triển năng lực, nhưng chúng lại có mối quan hệ biện chứng.

4. Khí chất
a. Định nghĩa.
Khí chất là thuộc tính tâm lý biểu hiện về cường độ, tốc độ, nhịp độ của các
hoạt động tâm lý thể hiện sắc thái hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân.
Khí chất và tính cách, mặc dù đều cùng thể hiện hành vi, cử chỉ, cách nói
năng của cá nhân, nhưng chính đây là hai hai thuộc tính tâm lý khác nhau.
130
Tính cách thể hiện ở hành vi, cử chỉ, cách nói năng hệ thống thái độ của
nhân cách, nó nói lên nội dung đạo đức của hành vi đó. Còn khí chất thể hiện ở
hành vi về mặt hình thức diễn biến nhanh hay chậm, mạnh hay yếu, đều đặn hay
bất thường. Nó tạo nên sắc thái riêng biệt của những hành vi đó. Từ đó, chúng ta
thấy khí chất khác với tính cách nhưng nó có quan hệ mật thiết với tính cách.
b. Đặc điểm tâm lý của các kiểu khí chất
* Đặc điểm của khí chất nóng: Loại khí chất này tương ứng với kiểu thần
kinh mạnh và không cân bằng.
- Ưu điểm: Tâm lý của người thuộc loại khí chất này thường được biểu
hiện một cách mạnh mẽ. Ở họ nhận thức nhanh, dễ thành lập phản xạ có điều
kiện. Đặc biệt là họ dễ bị kích thích và khi họ bị kích thích thì thường phản ứng
nhanh và mạnh. Tình cảm của họ bộc lộ mãnh liệt. Họ rất thẳng thắn trung thực,
quả quyết. Trong công tác, họ dũng cảm, can đảm, hăng hái sôi nổi, sẳn sàng
hiến thân cho sự nghiệp với tất cả lòng nhiệt tình, say sưa. Họ là những người
thật thà, hay nói thẳng, không úp mở, quanh co.
- Nhược điểm: Người nóng nảy có nhược điểm là tính kiềm chế kém, dễ bị
xúc động, tính tình bất thường, dễ “bồng” mà cũng dễ “xẹp”. Đó là sự không
cân bằng của quá trình thần kinh, hưng phấn thường mạnh hơn ức chế. Cũng vì
vậy mà dễ sinh ra nóng nảy bộp chộp, phung phí nhiều sức lực và rất dễ bị kiệt
sức. Trong việc làm, họ thường tỏ ra quả quyết nhưng dễ đi đến chỗ liều mạng.
Họ dễ vui nhưng cũng dễ phát khùng, lại hay mệnh lệnh và quy kết theo kiểu
“đao to, búa lớn”.
Để khắc phục những nhược điểm của khí chất này cần rèn luyện năng lực
tự kiềm chế, kiên trì, ý thức tổ chức kỷ luật. Thường xuyên nhắc nhở, đôn đốc,
động viên khuyến khích trong công việc đang làm. Khi họ mắc sai lầm, khuyết
điểm nên góp ý nhẹ nhàng, tránh đã kích, chủ yếu dùng hình thức thuyết phục,
giáo dục bằng tình cảm.
* Đặc điểm của loại khí chất hoạt (hăng hái): Đây là loại khí chất tương
ứng với kiểu thần kinh mạnh, cân bằng, linh hoạt.

131
- Ưu điểm: Do những thuộc tính mạnh, cân bằng và linh hoạt của hưng
phấn và ức chế nên loại người này hoạt động mạnh mẽ, rất dễ thành lập phản xạ
có điều kiện. Họ nhận thức nhanh, nhớ nhanh, phản ứng cũng nhanh. Tình cảm
dễ dàng xuất hiện, vui tính, lạc quan, tính tình cởi mở, vui vẻ, đến gần dễ bắt
chuyện, liên hệ nhanh chóng với mọi người xung quanh. Họ giao tiếp rộng rãi,
thân mật. Họ hăng hái tham gia mọi công việc, nhiệt tình và tích cực trong công
việc, dễ thích ứng với hoàn cảnh mới.
- Nhược điểm: Nhận thức nhanh nhưng chưa được sâu, tình cảm dễ thay
đổi, chan hòa với mọi người nhưng dễ hời hợt bề ngoài, hành động thường thiếu
kiên trì nhẫn nại, hay bỏ dở. Bởi vậy, hoạt động của họ dễ “bồng”, dễ “xẹp”
(bồng bột lửa rơm).
Tóm lại, đây là kiểu hoạt động nhiệt tình, hiệu quả nhưng chỉ khi họ làm
những công việc phù hợp hứng thú và thường xuyên được kích thích. Còn như
không có những công việc như thế họ trở nên chán ngán và uể oải.
Để khắc phục những nhược điểm trên, cá nhân cần rèn luyện tính kiên trì,
khắc phục tính nông cạn. trong công việc cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc,
nhất là đối với công việc có nhiều khó khăn, có yêu cầu cao đối với cá nhân. Khi
họ mắc khuyết điểm có thể thẳn thắng phê bình, không nhất thiết phải đắn đo, do
dự.
* Đặc điểm của loại khí chất bình thản: Loại khí chất này tương ứng với
kiểu thần kinh mạnh, cân bằng, không linh hoạt.
- Ưu điểm: Do những thuộc tính thần kinh không linh hoạt nên loại người
này khó thành lập phản xạ có điều kiện, nhưng khi đã thành lập lại khó phá vỡ.
Loài người này có tâm lý bền vững. Tình cảm thường kín đáo, sâu sắc (yêu đậm,
ghét cay), kìm hảm được xúc cảm. Họ thường bình tĩnh, chín chắn trong hoạt
động, ít nói cười ba hoa, kiên trì, thận trọng, chu đáo trong hành động. Họ có
năng lực tự kìm chế, năng lực tự chủ cao. Họ làm việc một cách đều đặn, có
mức độ, có phương pháp, không tiêu phí sức lực một cách vô ích. Páp-lốp nhận
xét: đây là loại người bình tĩnh, luôn luôn cân bằng, là người lao động kiên trì,
bền vững trong cuộc sống.

132
- Nhược điểm: Thường phản ứng với kích thích bên ngoài kém linh hoạt,
chậm thích nghi với sự thay đổi của môi trường, ít biểu lộ sự hăng hái, hay do
dự nên dễ bỏ lỡ thời cơ, ít tháo vác trong cuộc sống. Tình cảm bộc lộ ít rõ nét,
dễ thờ ơ, lạnh lùng trong hành vi, cử chỉ đối xử với những người chung quanh.
Nhìn bề ngoài tỏ ra thiếu nhiệt tình, ít chan hòa với mọi người, thiếu cởi mỡ, dễ
bị đánh giá là khinh người, phớt đời.
Khắc phục những nhược điểm trên, cá nhân cần rèn luyện năng lực nhạy
cảm, thích nghi với kích thích, với sự biến đổi của môi trường để khắc phục tính
trì trệ, chậm chạp. Khi chuyển hình thức hoạt động phải có sự chuẩn bị, tránh
thay đổi đột ngột, không nên gây trạng thái căng thẳng không cần thiết. Phân
công họ vào những công việc có tính chất "động" như thể dục, thể thao, nói
chuyện diễn thuyết trước số đông người… Trong phê bình họ, cần có liều lượng
mức độ có lý, có tình.
* Đặc điểm của khí chất ưu tư: Tương đương với kiểu thần kinh yếu. Do
hưng phấn và ức chế đều yếu nên các kích thích bên ngoài dễ trở thành kích
thích vượt hẳn, kìm hảm hoặc đình chỉ hoạt động của họ
- Ưu điểm: Loại người này nhận thức của họ khá sâu sắc, tế nhị, chín chắn,
năng lực tưởng tượng dồi dào, phong phú, lường trước được mọi hậu quả của
hành động. Tình cảm của họ bền vững và thắm thiết. Đối với những người xung
quanh tuy ít cởi mở nhưng có thái độ hiền dịu và rất dễ thông cảm với mọi
người. Họ hay tư lự nhưng trong những hoàn cảnh bình thường, quen thuộc, ít
thay đổi thì họ làm việc đạt kết quả tốt và có trách nhiệm đối với những công
việc đã được phân công
- Nhược điểm: Nhược điểm chủ yếu của loại người này là nhút nhát, thiếu
tự tin, hoài nghi, bi quan, thiếu tinh thần vươn lên. Những tác động của hoàn
cảnh bên ngoài, đặc biệt là những tác động mạnh, mới lạ dễ làm cho họ có thái
đô e ngại, sợ sệt. Khi hành động họ thường chần chừ, do dự, rụt rè, ít cởi mỡ, ít
quan hệ với người chung quanh, đa sầu, đa cảm. Nhìn bề ngoài, nếp sống của họ
có vẻ yếu đuối, chậm chạp.

133
Vì vậy, trong hoạt động giao tiếp cần rèn luyện ở họ tính quả quyết, dũng
cảm, tinh thần lạc quan, nhất là phải tự tin. Mạnh dạn giao việc cho họ, nhất là
những công việc có tính chất "động", thường xuyên khích lệ họ trong công việc
cũng như trong cuộc sống. Khi giao việc tránh nêu nhiều khó khăn, khi họ mắc
khuyết điểm cần phải tế nhị, không đi sâu vào chi tiết của khuyết điểm, phê bình
khéo léo theo kiểu gặp riêng là cách tốt nhất.
Nghiên cứu đặc điểm các loại khí chất đã nêu ở trên, chúng ta cần lưu ý:
- Loại khí chất nào cũng có ưu điểm và nhược điểm, không có loại nào tốt
hoặc xấu hoàn toàn.
- Đây là 4 loại khí chất cơ bản, rõ nét nhất. Trong thực tế, ít người đơn
thuần thuộc về một loại khí chất nào. Khí chất ở mỗi người thường bao gồm
nhiều thành phần của cả 4 loại trên. Khí chất của một người thường là sự pha
trộn của một số loại khí chất. Chúng ta xếp người này, người kia vào một loại
khí chất nào đó là do căn cứ vào những biểu hiện của khí chất điển hình nhất,
nổi bậc nhất ở họ.
c. Rèn luyện khí chất
- Khí chất con người có thể được giáo dục rèn luyện để phát huy ưu điểm,
khắc phục nhược điểm, phù hợp với loại hình hoạt động giao tiếp của từng cá
nhân. Vấn đề đặt ra là trong quá trình giáo dục, rèn luyện cần hiểu biết đặc điểm
khí chất của từng cá nhân để có phương hướng và biện pháp thích hợp.
- Việc thay đổi khí chất là không cần thiết vì không có loại khí chất nào là
tốt hay xấu, mỗi loại khí chất đều có mặt ưu và nhược. Vấn đề là sự bố trí đưa cá
nhân vào những hoạt động, công việc phù hợp với kiểu khí chất của họ, khắc
phục dần những nhược điểm của loại khí chất đó. Thường thì hệ thần kinh của
một con người là pha tạp chứ không thuần khiết một loại hình, vì vậy trong cá
nhân khí chất cũng có sự pha tạp nhưng có một loại khí chất nổi trội hơn trong
sự pha tạp ấy.
- Trong trường hợp những đặc điểm của khí chất cá nhân không phù hợp
với yêu cầu của hoạt động thì bằng hoạt động, giao tiếp, sự giáo dục vẫn có thể
thiết lập được những động hình mới. Xuất phát từ tính chất, đặc điểm của yêu

134
cầu nhiệm vụ, cá nhân phải xây dựng cho mình quyết tâm cao, nghị lực lớn, tinh
thần kiên trì, bền bỉ trong rèn luyện, duy trì và cũng cố đặc điểm tích cực, cải
tạo, xóa bỏ dần nhược điểm của loại khí chất mà mình đang có.
Kết luận: Bốn thuộc tính tâm lý đã được đề cập ở trên sẽ tạo thành một
nhân cách thống nhất, có quan hệ khăng khít với nhau. Xu hướng nói lên con
người muốn gì, muốn hướng tới đâu? Năng lực nói lên khả năng hiện thực của
nhân cách, có thể làm được gì trong việc theo đuổi hướng đi đã được cá nhân
lựa chọn? Tính cách nói lên phẩm chất như thế nào? Còn khí chất nói lên sắc
thái biểu hiện của nhân cách ra sao?

135

You might also like