You are on page 1of 30

No table of contents entries found.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐỀ TÀI: GIÁ TRỊ VÀ NỘI DUNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ

HỒ XUÂN HƯƠNG

Giảng viên hướng dẫn: GS.TS Trần Nho Thìn

GS.TS Vương Trần Ngọc

TS. Đỗ Thu Hiền

Sinh viên thực hiện: Lê Thị Ngọc Anh

Mã sinh viên: 19010182

1
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

ĐIỂM

BẰNG SỐ BẰNG CHỮ

Hà Nội, ngày 11 tháng 06 năm 2021

2
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên với tình cảm sâu sắc và chân thành nhất, cho phép em được bày tỏ
lòng biết ơn đến tất cả thầy GS.TS.Trần Nho Thìn, GS.TS.Thầy Vương Trần Ngọc,
cô TS.Đỗ Thu Hiền đã tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ em trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu môn Văn học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ
XIX. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập tại trường đến nay, em đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô và bạn bè.

Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý Thầy Cô đã truyền đạt vốn kiến
thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường. Nhờ có những
lời hướng dẫn, dạy bảo của các thầy cô nên đề tài nghiên cứu của em mới có thể
hoàn thiện tốt đẹp.

Bài tiểu luận của em còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ nên không tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý
Thầy Cô để kiến thức của em trong lĩnh vực này được hoàn thiện hơn đồng thời có
điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức của mình.

Em xin chân thành cảm ơn!

3
MỤC LỤC

Contents
No table of contents entries found. ............................................................................1
LỜI CẢM ƠN ...........................................................................................................3
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................5
Lý do chọn đề tài ..................................................................................................5
I. Giới thiệu về nhà thơ Hồ Xuân Hương............................................................6
1. Sự nghiệp sáng tác ............................................................................................9
2. Tác phẩm tiêu biểu .........................................................................................11
3. Sự nghiệp văn học ..........................................................................................12
II. Sự độc đáo về nội dung nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương ............................14
1. Phong cách nghệ thuật .................................................................................14
2. Cách sử dụng ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương ...........................................15
a. Sự vi phạm qui tắc tu từ tạo sự “lệch chuẩn” ngôn ngữ để tạo nghĩa. ........16
b. Sự vi phạm lệch chuẩn ngôn ngữ như một hình thức bộc lộ cá tính sáng tạo
của Hồ Xuân Hương. .......................................................................................17
c. Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương .........................................17
III. Kết luận ...........................................................................................................29

4
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Lịch sử đất nước ta những năm kháng chiến chống thực dân Pháp là trang lịch
sử bi hùng và đau thương. Tiếng súng xâm lược của chúng trên đất nước ta đã làm
sụp đổ hoàn toàn sự thống trị của giai cấp phong kiến và đánh dấu sự chuyển biến
sang hình thức thực dân nửa phong kiến. Đời sống xã hội và con người trong
những ngày đầu Pháp xâm lược đã có nhiều sự xáo trộn. Văn học cũng chịu sự ảnh
hưởng mạnh mẽ từ bối cảnh lịch sử này. Văn học nửa cuối thế kỉ XIX là giai đoạn
văn học được tiếp nối từ những giá trị văn học của các giai đoạn trước cả về nội
dung và nghệ thuật. Văn học là nhân học. Con người vừa là đối tượng vừa là mục
đích của văn học. Nghiên cứu cái nhìn của của một. nhà thơ thông qua tác phẩm
của họ bao giờ cũng là vấn đề hết. sức được quan tâm và mang tính thời sự trong lý
luận phê bình văn học. Bởi vì thái độ đối với con người nói chung đặc biệt đối với
người phụ nữ nói riêng luôn có thể là thước đo giá trị đích thực của một tác phẩm
văn học, của một tác giả. Hồ Xuân Hương và thơ của nữ thi sĩ là một hiện tượng
văn học dặc biệt đã được các nhà nghiên cứu đánh giá khác nhau thậm chí trái
ngược nhau. Tìm hiểu, nghiên cứu cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với người phụ
nữ của một nhả thơ nữ viết về phụ nữ trong tình hình phê bình nghiên cứu có
những ý kiến trái ngược nhau như thế quả là việc làm lý thú, hữu ích để góp phần
trả lại giá trị cho thơ Hồ Xuân Hương và vị trí của nữ sĩ trong văn đàn dân tộc như
Thôn Văn đã khẳng định trong bài tựa "Thơ Hồ Xuân Hương " do Hội Liên hiệp
Phụ nữ và Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản năm 1982: "Bởi những gì Hồ Xuân
Hương để lại hiện đang và mãi mãi sẽ là những vì sao mới lạ lấp lánh đầy sức hấp
dẫn giữa bầu trời văn học của đất nước chúng ta" Điều lý thú rất có ý nghĩa nữa là
bài viết. sẽ góp thêm tiếng nói trân trọng yêu mến nhà thơ nữ nổi tiếng của dân tộc
và khẳng định, phát huy vai trò vị trí của người phụ nữ trong sự nghiệp vì tiến bộ,

5
bình đẳng và phát triển của phong trào phụ nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới
đất nước

I. Giới thiệu về nhà thơ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối
với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ
một nhà thơ nào. Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 mất năm 1822. Quê quán ở làng
Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà có tên thật là Hồ Phi Mai hay
còn có nghĩa là Hoa mai bay trên hồ. Năm sinh, năm mất, thân thế, cuộc đời, và
thơ văn của bà đến nay vẫn còn vướng mắc nhiều nghi vấn. Ta chỉ biết bà sống vào
thời Lê mạt Nguyễn sơ, người cùng thời với Nguyễn Du (1765-1820), Phạm Đình
Hổ (tức Chiêu Hổ, 1768-1839). (theo thống kê của nhiều tài liệu).
Năm lên 13 tuổi cha mất, bà theo mẹ về làng Thọ Xương gần kinh đô Thăng Long
sinh sống và đi học. Vì điều kiện kinh tế quá khó khăn nên bà chỉ đi học một thời
gian sau đó thì phải đi ở đợ để kiếm sống.

Thuở nhỏ, Hồ Xuân Hương đã nổi tiếng chăm chỉ, thông minh và làm thơ rất
hay. Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn xã hội phong kiến Việt Nam có nhiều biến
động tiêu cực, bà đã chứng kiến được cảnh người phụ nữ bị chà đạp với tư tưởng
lúc bấy giờ là “trọng nam khinh nữ”. Chính điều này đã ít nhiều ảnh hưởng lên các
sáng tác của bà sau này. Hồ Xuân Hương rất xinh đẹp, tính tình nghệ sĩ, quen biết
rất rộng rãi nhưng cuộc đời và tình duyên của bà khá lận đận và gặp nhiều bất
hạnh. Bà có 2 đời chồng nhưng ngang trái thay bà đều làm vợ lẻ của hai người
chồng đó.

6
Người chồng đầu có tên là Tổng Cóc, là một người giàu có, yêu thơ nhưng lại
ăn chơi và tiêu xài rất hoang phí. Tuy chỉ là cai lính nhưng Tổng Cóc vốn thuộc
dòng dõi văn nhân, ông rất chuộng ca ngâm và mến luôn cái tài làm thơ của người
vợ lẽ. Để chiều lòng bà, Tổng Cóc đã cất một thủy tạ rất lớn cho Hồ Xuân Hương
ở, vừa tránh phiền lụy với vợ cả vừa thỏa thưởng thi phú. Chung sống với Tổng
Cóc được một thời gian khá lâu thì Hồ Xuân Hương dứt áo ra đi với một cái thai.
Có thuyết cho rằng, bà bỏ đi sau khi Tổng Cóc đã đột ngột từ trần; nhưng cũng có
thuyết cho rằng bà không chịu được điều tiếng dị nghị của vợ con Tổng Cóc và
người làng, lại có thuyết nói bản tính phóng đãng khiến Hồ Xuân Hương khó ngồi
yên một chỗ, bà trốn đi cùng tình quân là Phạm Viết Ngạn.

Trước hết hãy nói đến Tổng Cóc, tên gợi nên cảm nhận về người nghe tên,
người ta tưởng tượng ra dung mạo một người xấu xí về hình vóc, thô bỉ về nhân
cách. “Cóc” lại thêm có chữ Tổng ở trước khiến người ta nghĩ đây hẳn là một tên
cường hào ác bá! Thật vậy, Nguyễn Hữu Tiến trong Giai nhân di mặc, đã cho là
“lúc trẻ Xuân Hương bị mẹ ép phải lấy cường hào Tổng Cóc. Tổng Cóc đã dốt nát
lại có tính ăn chơi bạt mạng, sau một lần đánh bạc thua nhẵn túi, gia sản khánh kiệt
đã tiếc của mà chết. Xuân Hương bèn làm bài thơ nổi tiếng "Khóc Tổng Cóc" lời lẽ
trào phúng; bởi đối với ông chồng không xứng ý này nàng chẳng có chút cảm tình
nào…”

Thật oan cho Tổng Cóc. Nỗi oan này thật ra đã bắt nguồn từ chính bài thơ Khóc
Tổng Cóc của Hồ Xuân Hương:

Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!

Thiếp bén duyên chàng có thế thôi;

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé.

7
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!

Bài thơ tài tình lắm trong câu chữ (cóc, bén (nhái), nòng nọc, chuộc (chẫu
chuộc), bôi vôi…") nhưng đã để lại cho đời biết bao võ đoán. Cả trăm năm trước
bài thơ đã bị nhiều người hiểu lệch trước hết, đề bài thơ gợi cho người đọc nghĩ
đến việc vợ khóc chồng vừa quá cố. Sự thực đâu phải vậy! Gs. Lê Trí Viễn có phân
tích và cho rằng bài thơ vừa bộc lộ đau xót vừa thể hiện một sự tiếc rẻ, thậm chí
một sự ân hận nếu không là hờn oán. Có vẻ như một bài thơ giận người bỏ đi.
Thương cho mình hơn là khóc cho người. Bài thơ không ra lời tang mà là lời tự
thương tự tiếc, không giận người mà chỉ tủi cho mình. Cụ Dương Văn Thâm làm
rõ vấn đề hơn khi cho biết dân làng Mương, làng Gáp biết thừa bài thơ “Khóc
Tổng Cóc” của Hồ Xuân Hương chỉ là "khóc" cho mối tình đã qua chứ đâu phải
khóc chồng vừa mất, bởi vì ai lại khóc chồng mà đi giễu nhau như là “cóc, nòng
nọc, nhái bén, chẫu chuộc…” chả hóa ra là bạc ác độc địa lắm sao? Quả đúng như
vậy nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn trong "Phóng sự điền dã" căn cứ vào cuộc trò
chuyện với các cụ cao niên của làng Gáp xưa (nay là Tứ xã, Lâm Thao, Phú Thọ)
cho biết: Tổng Cóc là người làng Gáp. Theo lệ xưa, sợ khó nuôi, người ta thường
chọn cho trẻ những tên thật xấu xí … Mặc dầu gia đình thuộc dòng dõi văn
chương, Phó tổng Nguyễn Bình Kình, lúc bé đã có tên là "Cóc”. Tổng Cóc là con
nhà gia thế (cháu của Nguyễn Quang Thành; đỗ Tiến-sĩ năm 1680, đời vua Lê Hi
Tông), hay chữ, lại giỏi võ nghệ, vẫn thường xướng họa với Xuân Hương chớ
không phải dốt nát như người ta lầm tưởng. Hồ Xuân Hương có nhiều mối bất hòa
với người trong gia đình Tổng Cóc cuộc tình nhiều trắc trở. Tổng Cóc bỏ nhà ra đi.
Khi trở về, Xuân Hương lại cũng đã bỏ đi... và đã trở thành vợ lẽ của Tri phủ Vĩnh
Tường. Bài thơ "Khóc Tổng Cóc" được Xuân Hương làm trong thời gian này là để
khóc cho một cuộc tình đã chết, một cuộc tình buồn

8
Sau đó một thời gian bà đã sinh được một đứa con gái nhưng không may lại mất
khi vừa mới hạ sinh. Bà lấy chồng hai là ông Phủ Vĩnh Tường, cũng sống kiếp vợ
lẽ và sinh cho ông một người con, éo le thay chỉ mới sống chung với nhau hơn 2
năm thì người chồng thứ hai của bà cũng mất và bà sống một mình, cô độc đến
cuối cuộc đời. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai
lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu
của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ
không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp
trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).

Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời
phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.

1. Sự nghiệp sáng tác

Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo
với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ
Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam,
“là nhà thơ độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc” Các tác phẩm
của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm
truyền miệng.

Lưu Hương Kí là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó không thể
hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên cứu giá trị thơ
Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ Nôm truyền tụng của
bà. Cách tả cảnh, tả tình, cách dùng từ… trong thơ Nôm của bà có một không hai,
vô cùng sống động và đặc sắc. X.Diệu đánh giá thơ Hồ Xuân Hương là "tót vời của

9
nguồn thơ nôm na bình dân". Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ có thiên tài và giàu tình
cảm, nhưng “vì số phận hẩm hiu, thân thế long đong, nên trong thơ của bà hoặc có
ý lẳng lơ, hoặc có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng chứa chan tình tự”

Thơ Xuân Hương cũng rắc rối, phức tạp như chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn
lại cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều
dị bản. Số thơ Nôm lâu nay được coi là của nữ sĩ khoảng năm mươi bài. Ðây là tập
thơ Nôm luật Ðường xuất sắc của nền văn học dân tộc (Tập thơ Xuân Hương thi
tập) Ngoài tập thơ này còn có tập thơ Lưu Hương ký mang bút danh của nữ sĩ do
ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài
thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình
của mình với những người bạn trai. Có thế nói “Sự nghiệp của Hồ Xuân Hương là
ngọn hải đăng” như lời đề tựa thứ hai của tuyển tập Hồ Xuân Hương bằng.

Hầu hết những bài thơ của bà đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú
đường luật (tám câu bảy chữ) và thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu bảy chữ).

Một số tác phẩm thơ nôm tiêu biểu của bà là:

- Bà Lang khóc chồng


- Bạch Đằng giang tạm biệt
- Bài ca theo điệu xuân đình lan
- Bánh trôi nước
- Cảnh làm lẽ
- Cái quạt giấy 1, 2

Trong đó bài thơ “Bánh trôi nước” được rất nhiều thế hệ độc giả yêu thích và
được đưa vào sách giáo khoa Trung học cơ sở giảng dạy. Trong bài thơ này Hồ
Xuân Hương đã lấy hình tượng bánh trôi nước để biểu tượng cho số phận trọng

10
nam khinh nữ, đa thê thiếp khiến cho người phụ nữ phải chịu biết bao nhiêu cảnh
bất hạnh, đau thương đồng thời ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn trong sáng, tình
nghĩa, sắt son của của người phụ nữ Việt Nam.

Ngoài ra bà còn nổi tiếng với rất nhiều sáng tác bằng chữ Hán, tuy nhiên hiện nay
chỉ còn lại rất ít bài, tiêu biểu như:

- Hải ốc trù
- Nhãn phóng thanh
- Độ Hoa Phong
- Trạo ca thanh
- Thuỷ vân hương

Con người Hồ Xuân Hương phóng túng, tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, sắc sảo
vì vậy phong cách nghệ thuật của bà rất sáng tạo và đặc biệt vừa thanh vừa tục, kết
hợp với nét phóng túng - tiềm ẩn, đậm đà chất văn học dân gian nên thơ của bà
luôn gây nguồn cảm hứng vô tận cho hậu thế từ ngôn ngữ cho đến hình tượng. Đặc
biệt, bà còn có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu, tiết tấu thích hợp với từng ý,
từng hoàn cảnh với thái độ rất tự nhiên, duyên dáng và giàu khả năng gợi cảm. Có
thể nói Hồ Xuân Hương được coi là hiện tượng độc đáo " Nhà thơ phụ nữ viết về
phụ nữ" độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam. Với tư tưởng mới
mẻ cùng lối làm thơ phá cách, ngôn ngữ bình dị và sáng tạo nên các tác phẩm của
bà đã đem lại nhiều ý nghĩa, giá trị và sức sống lâu bền đến hiện tại.

2. Tác phẩm tiêu biểu

- Sáng tác của Hồ Xuân Hương gồm cả chữ Nôm và chữ Hán.

11
- Theo giới nghiên cứu hiện có khoảng trên dưới 40 bài thơ tương truyền là của Hồ
Xuân Hương.

- Nữ sĩ còn có tập thơ Lưu hương kí (phát hiện năm 1964) gồm 24 bài chữ Hán và
26 bài chữ nôm.

Bánh trôi nước, Tự tình, Vịnh cái quạt, Cảnh thu, Vấn nguyệt, Động hương
tích, Họa nhân, Đá ông bà chồng, Duyên kỳ ngộ, Hỏi trăng, Hương đình cổ nguyệt
thi tập, Núi Ba Đèo, Hữu cảm, Vịnh hằng nga, Tát nước, Tặng tình nhân, Mời
khách ăn trầu…

3. Sự nghiệp văn học

Được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, Hồ Xuân Hương khẳng định tên
tuổi bởi phong cách thơ độc đáo, vừa thanh vừa danh. Bà được xem là một trong
những nhà thơ tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam.

Những sáng tác của bà bị thất lạc rất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là
những bài thơ Nôm truyền miệng. Trong đó, Lưu Hương Ký là một trong những
tập thơ xuất sắc. Nội dung tập thơ nói về tình yêu gia đình, đất nước. Tập thơ này
cũng thể hiện rõ cá tính của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

- Tổng số bài thơ Nôm được coi là của Hồ Xuân Hương khoảng năm mươi
bài.
- Ðây là tập thơ Nôm luật Ðường xuất sắc của nền văn học dân tộc (Tập thơ
Xuân Hương thi tập)
- Bên cạnh đó còn có tập thơ Lưu Hương ký mang bút danh của nữ sĩ do ông
Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài

12
thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và hững
mối tình của mình với những người bạn trai.

Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ, thể hiện một
bản lĩnh sống mạnh mẽ khác thường – Lê Trí Viễn

Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta không chỉ thấy hình ảnh người phụ nữ mà còn
thấy được tất cả những thứ thuộc về phụ nữ. – Một nhà thơ nước ngoài. Thứ thơ ấy
không chịu ở trong khuôn khổ thông thường mà là một thứ thơ muốn lặn sâu vào
sự vật, vào những thứ đáy rất kín thẳm của tâm tư. Những thứ kín thẳm ấy không
phải lạc lõng, cô đơn, cá nhân, chủ nghĩa mà trái lại đã được hàng vạn người đồng
tình cảm.

• "Về tác phẩm, chỉ có tập thơ Nôm nói là của Hồ Xuân Hương xuất bản lần
đầu tiên vào năm 1913 do Xuân Lan ấn hành, có nhan đề Xuân Hương thi
tập. Về tác giả, người đầu tiên đưa ra những giai thoại truyền thuyết về cuộc
đời Hồ Xuân Hương là Nguyễn Hữu Tiến nhưng cuốn sách không phải là
công trình biên khảo nghiêm túc, có ghi chú xuất xứ, chỉ dẫn nguồn gốc mà
chỉ là một truyện ký, tiểu thuyết hóa. Nhưng chính cuốn sách lại là tài liệu
hầu như độc nhất mà các người viết về Hồ Xuân Hương sau này dựa vào để
trình bày tiểu sử và phê bình thơ bà".
• GS Nguyễn Văn Trung cung cấp thêm những "tài liệu khá xác thực chứng tỏ
có một nữ thi sĩ tên là Hồ Xuân Hương, tác giả một số bài thơ chữ Hán" qua
một số phát hiện của ông Trần Thanh Mại. Đó là tập thơ Diệu Liên (chữ
Hán) khắc in năm 1867 của nữ thi sĩ Mai Am, con gái thứ 25 của vua Minh
Mạng, có vài bài tựa nhắc tên Hồ Xuân Hương: "Xem nước Nam ta mở
mang bờ cõi, kể đã hàng trăm hàng nghìn năm, trong khoảng thời gian ấy
đứng về thơ phụ nữ mà nói thì trước kia chỉ có Phạm Lam Anh, và gần đây
13
có Hồ Xuân Hương" (bài tựa của Quảng Khuê - tức Trương Đăng Quế). Bài
tựa của Trương Bỉnh Thuyên (một nhà nho Trung Quốc) viết có câu: "Phạm
Lam Anh và Hồ Xuân Hương là hai người phụ nữ hay thơ của nước VN".
• Ở tập Cẩm Ngữ (nhiều tác giả), bài Viêm bang tú khí có nói đến Hồ Xuân
Hương (Hà Nội) cùng với Đoàn Thị Điểm (Bắc Ninh), Phạm Lam Anh
(Quảng Nam), Thanh Quan (Nam Định) bằng lời lẽ có cánh. Ngoài ra, tập
Bắc hành trong bộ Thượng Sơn thi tập của Tùng Thiện Vương cũng từng
nhắc tới nữ thi sĩ hay bản thơ chép tay của nhà nho đất Nam Định Nguyễn
Đình Hồ, trong 300 bài bằng Hán văn thì có 2 bài đề của Hồ Xuân Hương.

II. Sự độc đáo về nội dung nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương
1. Phong cách nghệ thuật

Hồ Xuân Hương có cách biểu đạt âm thanh trực tiếp chứ không thông qua
bất kỳ “phin lọc” ngôn ngữ, hay mượn lối nói ví von, uyển ngữ, nhã ngữ nào. Âm
thanh của đời sống sinh động muôn vẻ thường được vang vọng trực tiếp vào từng
câu thơ của bà. Người ta tạm gọi đây là những âm thanh “nguyên thủy” được nhà
thơ chắt lọc từ đời sống, từ thiên nhiên, vũ trụ. Đa số các nhà thơ tránh lối diễn tả
trực tiếp này mà nó thường được thăng hoa, biến tấu qua bàn tay của những “phù
thủy ngôn ngữ”. Những âm thanh này thường được các nhà thơ cho khúc xạ, ẩn
nấp trong tâm trạng và xúc cảm, hoặc đi kèm với những hình ảnh, thán từ, thán
ngữ… Với thơ Hồ Xuân Hương, thi sĩ thường dẫn bạn đọc đi lối tắt. Ta hãy nghe
âm thanh của tiếng mõ và tiếng chuông bất ngờ vang lên trong bài thơ “Tự tình”
của bà: “Mõ thảm không khua mà cũng cốc/Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”.
Tiếng “cốc” và “om” quả thật rất tài tình và bất ngờ. Nhất là tiếng “cốc” đã làm
người đọc giật mình, phá vỡ quy luật của cảm xúc, mà vang lên đột ngột, lạ lẫm,
đầy thách thức. Điều kỳ lạ ở đây là tiếng “cốc” lại vọng ra từ “mõ thảm”, mà trước
14
đó không ai động vào chiếc mõ đó. Hồ Xuân Hương đã vận dụng tối đa cách nói
dân gian, dân dã, để tạo nên những câu thơ sinh động mà mang hàm nghĩa mới cho
những từ tượng thanh: “Thương chồng nên phải khóc tì ti” (Khóc chồng làm
thuốc), “Gió vật sườn non kêu lắc rắc/Sóng dồn mặt nước vỗ long bong” (Núi Kẽm
Trống)

Có một số câu thơ của Hồ Xuân Hương không nằm trong hệ thống các từ
tượng thanh, nhưng khi đọc lên ta lại thấy vang vọng những âm thanh được phát ra
từ những hình ảnh táo bạo, lạ lùng: “Tên sẵn bút đề dường chĩnh chện/Trống mang
dùi cắp đã phanh phanh” (Duyên kỳ ngộ). Nghệ thuật sử dụng âm thanh trong thơ
ca vốn mang đặc trưng vùng miền, rộng hơn là trong phạm vi cộng đồng, dân tộc.
Qua khảo sát cho thấy, phần lớn những từ tượng thanh trong tiếng Việt đều có hình
thức láy, thí dụ: oa oa, oe oe, ti tỉ, oai oái, chí chóe… Nhưng trong thơ Hồ Xuân
Hương, ngoài những từ láy, ta thấy tác giả còn dùng từ đơn âm tượng thanh rất độc
đáo, như “cốc”, “om”, “phòm’’

Trong trường hợp thơ Hồ Xuân Hương, thuộc tính nói trên bắt nguồn từ ngôn
ngữ dân gian, phong tục, văn hóa Bắc Bộ. Cái vỏ vật chất âm thanh của thơ bà luôn
ăn khớp, hòa quyện với nội dung ý nghĩa của văn bản và càng làm gia tăng biểu
nghĩa trong tiếng Việt, vốn là một ngôn ngữ đa âm sắc và giàu khả năng biểu cảm.
Cách biểu đạt âm thanh trong thơ chữ Nôm của Hồ Xuân Hương thêm một lần nữa
cho chúng ta thấy tài năng, bản lĩnh của “Bà Chúa thơ Nôm”.

Nổi bật trong sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với
người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ

2. Cách sử dụng ngôn ngữ của Hồ Xuân Hương

15
a. Sự vi phạm qui tắc tu từ tạo sự “lệch chuẩn” ngôn ngữ để tạo nghĩa.

Hồ Xuân Hương sử dụng ngôn ngữ để tạo hình, tạo nhạc và cuối cùng tạo
nghĩa. Cách tạo nghĩa lơ lững có lẽ cơ bản nhất vẫn là sự lệch chuẩn ngôn ngữ thơ
với ngôn ngữ đời thường của Xuân Hương. Những từ ngữ: Lá đa, nguyệt, hoa rữa,
miếng trầu, cái bánh trôi, động Hương Tích, thu, lạnh, Lạch Đào Nguyên…. Là
những ký hiệu ngôn ngữ di chuyển từ cái miêu tả đến cái ẩn dụ vô cùng đa dạng,
biểu đạt sức sống có tầm cở vũ trụ cái vĩnh cửu. Cái ngạc nhiên, cái đột ngột, cái
bật cười thấm thía nỗi buồn tạo nên bởi cái xô lệch không ăn khớp là những đặc
điểm trong phong cách thơ nôm của Hồ Xuân Hương.nỞ Hồ Xuân Hương các chi
tiết tạo nên sự lấp lửng nghĩa của bài thơ, câu thơ là cả một lớp từ ngữ được lựa
chọn chính xác, thích hợp cho cả cái lộ lẫn cái ẩn. Đó là cả một hệ thống ngôn ngữ
tương ứng tạo ra một ngữ cảnh trong đó các từ, nhóm từ nâng đỡ nhau, dựa vào
nhau để thực hiện mệnh lệnh của người cầm bút...Vì vậy, chỗ tài tình nhất của Hồ
Xuân Hương có lẽ sự lấp lửng ý nọ, ý kia ở một hình tượng, một từ, một ngữ, một
cách nói. Điều mà Bakhtin gọi là “Siêu ngôn ngữ”, “xuyên ngôn ngữ” đã được
chứng minh trong ngôn ngữ học hiện đại.

Trong những các bài thơ nói về phụ nữ có lẽ “Bánh trôi nước” là bài thơ hay
nhất. Nhà thơ đã mượn hình ảnh chiếc bánh trôi nước để thể hiện vẻ đẹp về hình
thể, tâm hồn của người con gái thân phận bé nhỏ, dù đời có phũ phàng em vẫn giữ
phẩm giá tâm hồn cao đẹp của mình “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Cái hay nhất
nhà thơ sử dụng từ mà nói lên một cách dõng dạc, dứt khoát sự kiên trì và cố gắng
đến cùng để giữ “Tấm lòng son” – Biểu hiện phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”.

16
b. Sự vi phạm lệch chuẩn ngôn ngữ như một hình thức bộc lộ cá tính sáng
tạo của Hồ Xuân Hương.

Như chúng ta đã biết mỗi nhà thơ có một cách lựa chọn “kiểu” ngôn ngữ riêng
cho bản thân mình. Ngôn ngữ của Bà Huyện Thanh Quan không giống ngôn ngữ
của Hồ Xuân Hương, mặc dầu cả hai nữ sĩ cùng chung sống trong một thời đại.
Cũng rất giàu nữ tính, cũng làm thơ Đường luật…Đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan
ta cũng bắt gặp trong đó một sự “lệch chuẩn” với ngôn ngữ đời thường. Sở trường
của Bà là sử dụng loại danh từ để sáng tác. Chẳng hạn khi đọc bài thơ “Thăng
Long thành hoài cổ” của bà ta thấy bài thơ chỉ vẻn vẹn 8 câu, mỗi câu bảy chữ, cả
bài thơ 56 chữ nhưng tác giả sử dụng nhiều danh từ : tạo hóa, xe ngựa, hồn thu
thảo, lâu đài …..Hơn nữa những danh từ này đa số là những danh từ Hán Việt nên
nghĩa của nó rất trừu tượng. Đặc biệt đọc thơ của Bà bài thơ nào cũng đều có một
từ chỉ ánh chiều. Thơ của Hồ Xuân Hương là thơ chạm trổ, hòn đá biết cười, hang
động biết nói… Trong thơ của Bà sử dụng nhiều hình dung từ và động từ chỉ hoạt
động đã chứng tỏ rằng nhà thơ rất chú ý vẻ bề ngoài của sự vật. Với Bà danh từ
không đủ khả năng mà phải có tính từ để miêu tả sắc thái muôn hình muôn vẻ của
đời sống, phải có động từ chỉ hoạt động muôn vật nhất là sự tương tác giữa chúng.
Bởi vậy thế giới thơ Hồ Xuân Hương đầy màu sắc âm thanh, ánh sáng, hình khối
…. Thơ của Bà tràn trề màu sắc và hầu như không mấy khi những màu sắc ở độ
không mà nó luôn đỏ lóet, xanh rì , tối om,…có vai trò trong việc đẩy màu sắc đến
độ cực tả , tạo ra trong văn bản cái không đồng nhất, từ bình thường sang ẩn dụ.

c. Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng
nặng nề phong kiến “nhất nam viết tử thập nữ viết vô”. Đàn bà ít được đi học, ứng
17
thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân
Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí khi bà bị trợt té người ta cười, bà
làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn:

Giơ tay với thử trời cao thấp

Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

Hồ Xuân Hương thông minh, có tài nhưng tiếc thay sinh ra phận gái nên cái
lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là “lẳng lơ’’! Đọc mấy câu thơ
sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi XH đi qua miếu Sầm Nghi
Đống tại Loa Sơn, là tên Thái thú quân nhà Thanh thua trận thắt cổ chết trên cây đa
ở gò Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin
đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đề mấy câu thơ:

Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo

Kià đền Thái thú đứng cheo leo

Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?

Xã hội thời phong kiến người ta quan niệm „trai năm thê bảy thiếp, gái chín
chuyên chỉ một chồng thật là bất công! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp
nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ
chồng. Xuân Hương muốn phá cái phong tục thời đó, nên lúc sống với ông Phủ
Vĩnh Tường, có người góa phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ
xét, gặp lúc ông phủ đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay:

Phó cho con Nguyễn thị Đào

18
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai?

Chữ rằng xuân bất tái lai

Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già.

Tuy nhiên có tài liệu cho giai thoại này là của bà Huyện Thanh Quang, nhưng
theo nhận xét chung lối hành văn này không thể nào của bà Huyện Thanh Quang?
Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế. Biệt tài thơ
Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điển tích sáo ngữ, đọc thơ
hiểu được nghiã đen và nghĩa bóng.

Bài “Ngủ quên hay ngủ ngày” Thiếu nữ nằm nghỉ buổi trưa hè trời nóng, cơn
gió nồm mát rười rượi làm nàng ngủ quên, giấc ngủ say sưa vô tình bày ra thân
hình trẻ trung, mơn mởn da thịt với những đường nét tuyệt vời sống động…

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông

Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng

Lược trúc chải cài trên mái tóc,

Yếm đào trễ xuống dưới nương long

Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm

Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông

Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt

Đi thì cũng dở ở không xong.

19
Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục thấy hoa
đẹp ai không muốn nhìn? Bồng Đảo, Đào Nguyên là cảnh tiên, Lạch Đào Nguyên
suối hoa đào đều là cái đẹp của sự sống. Từ xưa và nay nhiều nhà phê bình bàn cãi
tranh luận về thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục, sinh lý bị đè nén. Ngược
lại người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng, xem những sáng tác của
Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác, âm điệu kỳ tài. Cái đặc điểm
trong thơ Xuân Hương là tả cái tục nhưng dùng toàn chữ thanh, nếu đọc bốn 4 câu
thơ sau người ta hiểu tả một ông quan võ nhưng không phải vậy.

Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn

Ban đêm không mắt sáng như đèn

Đầu đội nón da loe chóp đỏ

Lưng đeo bị đạn rủ thao đen

tựa là “dương vật”

Để có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ này, nói về Văn học không thể đọc
một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng? Bởi vì vấn đề tình dục từ
Châu Á sang Châu Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những
hình vẽ, tượng điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu lại từ ngàn
năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường
cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh... những tác
phẩm đó thể hiện linh động nét văn hóa và sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ
thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau. Nhiều sắc dân họ thờ
các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương
vật) tình dục được nói bình thường trong sinh hoạt của con người. Xã hội bình dân

20
xưa không thoát khỏi quy luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập
thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian

Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc
sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người
trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân
Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào
sâu cái tục trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình
mang tinh hoa khác biệt, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân
tộc

Một đèo, một đèo lại một đèo

Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo

Cửa son đỏ loét tùm hum nóc

Hòn đá xanh rì lún phún rêu

Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc

Đầm đià lá liễu giọt sương rơi

Hiền nhân quân tử ai là chẳng

Mõi gối chồn chân cũng muốn trèo

Bài thơ này đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, một đèo,
một đèo lại một đèo từ màu sắc cửa son đỏ lóet, tùm hum, xanh rì, lún phún, lắt
lẻo. Hồ Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động từ âm thanh đến
màu sắc. Hồ Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc,

21
không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc thông thường ít nghe điệp âm hõm
hòm hom, toen hoẻn, trong bài vịnh hang Cắc Cớ:

Trời đất sinh ra đá một chòm

Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom

Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,

Luồng gió thông reo vỗ phập phòm

Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm

Con đường vô ngạn tối om om

Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc

Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm

Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt xuống vũng nước bên dưới lõm
bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Hàng năm có Hội Chùa Thầy du khách
không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết Chùa Thầy.

Hồ Xuân Hương cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất
linh động với cảnh trời mây non nước… vào những ngày đầu xuân, hội Chùa
Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên chùa phải
trèo các bậc thang thì đúng hơn là đi, chen chân trong động với hương khói pha mờ
mù sương.

Người quen cõi Phật chen chân xọc

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm…

22
Bài đánh đu bức tranh quê sống động tả cảnh vui xuân rộn rã, Hồ Xuân
Hương khen trò chơi đánh du hấp dẫn gợi lên niềm say mê của ngày hội. Hiện nay
các làng ngoài Bắc còn duy trì trò chơi này. Nhưng ngày xuân trôi qua cột nhổ đi
rồi lỗ bỏ không, chỉ còn lại cảnh trống không hiu quạnh!

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng

Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông

Trai đu gối hạc khom khom cật,

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Bốn mảnh quần hồng bay phất phới

Hai hàng châu ngọc duỗi song song

Chơi xuân ai biết xuân chăng tá?

Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!

Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập
Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập

Bốn cột lang nha ngắm để trồng

À thì đánh cái ả còn ngong

Tế hậu thổ khom khom cật,

Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng

Tám bức quần hồng bay phất phới,

Hai hàng châu ngọc đứng song song


23
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy

Nhổ cột đem về để lỗ không.

Chơi đánh đu, khi chàng trai nhấn đu cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân
duỗi thẳng cho dễ bay bổng. Khi độ cao giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại
chờ đón… tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp
càng hiện rõ hình thể bên ngoài gối hạc, lưng ong, ngửa ngửa lòng, phất phới, song
song. Hồ Xuân Hương khéo dùng điệp khúc. Trong ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức
không khi nào gặp cách dùng chữ như trong văn chương Việt Nam. Chúng ta thử
đọc các bài dịch đối chiếu thi sĩ Balaban có thể dịch cảnh thu, nhưng khó chuyển
dịch được hơi thu!

Cảnh thu

Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,

Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.

Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,

Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.

Bầu dốc giang sơn say chắp rượu,

Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.

Ơ hay, cảnh cũng ưa người nhỉ,

Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.

Qua ca dao có nhiều bài truyền tụng nghe rất là tục như vịnh cái quạt:

Rành rành ba góc rành rành


24
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra

Khi vui thì sướng thay là

Khi buồn thì nước chảy ra rì rì.

Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn, có tính cách tương tự như ca
dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan, mỗi nan quạt có một cái lỗ, cây kim
xâu các nan quạt vào. Sau đó bồi bằng giấy có thể xếp lại và xòe ra quạt cho mát,
mưa sa nhẹ hạt có thể che đầu, lúc xếp quạt lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn
thừa. Hồ Xuân Hương tả cái quạt chỉ tám câu thơ bút pháp thật sinh động:

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa

Duyên em dính dáng tự bao giờ

Chành ra ba góc da còn thiếu

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa

Mát mặt anh hùng khi nắng gió,

Che đầu quân tử lúc sa mưa

Nâng niu ướm hỏi người trong trướng

Phì phạch trong lòng đã sướng chưa …

Thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm, ươm tơ,
làm lụa tự dệt vải may áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với
dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi

25
guốc, con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Hồ Xuân Hương tả cô gái dệt vải vào
đêm, muốn vài phẩm chất tốt phải ngâm lâu, ba mùa thu cũng không bị phai màu.

Thắp đèn lên thấy trắng phau

Con cò mấp máy suốt đêm thâu

Hai chân đạp xuống năng năng nhắc

Một suốt đâm ngang thích thích mau

Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả

Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau

Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ

Chờ đến ba thu mới dãi màu

Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17, nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ
Hà Nội. Dân tộc Việt Nam ảnh hưởng Phật giáo dưới thời nhà Lý rất hưng thịnh,
Phật, Pháp màu nhiệm không thay đổi, nhưng trong cõi đời nầy không thiếu những
kẻ “mạt tăng” lợi dụng cửa Chùa rộng mở, cạo đầu núp dưới lớp áo cà sa để buôn
thần, bán thánh…làm những việc trái với giáo lý nhà Phật. Xuân Hương không
chống phá đạo Phật, dùng thơ văn để dỡn mặt với tăng giả, hay sư hổ mang như
trong ca dao:

Ba cô đội gạo lên Chùa

Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư

Sư về sư ốm tương tư,

Ốm lăn, ốm lóc nên sư trọc đầu


26
Ai làm cho dạ sư sầu,

Cho ruột sư héo, cho bầu đứt dây!

Cảnh chùa Quán Sứ thời loạn làm cho Xuân Hương nghi ngờ người đã xuất
gia, tu lâu năm lên làm “Sư Cụ” như “phiến đá vĩ đại” bao che đệ tử gây nên
nghiệp chướng, không lo làm tròn phận sự tụng kinh gõ mõ, bỏ cảnh chùa vắng
teo.

Quán sứ sao mà cảnh vắng teo

Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao

Chày kình tiểu để suông không đấm

Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo

Sáng banh không kẻ khua tang mít

Trưa trật nào ai móc kẽ rêu

Cha kiếp đường tu sao lắt léo

Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo

hay sư hổ mang

……………………………

Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ

Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha

Tu lâu có lẽ lên Sư cụ

27
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà chày tạc hình con cá kình bằng gỗ, thay cho cái
dùi đánh chuông. Tang trống làm bằng gỗ mít. Nói chung người Phật tử chân
chính phải bực mình khi đến Chùa không có thầy trụ trì hướng dẫn về phần tâm
linh, Sư đi gây phiền não cho bá tánh, dù ở bất cứ thời đại nào cũng không thể
chấp nhận việc làm vô ý thức đó.

Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân
Hương mang nặng những niềm đau, khối tình nặng như đá, với những tâm sự thế
thái nhân tình làm rung động, se thắc lòng người:

Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt

Khối tình cọ mãi với non sông

Đá kia còn biết xuân già dặn

Chả trách người ta lúc trẻ trung

(Đá ông chồng, đá bà chồng)

hoặc qua bài tình tự

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non

Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn!

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn

28
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tý con con.

Xuân Hương vịnh bánh trôi nước, thức ăn quen thuộc của người bình dân.
Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm
lận đận, nhiều long đong? Nhưng tấm lòng nàng vẫn giữ sắt son:

Thân em trắng phận em tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Thơ Hồ Xuân Hương có phong cách riêng, tiêu biểu cho thái độ tự nhiên,
tình cảm tràn đầy trong sáng, thơ bà rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi
cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có
biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu, tiết tấu thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh.
Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương ta cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào
hồn, cái hay trong thơ Hồ Xuân Hương rất tuyệt vời và phong phú, nhưng bài viết
giới hạn, tôi không thể trình bày và trích giải hết được… Hồ Xuân Hương là nhà
thơ độc đáo có một không hai trong văn học Việt Nam.

III. Kết luận

Có thể không quá đáng khi nói rằng: Thơ Hồ Xuân Hương đã làm được nhiều
điều mà chúng ta tưởng chừng không thể làm được, cái không thể dưói bàn tay
điêu luyện của Hồ Xuân Hương đã trở thành có thể. Trước và sau bà không có ai

29
làm được điều đó. Một điều khi nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương, ngôn ngữ thơ của
nữ sĩ chúng ta đều nhận thấy nội dung và hình thức gắn vào nhau quá chặt chẽ. Tất
cả các phương tiện nghệ thuật đều kết hợp mật thiết với nhau để thể hiện nội dung
tư tưởng, tình cảm. Cả nội dung và hình thức thơ Hồ Xuân Hương đều bắt nguồn
sâu sắc từ trong đời sống nhân dân, đó là điều đã làm cho thơ bà trở nên bất tử. Bà
là người góp phần làm phong phú vốn tiếng Việt và giá trị của nó. Chính vì vậy khi
tìm hiểu phong cách thơ Hồ Xuân Hương chúng ta phải thấy rõ điều này. Hồ Xuân
Hương xứng đáng được mệnh danh “Bà Chúa thơ Nôm”.

30

You might also like