You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI (CSII)

KHOA LUẬT

BÀI TIỂU LUẬN HỌC PHẦN


TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Học kỳ: I Năm học: 2021-2022

Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thị Thu Trang


Mã số sinh viên : 1953801070491
Ngày tháng năm sinh : 14/04/2001
Lớp : D19LK1

TP. HỒ CHÍ MINH - 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI (CSII)
KHOA LUẬT

BÀI TIỂU LUẬN HỌC PHẦN


TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Học kỳ: I Năm học : 2021-2022

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI


TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM

TP. HỒ CHÍ MINH - 2021


NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN

- Về hình thức: ..................................................................................................................


...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
- Nội dung: ........................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Tổng:

Cán bộ chấm thi 1 Cán bộ chấm thi 2


(Kí và ghi rõ họ tên) (Kí và ghi rõ họ tên)
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI TRONG


TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM................................................................................2
1.1 Khái niệm áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt Nam...............2
1.2 Sự cần thiết áp dụng pháp luật nước ngoài..............................................................2
1.3 Các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.......3
Chương 2. THỰC TIỄN VÀ ĐỀ XUẤT ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM.................................................................6
2.1 Những khó khăn vướng mắc của áp dụng pháp luật nước ngoài ..............................6
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt Nam................7
2.3 Đề xuất áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt Nam...................8

KẾT LUẬN ................................................................................................................10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TPQT: Tư pháp quốc tế
BLDS: Bộ luật Dân sự
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hội nhập quốc tế đã và đang là một xu thế tất yếu khách quan của quá trình toàn cầu
hóa các mối quan hệ dân sự - kinh tế - thương mại, hôn nhân và gia đình, là một vận
hội nhưng đồng thời cũng là thách thức gay gắt đối với mọi quốc gia.Việc quốc tế hóa
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội tất yếu dẫn đến việc phát sinh nhiều ngày càng nhiều
mối quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài thuộc các lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương
mại, hôn nhân gia đình..Để điều chỉnh các mối quan hệ này, ở những mức độ khác
nhau, pháp luật cá nước đều thừa nhận và cho phép áp dụng luật nước ngoài. Nói cách
khác, áp dụng pháp luật nước ngoài là một tất yếu, khách quan trong TPQT. Tuy nhiên,
áp dụng pháp luật nước ngoài luôn là một vấn đề phức tạp và khó khăn. Tòa án Việt
Nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật quốc gia khác để giải quyết các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài. Vì vậy nên tôi chọn đề tài “Thực trạng áp dụng pháp luật nước
ngoài trong tư pháp quốc tế Việt Nam“, để tìm hiểu về các trường hợp áp dụng pháp
luật nước ngoài và đưa ra những đề xuất của bản thân góp phần cho tư pháp quốc tế
Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
Tìm hiểu về việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong TPQT, phân tích từng trường
hợp áp dụng pháp luật nước ngoài nêu ra được ví dụ, tìm hiểu về thực trạng để nêu ra
đề xuất của bản thân.
Để đạt được mục đích đó, tiểu luận có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Tìm hiểu khái
quát về áp dụng pháp luật nước ngoài trong TPQT, bao gồm khái niệm, sự cần thiết,
các trường hợp, khó khăn, thực tiễn và đề xuất. Phân tích và nêu ví dụ các trường hợp
áp dụng pháp luật nước ngoài trong TPQT. Đề xuất kiến nghị một số giải pháp nhằm
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong TPQT
Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi của tiểu luận
Đối tượng là: áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế
Thời gian nghiên cứu: 2010 đến 2021
Địa điểm: Việt Nam
Không gian cụ thể: tư pháp quốc tế Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiếp cận, giải quyết vấn đề trong bài tiểu luận tôi sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp thu thập số liệu, Phương pháp phân tích và tổng hợp, Phương pháp so
sánh, Phương pháp liệt kê, Phương pháp khảo sát thực tiễn.
2

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI TRONG
TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM

1.1 Khái niệm áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt Nam
Áp dụng pháp luật nước ngoài, giáo trình TPQT của các trường trường đại học
không đưa ra khái niệm cụ thể nhưng có thể hiểu áp dụng pháp luật nước ngoài “là việc
cơ quan có thẩm quyền của 1 nước vận dụng các qui định cụ thể của pháp luật 1 nước
khác để giải quyết các quan hệ cụ thể”.
Pháp luật nước ngoài hay “Pháp luật 1 nước khác” ở đây thực chất chính là pháp
luật của một quốc gia. Đó là hệ thống văn bản pháp quy (kể cả luật không thành văn)
của một quốc gia bao gồm Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật cùng với những tập
quán và án lệ, thực tiễn tư pháp. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia
quan hệ dân sự quốc tế, đảm bảo sự ổn định,củng cố và phát triển hợp tác về mọi mặt
trong giao lưu dân sự giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cá thế giới.

1.2 Sự cần thiết áp dụng pháp luật nước ngoài


Khi không có quy phạm thực chất thống nhất, các quốc gia đương nhiên phải giải quyết
xung đột pháp luật bằng cách xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột. Việc áp dụng
các quy phạm xung đột có nghĩa là thừa nhận rằng pháp luật nước ngoài có thể được áp
dụng để điều chỉnh các mốỉ quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài trong
những trường hợp nhất định.
Thực tiễn tư pháp quốc tế đã chứng tỏ rằng, ở những mức độ và với những điều kiện
khác nhau, tất cả các nước đều thừa nhận và cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài, việc áp
dụng pháp luật nước ngoài là không tránh khỏi, là đặc thù của tư pháp quốc tế.
Để hình dung sự cần thiết phải áp dụng pháp luật nước ngoài trong những trường hợp
nhất định, chúng ta thử phân tích ví dụ sau đây: Hai công dân Việt Nam định cư ở nước
ngoài, kết hôn với nhau theo những điều kiện và nghi thức do pháp luật nước sở tại quy
định. Giả sử về điều kiện kết hôn, việc kết hôn này hoàn toàn đáp ứng những yêu cầu của
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, còn về nghi thức kết hôn lại trái với Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam, vì các đương sự đã kết hôn theo nghi thức tôn giáo theo đúng yêu cầu
của pháp luật nưóc sở tại.
Vấn đề đặt ra là: Việt Nam có thừa nhận giá trị pháp lý của việc kết hôn trên hay không?
Nếu thừa nhận có nghĩa là chúng ta đã áp dụng pháp luật nơi tiến hành kết hôn để giải quyết
3

vấn đề nghi thức kết hôn. Trong việc kết hôn này mọi nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam đều được đảm bảo.
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vấn đề nghi thức kết hôn không gây hậu
quả trái với những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và của pháp luật Việt Nam, đồng
thời lại tạo điều kiện cho công dân thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng
của mình, góp phần đảm bảo tính ổn định và thúc đẩy các mốỉ quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng có yếu tố nước ngoài phát triển. Nói cách khác, việc áp dụng pháp luật nưởc ngoài
trong trường hợp cụ thể này là hợp lý, hợp tình, là yêu cầu khách quan của việc điều chỉnh
pháp lý các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Tóm lại, trong những trường hợp nhất định, việc áp dụng pháp luật nước ngoài để điều
chỉnh quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài không những có khả năng mà
còn là cần thiết khách quan để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự và
thúc đẩy giao lưu dân sự quốc tế phát triển. Tuy nhiên, phạm vi cho phép áp dụng pháp luật
nước ngoài phải được xác định trên cơ sỏ chủ quyền quốc gia và bình đẳng chủ quyền giữa
các quốc gia; đồng thời bảo đảm hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái
với những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và của pháp luật nước mình.

1.3 Các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt
Nam
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, Luật thương mại 2005 , Luật hôn nhận và
gia đình…cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam áp dụng pháp luật nước ngoài trong
trường hợp các văn bản pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc trong trường hợp các
bên có thỏa thuận trong hợp đồng nếu sự thỏa thuận đó không trái với quy định của
pháp luật Việt Nam.
Các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài theo Điều 664 BLDS 2015 quy định về
xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài bao gồm 3
trường hợp sau:
1. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định
theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật
Việt Nam.
Quy định này nhấn mạng tới nguyên tắc chung trong việc xác định pháp luật áp
dụng đối với những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là điều ước quốc tế mà nước
ta là thành viên hoặc các điều luật của Việt Nam. Như vậy, khoản 1 Điều 664 BLDS
4

2015 chỉ rõ nguồn chứa đựng quy phạm pháp luật xung đột là điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên và các đạo luật của Việt Nam.
Điều ước quốc tế là thỏa thuận được kí kết bằng văn bản giữa hai hoặc nhiều bên
chủ thể của luật quốc tế nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ
quốc tế. Áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế là việc điều ước quốc tế sau khi được kí kết
sẽ có hiệu lực thi hành trực tiếp trên lãnh thổ của quốc gia kí kết mà không cần bất kì
hình thức chuyển hóa nào việc hệ thống pháp luật trong nước. Cơ chế này có thể được
thực hiện thông qua việc cụ thể hóa quy định của điều ước quốc tế vào văn bản quy
phạm pháp luật trong nước hoặc bằng tuyên bố của nguyên thủ quốc gia. Hệ quả là quy
phạm pháp luật quốc tế được chuyển thành quy phạm pháp luật trong nước.
 Ví dụ: khoản 1 Điều 673 BLDS năm 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của
cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch”. Như vậy,
luật Việt Nam có thể dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong một số
trường hợp nhất định. 
2. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng
đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên.
Có thể thấy, đây là quy định bổ sung mới, có tính nguyên tắc , được ghi nhận rõ ràng
tại Bộ Luật. Quy định tại Phần 7 của Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ cho phép các bên có
quyền lựa chọn luật áp dụng đối với quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng dân
sự có yếu tố nước ngoài và quyền sở hữu đối với tài sản là động sản trên đường vận
chuyển, “trong khi đó, Điều 678, 683, 686, 687, của Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã mở
rộng hơn quyền lựa chọn pháp luật khi cho phép các bên có quyền lựa chọn pháp luật
điều chỉnh quyền sở hữu đối với tài sản là động sản trên đường vận chuyển, hình thức,
nội dung hợp đồng, thực hiện công việc không có ủy quyền, cũng như bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng (trừ trường hợp ngoại lệ). Khoản 2 Điều 664 BLDS năm 2015 đã
cụ thể hóa được yêu cầu xây dựng Phần 5 BLDS năm 2015 đó là ” thể hiện rõ nguyên
tắc đặc thù của quan hệ dân sự trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật xung đột
đó là bình đẳng, tự thỏa thuận, tự định đoạt, tự chịu trách nhiệm của các bên tham gia
quan hệ dân sự bao gồm cả quyền được tự do thỏa thuận chọn luật áp dụng. Tuy nhiên,
nếu áp dụng khoản 2 điều luật này trên thực tế thì khoản này không quy định rõ pháp
luật mà các bên được lựa chọn bao gồm những nguồn luật nào. Theo cách hiểu thông
thường, chắc chắn pháp luật các bên được lựa chọn là pháp luật quốc gia, đồng thời
5

theo quy định tại Điều 666 Bộ luật Dân sự năm 2015, thì nó còn bao gồm cả tập quán
quốc tế, nên pháp luật cần quy định chi tiết hơn về điều khoản này.
Ví dụ: theo khoản 1 Điều 769 BLDS, "quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng
được xác định theo pháp luật của nước nơi thực hiện hợp đồng, nếu không có thoả
thuận khác”. Với quy định này, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng được
điều chỉnh bởi pháp luật do các bên lựa chọn và chỉ khi nào không có sự lựa chọn hợp
pháp của các bên thì hệ thống pháp luật của nơi thực hiện hợp đồng mới được sử dụng. 
3. Trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo quy định tại khoản 1
và khoản 2 Điều này thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó
nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.”
Theo quy định này thì trường hợp các bên không chọn luật áp dụng, điều ước quốc
tế không quy định xác định pháp luật áp và pháp luật quốc gia cũng không quy định
vấn đề này thì cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào khoản này để xác định pháp luật
được áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Đây là quy định bổ sung mới
hết sức linh hoạt, hiện đại chưa được quy định trong Phần 7 Bộ luật Dân sự năm 2005,
nhằm giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, cũng như các bên
đương sự có cơ sở pháp lý giải quyết vụ việc khi không xác định được pháp luật áp
dụng theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp luật Việt Nam. Thực tế,
khó có thể xây dựng được một hệ thống quy phạm pháp luật  xung đột đầy đủ giải
quyết mọi quan hệ phát sinh, trong trường hợp không có quy phạm pháp luật xung đột
hoặc các bên không lựa chong pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh thì giải pháp áp
dụng pháp luật của nước có mối quan hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự đó là phù hợp.
Ví dụ: theo khoản 1 điều 672 “pháp luật của nước nơi người đó cư trú vào thời điểm
phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Nếu người đó có nhiều nơi cư trú hoặc
không xác định được nơi cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước nơi người đó có mối liên hệ gắn bó
nhất” như vậy nếu không xác định được nơi cư trú áp dụng pháp luật nơi người đó gắn
bó nhất thay vì trực tiếp áp dụng pháp luật Việt Nam như luật cũ.
6

Chương 2
THỰC TIỄN VÀ ĐỀ XUẤT ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ VIỆT NAM

2.1 Những vướng mắc, khó khăn trong áp dụng pháp luật nước ngoài
Tại Việt Nam, vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài hiện nay được quy định tại
các Điều 759 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 5 Luật Thương mại năm 2005, Điều 4 Bộ
luật hàng hải năm 2005, Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 5 Luật
Đầu tư năm 2005 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Theo các quy định trên
thì việc áp dụng pháp luật nước ngoài sẽ được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam áp
dụng trong các trường hợp các văn bản của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc trong các
trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, nếu sự thỏa thuận đó không trái với
pháp luật Việt Nam.
Để áp dụng pháp luật nước ngoài theo đúng cách thức đòi hỏi các cơ quan xét sử có
trách nhiệm tìm hiểu nội dung. Thực tế của pháp luật Việt Nam chưa có một qui định
cụ thể nào về nghĩa vụ tìm hiểu nội dung pháp luật nước ngoài thuộc về cơ quan xét xử
hay của các bên đương sự. Đây là một vấn đề phức tạp và trên thực tế gây không ít khó
khăn cho thẩm phán.
Pháp luật không có quy định cụ thể về cách thức áp dụng pháp luật nước ngoài
mà chỉ dựa trên các nguyên tắc xuất phát từ mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
các đương sự và lợi ích quốc gia. Khi Tòa án Việt Nam thụ lý giải quyết những vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài, phần nhiều liên quan đến một bên chủ thể là công dân
Việt Nam nên việc ưu tiện chọn luật Việt Nam để giải quyết thường được áp dụng
nhằm thuận tiện cho việc nghiên cứu Luật và theo hướng có lợi hơn cho công dân Việt
Nam.
Tình trạng “luật khung”: là loại văn bản chứa đựng những quy định mang tính
nguyên tắc làm cơ sở cho việc đề ra những quy định cụ thể trong quá trình điều chỉnh
một hoặc một số quan hệ xã hội. Ví dụ, Luật Hôn nhân và gia đình có quy định: “Việc
đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên
giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam
do Chính phủ quy định”. Việc chỉ dừng lại ở những quy định có tính chất “khung” cho
thấy, các nhà lập pháp luôn cần đến sự tham gia của các nhà quản lý trong việc đưa ra
7

những quy định chi tiết, cụ thể nhằm áp dụng pháp luật vào hoạt động quản lý trong
từng lĩnh vực cụ thể. 
Tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật khiến cho hoạt
động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài còn hạn
chế, nhiều khó khăn. Ví dụ: cùng quy định về thẩm quyền của tòa án trong việc giải
quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhưng lại được quy định
cả trong Luật Hôn nhân và gia đình và điểm g khoản 2 Điều 410, điểm c khoản 1 Điều
411 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Số lượng, chất lượng đội ngũ thẩm phán chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
mới. Một số lượng không ít Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp hiện có còn phải đi
học văn hóa, nghiệp vụ, chính trị, tin học để đạt được tiêu chuẩn về trình độ theo yêu
cầu mới. Nguyên nhân này xuất phát từ các quy định về tiêu chuẩn lựa chọn Thẩm
phán của chúng ta không còn phù hợp với thời đại mới.. Nhiều người còn thiếu kỹ
năng, kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên sâu như sở hữu trí tuệ, thương mại
quốc tế, hàng không, hàng hải, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế... Đặc biệt là
sự hiểu biết còn hạn chế về pháp luật các nước trên thế giới, Thẩm phán Việt Nam biết
nhiều pháp luật Việt Nam hơn pháp luật nước ngoài, những hiểu biết nếu có về pháp
luật nước ngoài chỉ mang tính rời rạc, góp nhặt mà thiếu tính hệ thống, bài bản, chính
vì vậy họ có xu hướng áp dụng pháp luật Việt Nam ngay cả khi quy phạm xung đột
dẫn chiếu tới. Phần lớn các Thẩm phán đứng tuổi không tham gia được những vụ phải
sử dụng đến ngoại ngữ. 
Trong vấn đề công nhận và thi hành bản án nước ngoài tại Việt Nam phải trải
qua quá nhiều khâu quá trình áp dụng đơn yêu cầu phải được đến Bộ Tư pháp để xem
xét tính thích hợp tính hợp lệ của đơn sau đó chuyển đến Tòa án Tỉnh để thi hành.

2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt Nam
Trong thời gian qua Việt Nam đã kí 23 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và các
lĩnh vực liên quan trong đó có một số quy định nhằm cụ thể hơn việc áp dụng pháp luật
nước ngoài. Trên thực tế, việc áp dụng pháp luật nước ngoài thường chỉ trong lĩnh vực
hành chánh như đăng ký kết hôn giữa người nước ngoài và công dân Việt Nam tại cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam, nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài… Việc áp
dụng dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế Việt Nam còn khá hạn chế. Dù
pháp luật đã quy định về vấn đề này nhưng do tính chất phức tạp của nó cũng như sự
hạn chế về chuyên môn của các thẩm phán.
8

Tuy nhiên thực tiễn cho thấy rằng tòa án Việt Nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật
quốc gia khác để giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, mà lẽ ra việc áp
dụng pháp luật nước ngoài trên cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung đột có thể bảo vệ
tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của các bên tranh chấp.
Để đảm bảo lợi ích của các bên đương sự một cách chính đáng cũng như đảm bảo
thực tiễn xét xử được công bằng và giữ gìn trật tự pháp luật của Nhà nước, các cơ quan
tư pháp và tòa án có trách nhiệm tìm hiểu nội dung đích thực của luật pháp nước ngoài
cần áp dụng như nghiên cứu luật nước ngoài, thực tiễn tòa án xét xử của họ, tập quán
luật, thông lệ, án lệ và các tài liệu pháp lý trong và ngoài nước của các viện nghiên
cứu… để giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài một cách khách quan đảm bảo
quyền và lợi ích của các bên.
Đồng thời, trong quá trình tố tụng các bên đương sự cũng có quyền đưa ra các bằng
chứng về luật nước ngoài trước tòa để bảo vệ quyền lợi ích của mình. Tuy nhiên việc
xác định nội dung luật nước ngoài vẫn là nhiệm vụ chính của cơ quan xét xử phụ thuộc
vào trọng tài hoặc Tòa án.
Ngoài ra, nếu đọc kỹ các quy định trong pháp luật Việt Nam về áp dụng pháp luật
nước ngoài sẽ thấy các quy định này còn nhiều điểm mâu thuẫn với nhau. Bên cạnh đó
cũng phải thừa nhận một thực tế là các kiến thức về tư pháp quốc tế nói chung, áp dụng
pháp luật nước ngoài nói riêng vẫn còn rất xa lạ với các thẩm phán Việt Nam cũng như
đối với những người tham gia tố tụng khác.

2.3 Đề xuất áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế Việt Nam
Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật
nước ngoài tại Việt Nam, tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt
Nam: Các quy định trong các văn bản pháp luật cần được quy định một cách cụ thể, rõ ràng,
nên quy định việc giải quyết một vấn đề trong cùng một văn bản, giảm dần việc phải ban
hành thêm các văn bản pháp luật khác để hướng dẫn thi hành các quy định đã có. Các hiệp
định tương trợ tư pháp cần phải quy định một cách rõ ràng và cụ thể về các trường hợp áp
dụng pháp luật nước kia để vừa thuận tiện và hiệu quả trong quá trình giải quyết, vừa tránh
xung đột pháp luật.
Thứ hai, nâng cao trình độ, năng lực của các cán bộ trong các cơ quan áp dụng pháp luật,
đáp ứng xu thế mới cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ. Đồng thời các cơ quan
có thẩm quyền cần áp dụng pháp luật nước ngoài một cách thiện chí, trung thực, đầy đủ.
9

Không thể chỉ áp dụng những quy phạm hay nội dung mang tính chất có lợi cho các chủ thể
mang quốc tịch của quốc gia mình hoặc cố tinh hiểu sai lệch ý nghĩa của các quy phạm pháp
luật nước ngoài.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hóa và tăng cường hợp tác, các quốc gia phải thực hiện các
cam kết của minh một cách tận tâm, thiện chí. Nếu quốc gia nào thiếu thân thiện trong việc
thực hiện các cam kết thì chính họ sẽ bị giảm sút uy tín.
Thứ tư, cải thiện chất lượng bản dịch tiếng Việt của nội dung pháp luật nước ngoài.
Đây là một trong những khó khăn lớn, đòi hỏi Tòa án phải có một mạng lưới cộng tác
viên về phiên dịch, đặc biệt là phiên dịch về pháp luật nước ngoài. Trên tinh thần đó,
việc thiết lập mạng lưới này có thể được thực hiện tương tự mạng lưới cộng tác viên
chuyên gia về pháp luật nước ngoài. Theo đó, Tòa án nhân dân tối cao cần có văn bản
đăng tải công khai về việc xây dựng mạng lưới cộng tác viên dịch thuật về pháp luật
nước ngoài với những tiêu chí cụ thể về trình độ, năng lực, kinh nghiệm dịch thuật.
Giới thiệu cho đương sự khi cần phải dịch nội dung pháp luật nước ngoài.
10

KẾT LUẬN

Những vấn đề đã giải quyết trong bài tiểu luận gồm phân tích các trường hợp áp
dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế từ đó thấy được những khó khăn
vướng mắc của tư pháp quốc tế. Nêu ra được thực tiễn và nhận xét từ bản thân như sau:
Áp dụng pháp luật nước ngoài là một trong những vấn đề nghiên cứu quan trọng và
ngày càng có ý nghĩa trong giao lưu quốc tế. Trong quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài, pháp luật Việt Nam, một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cho
phép các bên được lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc yêu cầu Tòa án Việt
Nam phải áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết tranh chấp, yêu cầu. Phù hợp với
tinh thần đó, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đã có quy định về trách nhiệm cung
cấp nội dung pháp luật nước ngoài để Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài.
Đây là vấn đề cần khắc phục bởi việc áp dụng pháp luật nước ngoài trên cơ sở dẫn
chiếu của quy phạm xung đột có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của các
bên tranh chấp. Song song với đó, khi áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vấn
đề phát sinh cần phải luôn gắn với việc bảo đảm độc lập, chủ quyền, bình đẳng và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia; bảo đảm sự an ninh, ổn định chế độ xã hội chủ nghĩa và nền
tảng pháp luật của nhà nước ta.
Có thể thấy, các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước
ngoài tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở lý thuyết và rất hạn chế trong việc áp dụng,
dường như mới chỉ được khai thác chủ yếu dưới góc độ nghiên cứu, giảng dạy. Tại
Việt Nam, việc áp dụng pháp luật nước ngoài mới chỉ xuất phát ở một số lĩnh vực về
hành chính như đăng ký kết hôn giữa người nước ngoài với công dân Việt Nam tại cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam, nhận nuôi con có yếu tố nước ngoài… Như vậy, có
thể nói việc áp dụng pháp luật nước ngoài ở Việt Nam chược đại hiệu quả.
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài ở Việt Nam cũng phải được xác định trong phạm
vi nhất định, đó là phải luôn xuất phát và trên cơ sở của chủ quyền quốc gia, sự bình
đẳng chủ quyền với các quốc gia khác và đồng thời phải đảm bảo hiệu quả của việc áp
dụng pháp luật nước ngoài không trái với những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội
chủ nghĩa và nền tảng pháp luật của nước mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2015, (91/2015/QH13), ngày 24 tháng 11 năm 2015
2. Luật sư Nguyễn Văn Dương, “Áp dụng pháp luật nước ngoài là gì? Việc áp
dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế?” https://luatduonggia.vn/ve-
van-de-ap-dung-phap-luat-nuoc-ngoai/, ngày 22/08/2021
3. Thạc sỹ Đinh Thùy Dung, “Xác định pháp luật áp dụng đối với các quan hệ dân
sự có yếu tố nước ngoài”, https://luatduonggia.vn/xac-dinh-phap-luat-ap-dung-
doi-voi-cac-quan-he-dan-su-co-yeu-to-nuoc-ngoai/, ngày 09/09/2021
4. Dương Thu Hà, “Đánh giá về thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt
Nam”, https://123docz.net//document/4011491-danh-gia-ve-thuc-trang-ap-
dung-phap-luat-nuoc-ngoai-tai-viet-nam.htm.
5. Sinh viên HLU, “Áp dụng pháp luật nước ngoài: vừa là khó khăn, phức tạp, vừa
là tất yếu, khách quan trong việc giải quyết các vấn đề của TPQT”,
https://svhlu.blogspot.com/2016/05/ap-dung-phap-luat-nuoc-ngoai-la-van-de-
phuc-tap-kho-khan-song-lai-la-tat-yeu-khach-quan.html.

You might also like