You are on page 1of 36

Chương 1: SẢN XUẤT ETHANOL BẰNG PHƯƠNG PHÁP LÊN MEN

FED-BATCH
(Lên Men Bổ Sung Cơ Chất )

I. Tóm tắt:

Sản xuất ethanol từ glucose trong nuôi cấy mẻ và fed-batch đã được nghiên cứu.
Trong nuôi cấy fed-batch, glucose bổ sung thêm vào ở giờ thứ 16 của quá trình lên
men. Người ta đã nghiên cứu tỉ lệ khác nhau của nồng độ glucose thêm vào sẽ ảnh
hưởng đến quá trình lên men ethanol trong nuôi cấy fed-batch. Lượng glucose bổ sung
vào là 2gL-1hr-1 tạo ra sản phẩm ethanol cao hơn (2.47g ethanol/1g glucose) so với
8gL-1hr-1 (0.23g ethanol/1g glucose) và 4gL -1hr-1 (0.20g ethanol/1g glucose). Sản phẩm
ethanol thu được trong nuôi cấy mẻ là 0.81g ethanol/1g glucose. Phương pháp nuôi
cấy fed-batch với lượng glucose bổ sung vào là 2gL -1hr-1 được chứng minh là hệ thống
lên men tốt hơn nuôi cấy mẻ. Tốc độ phát triển đặc trưng, tốc độ tiêu thụ glucose đặc
trưng và tốc độ sản xuất ra ethanol đặc trưng trong phương pháp lên men fed-batch tại
tốc độ bổ sung glucose 2gL-1hr-1 tương ứng là 0.065hr-1, 1.20hr-1 và 0.0009hr-1.

II. Giới thiệu:

Do nhiên liệu dự trữ trên thế giới đang giảm nhanh chóng và giá cả ngày một
tăng lên, một nguồn hydrocacbon phải được tìm thấy để đáp ứng nhu cầu cần thiết cho
ngành hóa học và năng lượng (Sitton và Gaddy,1980, Lee và các cộng sự,1983). Trong
bối cảnh này, phương pháp lên men ethanol có thể thay thế vì nó có thể sản xuất từ các
nguồn nguyên liệu đa dạng. Tầm quan trọng của ethanol tăng lên do làm nguồn năng
lượng thay thế cho hóa học và nhiên liệu lỏng. Rất nhiều nghiên cứu thú vị về lên men
ethanol đã được tìm kiếm 2 thập kỷ trước (Vega và các cộng sự, 1987; Converti và các
cộng sự, 1985). Nhiều quá trình lên men ethanol khác nhau đã được đề xuất gồm lên
men mẻ, lên men liên tục, lên men liên tục với tế bào tái tạo, nuôi cấy fed-batch và
repeated-batch (Yoshida và các cộng sự, 1973). Nuôi cấy fed-batch với sự bổ sung liên
tục glucose và không loại bỏ dịch lên men là một trong những phương pháp phổ biến
nhất trong sản xuất ethanol trong công nghiệp. Một lợi ích của quá trình này là giảm sự
ức chế cơ chất. Nồng độ glucose cao trong môi trường lên men sẽ ức chế sự phát triển
của vi sinh vật và sản xuất ra ethanol. Một lợi ích khác của quá trình này là cho năng
xuất cao hơn, sự hòa tan oxi vào môi trường cao hơn, giảm thời gian lên men và giảm
sự ảnh hưởng của chất độc trong thành phần môi trường (Stanbury và Whitaker.1984).

Sản xuất ethanol bằng phương pháp lên men fed-batch và sử dụng men bánh mì.
Nấm men bánh mì một loại thuộc chủng S.cerevisiae, được sử dụng rất nhiều trong sản
xuất protein đơn bào (SCP cho người và động vật) và ethanol từ lên men glucose vì
trạng thái của nó được coi là an toàn (Solomon và các cộng sự, 1997). Chủng nấm men
này có thể sản xuất ethanol nồng độ cao và nó thích hợp nhất cho phương pháp lên
men ethanol (Yan vá các cộng sự, 2006). Do đó, mục đích của bài nghiên cứu này là:
(a) xác định thời gian thêm môi trường trong công nghệ lên men fed-batch, (b) nghiên
cứu lượng glucose tối thích bổ sung vào để sản xuất ethanol bằng S.cerevisiae trong
lên men fed-batch, sử dụng glucose như một nguồn cacbon, (c) nghiên cứu thông số
động lực học của hệ thống gồm tốc độ sinh trưởng đặc trưng, tốc độ hấp thu glucose
đặc trưng, tốc độ sản xuất ethanol đặc trưng và sản xuất sản phẩm ethanol.

III. Nguyên liệu và phương pháp:


1. Micro-organism:

S.cerevisiae (nấm men bánh mì, Mauri-pan) được sử dụng trong suốt ngiên cứu
này, được duy trì ở 40C trong môi trường agar nghiêng. Thành phần của môi trường
agar gồm: 5 gL-1 nấm men, 5 gL-1 dịch chiết malt, 5 gL -1 peptone, 20 gL-1 glucose và
20 gL-1 agar. Môi trường được giữ bằng sub-culturing trong 20 ngày và được ủ ở 30 0C
trong 24 giờ.

2. Môi trường lên men:


Một lít môi trường được chuẩn bị theo nhu cầu của S.cerevisiae , chứa 50.0 gL-1
glucose, 1 gL-1 nấm men, 5 gL-1 KH2PO4, 2 gL-1 (NH4)2SO4 và 0.4 gL-1 MgSO47H2O.
Môi trường được làm lạnh và tại pH =5.

3. Điều kiện lên men:


i) Nuôi cấy mẻ:

Quá trình lên men được thực hiện trong một cái bình khuấy lên men 2 lít với thể
tích được lên men là 1.5 lít. Trong bình chứa 900ml môi trường lên men và 100ml sinh
khối vi sinh vật và được điều chỉnh ở pH =5.0. Lên men được thực hiện ở tốc độ khuấy
trộn là 250 rpm và ở nhiệt độ là 30oC với tốc độ lưu lượng không khí là 1vvm. Mẫu
được đo 2 giờ một lần và quá trình lên men kết thúc sau 42 giờ.

ii) Nuôi cấy mẻ có bổ sung cơ chất (Fed Batch Culture)

Cơ chất được cung cấp liên tục vào lò phản ứng sinh học bằng một máy bơm nhu
động với tốc độ bổ sung glucose là 2 gL-1hr-1, 4 gL-1hr-1 và 8 gL-1hr-1. Tốc độ cánh quạt
là 250 rpm và 30oC với tốc độ lưu lượng không khí là 1vvm ở tất cả các lần thực hiện.

4. Các kỹ thuật phân tích:

Dung dịch lên men được lấy khỏi bình lên men và được phân tích tại 1 thời gian
xác định. Sự tăng trưởng của nấm men được đánh giá bằng phép đo quang phổ tại
bước sóng là 260 nm bằng máy quang phổ kế.

Nồng độ glucose được xác định bằng phương pháp sử dụng acid 3,5
dinitrosalicylic (DNS), (Miller, 1959). Trong khi đó, nồng độ ethanol trong môi trường
được xác định bằng phương pháp sắc ký với khí mang là Nitơ và sử dụng
polyethylence glycol làm cột. Phương pháp xác định ngọn lửa ion hóa với các điều
kiện sau: nhiệt độ bơm là 250oC, nhiệt độ ban đầu của lò là 45 oC, nhiệt độ kết thúc của
lò là 2500C, tốc độ tăng nhiệt độ là 8 trên phút, tốc độ khí mang là 4 mL min -1 và thể
tích bơm là 1microL (Agilent Technologies, 2000).
5. Các thông số động lực học:

Sản lượng ethanol được tính toán đối với lượng glucose tiêu thụ và sinh khối sinh
ra. Các thông số động học tăng trưởng đặc trưng như: tốc độ hấp thụ cơ chất đặc trưng,
tốc độ sản xuất ethanol đặc trưng được xác định bằng phương pháp mô phỏng dựa trên
chương trình MATLAB. Tập hợp hệ thống phương trình được rút ra từ cân bằng vật
chất tế bào, đường, ethanol cho lên men Fed batch.

Trong đó X,S,P lần lượt biểu thị cho nồng độ tế bào, glucose, ethanol. V là thể
tích nuôi cấy, So là nồng độ đường và F là tốc độ cơ chất cho vào môi trường trong nồi
lên men. μ, ν và Q lần lượt là tốc độ tăng trưởng cụ thể, lượng glucose tiêu thụ, tốc độ
tạo thành sản phẩm.

IV. Kết quả và bàn luận:


1. Lên men mẻ:

Để tiến hành các đợt lên men mẻ có bổ sung cơ chất, người ta tiến hành thực hiện
lên men mẻ để nghiên cứu xu hướng tăng trưởng của tế bào, tiêu thụ glucose và hình
thành ethanol. Thời gian bổ sung cơ chất cho quá trình lên men mẻ có bổ sung cơ chất
đã được xác định từ kết quả của quá trình lên men mẻ. Dựa trên dữ liệu trình bày trong
hình 1, một pha tăng trưởng ( growth phase ) điển hình được quan sát có thể bao gồm
các pha sau: lag phase ( 0 – 6 giờ ), pha tăng trưởng theo cấp số nhân ( exponential
growth phase ) ( 6 -30 giờ ), pha giảm tốc ( deceleration phase ) ( 30 -34 giờ ) và pha
ổn định (stationary phase ) (34-42 giờ ).

Trong 6 giờ đầu tiên của quá trình lên men, các loại nấm men thích nghi với điều
kiện thì tự phát triển. Trong suốt exponential phase, khoảng thời gian của giai đoạn
tăng trưởng theo cấp số nhân bị hạn chế do một số nguồn cơ chất giới hạn bị cạn kiệt.
Sau 34 giờ lên men tốc độ tăng trưởng chậm lại vì sự cạn kiệt glucose trong môi
trường.
Dựa trên hình 1, nồng độ glucose được duy trì gần như liên tục trong 6 giờ đầu
tiên. Nồng độ glucose sau đó giảm như dự kiến trong suốt quá trình lên men, trùng hợp
với sự gia tăng sản xuất tế bào và ethanol. Điều này là do các tế bào tiêu thụ glucose
để phát triển và sản xuất ethanol. Sự bổ sung cơ chất được bắt đầu khi nấm men tiêu
thụ hầu hết các cơ chất và phát triển trong exponential phase. Có thể quan sát thấy rằng
glucose trong hệ thống đã cạn kiệt sau 34 giờ.

Nồng độ ethanol được tìm thấy thì tăng lên nhanh chóng trong suốt 20 giờ đầu
tiên của quá trình lên men. Nồng độ ethanol bắt đầu giảm sau khi đạt được nồng độ tối
đa là 18 gL-1 trong 22 giờ lên men. Ethanol có thể đã được sử dụng như một nguồn
carbon cho sự phát triển của các tế bào nấm men sau giờ thứ 22, khi nồng độ glucose
bắt đầu cạn kiệt (Bauchop và Elsden, 1960; Coppella và Dhurjati, 1989). Bằng cách so
sánh các tế bào và nồng độ ethanol, nó có thể được phân loại như một sản phẩm tăng
trưởng liên quan trong đó sản phẩm được sản xuất đông thời với sư phát triển tế bào.

Hình 1, cho thấy từ quá trình lên men mẻ, người ta xác định thời gian bổ sung cơ
chất tối thích trong quá trình lên men mẻ bổ sung cơ chất là từ giữa giờ thứ 14 – 18.
Do đó, cơ chất đươc quyết định cho vào bắt đầu tại giờ thứ 16 của chu trình lên men
cho tất cả các hệ thống.

2. Lên men Fed batch:


i) So sánh nồng độ tế bào:

Hình 2, cho thấy nồng độ tế bào nói chung được giữ gần như liên tục trong
khoảng 5 giờ đầu tiên và sau đó nó tăng dần trong suốt quá trình lên men. Nhìn chung,
pha ổn định không được quan sát thấy trong nuôi cấy mẻ có bổ sung cơ chất ở tất cả
các tốc độ cung cấp glucose khác nhau.Tương đương, tốc độ bổ sung glucose 2 gL -1hr-
1
thì cho một nồng độ tế bào tốt hơn so với 4 gL -1hr-1 và 8 gL-1hr-1. Điều này có thể do
tốc độ bổ sung glucose 2 gL-1hr-1 này đã cung cấp một môi trường phát triển tốt hơn
cho nấm men, vì thế các tế bào nấm men có thể phân chia nhanh chóng hơn.
Nó cũng có thể là do nồng độ glucose cao góp phần ảnh hưởng đến thẩm thấu,
dẫn đến sự phát triển chậm hơn của các tế bào nấm men (Thomas cùng các cộng sự,
1992.). Nồng độ cơ chất cao đã ảnh hưởng đến độ pH, độ nhớt và các hoạt động của
môi trường. Thời gian tiếp xúc dài dẫn đến nồng độ cơ chất cao có thể gây ra áp suất
dị hóa.

Các thay đổi của môi trường bằng cách nào đó đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng
của tế bào, do đó mà khả năng tồn tại tế bào giảm khi nồng độ glucose tăng lên trong
quá trình lên men ethanol. Xu hướng này phù hợp với các báo cáo của Thomas và
Ingledew (năm 1992).

ii) So sánh nồng độ glucose:


Nồng độ của glucose trong nuôi cấy mẻ có bổ sung cơ chất được nghiên cứu tại
ba tốc độ bổ sung cơ chất và được biểu diễn tại Fig.3

Tại tốc độ bổ sung glucose là 8gL-1hr-1 thì người ta nhận thấy nồng độ glucose
trong môi trường tăng theo cấp số nhân trong suốt quá trình lên men (tăng nhanh nhất
bắt đầu từ giờ thứ 17 của quá trình lên men ). Điều này cũng chỉ ra rằng tốc độ bổ sung
glucose cao hơn rất nhiều so với tốc độ tiêu thụ glucose của nấm men và lượng
glucose dư thừa tạo thành chất tích lũy trong hệ thống.

Fig.3 cũng chỉ ra tại tốc độ bổ sung glucose 4gL -1hr-1 nồng độ glucose nói chung
cao hơn so với nồng độ glucose tại tốc độ bổ sung glucose là 2gL -1hr-1, nhưng thấp hơn
so với nồng độ glucose tại tốc độ bổ sung glucose là 8gL -1hr-1. Tại tốc độ bổ sung
glucose là 2gL-1hr-1, nồng độ glucose tăng một lượng nhỏ và duy trì với lượng hầu như
không đổi là 10gL-1 sau 28 giờ lên men. Nguyên nhân dẫn đến điều này là do lượng
glucose bổ sung cho hệ thống được tiêu thụ một cách hoàn toàn bởi nấm men. Có thể
nhận ra tại tốc độ bổ sung glucose là 2gL-1hr-1 thì sự tiêu thụ glucose là tốt nhất.

iii) So sánh nồng độ ethanol:

Từ Fig.4 có thể rút ra một cách tổng quát nồng độ ethanol như sau: Trong nuôi
cấy mẻ có bổ sung cơ chất, tại tốc độ bổ sung glucose là 2gL -1hr-1 thì nồng độ ethanol
thu được cao hơn so với tại tốc độ bổ sung glucose là 4gL -1hr-1 và 8gL-1hr-1. Tại tốc độ
bổ sung glucose là 2gL-1hr-1, nồng độ ethanol tạo ra với lượng cao nhất lên đến 17gL -1.
Nồng độ ethanol tạo ra khá ổn định,nó được duy trì hầu như không đổi trong suốt 14
giờ (bắt đầu từ giờ thứ 18) trước khi bắt đầu giảm ở giờ lên men thứ 32. Nguyên nhân
dẫn đến nồng độ ethanol giảm là do quá trình oxi hóa ethanol tạo thành acid acetic và
một số hợp chất khác (Mian et al., 1973).

Ở tại cả hai tốc độ bổ sung glucose là 4gL -1hr-1 và 8gL-1hr-1 thì đường biểu diễn
nồng độ ethanol tạo ra biến động tương tự nhau nhưng ở tốc độ 4gL -1hr-1 thì lượng
ethanol sinh ra cao hơn so với tại tốc độ bổ sung glucose là 8gL -1hr-1. Với tốc độ bổ
sung glucose là 8gL-1hr-1 thì lượng ethanol sinh ra được cho là thấp nhất. Nguyên nhân
có thể là do quá trình dị hóa và sự dư thừa glucose trong quá trình trao đổi chất. Khi
nồng độ glucose vượt quá giá trị giới hạn thì đây có thể là nguyên nhân dẫn đến hàm
lượng ethanol giảm.

iv) Nuôi cấy mẻ có bổ sung cơ chất tại tốc độ bổ sung glucose là 2gL-1hr-1:

Nuôi cấy mẻ có bổ sung cơ chất tại tốc độ bổ sung glucose là 2gL -1hr-1 được xác
định là tạo ra ethanol với lượng cao nhất. Theo khuynh hướng sinh trưởng của nấm
men, sự tạo thành ethanol và sự tiêu thụ glucose được biểu diễn ở Fig.5.
Mặc dù lượng glucose vẫn được bổ sung liên tục vào hệ thống, tuy nhiên nồng độ
ethanol giảm tại giờ thứ 32 của quá trình lên men. Lượng ethanol đạt được mức cao
nhất là 17gL-1.

Số lượng tế bào nấm men tăng theo hàm số mũ sau 6 giờ lên men và kéo dài mãi
cho đến khi kết thúc quá trình lên men và không có pha ổn định. Những kết quả này có
được là nhờ vào sự bổ sung liên tục glucose vào môi trường. Nồng độ glucose được
duy trì với lượng hầu như không đổi bắt đầu từ giờ thứ 28 của quá trình lên men.
Lượng glucose thêm vào vừa đủ sẽ tạo ra một môi trường tối thích cho sự sinh trưởng
của nấm men.

So với nuôi cấy mẻ (Fig.1) thì lượng ethanol sinh ra trong nuôi cấy mẻ có bổ sung
cơ chất ổn định hơn trong một thời gian kéo dài. Trong nuôi cấy mẻ thì ethanol chỉ
được tạo ra với lượng nhiều nhất tại một thời điểm nhất định và nó không duy trì được
năng suất này vì sự cạn kiệt của glucose trong môi trường theo thời gian.
V. Các thông số động học:

Tốc độ tăng trưởng đặc trưng, tốc độ tiêu thụ glucose, tốc độ sản xuất và hệ số
năng suất thường được áp dụng để đánh giá hoạt động của vi sinh vật. Tốc độ tăng
trưởng đặc trưng của tế bào, tốc độ hấp thu đường đặc trưng, tốc độ sản xuất ethanol
đặc trưng, tốc độ bổ sung cơ chất tại 3 nồng độ glucose khác nhau, được xác định
bằng cách sử dụng phương pháp mô hình. Chương trình MATLAB thường được sử
dụng để giải quyết 3 phương trình cân bằng vật chất khác nhau của tế bào, glucose và
ethanol với các dữ liệu thu được từ các thí nghiệm. Bảng 1 cho thấy tất cả các thông số
động lực học đối với cả 2 quá trình lên men mẻ và lên men có bổ sung cơ chất. Thể
tích môi trường lên men thay đổi tương đối nhỏ và nó được cho là không đáng kể
trong hệ thống này.
Bảng 1 cũng cho thấy rằng tốc độ bổ sung cơ chất của một nồng độ glucose thấp
hơn thì sẽ cho ra lượng sản phẩm cao hơn. Nuôi cấy mẻ có bổ sung cơ chất tại tốc độ
bổ sung nồng độ glucose là 2 gL-1hr-1 thì cho sản lượng cao nhất. Tuy nhiên lượng sản
phẩm tại tốc độ bổ sung glucose 4gL -1hr-1 và 8gL-1hr-1 thì thấp hơn nhiều so với lên
men mẻ. Điều đó có vẻ như là phần nhỏ Cacbon để tổng hợp ethanol được bão
hòa khi nồng độ glucose cao hơn. Điều này chỉ ra rằng tốc độ bổ sung nồng độ
glucose cao hơn thì sẽ không làm tăng sản lượng ethanol. Đó là do sự ức chế cơ chất
tại một nồng độ glucose cao hơn trong hệ thống. Lượng sản phẩm cao nhất trong quá
trình lên men đạt được trong khoảng từ giờ thứ 18 đến giờ thứ 22.

Sự suy giảm trong tốc độ tăng trưởng đặc trưng đã ức chế sự tăng trưởng của tế
bào bằng cách tăng nồng độ glucose bổ sung. Sự suy giảm trong tốc độ tăng trưởng
đặc trưng cho thấy rằng tốc độ sinh tổng hợp thì thấp hơn tại nồng độ glucose cao khi
hệ số duy trì tăng. Như vậy có thể kết luận rằng quá trình nuôi cấy mẻ có bổ sung cơ
chất thì phù hợp nhất tại tốc độ có bổ sung nồng độ glucose là 2gL -1hr-1 đối với bài
nghiên cứu này.

Nuôi cấy mẻ tại tốc độ có bổ sung nồng độ glucose là 2gL -1hr-1 thì cho sản lượng
ethanol, tốc độ tăng trưởng đặc trưng, tốc độ tiêu thụ đặc trưng và tốc độ hình thành
ethanol đặc trưng cao hơn khi so sánh với nuôi cấy mẻ. Nó cho thấy rằng việc tăng tốc
độ bổ sung glucose dẫn tới dấu hiệu làm giảm hiệu quả lên men. Việc giảm hiệu suất
lên men đột ngột với nồng độ glucose cao nhất có thể là do ảnh hưởng của sự thẩm
thấu. Roukas và các cộng sự (1991) báo cáo rằng trên cơ chất giới hạn, việc giảm hoạt
độ nước và sự khởi đầu của co nguyên sinh có thể làm giảm tốc độ lên men và sự sản
xuất ethanol. Những kết quả này rõ ràng cho thấy tốc độ cơ chất bổ sung có ảnh hưởng
đến thông số động lực học của S.cerevisiae. Carine và các cộng sự (2006) đã nghiên
cứu việc giảm thiểu sản lượng glycerol trong suốt quá trình nuôi cấy mẻ có bổ sung cơ
chất bằng ethanol với năng suất cao trong chủng S.cereisiae và đã tìm thấy rằng một
lượng sản phẩm nấm men trong 0.34 g g-1, tốc độ tăng trưởng đặc trưng tối đa là 0.62 g
g-1 hr-1 thì thu được khi quá trình lên men được bổ sung nồng độ glucose hòa tan là 700
g L-1.

VI. Kết luận:

Trong bài nghiên cứu này, từ quá trình lên men mẻ người ta xác định thời gian
bổ sung cơ chất tốt nhất trong lên men có bổ sung cơ chất là vào giờ thứ 16. Tốc độ
bổ sung nồng độ glucose là 2gL-1hr-1 trong quá trình lên men có bổ sung cơ chất thì thu
được ethanol là nhiều nhất khi so sánh với tốc độ bổ sung glucose là 4gL -1hr-1 và 8gL-
1
hr-1. Lượng sản phẩm tối đa đạt tới giờ thứ 18 đến giờ thứ 22 của quá trình lên men và
sản xuất ethanol được duy trì tại 14gL-1 từ giờ thứ 16 đến giờ thứ 32 trong thời gian lên
men. Nuôi cấy mẻ có tốc độ bổ sung nồng độ glucose tại 2gL -1hr-1 là một hệ thống lên
men tốt hơn hệ thống lên men mẻ vì nuôi cấy mẻ có bổ sung cơ chất sản xuất một
lượng sản phẩm ethanol cao hơn.
REFERENCES

Agilent Technologies. (2000). Capillary Column Installation Quick Reference Guide


copyright@1994, 2000.

Bauchop, T. and Elsden, S.R. (1960). The growth of micro-organism in relation to


their energy supply. Journal of General Microbiology, 23, 457.

Carine, B., Sandrine, A., Xavier, Carole, M.J., Uribelarrea, J.L. and Stéphane E.
Guillouet. (2006). Minimization of glycerol production during the high-performance
fed-batch ethanolic fermentation process in Saccharomyces cerevisiae, using a
metabolic model as a prediction tool. Applied and Environmental Microbiology, 72(3),
2134–2140.

Converti, A.P., Lodi, P.A., Parisi, F. and Borghi M.D. (1985). A kinetic study of
saccharomyces strains:Performance at high sugar concentrations. Biotechnology
Bioengineering, 27, 1108-1114.

Coppella, S.J. and Dhurjati, P. (1989). A detailed analysis of Saccharomyces


cerevisiae growth kinetics in batch, fed-batch and hollow-fiber bioreactors. The
Chemical Engineering Journal, 41, B27 – B35.

Mian, F.A., Kuenzi, H.T. and Halvorson, H.O. (1997). Studies on mitochondrial
membrane proteins in Saccharomyces cerevisiae under different degrees of glucose
depression. Journal of Bacteriology, 115, 876.

Miller, G.L. (1959). Use of DNS reagent for the determination of reducing sugars.
Analytical Chemistry, 31, 426-428.

Sitton, O.C. and Gaddy, J.L. (1980). Ethanol production in an immobilized cell
reactor. Biotechnology Bioengineering, 22, 1735-1748.
Solomon, B.O., Odeseye, O.R., Betiku, E. and Pretorius, I.S. (1997). Investigation of
starch degradation ability of Saccharomyces cerevisiae strain ZC89 in batch processes.
JNSChE, 16, 69-76.
Stanbury, P.F. and Whitaker, A. (1984). Principles of Fermentation Technology.
Oxford: Pergamon Press.
Thomas, K.C. and Ingledew, W.M. (1992). Production of 21% (v/v) ethanol by
fermentation of Very High Gravity (VHG) wheat mashes. Journal of Industrial
Microbiology and Biotechnology, 10, 61–68.
Vega, J.L., Clausen, E.C. and Gaddy, J.L. (1987). Acetate addition to an immobilized
yeast column of ethanol production. Biotechnology Bioengineering, 29, 429-435.
Yan Lina and Shuzo Tanaka. (2006). Ethanol fermentation from biomass resources:
current state and prospects. Applied Microbiology Biotechnology, 69, 627-642.
Yoshida, F., Yamane, T. and Nakamoto, K. (1973). Fed-batch hydrocarbon
fermentation with colloidal emulsion feed. Biotechnology Bioengineering, 15, 257-
270.
Chương 2: Comparison Between Batch, Fed-Batch, Semi-Continuous and
Continuous Techniques for Bio-Ethanol Production from a Mixture of
Egyptian Cane and Beet Molasses
Chương 3: Different Types Of Industrial Fermentors And Their Associated
Operations For The Mass Production Of Metabolites
GIỚI THIỆU

Lên men là một quá trình trong đó đường được tiêu thụ trong môi trường có oxy, là kết
quả của quá trình trao đổi chất là khí, rượu hoặc axit hữu cơ thu được như một sản phẩm
phụ. Công nghệ lên men là nghiên cứu về quá trình lên men, các kỹ thuật được sử dụng
trong nó và các ứng dụng của nó. Lên men không chỉ dựa trên phản ứng xảy ra trong thiết
bị lên men nhưng nó cũng dựa trên các hoạt động của các phản ứng xảy ra trong quá trình
lên men. Tuy nhiên, lên men được coi là một trái tim của quá trình lên men. Công nghệ
lên men tập trung vào nghiên cứu, kiểm soát và tối ưu hóa các phản ứng lên men và dựa
trên nhiều lĩnh vực khác như sinh hóa, vi sinh, di truyền học,…

Lên men ở cấp độ công nghiệp được thực hiện trong các thiết bị được thiết kế đặc biệt gọi
là fermenter (bồn lên men) hoặc bioreactor (lò phản ứng sinh học). Thiết bị này được sử
dụng để hỗ trợ sự tăng trưởng của vi sinh vật lên men. Thiết kế và xây dựng nó phải cung
cấp các điều kiện môi trường tối ưu cho vi sinh vật. Bồn lên men thường là xi lanh có
đỉnh hình cầu hoặc đáy với kích thước khác nhau, từ lít đến mét khối. Các vật liệu được
sử dụng trong bồn lên men là thép không gỉ hoặc thủy tinh. Lên men là phản ứng sinh
học là xảy ra trong điều kiện rất kiểm soát. Thiết kế và hoạt động của một fermenter chủ
yếu dựa trên các sinh vật được sử dụng cho lên men, điều kiện tối ưu cần thiết cho hình
thành sản phẩm mong muốn, giá trị của sản phẩm và quy mô sản xuất. Nó cũng liên quan
đến chi phí đầu tư và chi phí vận hành. Điều kiện vô trùng là không cần thiết cho sản xuất
khối lượng lớn và sản phẩm có giá trị thấp trong khi các sản phẩm có giá trị cao có khối
lượng thấp yêu cầu thiết kế lên men cẩn thận và điều kiện vô trùng.

Thiết kế bồn lên men (fermenter)

Một thiết bị lên men phải được thiết kế dựa trên cơ sở sinh học các quá trình được thực
hiện trong đó. Các khía cạnh sau phải được xem xét: chất nền và nồng độ sản phẩm trong
bình phản ứng thấp, cả hai chất nền và sản phẩm có thể dừng quá trình trao đổi chất. Sự
phát triển của vi sinh vật, sự trao đổi chất và sự hình thành sản phẩm phụ thuộc vào nhu
cầu dinh dưỡng của tế bào như muối và oxy. Nó cũng phụ thuộc vào sự duy trì các điều
kiện tăng trưởng tối ưu như nhiệt độ, pH. Cơ chế của phản ứng trao đổi chất cũng bị ảnh
hưởng bởi sự hiện diện của một số chất trong hỗn hợp phản ứng chẳng hạn như tác nhân,
tiền chất và chất ức chế. Nếu có bất kỳ ô nhiễm hiện diện trong bình phản ứng nó cũng sẽ
được chuyển hóa bởi vi khuẩn. Sự ô nhiễm có thể liên quan đến nguyên liệu thô chẳng
hạn như cellulose, mật rỉ, dầu khoáng, tinh bột, chất thải, nước. Vi sinh vật rất nhạy cảm
với sensitive sheer, thermal and chemical stress. Các phản ứng xảy ra trong các hệ
thống pha rắn-lỏng-khí.

Đặc điểm chung của một bồn lên men lý tưởng

Vật liệu sử dụng trong xây dựng một bồn lên men phải có khả năng chịu áp lực và nhiệt
độ cao của môi trường lên men. Hơn nữa, vật liệu được sử dụng phải được lựa chọn theo
bản chất của quá trình lên men phải được thực hiện trong nó. Các vật liệu lên men phải có
khả năng chống ăn mòn. Nó không được có bất kỳ độc tính nào trên môi trường nuôi cấy
vi sinh vật và nó không được ảnh hưởng đến độ tinh khiết của sản phẩm. Dễ dàng xử lý
và kiểm soát vi khuẩn gây ô nhiễm. Phải có một cửa vào để cung cấp môi trường dễ dàng
và vô trùng. Nếu lên men hiếu khí thì thiết bị sục khí phải có mặt trong thiết bị lên men.
Phải có một thiết bị khuấy để phân phối không khí, vi khuẩn và chất dinh dưỡng. Phải
có baffle để tránh hình thành xoáy. Phải có hệ thống kiểm soát nhiệt độ và pH của môi
trường lên men. Phải có một van lấy mẫu trong thiết bị lên men để lấy môi trường và sản
phẩm ra định kỳ. Một cửa thoát nước để loại bỏ hoàn toàn môi trường từ thiết bị lên men
và sản phẩm. Một lớn lỗ phải có mặt trên đỉnh của thiết bị lên men để có thể vào bên
trong của fermenter cho các mục đích khác nhau chẳng hạn như sửa chữa, làm sạch.

Các loại Bioreactor / Fermenter

Có nhiều loại bioreactor/fermenter được sử dụng trong công nghiệp lên men và hoạt động
của chúng chủ yếu dựa trên các tế bào vi sinh vật thực hiện quá trình lên men và sản
phẩm phải đạt được sau lên men. Sau đây là các loại thiết bị lên men được sử dụng trong
công nghiệp và các thiết bị lên men khác.

Lên men liên tục có khuấy trộn (Continuous Stirred Tank Bioreactor)

Bể lên men có khuấy trộn là sự lựa chọn cho hơn 70% các quá trình lên men mặc dù nó
không phải là loại lên men tốt nhất.
CSTR còn được biết đến như lò phản ứng vat- hoặc backmix, là một lò phản ứng lý
tưởng phổ biến trong kỹ thuật hóa học. Một CSTR thường được sử dụng để tính toán các
thông số hoạt động khi sử dụng lò phản ứng bể khuấy liên tục để đạt được đầu ra như ý
muốn. Mô hình toán học hoạt động cho tất cả chất lỏng: chất lỏng, khí và bán lỏng.
CSTR gần giống với Continuous Ideally Stirred-Tank Reactor (CISTR). Tất cả các tính
toán được thực hiện với CISTR với giả thiết là có sự pha trộn hoàn hảo. Trong một lò
phản ứng hỗn hợp hoàn hảo, thành phần đầu ra là giống hệt với thành phần của vật liệu
bên trong lò phản ứng, do tác dụng của thời gian lưu trữ và tốc độ phản ứng. Thời gian
lưu trữ là 5-10 lần thời gian trộn là hợp lý cho các mục đích kỹ thuật. Các mô hình
CISTR thường được sử dụng để đơn giản hóa kỹ thuật tính toán và có thể được sử dụng
để mô tả nghiên cứu lò phản ứng. Trong thực tế, nó chỉ có thể được đề cập trong các lò
phản ứng kích thước công nghiệp. Baffle và máy khuấy quay cũng có mặt ở trên hoặc
bên dưới fementer. Điều kiện trong thiết bị lên men được thực hiện ổn định bởi sử dụng
các nguyên tắc của chemostat hoặc độ đục. Chemostat có liên quan đến việc điều chỉnh
tốc độ dòng chảy của lên men đến giá trị yêu cầu, được duy trì và tiếp tục tạo ra các vi
khuẩn lên men, chất nền và sản phẩm để đạt đến mức mong muốn. Ngoài ra, máy đo độ
đục có liên quan đến việc kiểm tra và duy trì độ đục của vật liệu lên men. Độ đục là thước
đo gián tiếp của sự tăng trưởng vi khuẩn bên trong thiết bị lên men. Việc sử dụng vi
khuẩn và nấm men cung cấp nhiều nhất lên men liên tục cung cấp sản phẩm mong muốn
ở dạng chất chuyển hóa sơ cấp và thứ cấp.

Ưu điểm: khuấy liên tục, kiểm soát được nhiệt độ; bảo trì, thiết kế và thi công đơn giản,
ít tốn lao động, giá thành rẻ, làm sạch khá dễ dàng, một số vi khuẩn có thể được sử dụng
để lên men, khu vực nuôi cấy và khu vực của trộn được tách ra để tránh mài mòn bởi các
tế bào bất động.

Tháp lên men (Tower Fermenters)


Tháp lên men chủ yếu được sử dụng thực hiện lên men liên tục. Cao 8,5m và đường kính
1m. Fermenter này được phát triển để khắc phục nhược điểm phải đối mặt với quá trình
lên men hàng loạt. Nó chủ yếu được sử dụng trong sản xuất bia. Một tháp lên men điển
hình bao gồm một gradient men và một gradient của wort lên đến đỉnh tháp. Mục đích
của thiết bị lên men nhiều giai đoạn này là để cung cấp dòng chảy dưới tác dụng của
trọng lực. Số lượng lớn nguyên liệu, nước và mạch nha được nâng lên đỉnh của thiết bị
lên men trước khi đi xuống mà không cần bất kỳ máy bơm nào. Một đầu vào có mặt ở
phía dưới, nơi một đầu ra ở phía trên. Nó cũng có lớp vỏ áo cách điện là để duy trì tối ưu
điều kiện nhiệt độ cho sinh vật phát triển. Baffle cũng có mặt với mục đích khuấy trộn.

Lò phản ứng sinh học cột bong bóng (Bubble Column Bioreactors)
Lên men cột bong bóng chủ yếu được phát triển cho tế bào nhạy cảm. Chúng bao gồm
một thiết bị thổi khí ở phía dưới. Khí được phun qua đây phân phối trong pha lỏng hoặc
pha rắn lỏng dưới dạng bong bóng. Chúng được sử dụng rộng rãi trong hóa học, công
nghiệp hóa dầu, sinh hóa và luyện kim. Để dễ dàng giải phóng bong bóng và vỡ bọt, đỉnh
của xi lanh tương đối lớn. Có những cái đĩa có các lỗ nhỏ kiểm soát sự hình thành các lỗ
có kích cỡ nhỏ. Sục khí được thực hiện bằng cách sử dụng khí nén bởi các sparger cố
định tại đáy. Ngoài ra không có thành phần nào khác trong buồng. Sparger gas quan
trọng vì nó có khả năng thay đổi đặc điểm của bong bóng như kích thước, hình dạng.
Spargers khí phổ biến bao gồm tấm đục lỗ và xốp, màng, loại eing và cánh tay đòn. Một
tham số quan trọng là sự giữ khí. Nó được mô tả như là thể tích của pha khí được bao
quanh bởi các bong bóng khí. Thiết kế và phân tích cột bong bóng dựa trên sự giữ khí, vì
vậy nó rất quan trọng.

Cột bong bóng dùng để sản xuất protein, các enzyme và kháng sinh khác (Kantarci et al,
2005). Các thông số quan trọng liên quan đến cột bong bóng lên men là: tốc độ tăng dần
của bong bóng, thời gian lưu trữ, không gian giao thoa, chuyển khối và sự gia tăng giá trị.

Ưu điểm: khí được sản xuất có vai trò cho cả pha trộn và sục khí, dùng trong xử lý nước
thải, dùng trong sản xuất axit citric, men làm bánh và bia.
Gas lift fermenters

Không có máy khuấy cơ học. Truyền nhiệt và trộn được thực hiện bằng cách bơm khí qua
môi trường chất lỏng. Máy nén khí cung cấp khí nén qua hệ thống truyền tải điện. Nếu
khí nén ít, hiệu quả của lên men sẽ bị xáo trộn.

Air lift fermenters

Air lift fermenters có một chút thay đổi so với lên men cột bong bóng. Khác biệt chính là
các bộ phận có chức năng pha trộn và vận chuyển môi trường. Nó giúp giảm lượng bong
bóng trong lò phản ứng và cân bằng ứng suất gây ra bởi sự pha trộn. Nó được đặt tên là
air lift fermenters bởi sự tiếp xúc giữa khí-lỏng hoặc khí-lỏng-rắn được thực hiện bởi sự
vận chuyển của chất lỏng lên men theo chu kỳ.

Trong các loại thiết bị này, hai vùng liên kết với nhau qua các baffle nơi môi trường được
thêm vào. Một khu vực được đặt tên là riser ở đó không khí được bơm trong khi ở khu
vực khác không có, vùng này được gọi là the down comer . Các hạt không khí di chuyển
lên vùng riser trong khi dòng chảy chảy xuống the down comer. Những thiết bị này chủ
yếu được sử dụng cho lên men hiếu khí. Trang bị bơm giúp dòng chảy được kiểm soát và
tái sử dụng chất lỏng. Chúng thích hợp trong xử lý chất thải, sản xuất methanol và sản
xuất SSP.

Sau đây là các loại phản ứng sinh học không khí quan trọng.

Lò phản ứng sinh học không khí vòng trong (Internal-loop airlift bioreactors)

Nó bao gồm một container duy nhất có một ống hút ở trung tâm có liên quan đến việc tạo
ra chất lỏng vận chuyển bên trong. Chúng có thiết kế rất đơn giản, khối lượng và lưu
lượng của nó được duy trì ở một tỷ lệ cố định để tiến hành lên men.

Lò phản ứng sinh học không khí vòng ngoài (External-loop airlift bioreactors)

Những thiết bị này có một vòng lặp bên ngoài để thúc đẩy lưu thông qua các kênh độc lập
riêng biệt. Một số sửa đổi có thể được thực hiện trong các thiết bị lên men để thực hiện
các yêu cầu lên men. Tuy nhiên, chúng có hiệu quả tốt hơn so với cột bong bóng đặc biệt
là cho huyền phù vi sinh vật đậm đặc hơn bởi chúng trộn tốt hơn nhiều so với cột bong
bóng.
Lò phản ứng sinh học hai giai đoạn (Two-stage airlift bioreactors)

Những thiết bị này có liên quan đến sự phụ thuộc vào nhiệt độ hình thành sản phẩm. Nó
có hai lò phản ứng sinh học. Trong lò phản ứng sinh học đầu tiên, tế bào phát triển có
nhiệt độ duy trì 30ºC. Những tế bào này sau đó được bơm về phía lò phản ứng sinh học
khác có nhiệt độ 42ºC. Vấn đề là trong loại lò phản ứng sinh học này có sự thay đổi nhiệt
độ ngay lập tức từ 30-42ºC. Cả hai lò phản ứng sinh học đều mang van kết nối thêm bằng
cách chuyển ống và máy bơm. Tế bào phát triển trong lò phản ứng sinh học của nó và quá
trình tiếp theo là được thực hiện trong lò phản ứng thứ hai.

Ưu điểm: bởi vì sheer force nhẹ, có thể sử dụng cho các tế bào động vật và thực vật. Vô
trùng có thể được duy trì dễ dàng bởi vì không có tác động. Do chiều cao của thiết bị, áp
suất tăng ở đáy do đó tăng khối lượng vận chuyển. Có thể tạo những thiết bị kích thước
lớn.

Lò phản ứng sinh học (Batch bioreactors)

Loại thiết bị này được sử dụng rộng rãi trong chế biến các ngành công nghiệp. Nó dùng
cho nhiều quá trình như quá trình kết tinh, các phản ứng hóa học khác nhau, hòa tan chất
rắn, trộn sản phẩm, chưng cất mẻ, chiết chất lỏng và các quá trình trùng hợp. Nó bao gồm
một bể có và khuấy và sưởi ấm kết hợp với hệ thống làm mát. Có các kích cỡ khác nhau,
từ một lít đến cao hơn 15000 lít. Sử dụng thép, thép lót thủy tinh, hợp kim thủy tinh,…..
Các chất rắn và chất lỏng bên trong được thêm bằng cách sử dụng các kết nối điện. Khí
được tạo ra từ quá trình lên men được lấy ra từ bên trên trong khi sản phẩm lỏng lấy ra từ
đáy.

Ưu điểm: thuận lợi vì tính linh hoạt, các hoạt động khác nhau có thể được thực hiện trong
một thiết bị, nó rất hữu ích trong việc sử dụng các hợp chất mạnh và gây độc

Lò phản ứng sinh học có vỏ áo (Packed bed bioreactors)

Còn được gọi là fixed bed bioreactors. Sử dụng phổ biến trong kỹ thuật quản lý nước
thải qua màng sinh học. Đây là kỹ thuật rất quan trọng và được công nhận sau khi sử
dụng các kỹ thuật khác như làm bất động tế bào.

Chất xúc tác sinh học sử dụng trong bất động tế bào được đóng gói cẩn thận và các cột
cung cấp chất dinh dưỡng. Chúng được sử dụng khi tỷ lệ phản ứng bị ảnh hưởng bởi sự
ức chế cơ chất. Những phản ứng sinh học có thể thay đổi dòng chảy của chúng trong quá
trình vì sự thay đổi độ xốp. Trong quá trình lên men có thể sử dụng các loại gel mềm do
có thể giảm áp lực cao và các gel này có thể bị hỏng; những gel mềm bao gồm alginate
và carragenam. Để tránh tình trạng này tapered beds thường được sử dụng cùng với các
tapered beds khác như nghiêng, xoay với chiều ngang, chỉ ngang v.v ... Những tapered
beds này nằm trong loại lò phản ứng dòng chảy cắm, nếu không trộn lại sẽ xảy ra nhiễu
loạn, dẫn đến sự thay đổi tính chất lên men.

Ưu điểm: chất xúc tác tác dụng tạo ra sản phẩm hơn các chất xúc tác khác. Chi phí thấp.
Sự liên tục của hoạt động. Tách chất xúc tác rất dễ dàng. Quá trình có thể diễn ra hiệu
quả ngay cả ở áp suất và nhiệt độ cao

Lò phản ứng sinh học tầng sôi (Fluidized bed bioreactor)

Sử dụng chất lỏng trong đó các hạt được phân phối trong một chất lỏng khác đang chảy.
Các hạt khí được trộn với chất lỏng, không phân phối đồng đều. Một trong những tính
năng quan trọng là độ xốp diễn ra từ dưới lên trên và có sự giảm chuyển động của các
hạt. Khoảng trống đại diện cho sự hiện diện của không gian cũng như cho thấy thể tích
của lượng vi khuẩn bên trong. Trong fermenter này có những thay đổi về số lượng vi sinh
vật và chúng tăng cường sự hiện diện của các hạt có kích thước nhỏ ở phía trên thiết bị và
cho các hạt có kích thước lớn hơn dưới đáy thiết bị. Những hạt nhỏ này có vận tốc nhỏ
hơn và việc sắp xếp các hạt sao cho chúng có độ xốp cao. Các fermenter được sử dụng để
sản xuất bia được gọi là tháp lên men và đang làm việc dựa trên các nguyên tắc này. Nấm
men được sử dụng trong làm bia, đầu tiên là đình chỉ được thực hiện trong môi trường và
di chuyển lên trên, bất kỳ tàn dư bị mắc kẹt được bồi lắng và trả lại tại tháp trên cùng.
Xây dựng lò phản ứng tầng sôi

Có 1 xi lanh dài thẳng đứng trong thiết bị lên men với tỷ lệ đường kính / chiều dài (1:10).
Có một separator hiện diện trên đỉnh của thiết bị lên men được sử dụng để tách các hạt
khí và chất lỏng. Bên trong separator có một bộ phận gọi là quiescent. Gas và bia được
làm sạch ở đây và tách ra, sau đó chuyển xuống khu vực chính của tháp. Những tế bào
nấm men kích thước lớn rất quan trọng trong việc hình thành của rượu và quá trình lên
men. Tốc độ dòng chảy phải được kiểm soát nếu không các tế bào có thể được rửa sạch
nếu tốc độ dòng chảy tăng lên. Điều này sẽ tạo ra men không đủ nồng độ. Nồng độ của tế
bào nấm men tốt nhất là bằng 25% trọng lượng, có thể đạt tới 30% hoặc 35% ở phía dưới
tháp, trong khi ở trên cùng, nó chỉ có thể lên tới 10%. Khi chuyển động của máy gây ra
thay đổi trọng lực của các thành phần được sử dụng, có sự bay hơi liên tục bởi trọng lực
các chất dinh dưỡng, dần dần tăng cường từ dưới lên trên. Ban đầu nó sẽ rơi xuống dưới
cùng của tháp, sau đó nó sẽ bay hơi đến giữa và rồi tới đỉnh. Đây là kết quả của việc sản
xuất đường trong phản ứng lên men.
Ưu điểm của lò phản ứng tầng sôi

Trộn hạt đồng nhất

Có sự pha trộn thích hợp và đồng nhất trong các tầng sôi đến tính chất lỏng của các hạt
rắn. Do có sự trộn thích hợp nên sự hình thành của sản phẩm là đồng nhất mà không dễ
dàng để đạt được trong lên men khác. Không có gradient trong nồng độ (hướng tâm hoặc
hướng trục) giúp thúc đẩy sự hình thành sản phẩm trơn tru và cũng tăng cường chất
lượng và tỷ lệ hiệu quả.

Nhiệt độ đồng đều

Có sự bảo trì thích hợp của nhiệt độ bởi vì có sự tăng giảm nhiệt phản ứng hóa học diễn
ra trong thiết bị lên men. Có một số khu vực được dán nhãn là điểm nóng và điểm lạnh.
Những điểm này phải tránh trong quá trình bởi vì chúng có thể cản trở quá trình. Những
điểm này cho thấy sự dao động nhiệt độ và những điều này có thể gây ra sự xuống cấp
sản phẩm. Rất thích hợp cho các phản ứng tỏa nhiệt vì nhiệt tốc độ truyền tải cao.

Khả năng vận hành lò phản ứng liên tục

Có khả năng tạo ra các chất phản ứng kịp thời và rút các sản phẩm khi phản ứng liên tục
đang tiến hành. Điều này tạo không gian cho phản ứng tiếp theo xảy ra và cũng những
sản phẩm trước đây không cản trở phản ứng hiện tại. Những điều kiện này giúp cải thiện
chất lượng sản phẩm và hiệu quả của chúng.

Lò phản ứng sinh học màng (Membrane Bioreactors)

Những thiết bị này có thể được áp dụng cho các vi khuẩn liên quan đến các quá trình như
lên men (cồn), axit (giấm) sản xuất, xử lý nước thải. Chất tan và dung môi được thêm vào
với số lượng thích hợp cùng với enzyme. Enzyme được thêm bằng cách sử dụng bộ lọc
và máy bơm. Màng hoạt động như một bộ lọc và không để các enzyme rời khỏi lò phản
ứng sinh học, máy khuấy được sử dụng để trộn. Các vật liệu được sử dụng trong màng là
cellulose acetate, polysulfonate và polyamide

Ưu điểm: rất ít mất enzyme do có màng, bổ sung liên tục của enzyme do đó enzyme nào
mất trong quá trình phản ứng được bảo toàn, các enzyme có thể được thay thế dễ dàng
bởi cơ chất.

Lò phản ứng quang sinh học (Photo Bioreactors)

Những thiết bị này sử dụng cho các quá trình lên men được thực hiện trong sự hiện diện
của ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng nhân tạo. Đây là một thiết bị được sử dụng trong
việc nhân giống vi sinh vật sử dụng ánh sáng; những vi khuẩn này là quang dưỡng trong
tự nhiên. Những vi khuẩn này có khả năng quang hợp như cây xanh và chúng có thể tạo
ra sinh khối bằng cách sử dụng ánh sáng. Ánh sáng mặt trời được sử dụng nhiều hơn. Sản
phẩm quan trọng được sản xuất bởi việc sử dụng các thiết bị này là asthaxantin
ad p-carotene. Thông thường thủy tinh hoặc nhựa trong suốt được sử dụng trong cấu trúc.
Chúng bao gồm một mảng thủy tinh hoặc ống để thu ánh sáng.

Nuôi cấy vi sinh vật được lưu thông qua các ống này bằng cách sử dụng máy bơm không
khí hoặc máy ly tâm. Phải tránh sự lắng đọng tế bào, được thực hiện bằng cách thêm môi
trường liên tục. Sự thâm nhập ánh sáng thích hợp phải được duy trì và việc các ống bị
nóng phải tránh bằng cách sử dụng hệ thống làm mát. Hoạt động của thiết bị là liên tục
trong tự nhiên và nhiệt độ được duy trì ở 35-40˚C. Nấm và vi khuẩn lam được sử dụng
làm vi sinh vật nuôi cấy, phát triển trong ánh sáng mặt trời và sản xuất sản phẩm lên men
mong muốn vào ban đêm.

Ưu điểm: Tỷ lệ năng suất cao hơn có thể đạt được, chúng cung cấp tỷ lệ bề mặt trên thể
tích lớn cho thực hiện quá trình lên men; chuyển khí có thể được kiểm soát một cách tốt
hơn. Sự bốc hơi môi trường tăng trưởng giảm. Thiết bị được bảo vệ khỏi ô nhiễm. Quá
trình tự làm sạch của thiết bị ít bị lỗi. Tảo được nuôi trồng trong một cách kiểm soát để
cho năng suất cao. Ánh sáng được sử dụng triệt để trong phản ứng quang sinh học giúp
tăng năng suất. Nhiệt độ đồng đều được cung cấp.

Lò phản ứng sinh học sóng (Wave Bioreactors)

Lò phản ứng sinh học sóng được sử dụng rộng rãi để trồng thuốc lá, nho và táo. Chúng
tạo ra các cơn sóng giúp đảo trộn và chuyển oxy liên tục, cung cấp môi trường rất đầy đủ
cho vi khuẩn phát triển. Thiết bị này được làm bằng thép không gỉ với điều khiển động cơ
tuyến tính liên quan đến rocking. Một miếng đệm nóng tích hợp để kiểm soát nhiệt độ.
Sục khí được kiểm soát. Hệ thống kiểm soát túi tế bào kép cũng có mặt.

Ưu điểm: không cần khử trùng. Dễ dàng hoạt động. Cung cấp bảo vệ chống ô nhiễm
chéo. Thời gian tiết kiệm, chi phí thấp. Giảm bọt.
Deep Jet Fermenter

Nó chủ yếu được thiết kế theo nguyên tắc lên men liên tục. Năng lượng cơ học cung cấp
cho một máy bơm để lưu thông môi trường. Hai vòi phun khí đốt có mặt, là đầu phun và
kim phun. Một động cơ phản lực công suất cao được sử dụng để đưa khí vào chất lỏng.
Khí thải loại bỏ từ lỗ hiện diện ở trên và bơm tuần hoàn giúp khử khí trong chất lỏng, sau
đó chuyển đi làm mát. Tuy nhiên, tốc độ hòa tan khí cao cần có công suất cao để vận
hành hệ thống này .

Bể lên men (Sparged tank fermenters)

Thuộc loại lên men phi cơ học có khuấy trộn. Gas được thêm từ phía dưới với sự giúp đỡ
của một vòi phun hoặc mạ xốp. Trong khi di chuyển qua chất lỏng, bọt khí nổi lên và bị
phân tán một lần nữa do sự hiện diện của các tấm vách ngăn được sắp xếp theo chiều
ngang

Ưu điểm: Không có trục khuấy, nguy cơ ô nhiễm tại điểm vào giảm. Các tiêu thụ năng
lượng giảm. Làm mát môi trường lên men được thực hiện bởi sự bay hơi của các hạt khí
từ môi trường lỏng.
Lò phản ứng sinh học dạng trống (Rotary drum bioreactor)

Bao gồm một trống quay trong một bồn chứa chất lỏng được lọc. Kỹ thuật này rất phù
hợp chất lỏng có hàm lượng chất rắn cao có thể làm tắc các hình thức lọc khác. Trống
được tráng trước với chất trợ lọc, điển hình là đất tảo cát (DE) hoặc Perlite.

Sau khi rửa, chất lỏng được lọc và chuyển đến bồn bên dưới trống. Cái trống quay qua
chất lỏng và hút chân không chất lỏng và chất rắn lên bề mặt lớp phủ trống, chất lỏng bị
"hút" bởi chân không qua bộ lọc môi trường đến phần bên trong của trống và dịch lọc
được bơm đi. Các chất rắn bám vào bên ngoài của trống, sau đó đi qua một con dao, cắt
các chất rắn và một phần nhỏ của môi trường lọc để lộ bề mặt môi trường mới vào chất
lỏng khi trống quay. Con dao tự động khi bề mặt được loại bỏ. Gần đây họ đã chú ý đến
sản xuất nhiên liệu sinh học.

Ưu điểm: Trộn nhẹ và đồng đều do thiết kế vách ngăn cải tiến. Không có sheer force
được tạo ra vì không có máy khuấy. Truyền oxy cao.
Lò phản ứng sinh học dạng sương mù (Mist Bioreactors)

Trong thiết bị này, các hạt chất lỏng được phân tán trong pha khí sử dụng bình ngưng.
Được tạo thành từ thủy tinh và thép không gỉ. Nó bao gồm cả nắp trên và nắp dưới. Thiết
bị này thẳng đứng và bao gồm một hệ thống điều nhiệt có mặt ở phía dưới. Cảm biến
nhiệt độ cũng có mặt ở phía trên thiết bị. Vỏ áo LED, bình xịt thủy lực vòi phun và một
ring sparger cũng được tích hợp bên trong nó. Ở phía trên, khí vào ra ở các cổng riêng.
Một bình ngưng được gắn ở bên trên thiết bị lên men để tránh dòng chất lỏng chảy ra
ngoài thiết bị lên men. Thiết kế theo cách như vậy để duy trì vô trùng bằng cách hấp. Áp
lực cũng được điều chỉnh bên trong bằng cách sử dụng van khí điều chỉnh.
Ưu điểm: Chi phí năng suất thấp. Nó giúp loại bỏ sự căng thủy động lực. Oxy được duy
trì

Fermenter dạng cột lốc xoáy (Cyclone column Fermenter)

Lưu thông môi trường diễn ra trong một vòng lặp cung cấp sục khí, trộn và nuôi cấy tế
bào thích hợp. Không có máy khuấy như trong các thiết bị khác. Một máy bơm có mặt
dạng một cột thủy tinh lớn giúp tái sử dụng môi trường ở bên dưới. Môi trường đưa vào
từ đầu thiết bị, nơi được cung cấp tốc độ động học để quay môi trường tuần hoàn từ đầu
vào đến đáy với sự trợ giúp của máy bơm. Không khí được thêm từ đáy của thiết bị. Một
thiết bị có dung tích 500-1000 ml và có thể được sử dụng cho cả lên men mẻ và lên men
liên tục.

Ưu điểm: Sử dụng đơn giản. Hoạt động tốt hơn. Tránh tạo bọt. Tăng trưởng từ các phía
của fermenter bị ngăn chặn.

Novel see-saw Bioreactor

Thiết bị này được phát triển để sử dụng trong phòng thí nghiệm. Chủ yếu được sử dụng
cho nuôi cấy tế bào động vật. Các điều kiện được kiểm soát được duy trì bên trong thiết
bị để duy trì nuôi cấy. Cung cấp oxy rất quan trọng trong quá trình lên men hiếu khí. Sục
khí được duy trì bởi chuyển động hình lưỡi cưa của thiết bị này. Tuy nhiên, do chuyển
động của chất lỏng, sheer force có thể được tạo ra có thể làm hỏng tế bào động vật. Thiết
kế lò phản ứng sinh học và tối ưu hóa quá trình lên men rất quan trọng để mở rộng quy
mô lên men từ phòng thí nghiệm đến trong công nghiệp và để tăng cường sản xuất sản
phẩm. Cần cái thiện thiết bị dạng này hơn nữa, phải được thiết kế để hạ thấp chi phí lên
men và xây dựng để chúng không ảnh hưởng đến sản phẩm đang được sản xuất. Thiết bị
này và các sản phẩm công nghiệp sáng tạo có thể được phát triển trong tương lai.

You might also like