You are on page 1of 11

Trường Phổ Thông Năng Khiếu- Đại học Quốc gia TPHCM

Họ và tên học sinh: Lưu Nguyễn Minh An & Lê Thị Bảo Ngọc (Nhóm 2)
Lớp 12 Anh

Bài thuyết trình Học kỳ 2- Năm học: 2021-2022


Môn: Ngữ Văn
Đề tài: Phân tích nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ”

Điểm Nhận xét của Cô

MỤC LỤC
I. Tóm tắt chung về nhân vật Mị.
II. Phân tích nhân vật Mị.
a. Sự xuất hiện của nhân vật Mị.
b. Nỗi đau thân phận Mị.
b.1. Trước khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.
b.2. Thân phận con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra.
c. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt
c.1. Trong đêm tình mùa xuân.
c.2. Trong đêm cởi trói cho A Phủ.
III. Đánh giá nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật.
IV. Ý nghĩa nhân vật Mị.
V. Tài liệu tham khảo.
VI. Bảng phân công công việc.
I.Tóm tắt chung về nhân vật Mị
Mị là một cô gái tuổi đôi mươi xinh đẹp và đầy sức sống, có tài thổi lá kèn hay
như thổi sáo, được nhiều thanh niên mến mộ. Đương độ tuổi đẹp nhất đời
người, Mị có người yêu nhưng rồi phải làm cô dâu gạt nợ cho nhà Thống lý Pá
tra vì cha mẹ cô còn nợ tiền cưới khi xưa. Cuộc sống làm dâu nhà quan lấy đi
mọi thứ tốt đẹp trong cuộc sống của Mị. Nhiều lần cô cảm tưởng mình còn
không bằng con trâu, con bò, con ngựa vì chúng còn được nghỉ ngơi, còn được
gãi chân, gặm cỏ, còn Mị chỉ có vùi đầu vào công việc chẳng khác gì nô lệ trả
nợ cho cha mẹ.
Nhiều lần cô muốn kết liễu đời mình với mớ lá ngón trong tay, nhưng nghĩ đến
việc chẳng còn ai làm việc trả nợ cô đánh gắng gượng sống tiếp. Lâu ngày trong
cái khổ Mị cũng quen dần, chỉ lầm lũi như con rùa trong xó cửa; không buồn
cũng không vui. Năm ấy Hồng Ngài ăn tết muộn, Mị lén uống rượu, trong cơn
say Mị như sống lại những ngày còn con gái, Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A
Sử đánh và trói ở góc nhà bằng dây đay. Khi A Sử bị A Phủ đánh bể đầu, Mị
được cởi dây để bôi thuốc cho chồng. Một lần sau đó khi Mị thấy A Phủ bị trói
vào cột nhà vì làm mất bò, cô cởi trói cho anh rồi hai người bỏ trốn.

II. Phân tích nhân vật Mị


a. Sự xuất hiện của Mị trong tác phẩm
- Tô Hoài cho Mị xuất hiện ngay những dòng đầu tiên của tác phẩm với
các giới thiệu đầy ấn tượng.
“Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô
con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”
- Mị được giới thiệu trong góc nhìn từ xa đến gần. Từ hình ảnh cô gái trong
công việc lao động “quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước
dưới khe suối lên” đến tâm trạng hành động “cúi mặt, mặt buồn rười
rượi”
- Nhân vật xuất hiện không có tên tuổi cụ thể mà chỉ với một loạt các
hành động, trạng thái nối tiếp, gợi ám ảnh về sự vất vả nhọc nhằn đè
nặng lên vai người con gái, tưởng như nhân vật mãi vùi mình vào một
chuỗi những công việc chồng chất như thế.
=> Tô Hoài sử dụng thủ pháp miêu tả phác họa vẻ ngoài để gợi mở nội
tâm nhân vật, dự báo về kiếp người dài dằng dặc những bi kịch của Mị
- Cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý : sự âm
thầm, lẻ loi , cô đơn và buồn bã “mặt lúc nào cũng buồn rười rượi” của
một cô gái vốn là con dâu của nhà thống lí quyền thế, giàu có.
b. Nỗi đau thân phận Mị
b.1. Trước khi bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Trá.
“Suốt đêm con trai đến nhà mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai
đứng nhẵn cả chân, vách đầu buồng Mị”
“ Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như
thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”
=> Mị đang sống trong tuổi xuân sắc, sống trong tình yêu, là một cô gái trẻ
trung, xinh đẹp, tài hoa. Chọn cho Mị tài thổi sáo là một dụng ý của Tô Hoài,
bởi tiếng sáo gợi lên không gian, văn hóa, phong tục bản sắc Tây Bắc, gợi tả vẻ
đẹp nội tâm của con người nơi đây
=> Miêu tả vẻ đẹp của Mị, nhà văn không chọn cách tỉ mỉ, chi tiết mà chỉ bằng
đôi ba câu, một vài nét đã giúp người đọc nhận rõ được vẻ đẹp ấy. Mị là niềm
say mê, là một con người con gái đẹp người đẹp nết, yêu đời, khao khát hạnh
phúc. Nhưng vì Mị đang sống trong xã hội thực dân phong kiến nên tài sắc của
Mị đã trở thành nỗi bất hạnh.

b.2 Thân phân con dâu gạt nợ của nhà Thống Lý Pá Tra
-Lý do: “ Ngày xưa bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà
Thống Lý Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nhà một nương ngô.
Đến tận khi hai vợ chồng về già mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết cũng
chưa trả hết nợ”. Người con gái vì cái nghèo, vì món nợ truyền đời mãn kiếp mà
không sống được cuộc đời mà mình mong muốn.
“Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc nhà giàu kiếp trước, bây giờ người ta bắt con đi
trừ nợ. Không làm thế nào khác được rồi.”
=> Lời độc thoại nội tâm của người cha già cũng là lời cảm thán, trữ tình ngoại
đề của tác giả. Tô Hoài muốn tìm cách lý giải nguồn gốc của những bi kịch của
người phụ nữ, cái đau khổ truyền kiếp, ám ảnh ngỡ như định mệnh không lối
thoát. Bước chân vào nhà thống lý, bị trói buộc với thân phân con dâu gạt nợ là
số kiếp định sẵn của Mị.
- Định nghĩa “ con dâu gạt nợ”
+ Bên ngoài, Mị là con dâu nhà Thống Lí nhưng thực chất lại là con nợ
+ Linh hồn và sự sống của Mị đã bị đem “trình ma” nhà thống Lí
+ Mị đã từng xin cha “ đừng bán con cho nhà giàu” và muốn làm nương
để trả món nợ của gia đình. Những sự thâm độc của cha con Thống Lý đã
ép mị vào cuộc sống đầy bi kịch: “Mị vừa bước ra, lập tức có mấy người
choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt cõng đi”
- Nỗi đau thân phận của “ con dâu gạt nợ”
(thể chất)
+ Bị biến thành công cụ lao động: Những năm tháng làm dâu nhà Pá
Trá là một chuỗi những cực nhọc vất vả không dứt “Mị cúi mặt
không nghĩ ngợi nữa lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau,
mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại đi làm lại: tết xong lên núi hái
thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp …
Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn đứng được gãi chân, nhai
cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả ngày cả đêm.”
(tinh thần)
+ Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của
Mị . Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng
câm , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” .
+ Cuộc sống của Mị chìm trong đau khổ triền miên. Không có ai để
chia sẻ tâm tình, cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm
đông dài và buồn. Tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng nếu không có
bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng chết đến héo. Ngọn lửa là người bạn
duy nhất giúp Mị xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ
cuộc đời cô.
+ Nỗi đau tinh thần: Mị phải sống với A Sử, một kẻ vũ phu, thường
xuyên đánh đập Mị vô cớ, chưa bao giờ đối xử với Mị như một con
người. “Mị gật đầu thiếp đi, A Sử lấy chân đạp vào mặt Mị, Mị
choàng tỉnh” → phản ứng đã quen lờn, hành động bạo lực mà cứ
như cái vỗ vai thức tỉnh
+ “Có đến hàng mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc”, “Ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”: Âm thầm và câm lặng như một
cái bóng, đó là cách sống mà Mị lựa chọn cho dù nó trái ngược
hoàn toàn với bản tính sôi nổi, yêu đời của cô gái một thời xinh đẹp
và tài hoa. Bây giờ Mị không còn nghĩ đến chuyện chết nữa vì đã
quá quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống mà như đã
chết bởi cuộc sống chẳng còn nghĩa lý gì.
(văn hóa)
+ Mị không chỉ là nạn nhân của cường quyền, mà còn là nạn nhân
của thần quyền, cam chịu phận nô lệ: “Ta là thân phận đàn bà, nó
đã bắt về trình ma rồi, chỉ có biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”
+ Cái ác của bọn thống trị đã giết chết phần tốt đẹp trong con người
Mị. Mị bị đày đọa đến mức tinh thần phản kháng cũng dần dần tê
liệt. Tiếng thở dài của cô thể hiện thái độ buông xuôi phó mặc cho
số phận: “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng
là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến cái tàu ngựa nhà
khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ đi làm mà thôi”.
(hoàn cảnh)
+ Hình ảnh căn buồng của Mị “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ
vuông ấy mà trông ra” là hình ảnh gắn với cuộc đời Mị. Căn
phòng tối tăm, ngột ngạt chẳng khác gì với cuộc sống hiện tại của
Mị.
.
c. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt
- Ở Mị, khát vọng tình yêu tự do luôn luôn mãnh liệt. Khi bị ngỏ ý gả cho
nhà Thống lý Pá Tra, Mị thà nai lưng làm việc trả nợ chứ quyết không
làm dâu ở nhà quan chứng tỏ ý thức về sự tự do rất mãnh liệt.
- Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ vách cửa người yêu. Trong người
Mị vẫn rạo rực tình yêu của tuổi trẻ.
- Bị bắt về nhà thống lí, Mị định tìm đến cái chết để phản kháng cuộc sống
bị chà đạp, bất công
=> Mị trân quý sự tự do, đây chính là tiền đề cho sự trỗi dậy trong đêm
tình mùa xuân - chi tiết thể hiện rõ nhất sức sống của nhân vật Mị và cũng
là một trong những trọng điểm của tác phẩm
c.1. Trong đêm tình mùa xuân:
● Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị:
- Cảnh sắc của Hồng Ngài trong những ngày xuân:
"Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như bướm sặc sỡ,
hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm rồi sang màu
tím man mác", "Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước
nhà." → Cái không khí nồng nàn của mùa xuân như được tăng thêm bởi
bữa rượu ngày Tết ở nhà thống lí với tiếng chiêng đánh ầm ĩ và đám
người nhảy đồng, người hát

- Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi
dậy. "Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một". Mị vừa như uống
cho hả giận vừa như uổng hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo
tiếng sáo.” Cái cách uống rượu ực từng bát khiến người ta nghĩ như thế
Mị đang cố uống cho cạn những đắng cay của những âm thanh náo nhiệt
ngày Tết khiến Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh bấy lâu
nay.

- Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò
đặc biệt quan trọng: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị
ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang hỏi". "Ngày trước Mị thổi sáo
giỏi... Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo", "Tai Mị
vang tiếng gọi bạn đầu làng", "mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay
ngoài đường", "Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,
những đám chơi", "trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo"... Tiếng sáo gọi bạn
tình cứ thôi thúc, mời gọi. Tiếng sáo là biểu tượng của sự sống của tình
yêu tự do mà bấy lâu nay dường như Mị đã cố quên, nay nó đang trở lại.
Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng nhân vật Mị,
nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang âm ỉ cháy trong
lòng cô gái luôn khao khát tình yêu. Tiếng sáo đã nhập vào thế giới tâm
hồn Mị“trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo.”

● Diễn biến đêm xuân


- Mị quên đi thực tại, nhớ về quá khứ, về những ngày tháng hạnh phúc
trước đây, niềm ham sống bỗng trở lại: “Mị còn phơi phới trở lại lòng đột
nhiên vui sướng như những đêm ngày trước”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn
còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”.Sức sống bấy lâu nay bị đè nén giờ đây
trỗi dậy mạnh mẽ, không gì ngăn nổi

- Xuất hiện trong tâm trí Mị đầu tiên là một ý nghĩa lạ lùng mà rất chân
thật: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này. Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ
không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lý trên cho thấy niềm khao khát sống
một khi được khơi lên nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với
trạng thái vô nghĩa của thực tại. Người càng muốn chết bao nhiêu chứng
tỏ họ càng muốn sống bấy nhiêu. Chính vì quá yêu cuộc sống mà Mị
không thể chấp nhận hiện thực đau khổ này nữa. → Ý nghĩ về cái chết lúc
này là biểu hiện của sự phản kháng thực tại chứng tỏ rằng Mị đã ý thức
sâu sắc về tình cảnh đau đớn, tủi nhục của mình.

- Trong khi đó Sức sống trỗi dậy của con người Mị đã biến thành hành
động “Mị đến góc nhà. Lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn
cho sáng”. Thắp sáng căn phòng nhưng dường như cũng tiếp thêm lửa
cho chính niềm tin của bản thân

- Dường như không đếm xỉa gì đến những ràng buộc khắt khe của cường
quyền thần quyền những xiềng xích tàn bạo của nhà thống lí Pá Tra, Mị
hành động như một con người tự do theo suy nghĩ cảm xúc của mình“Mị
quấn lại tóc. Mị với lấy tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách chuẩn bị
đi chơi Tết” → quên cả sự tồn tại của A Sử. “Mị muốn đi chơi. Mị cũng
sắp đi chơi” → từ mong muốn trở thành khẳng định, thành hiện thực

- Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mạnh mẽ thì nó lại bị vùi dập một cách
phũ phàng khi A Sử nhẫn tâm trói Mị vào cột: “A Sử bước lại, nắm Mị,
lấy thắt lưng trói tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị
vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mị không cúi,
không nghiêng đầu được nữa” → sự sống đang sục sôi nổi dậy lại bị hiện
thực đè nén làm nó càng mãnh liệt hơn

- Suốt đêm Mị bị trói đứng vào cột. Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt
giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại đau khổ tủi nhục. Lúc
mới bị trói Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những đám chơi Tết ngoài
kia “Tiếng sáo đưa Mị thả hồn theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
Mị hầu như quên mình là đang bị trói quên những sợi dây trói thịt vào da
thịt đau nhức. Trong giây phút khát vọng sống thôi thúc mãnh liệt, Mị đã
vùng bước đi, nhưng Mị không thể thoát ra được

- Sự đối lập gay gắt giữa ước mơ bay bổng và thực tại phũ phàng hiện ra
trong 2 âm thanh trái ngược: tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân
ngựa đạp vào vách khô khốc. “Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn
tiếng chân ngựa đạp vào vách.”

c.2 Trong đêm cởi trói cho A Phủ


- Trước cảnh A Phủ bị trói, ban đầu Mị hoàn toàn vô cảm: "Mị vẫn thản
nhiên thổi lửa hơ tay", vì cảnh tượng ấy đã diễn ra trong nhà Thông lí
thường xuyên.

- Trước cảnh một con người khí phách ngang tàng như A Phủ mà phải bị
đánh, bị trói và lặng lẽ khóc cho thân phận tủi nhục của mình, Mị chợt
nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia.
Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi
được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng
thôi, [....]
- Mị không cầm lòng được. Mị đọng lòng thương người, thương thân.
Nước mắt đau khổ của A Phủ khơi dậy nỗi đau lắng chìm trong lòng Mị,
Mị cắt dây trói cứu A Phủ.
- Mị cắt dây trói cứu A Phủ và đồng thời cũng đã tự cắt đứt sợi dây vô hình
đã trói chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Mị thoáng nghĩ đến việc chết thay
cho A Phủ nhưng khi A Phủ vừa chạy đi, lập tức Mị cũng vụt chạy đuổi
kịp theo A Phủ: A Phủ cho tôi đi…. Ở đây thì chết mất” → khát vọng
sống nổi dậy
- Hành động ấy chứng tỏ khi khát vọng sống tiềm tàng trong con người
bừng dậy, nó sẽ là ngọn lửa dữ dội không thể dập tắt. Nó sẽ biến thành
thái độ phản kháng giai cấp thống trị. Những con người bị áp bức sẽ vùng
lên đối đầu với bạo lực, cường quyền để tự giải phóng khỏi thân phận nô
lệ.

III. Đánh giá về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật của tác giả.
* Nghệ thuật mô tả diễn biến tâm lý
- Sử dụng rộng rãi thủ pháp tương phản: Nhà Pá Tra giàu có và cô Mị
luôn cúi mặt, mặt buồn rười rượi; phòng giam Mị chật hẹp và không gian
bên ngoài phóng khoáng, tự do; cảnh u ám, chết lặng trong buồng Mị và
sự rộn ràng của những ngày xuân, những đêm tình mùa xuân; lý tưởng,
ước mơ tự do của Mị và thực tại.

- Đi sâu vào đời sống nội tâm để khắc họa tính cách. Nội tâm nhân vật ít
khi được khắc họa bằng lời nói, mà chủ yếu qua hành động, suy nghĩ,
thậm chí là qua cảnh vật xung quanh:
+ Mượn hình tượng thiên nhiên để diễn tả tâm trạng (mùa xuân
của thiên nhiên khơi gợi sức sống thanh xuân trong tâm hồn
Mị, ngọn lửa hơ tay trong đêm mùa đông gợi ngọn lửa âm ỉ
trong tâm hồn mình, lúc Mị châm thêm mỡ cho đèn sáng
cũng là thắp lên ngọn lửa hi vọng trong tim mình).
+ Trực tiếp miêu tả diễn biến tâm lý một cách hợp lý và tinh tế
với từng tình huống cụ thể: trong đêm tình mùa xuân, tiếng
sáo bên ngoài đã đánh thức khát khao tình yêu, khát khao
sống trong Mị. (Tiếng sáo tựa như tiếng lòng Mị, cả hai cùng
mạnh mẽ và đồng điệu). Âm thanh tiếng sáo càng gần thì
khát vọng trong Mị càng mạnh mẽ. Cho đến khi tiếng sáo
bên ngoài đã nhập hẳn vào trong lòng, trong đầu Mị thì Mị
bắt đầu có những hành động để thực hiện khát khao ấy.
+ Trong cả đoạn trích Mị chỉ nói có hai lần, nhưng tiếng nói
của Mị là ý thức phản kháng của một con người yêu tự do. Ở
đầu truyện Mị đấu tranh cho sự tự do của mình bằng cách
phản đối gả cho nhà quan. Cuối truyện, Mị lại lần nữa lên
tiếng, tìm đường giải thoát cho số phận của mình. Ở nhà
Thống lý Pá Tra, Mị có bao giờ lên tiếng, họ có xem Mị là
con người đâu, mà chỉ có con người thì mới cần phải nói.
Nay gặp A Phủ, Mị như là con người trở lại.

- Giọng kể của nhà văn nửa trực tiếp, vừa đứng ngoài vừa nhập vào dòng
tâm tư nhân vật, làm nổi lên ý nghĩ, tâm trạng và cả những trạng thái chập
chờn của tiềm thức nhân vật.
* Nghệ thuật xây dựng tính cách
- Xây dựng nét tính cách ổn định, thống nhất mà cũng phong phú với
những vận động, đổi thay vừa bất ngờ vừa tất yếu. Mị là cô gái có sức
sống tiềm tàng mạnh mẽ. Khi buộc phải sống như một con vật đã dám
chết như một con người. Khi bên ngoài câm lặng là khi sức sống âm ỉ đã
dồn vào bên trong để chờ cơ hội bùng phát. Khi sẵn sàng chết thay cho
người khác cũng là khi quyết tâm sống trào dâng mạnh mẽ.
- Làm nổi bật sự khác biệt giữa các tính cách: Mị và A Phủ có sức sống
mạnh mẽ sống ở Mị sức mạnh đã dồn vào bên trong nên tác giả chủ yếu
miêu tả đời sống nội tâm. Ở A Phủ, sức sống lại bộc lộ ra thành vẻ nam
tính trong những hành động dữ dội quyết liệt và lời nói dứt khoát.
c. Ngôn ngữ và cách kể
- Ngôn ngữ: Đậm chất miền núi, biểu hiện ở lối tư duy gắn liền với thiên
nhiên, hòa quyện và đồng nhất với thiên nhiên. Nét đặc sắc là ở chỗ, Tô
Hoài đã vận dụng cách nói hồn nhiên, giàu hình ảnh của người miền núi
song không sa vào sự sao chép tự nhiên chủ nghĩa mà có chọn lọc, nâng
cao đến trình độ chuẩn mực của ngôn ngữ văn học.
- Cách kể: Xây dựng lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển của điểm
nhìn trần thuật (khi đặt bên ngoài để quan sát khách quan, khi đặt bên
trong để thể hiện thấm thía những suy nghĩ, tình cảm trong lòng nhân
vật).

IV. Ý nghĩa của nhân vật Mị:


- Nhân vật Mị là nhân vật điển hình, mà đã là nhân vật điển hình thì
phải có sự thống nhất sâu sắc cái chung và cái riêng. Một nhân vật
điển hình là sự hòa quyện của tính cụ thể, đặc biệt của nhân vật đó
nhưng đồng thời cũng mang những đặc điểm chung tiêu biểu cho
người dân trong xã hội.
- Ở nhân vật Mị, cô đại diện cho bao cô gái dân tộc H’Mông ở tuổi
đôi mươi khác: có cha mẹ, có người yêu, biết thổi lá hay như thổi
sáo, xinh đẹp, duyên dáng, và tràn đầy sức sống. Cuộc đời của Mị
chắc chắn không phải là cuộc đời của những người bạn đầu làng
hay của những người chị em dâu trong nhà Thống lý Pá Tra, nhưng
chắc chắn những bi kịch và nỗi khổ của cô đại điện cho số phận
của bao người phụ nữ bị đè nén và áp bức trước bọn cường quyền
và văn hóa hủ tục tàn nhẫn.
- Mị là một nhân vật thức tỉnh: Con người thức tỉnh trong văn học là
những nhân vật từng nếm trải nhiều cay đắng, tủi nhục và đau khổ;
sống trong trạng thái nhẫn nhục, cam chịu cho thân phận mình.
Cuối cùng, con người thức tỉnh dần dần “hồi sinh”, tự ý thức về
quyền sống và quyền làm người của mình, phản kháng áp bức, bất
công giành lấy tự do và hạnh phúc, xây dựng một cuộc sống có ý
nghĩa.
- Qua nhân vật Mị, Tô Hoài truyền tải nhiều giá trị nhân đạo. Mị
tượng trưng cho những đức hạnh và tài hoa của những người con
gái miền núi. Mị đại diện cho sự thức tỉnh và đấu tranh của họ
trước áp bức, cường quyền mà hướng đến Cách mạng, đến tự do.

V. Tài liệu tham khảo.

1. Sách giáo khoa Ngữ Văn 12, Tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
2. Nhà Văn Tô Hoài tâm sự về tác phẩm Vợ chồng A Phủ-
http://thptthanglonghanoi.edu.vn/nha-van-to-hoai-tam-su-ve-tac-pham-vo-chong-a-ph
u-532.html
3. Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ-
http://lop12.net/to-hoai-va-tac-pham-vo-chong-a-phu-3551/
4. Dàn ý phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A
Phủ-https://olptienganh.vn/dan-y-phan-tich-nhan-vat-mi-trong-vo-chong-a-phu/
5. Phân tích Mị-
https://ccbook.vn/blogs/news/huong-dan-phan-tich-chi-tiet-3-khia-canh-nhan-vat-mi-t
rong-vo-chong-a-phu

6. Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ-


https://text.123docz.net/document/555376-nhan-vat-mi-trong-vo-chong-a-phu.htm
VI. Bảng phân công công việc
Lưu Nguyễn Minh An.
+ Soạn nội dung phần II. Phân tích nhân vật Mị.
+ Soạn powerpoint phần III. Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật Mị
và phần IV. Ý nghĩa nhân vật Mị.
+ Thuyết trình phần III. Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật Mị và
phần IV. Ý nghĩa nhân vật Mị.

Lê Thị Bảo Ngọc


+ Soạn nội dung phần I. Tóm tắt chung về nhân vật Mị, III. Đánh giá về
nghệ thuật xây dựng nhân vật Mị.
+ Soạn powerpoint phần I.Tóm tắt chung về nhân vật Mị và phần II. Phân
tích nhân vật Mị.
+ Thuyết trình phần I.Tóm tắt chung về nhân vật Mị và phần II. Phân tích
nhân vật Mị.

You might also like