You are on page 1of 81

Chương mở đầu

NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN


CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Chương mở đầu Nhập môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm
giải quyết 3 vấn đề:
1. Học cái gì? (đối tượng của môn học);
2. Học để làm gì? (mục đích của môn học);
3. Cần phải học thế nào để đạt được mục đích đó? (những yêu cầu về mặt
phương pháp của môn học)?.
Chương này mở đầu bằng việc trình bày khái lược các nội dung trọng tâm và
quá trình hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm tạo ra cái nhìn tổng
quát về đối tượng và phạm vi của môn học.
Mục đích của môn học này được xác lập trên cơ sở vị trí của nó trong cấu tạo
khung chương trình thống nhất của 3 môn học Lý luận chính trị dùng cho đối tượng
sinh viên không chuyên sâu các chuyên ngành: Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ
nghĩa xã hội khoa học.
Yêu cầu của môn học này đề cập những nguyên tắc cơ bản cần phải thực hiện
khi triển khai dạy và học, làm cơ sở chung cho việc xác lập phương pháp, quy trình cụ
thể trong hoạt động dạy và học sao cho có thể đạt được mục đích của môn học này.
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin và ba bộ phận lý luận cấu thành
a. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của
C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I.Lênin; là sự kế thừa và phát triển những
giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về
sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con
người; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học.
b. Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lêninbao gồm hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực,
nhưng trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là: triết học, kinh tế chính trị học
và chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Triết học Mác - Lênin có đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung nhất
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học, dù theo trường phái nào, thì cũng đều là thế

1
giới quan và nhân sinh quan của con người; khi xã hội có giai cấp thì thế giới quan và
nhân sinh quan mang tính giai cấp. Triết học Mác - Lênin là thế giới quan, nhân sinh
quan của giai cấp công nhân hiện đại, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động trong
thởi đại ngày nay.
- Kinh tế chính trị học Mác - Lênin là khoa học xã hội, đối tượng nghiên cứu
của nó là mặt xã hội của sản xuất, tức là quan hệ sản xuất hay là quan hệ kinh tế giữa
người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật
chất. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất nhưng quan hệ
sản xuất lại tồn tại và vận động trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất. Mặt
khác, quan hệ sản xuất tức là cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động qua lại với kiến trúc
thượng tầng, nhất là các quan hệ về chính trị, pháp lý .... có tác động trở lại mạnh mẽ
với quan hệ sản xuất. Vậy, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản
xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học: Những quy luật và tính quy luật chính trị - xã hội
của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa; những nguyên tắc cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức và phương pháp
đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân để thực hiện quá trình chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
- Như vậy, ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lêninđều có đối tượng
nghiên riêng nhưng đều nằm trong một hệ thống khoa học lý luận thống nhất – đó là
khoa học về giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc
lột, tiến tới giải phóng con người.
2. Khái lược quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
a. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác
- Điều kiện kinh tế-xã hội:
Chủ nghĩa Mác ra đời trong những năm 40 của thế kỷ XIX. Trong thời gian
này, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ở nhiều nước châu Âu, mâu
thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ ra một cách gay gắt.
Đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của nền sản xuất với tính chất tư bản chủ
nghĩa của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất và về sản phẩm xã hội. Mâu thuẫn này biểu
hiện thành sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Nhiều cuộc đấu tranh
của công nhân nổ ra ở Pháp, Đức, Anh.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản đề ra nhu cầu phải có lý luận cách
mạng thật sự khoa học để giải thích đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, vai trò
lịch sử của giai cấp vô sản, triển vọng của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và

2
tương lai của xã hội loài người nói chung. Chủ nghĩa Mác ra đời gắn liền với cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản và trở thành vũ khí lý luận của cuộc đấu tranh đó.
Mặt khác, sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cho phép
khái quát nhiều nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử: về vai trò của sản
xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, vai trò của cơ sở hạ
tầng đối với kiến trúc thượng tầng, vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử, vai trò
của quần chúng nhân dân trong sự phát triển lịch sử; trên cơ sở đó, Mác đưa ra những
dự kiến khoa học về khả năng xóa bỏ giai cấp, khả năng tiến tới một xã hội tốt đẹp
trong tương lai.
- Tiền đề lý luận: Chủ nghĩa Mác có 3 nguồn gốc lý luận: Triết học cổ điển
đức, Kinh tế học chính trị Anh và Chủ nghĩa xã hội Pháp, Anh, trong đó Triết học cổ
điển Đức là tiền đề lý luận trực tiếp.
C.Mác và Ph.Ăngghenkế thừa hạt nhân hợp lý trong Phép biện chứng của Hê-
ghen là lý luận về sự phát triển, loại bỏ cái vỏ duy tâm của nó, đưa nó về với quan
điểm duy vật về tự nhiên và lịch sử. Đồng thời C.Mác kế thừa chủ nghĩa duy vật và tư
tưởng vô thần của L.Phoi-ơ-bắc khắc phục những chế siêu hình của nó. Trên cơ sở đó,
C.Mác sáng lập nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một tất yếu lịch sử. Những điều kiện lịch sử đã
chín muồi cho phép các nhà khoa học đi đến những kết luận duy vật biện chứng về thế
giới nói chung và về xã hội loài người nói riêng. Chủ nghĩa Mác không thể ra đời sớm
hơn khi chưa có đủ những tiền đề vật chất và tư tưởng cần thiết. Mặt khác, nó cũng
không thể không ra đời được. Sự thật cho thấy rằng trong thời điểm này, đã có một số
nhà tư tưởng khác cũng đi đến những kết luận duy vật lịch sử một cách độc lập với
C.Mácvà Ph.Ăngghen.
- Tiền đề khoa học tự nhiên
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác là kết quả của sự tổng kết những thành
tựu tư tưởng của nhân loại, được chứng minh và phát triển dựa trên những kết luận
mới nhất của khoa học tự nhiên, trong đó có 3 phát minh quan trọng nhất:
- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Năng lượng không tự sinh
ra mà cũng không tự mất đi, nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác mà thôi).
Đây là cơ sở khoa học để khẳng định rằng vật chất và vận động của vật chất không thể
do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Chúng chỉ chuyển hóa từ dạng này sang
dạng khác, hình thức này sang hình thức khác mà thôi.
- Thuyết tiến hóa của Darwin đã chỉ ra Nguồn gốc các loài (1859). Học thuyết
này đã luận chứng về quá trình đấu tranh sinh tồn của muôn loài, qua sự chọn lọc tự
nhiên, dần dần sản sinh ra những giống loài mới. Lý luận tiến hoá sinh vật của Darwin
đã áp dụng quan điểm lịch sử vào lĩnh vực sinh vật học. Nó luận chứng về quá trình

3
lịch sử của giới hữu cơ, chứng minh rằng, thực vật, động vật, bao gồm cả loài người
đều là sản phẩm phát triển của lịch sử.
- Học thuyết tế bào: của M.Slaiđen (trường Đại học Gana,ở Đức) xây dựng
năm 1838. Ông cho rằng, tế bào là đơn vị sống cơ bản nhất trong kết cấu của mọi thực
vật. Qúa trình phát dục của thực vật là quá trình hình thành và phát triển của tế bào.
Sau đó, vào năm 1839 GS. T.Svannơ (GS phẫu thuật người của trường Đại học Ruăng
ở Đức) đã mở rộng học thuyết tế bào từ giới thực vật sang giới động vật, khiến loài
người nhận thức được rằng, tế bàolà đơn nguyên kết cấu chung của mọi cơ thể sinh
vật. Những phát hiện nêu trên đã vạch ra quá trình biện chứng của sự vận động, phát
triển, chuyển hoá không ngừng của bản thân giới sinh vật.
b. C.Mác, Ph.Ăngghenvới quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác
C.Mác (Karl Mác , 1818-1883)
C.Mác sinh ở Trier (Đức), học Đại học ở Bonn,
Berlin. Ông có bằng tiến sĩ triết học. Năm 1842 viết
báo và trở thành chủ bút tờ Rheinische Zeitung. Năm
1843, tờ báo bị đóng cửa và Mác bị trục xuất. Ông
sang Paris (Pháp), Brussels (Bỉ) và cư trú lâu dài ở
Luân Đôn (Anh). Năm 1844. C.Mác và Ph.Ăngghen
gặp nhau và trở thành đôi bạn thân thiết, cùng cộng
tác với nhau suốt cuộc đời làm khoa học và hoạt
động cách mạng.

Những tác phẩm chủ yếu của C.Mác và Ph.Ăngghen: Phê phán triết học pháp
quyền Hegel (1843); Bản thảo kinh tế - triết học 1844; Hệ tư tưởng Đức (1844); Gia
đình thần thánh (1845 - 1846); Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1848); Phê phán Kinh tế
học chính trị (1859); Nội chiến ở Pháp (1871); Phê phán cương lĩnh Gotha (1875); Tư
bản (xuất bản thành 3 quyển trong những năm 1867- 1895) .
Ph.Ăngghen (Friedrich Engels, 1820-1895)
Ph.Ăngghensinh ở Barmen (nay là Wuppertal). Bố
của ông là một nhà doanh nghiệp lớn ở Đức lúc
bấy giờ. Tuy nhiên, Ph.Ăngghenlại say mê nghiên
cứu khoa học và triết học và cùng với Mác hoạt
động trong phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân và trở thành một trong những lãnh tụ
của giai cấp vô sản thế giới.

4
Ngoài những tác phẩm viết chung với Mác, Ph.Ăngghen còn viết: Tình cảnh giai cấp
công nhân Anh, (1844); Chống Duhring, (1878); Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư
nhân và nhà nước, (1884); Biện chứng của tự nhiên, (1872-1882); L.Feuerbach và sự
cáo chung của triết học cổ đển Đức, (1886-1888); Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội
từ không tưởng đến khoa học, (1892)….
* C.Mác và Ph.Ăngghenvới quá trình hình thành chủ nghĩa Mác
- Thời gian từ 1842 về trước: C.Mác và Ph.Ăngghen là những thanh niên đầy
nhiệt tình và lòng nhân đạo, say mê nghiên cứu triết học, nhưng chưa thoát khỏi lập
trường triết học duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng.
- Thời kỳ hình thành triết học Mác diễn ra từ 1842 đến 1848.
+ Bước chuyển từ lập trường duy tâm và dân chủ cách mạng sang lập trường
duy vật và chủ nghĩa xã hội khoa học bắt đầu từ khi Mác làm việc ở báo Sông Ranh từ
tháng 5-1842.
+ Năm 1843, sau khi báo Sông Ranh bị đóng cửa, Mác bắt tay viết tác phẩm
Phê phán triết học pháp quyền Hê-ghen
+ Từ 1844, C.Mác và Ph.Ăngghen cộng tác với nhau từng bước xây dựng triết
học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
+ Năm 1844, C.Mác viết tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học 1844, nói lên
vai trò của lao động sản xuất vật chất trong việc sáng tạo ra bản thân con người và loài
người, vạch ra những biểu hiện và nguyên nhân của sự tha hóa của người công nhân
dưới chủ nghĩa tư bản.
+ Cũng trong năm 1844, Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân
Anh.
+ Cuối năm 1844, C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm Gia đình thần thánh
để phê phán thế giới quan duy tâm của các đại biểu trong nhóm Hegel trẻ, qua đó trình
bày những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Năm 1845, Mác viết Luận cương về Feuerbach, vạch ra những hạn chế của
Feuerbach trong quan niệm về con người và làm rõ vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức.
+ Năm 1845-1846, hai ông viết tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, tiếp tục phê phán
Hê-ghen và chủ nghĩa duy tâm nói chung, phê phán những hạn chế của chủ nghĩa duy
vật trước Mác , đặc biệt là quan điểm duy tâm về lịch sử của Phoi-ơ-bắc. Đồng thời
trong tác phẩm này hai ông cũng trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý của
chủ nghĩa duy vật lịch sử và tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản.
+ Năm 1847, hai ông viết tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, phê phán tính
chất duy tâm, siêu hình trong quan niệm về các phạm trù kinh tế của P.Prudhon, phát

5
triển phương pháp biện chứng duy vật, những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa
học, của kinh tế học chính trị.
+ Cuối 1847 đầu 1848 C.Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm Tuyên ngôn Đảng
Cộng sản. Hai ông trình bày một cách hoàn chỉnh lý luận về giai cấp và đấu tranh giai
cấp, vai trò lịch sử của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, cương lĩnh cách mạng của
giai cấp vô sản. Bằng luận cứ khoa học và xác đáng, Tuyên ngôn đã vạch ra tính tất
yếu của xã hội cộng sản, trong đó, khi sự đối kháng giai cấp bị xóa bỏ thì sự thù địch
giữa các dân tộc cũng không còn. “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và
đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”1.
* K.Mác, Ph.Ăngghen với quá trình phát triển chủ nghĩa Mác
- Sau 1848 là thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển triết học của mình.
Trong thời kỳ này, C.Mác và Ph.Ăngghen tham gia phong trào đấu tranh của giai cấp vô
sản và triết học của các ông trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản ở các nước lớn ở châu
Âu và châu Mỹ.
- Từ 1848 đến Công xã Paris năm 1871, C.Mác và Ph.Ăngghen viết nhiều tác
phẩm để tổng kết phong trào đấu tranh giai cấp ở Pháp như tác phẩm Đấu tranh giai
cấp ở Pháp (1848-1850), Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapac (1851-1852),
Cách mạng và phản cách mạng ở Đức (do Ph.Ăngghen viết 1851-1852). Bộ Tư bản
cũng được Mác viết trong thời kỳ này.
- Từ 1871 trở đi, C.Mác và Ph.Ăngghen có thêm kinh nghiệm của Công xã Pari.
Những tác phẩm hai ông viết trong thời kỳ này tiếp tục khái quát kinh nghiệm đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân, phát triển ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác
và làm phong phú thêm những nguyên lý của chủ nghĩa Mác. Mác tiếp tục viết tác
phẩm Tư bản, còn Ph.Ăngghen viết các tác phẩm Chống Duhring (1876-1878), biện
chứng của tự nhiên (1873-1883). Sau khi Mác qua đời năm 1883, Ph.Ăngghen hoàn
thành việc xuất bản bộ Tư bản của Mác , đồng thời tiếp tục lãnh đạo phong trào giai
cấp công nhân và viết một số tác phẩm như: Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân
và nhà nước (1884), L.Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886).
c.V.I.Lênin với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới
Triết học của C.Mác được V.I.Lênin kế thưà, phát triển và vận dụng vào cách
mạng vô sản nên được gọi là triết học Mác - Lênin.

1
C.Mác-Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1994, T.4, tr.628.

6
Vlađimir Ilich V.I.Lênin (1870-1924) ở Simbirsk.
V.I.Lênin là người vận dụng và phát triển chủ nghĩa
C.Mác nói chung và triết học C.Mác nói riêng.
V.I.Lênin phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng; lý luận nhận thức; lý luận về giai cấp và đấu
tranh giai cấp; lý luận về nhà nước và cách mạng vô
sản, về chuyên chính vô sản, về đảng kiểu mới của giai
cấp vô sản.
* Bối cảnh lịch sử mới và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác
- Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã bước sang một giai đoạn
mới: chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế quốc, là giai đoạn cao của chủ nghĩa tư
bản. Các nước tư bản chia nhau thị trường thế giới và gây ra cuộc chiến tranh thế giới
1914-1918.
- Cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ trực tiếp.
- Sau khi Ph.Ăngghen qua đời, các phần tử cơ hội trong Quốc tế II xuyên tạc chủ
nghĩa Mác. Tình hình đó đòi hỏi V.I.Lênin phải tiến hành đấu tranh bảo vệ và phát
triển chủ nghĩa Mác.
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên, nhất là trong vật lý
học, có một loạt phát minh khoa học làm đảo lộn quan niệm siêu hình về vật chất và
vận động, gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học. Chủ nghĩa duy
tâm lợi dụng tình trạng khủng hoảng này để tấn công và bác bỏ chủ nghĩa duy vật.
V.I.Lênin phải tiến hành đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa duy vật.
* Vai trò của V.I.Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong
điều kiện lịch sử mới
Trước năm 1907, V.I.Lênin lãnh đạo phong trào công nhân Nga, tiến hành đấu
tranh chống phái dân túy. V.I.Lênin viết các tác phẩm như: Những người bạn dân là
thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao (1894); Nội
dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy và sự phê phán trong cuốn sách của ông
Stơruvê về nội dung đó (1894); Làm gì (1902); Hai sách lược của Đảng dân chủ -
xã hội trong cách mạng dân chủ (1905).
Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905-1907, V.I.Lênin viết tác phẩm Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1908); Bút ký triết học (1914-1916); Ba
bộ phận cấu thành của chủ nghĩa C.Mác; tác phẩm K.C.Mác; Chủ nghĩa đế quốc,
giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916); Nhà nước và cách mạng (1917).
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.Lênin
phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan và phát triển chủ nghĩa duy vật, phát triển lý luận

7
nhận thức duy vật biện chứng. Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin tổng kết và
phát triển phép biện chứng duy vật.
V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa C.Mác vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga
và lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, mở ra cho nhân loại một thời đại
mới: thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin nghiên cứu giải quyết các vấn đề của
cách mạng vô sản, xây dựng cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá
độ, vấn đề xây dựng đảng và nhà nước. Những tác phẩm trong thời kỳ này là: Những
nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết (1918); Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính
tiểu tư sản (1918); Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản (1820); Về
Chính sách kinh tế mới (1921); Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu
(1922). Đặc biệt, trong chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin nêu lên tư tưởng về nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
d. Chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới
Chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
- Cách mạng tháng Mười mở ra cho nhân loại thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới:
+ Sau cuộc cách mạng Tháng Mười thì chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành thực
tiễn, lịch sử phát triển của xã hội loài người xuất hiện hình thái kinh tế - xã hội mới đối lập
với hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa.
+ Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ sau
Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
+ Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào Cộng
sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hoà
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên phạm vi thế giới.
+ Sau Cách mạng Tháng Mười, cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù
cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhiều quốc gia sau khi giành được độc lập dân tộc đã đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa.
- Sau khi V.I.Lênin qua đời, Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản trên
thế giới tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và vận dụng nó trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ nghĩa xã hội đã đem lại những thành tựu to lớn ở Liên Xô, đưa nước Nga
từ một nước tư bản lạc hậu thành một trong những nước có công nghiệp và khoa học
tiên tiến nhất thế giới. Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đã góp phần tiêu diệt chủ nghĩa
phát xít, cổ vũ và ủng hộ phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội trên

8
toàn thế giới. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều dân tộc bị áp bức và lạc hậu trên thế
giới hướng về Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa như là ngọn cờ tiêu biểu cho độc
lập, dân chủ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước
đã mắc phải sai lầm trong việc nhanh chóng xóa bỏ kinh tế thị trường, xóa bỏ các
thành phần kinh tế tư nhân, đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, duy trì quá lâu hệ
thống quan liêu bao cấp khi tình hình thế giới đã có những biến đổi lớn lao.
- Trong những năm đầu thập kỷ 80, chủ nghĩa xã hội bắt đầu lâm vào cuộc
khủng hoảng: sản xuất rơi vào tình trạng trì trệ, hiệu quả và tính tích cực xã hội giảm
sút. Do sai lầm trong cải tổ, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu không đồng nhất với
sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Một số nước xã hội chủ nghĩa như Trung
Quốc, Việt Nam ... thực hiện thành công công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội, chẳng
những đã có thể ra khỏi khủng hoảng, mà còn thực hiện tốt hơn những mục tiêu của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không phải là thất bại của
chế độ và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ là sự thất bại của một mô
hình thực tiễn nhất định, tức mô hình Liên Xô của chủ nghĩa xã hội. Việc đổi mới
thành công chủ nghĩa xã hội ở một số nước đã mở ra cho nhân loại nhiều triển vọng
mới. Nhân loại chẳng những không từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà trái lại, tìm kiếm một
mô hình mới của chủ nghĩa xã hội phù hợp với tình hình mới.
- Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng ta phát động và lãnh đạo không có
nghĩa là từ bỏ mà là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; kiên trì mục tiêu chủ
nghĩa xã hội; nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước ta và trên thế giới trong tình
hình hiện nay.
II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP,
NGHIÊN CỨU NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1. Đối tượng và phạm vi học tập, nghiên cứu
- Đối tượng học tập, nghiên cứu “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin” là: “những quan điểm và học thuyết” của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I V.I.Lênin
trong phạm vi những quan điểm, học thuyết cơ bản nhất thuộc ba bộ phận cơ bản cấu
thành chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Phạm vi của triết học Mác - Lênin là những nguyên lý cơ bản về thế giới quan
và phương pháp luận chung nhất, bao gồm những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật
biện chứng với tính cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học; phép biện

9
chứng duy vật, với tính cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, về
những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy;
chủ nghĩa duy vật lịch sử là sự vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng vào việc lý giải các quy luật của đời sống xã hội.
2. Mục đích và yêu cầu về mặt phương pháp học tập, nghiên cứu
a. Mục đích của việc học tập, nghiên cứu
- Học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lêninlà để
xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và vận dụng sáng tạo những
nguyên lý đó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Đồng thời hiểu rõ cơ sở lý luận
quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam; nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng niềm tin, rèn luyện và tu dưỡng
đạo đức nhằm đáp ứng được với tình hình mới.
b. Một số yêu cầu cơ bản về mặt phương pháp học tập, nghiên cứu
- Thứ nhất, những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là lý luận
“chết cứng”, một chiều mà nó luôn luôn vận động và phát triển cùng với tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Do đó, khi học tập và nghiên cứu những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênincần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó; tránh bệnh
kinh viện, giáo điều trong quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý cơ
bản đó trong thực tiễn.
- Thứ hai, sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin là một quá
trình. Trong quá trình ấy, những luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin có mối quan hệ
mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ nhau. Vì vậy, học tập, nghiên cứu mỗi luận điểm
của chủ nghĩa Mác - Lêninchúng ta phải đặt trong mối quan hệ với các luận điểm
khác, ở các bộ phận cấu thành khác, có như vậy mới thấy được sự thống nhất trong
tính đa dạng và nhất quán của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Thứ ba, học tập và nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin để hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, phải gắn những luận điểm của chủ
nghĩa Mác - Lêninvới điều kiện thực tiễn của Việt Nam và bối cảnh của thời đại, có
như vậy mới thấy được sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện trong từng giai đoạn lịch sử.
- Thứ tư, chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là một hệ thống khép kín, nhất
thành bất biến, trái lại, đây là một hệ thống lý luận không ngừng vận động và phát
triển trên cơ sở những thành tựu của văn minh nhân loại. Vì vậy, việc học tập, nghiên

10
cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin đồng thời cũng là quá trình
tổng kết, đúc kết kinh nghiệm để góp phần phát triển tính khoa học, tính cách mạng và
nhân văn vốn có của nó. Mặt khác, việc học tập, nghiên cứu các nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin cũng cần phải đặt nó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư
tưởng nhân loại, có như vậy chúng ta mới đảm bảo được tính khoa học và tính cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Phần thứ nhất

THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC


CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

Chương I

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

I. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Vấn đề cơ bản của triết học và sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa
duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
a. Ph.Ăngghen khái quát vấn đề cơ bản của triết học
Trong tác phẩm “L.Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của Triết học cổ điển Đức”
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại” 2.
Trong thế giới có vô vàn hiện tượng nhưng chung qui lại chúng ta chỉ phân làm
hai loại, một là, những hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên), hai là, những hiện tượng
tinh thần (tư duy, ý thức). Do vậy, vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được
gọi là “vấn đề cơ bản lớn nhất” hay “vấn đề tối cao” của triết học. Việc giải quyết
vấn đề này là cơ sở, là điểm xuất phát để giải quyết mọi vấn đề khác của triết học.
b. Nội dung và ý nghĩa của vấn đề cơ bản của triết học
* Nội dung của vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt (hai phương diện):
Theo Mác - Ăngghen:“Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”3.
2
C.Mác & Ph.Ănggen, Toàn tập, t.21, tr.403.
3
Sđd, tr.403.

11
Vấn đề này gồm hai mặt:
- Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư duy
và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào sinh ra
cái nào, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả năng
nhận thức thế giới chung quanh hay không?
Thực chất vấn đề cơ bản của triết học đó là vấn đề về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức. Bởi vì:
- Vật chất và ý thức là hai hiện tượng rộng lớn nhất của đời sống con người
- Đây là vấn đề xuyên suốt trong mọi hệ thống triết học.
- Giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nó là cơ sơ để phân định lập
trường triết học của các trường phái, các khuynh hướng, các hình thức của triết học.
c. Sự đối lập giữa hai quan điểm duy vật và duy tâm trong việc giải quyết vấn đề
cơ bản của triết học
* Giải quyết mặt thứ nhất:
- Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất (tồn tại, tự nhiên) có trước , ý thức (tư duy,
tinh thần) có sau, vật chất quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy vật có 3 hình thức cơ bản là:
+ Chủ nghĩa duy vật cổ đại (DV chất phác).
+ Chủ nghĩa duy vật Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII (DV siêu hình).
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng (do K.C.Mác và Ph.Ăngghensáng lập).

- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tư duy, tinh thần) có trước, vật chất có
sau,ý thức quyết định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có 2 hình thức cơ bản là:
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng có một lực lượng siêu tự nhiên (ý niệm,
ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, Trời, Thượng đế) có trước, sinh ra và quyết định
thế giới vật chất. Đại biểu của trào lưu này là Platon, G.V.Hegel, Thomas Aquinas
(Tômát Đacanh), v.v..
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức quyết định vật chất, vật
chất không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào cảm giác, ý thức. Những đại biểu của trào
lưu này là George Berkeley (Beccơli), David Hume (Đavít Hium).
Ngoài ra, trong triết học người ta còn phân biệt lập trường theo một số cách sau:

12
- Thuyết nhất nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng thế giới chỉ có một bản
nguyên duy nhất, hoặc là thực thể vật chất hoặc là thực thể tinh thần. (nhất nguyên duy
vật hoặc thuyết nhất nguyên duy tâm).
- Thuyết nhị nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng có hai thực thể song
song tồn tại, không phụ thuộc lẫn nhau (cả vật chất lẫn tinh thần).
- Thuyết đa nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng có nhiều cơ sở, nhiều
bản nguyên của tồn tại. (Các nhà triết học cổ đại đưa ra những bản nguyên đa dạng
như đất, nước, lửa, không khí với tư cách là cơ sở của mọi tồn tại).
Giải quyết mặt thứ hai:
Vấn đề cơ bản của triết học có hai khuynh hướng đối lập nhau là thuyết khả tri và
thuyết bất khả tri.
Đa số các nhà triết học khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được
thế giới khách quan (khả tri).
Một số ít các nhà triết học phủ nhận một phần hay toàn bộ khả năng nhận thức
của con người (bất khả tri).
2. Các hình thức phát triển của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử
Có 3 hình thức tồn tại và phát triển của CNDV là:
a. Chủ nghĩa duy vật chất phác
Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật
thời cổ đại. Đặc điểm của CNDV này là đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ
thể của nó (đất, nước, lửa, không khí,... ) và coi đó là điểm xuất phát của thế giới.
CNDV giai đoạn này còn nhiều hạn chế, nhưng lấy chính bản thân giới tự nhiên
để giải thích giới tự nhiên, không viện đến thần linh hay một đấng sáng tạo nào đã góp
phần to lớn cho việc phát triển của học thuyết vô thần sau này.
b. Chủ nghĩa duy vật siêu hình
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, có nguồn gốc từ thế kỷ XV, phát triển rầm rộ vào
thế kỷ XVII, XVIII và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ
của cơ học, có ảnh hưởng lớn đến quan điểm của các nhà triết học thời kỳ này. Do đó,
các nhà triết học thời kỳ này nhìn nhận sự vận động của thế giới một cách cứng nhắc.
CNDV giai đoạn này chịu sự chi phối mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu
hình, máy móc của cơ học cổ điển: nhận thức thế giới như một cỗ máy cơ giới khổng
lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại, không vận
động, không phát triển, nếu có thì đó chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về số lượng và do
những nguyên nhân bên ngoài tác động chứ không phải do chính bản thân nó.
c. Chủ nghĩa duy vật biện chứng

13
Chủ nghĩa duy vật biện chứng (đầu thế kỷ XIX) do C.Mác - F.Ăngghen sáng lập,
sau đó được V.I.V.I.Lênin và những người mácxít kế tục, bảo vệ và phát triển. Trên cơ sở
kế thừa những tinh hoa trong lịch sử triết học của nhân loại và vận dụng những thành tựu
của khoa học tự nhiên đương thời C.Mác - Ăngghen đã xây dựng nên các nguyên lý,
phạm trù, quy luật cơ bản nhất của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thể hiện quan điểm
khoa học, đúng đắn.

II. QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
a. Phạm trù vật chất
* Quan niệm trước C.Mác về vật chất
- Chủ nghĩa duy tâm: phủ nhận vật chất với tính cách là thực tại khách quan. Cho
rằng thế giới vật chất là tạo vật của thượng đế, hoặc là “sự phức hợp” những cảm giác
của con người.
- Chủ nghĩa duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật
chất.
Ví dụ: Talet = nước; Anaximen = không khí; Heraclit = lửa; Démocrite = nguyên
tử; Triết học Ấn Độ = đất, nước, lửa, gió; Thuyết Âm dương - Ngũ hành ở Trung
Quốc = kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
 Quan niệm về vật chất thời kỳ cổ đại mang tính trực quan, cảm tính. Tuy nhiên,
nó chỉ có tác dụng chống lại chủ nghĩa duy tâm và tồn giáo
- Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đồng nhất vật chất với nguyên tử và khối
lượng. Niu – tơn cho rằng, khối lượng là vật chất.
Quan niệm về vật chất thời kỳ cận đại màn tính cơ học, máy móc, siêu hình.
Tóm lại, các nhà triết học trước C.Mác vẫn chưa giải quyết thấu đáo được vấn
đề vật chất. Câu hỏi: bản chất của thế giới là gì? Vẫn chưa được lý giải một cách khoa
học. Các nhà triết học hoặc tuyệt đối hoá mặt này hoặc mặt kia, nhưng cơ bản là khẳng
định, vật chất là cái bất biến, cái cụ thể nào đó, đồng nhất giữa lượng và chất của vật
chất.
* Quan niệm của triết học C.Mác về vật chất
Cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng, vật chất là cái tồn tại khách quan, độc
lập với ý thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng,
ở đâu có vật chất là có vận động và vận động không ngừng.
* Định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất; nội dung và ý nghĩa.

14
* Định nghĩa
* Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều phát minh khoa học tiến bộ ra đời: làm
cho các quan điểm duy vật siêu hình rơi vào khủng hoảng. Đó là:
+ Be-cơ-ren và Ma-ri-Qui-ri đã phát hiện hiện tượng phóng xạ.
+ S.J. Tôm-Sơn đã phát hiện ra điện tử.
+ Cau-man đã phát hiện ra sự thay đổi khối lượng điện tử.
+ A. Anh-xtanh đã phát minh ra thuyết tương đối.
Các phát minh khoa học nói trên đã làm cho các quan điểm siêu hình rơi vào
thế khủng hoảng, đặc biệt là vật lý học. Một số các nhà vật lý học giải thích một cách
duy tâm các hiện tượng vật lý: vật chất tiêu tan mất.
Nhân cơ hội này ,các nhà triết học duy tâm đã tấn công, phủ nhận vật chất và
chủ nghĩa duy vật. Trước tình hình đó V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất, nhằm
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật của C. Mác.
* Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình
về vật chất, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”
V.I.Lênin đã định nghĩa về vật chất như sau:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và không lệ thuộc vào cảm giác”4.
Khi định nghĩa về phạm trù vật chất, V.I.Lênin đã sử dụng một phương pháp
đặc biệt là: Đem đối lập phạm trù vật chất với phạm trù ý thức.
* Nội dung của định nghĩa:
- Vật chất là cái khách quan, tồn tại bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức hay chưa.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trức tiếp hoặc giáin tiếp tác
động lên giác quan con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
* Ý nghĩa của định nghĩa:
- Giải quyết triệt để hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học theo quan điểm
của CNDVBC.
- Khăc phục triệt để những sai lầm, hạn chế của CNDV trước Mác về phạm trù
vật chất; bác bỏ, phủ nhận CNDT và tôn giáo về vấn đề vật chất.

4
V.I..Lênin Toàn tập, Tập 18, tr.151.

15
- Tạo cơ sở cho các nhà triết học DVBC xây dựng quan điểm vật chất trong đời
sống xã hội.
b. Phương thức vận động, hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động là gì?
- Theo Ph.Ăgghen “vận động là mọi biến đổi nói chung”.
Ông viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản
cho đến tư duy”5.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Theo Ph.Ăngghen: “Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Bất cứ ở đâu
và bất cứ lúc nào cũng không có và không thể có vật chất mà không có vận động” 6.
+ Vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách vận động, không thể có
vật chất không vận động, cũng như không thể có vận động ngoài vật chất.
+ Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động.
Ph.Ăngghenviết: “Các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể
nhận thức được thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về
một vật thể không vận động thì không có gì mà nói cả”7
- Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
+ Vận động là cái vốn có của vật chất, gắn liền với vật chất, không do ai sinh ra
và không bao giờ bị tiêu diệt.
+ Vận động được bảo toàn cả về lượng và về chất.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Cần phải hiểu tính bất diệt của vận động không chỉ
đơn thuần về mặt số lượng mà cần phải hiểu cả về mặt chất lượng nữa” 8.
* Các hình thức vận động của vật chất
Theo Ph.Ăngghen, có 5 hình thức vận động cơ bản:
- Vận động cơ giới là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý (thay đổi trạng thái vật lý) là vận động của phân tử, của các hạt
cơ bản, vận động của nhiệt, ánh sáng, điện, trường, âm thanh.
- Vận động hóa học (thay đổi trạng thái hóa học) là sự vận động của các nguyên
tử; sự hóa hợp và phân giải của các chất.
- Vận động sinh vật: vận động của các cơ thể sống như sự trao đổi chất, đồng
hóa, dị hóa, sự tăng trưỏng, sinh sản, tiến hóa.

5
C.Mác-Ph.Ăgghen Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 1994, T.20, tr.519.
6
Sđd, tr.519.
7
Sđd, tr.743.
8
Sđd, tr.743.

16
- Vận động xã hội: mọi hoạt động xã hội của con người; sự thay thế các hình thái
kinh tế -xã hội từ thấp đến cao.
* Vận động và đứng im:
Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối vì:
- Đứng im chỉ xảy trong một quan hệ nhất định, chứ không phải trong tất cả mọi
quan hệ.
- Đứng im chỉ xảy trong một hình thức vận động nhất định (vận động cơ giới).
- Đứng im là một trạng thái vận động (vận động trong thăng bằng).
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu sự vận động.
- Xác định quan điểm duy vật biện chứng; xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng
thái vận động, biến đổi không ngừng. Đứng im chỉ là tạm thời, tương đối.
- Hiểu vận động là cái vốn có của vật chất, không do ai tạo ra và không bao giờ
bị tiêu diệt. Chống lại các quan điểm duy tâm siêu hình.
- Nắm vững các hình thức vận động của vật chất để hiểu tính đa dạng, phong phú
của vận động.
- Sự vật có nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bằng
một hình thức vận động nhất định. Không thể quy hình thức vận động cao về hình thức
vận động thấp hoặc ngược lại.
c. Không gian và thời gian với tư cách là hình thức tồn tại của vật chất
- Quan điểm siêu hình coi không gian là một cái hòm rỗng trong đó chứa vật
chất. Có không gian và thời gian không có vật chất. Có sự vật, hiện tượng không tồn
tại trong không gian và thời gian.
- Quan điểm duy vật biện chứng:
+ Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, gắn liền với
sự vận động của vật chất.
+ Không có không gian và thời gian không có vật chất cũng như không thể có
sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài không gian và thời gian.
“Vì các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại
ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian”9.
+ Không gian vô tận. Thời gian không có khởi đầu và kết thúc.
+ Không gian có 3 chiều. Thời gian có một chiều.
+ Không gian và thời gian có tính tương đối.
d. Tính thống nhất vật chất của thế giới
- CNDV khẳng định rằng, Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất
ở tính vật chất. C.Mác – Ph.Ăngghen viết: “Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở

9
Sđd, tr.78.

17
tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng vài ba lời
lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của
triết học và khoa học tự nhiên”10. Điều này được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.
Thứ hai, Mọi bộ phần của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, là những
kết cấu vật chất hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và chịu sự chi phối của
những quy lậut khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
Thứ ba, Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận, không sinh ra và cũng
không mất đi. Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang biến đổi và chuyển hoá
lẫn nhauu, là kết quả và nguyên nhân của nhau.
Thứ tư, Tính thống nhất của vật chất bao hàm cả sự đa dạng và nhiều vẻ của các
sự vật, hiện tượng.
Tóm lại, thế giới vật chất là vật chất, thống nhất ở tính vật chất của nó, thế giới
vật chất có nguyên nhân tự nó, vĩnh hằng và vô tận...
2. Ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức
Vấn đề nguồn gốc, bản chất của ý thức là một vấn đề hết sức phức tạp của
triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm trong lịch sử triết học. Trên cơ sở của những thành tựu triết học duy vật, của
khoa học, của thực tiễn xã hội triết học Mác - Lênin đã cho chúng ta nhận thức rõ
được về nguồn gốc và bản chất của ý thức.
* Quan điển triết học ngoài mácxít về ý thức:
- Quan điểm duy tâm khách quan: tìm nguồn gốc của ý thức từ một lực lượng
siêu tự nhiên (ý niệm, Brahman, Thượng đế, Trời, v.v.).
- Quan điểm duy tâm chủ quan: ý thức là cái vốn có của con người, không do
thần thánh ban cho, cũng không phải là sự phản ánh thế giới bên ngoài.
- Quan điểm vật hoạt luận: mọi dạng vật chất đều có ý thức.
- Quan điểm duy vật tầm thường: ý thức là một dạng vật chất; “óc tiết ra ý thức
cũng như gan tiết ra mật”.
* Quan điểm duy vật biện chứng về ý thức:
* Ý thức ra đời là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội.
* Nguồn gốc tự nhiên:

10
Sđd, tr.67

18
- Ý thức là là kết quả của quá tình tiến hoá của thuộc tính phản ánh có ở mọi
dạng vật chất. Vậy, phản ánh là gì?
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất có ở mọi
dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
- Phản ánh có các đặc điểm sau:
+ Là thuộc tính vốn có ở mọi dạng vật chất
+ Kết quả của phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật: vật tác động và vật nhận tác
động. Vật tác động là cái được phản ánh, vật nhận tác động là cái phản ánh.
+ Quá trình phản ánh bao hàm cả quá trình thông tin, cái phản ánh mang thông
tin của cái được phản ánh.
- Các hình thức của phản ánh:
+ Phản ánh lý hoá: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự
nhiên vô sinh. Hình thức phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng,
lựa chọn.
+ Phản ánh sinh học: Đặc trưng cho giới tự nhiên sống. Hình thức phản ánh này
đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó các sự vật thích nghi với môi trường sống để
duy trì sự tồn tại của mình. Hình thức phản ánh này có nhiều cấp độ:
+1. Tính kích thích: thể hiện ở thực vật và động vật bậc thấp, là phản ứng trả lời
tác động của môi trường bên ngoài có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất giữa
chúng.
+1. Tính cảm ứng: là hình thức phản ánh của động vật chưa có hệ thần kinh trung
ương, là tính nhạy cảm đối với môi trường xung quanh.
+1.Tâm lý: Là hình thức phản ánh ở các động vật bậc cao, có hệ thần kinh trung
ương. Tâm lý động vật là sự phản ánh có tính bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh
lý cơ thể và quy luật sinh học chi phối.
- Ý thức: Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức là hình
thức phản ánh chỉ có ở con người.
 Ý thức là đặc tính riêng của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người.
* Bộ não người và ý thức:
Bộ não người là một tổ chức sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi và phức tạp. Bỗ
não người là cơ quan vật chất của ý thức.
Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở các quá trình sinh lý
– thần kinh của bộ não.
Như vậy, bộ óc người cũng với thế giới bên ngoài tác động lên nó – đó chính là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
* Nguồn gốc xã hội:

19
Ý thức người ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ có lao động
và ngôn ngữ:
Lao động là gì? Theo C.Mác: Lao đọng là quá tình diễn biến giữa con người và
tự nhiên, trong đó con người đóng vai trò là môi giới, điều tiết và giám sát trong sự
trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên.
Đặc điểm của lao động: La hoạt động đặc thù của con người, lao động luôn mang
tính tập thể.
Vai trò của lao động:
+ Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người, nhờ có lao động mà con người
tách khỏi thế giới động vật.
+ Lao động làm cho cơ thể con người ngày càng hoàn thiện, đặc biệt là bộ óc và
các giác quan.
+ Thế giới khác quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật
vận đọng của mình trong quá trình lao động.
+ Trong lao động, đồng thời với lao động là ngôn ngữ (ngôn ngữ xuất hiện từ lao
động).
Ngôn ngữ là gì? Theo C.Mác: Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội
dung ý thức. Ngôn ngữ là cái võ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư
tưởng.
Vai trò của ngôn ngữ:
+ Là phương tiện giao tiếp trong xã hội, để trao đổi tri thức, kinh nghiệm,...
+ Là phương tiện để tổ kết thực tiễn, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái
quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực.
Tóm lại, không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành, tồn tại và phát triển.
Ý thức là nội dung thì ngôn ngữ là hình thức biểu hiện của nó.
* Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khác quan vào bộ óc con người một cách năng
động và sáng tạo. Điều này được thể hiện ở chỗ:
+ Ý thức cũng là “hiện thực”, nhưng đó là hiện thực trong tư tưởng. Đó là sự
thống nhất giữa vật chất và ý thức. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh, còn ý thức
là cái phản ánh.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khác quan, bởi vì ý thức con người
mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn.
+ Phản ánh ý thức là sự phản ánh sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức rất đa dạng,
phong phú. Tuy nhiên đó là sự sáng tạo dựa trên sự phản ánh.
Quá trình ý thức được thống nhất bởi các mặt sau:

20
+ Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang
tính chất hai chiều, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
+ Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
+ Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực
hoá tư tưởng thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng
xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của
con người.

* Kết cấu của ý thức


Ý thức là một hiện tượng xã hội – tâm lý có kết cấu hết sức phức tạp. Tuỳ theo
cách tiếp cận mà có nhiều cách phân chia khác nhau.
- Theo chiều ngang, ý thức gồm:
+ Tri thức: “là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái
hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng
dưới những hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác”11.
Phân loại tri thức:
+ Có nhiều loại tri thức khác nhau: tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về
con người.
+ Dựa vào trình độ phản ánh, có tri thức thông thường, tri thức khoa học. Tri thức
khoa học lại được chia thành thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.
+ Tình cảm: Là sự cảm động của con người trong mối quan hệ với thực tại xung quanh
và với chính mình.
+1. Tình cảm là một loại hình đặc biệt của sự phản ánh thực tại, nó phản ánh quan hệ
của con người đối với nhau, cũng như đối với thế giới xung quanh.
+2. Tình cảm tham gia vào hoạt động của con người và giữ vị trí quan trọng trong việc
điều chỉnh hoạt động của con người.
+3. Tri thức kết hợp với tình cảm sẽ hình thành nen niềm tin và thúc đẩy hành động
của con người.
Ngoài ra, theo chiều ngang, ý thức còn có các yếu tố như: niềm tìn, lý trí,..
Trong tất cả các yếu tố này thì tri thức là yếu tố quan trọng nhất.
- Theo chiều dọc, ý thức bao gồm:
+ Tự ý thức: Là ý thức về bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
+ Tiềm thức: Là những tri thức mà con người đã có được từ trước nhưng gần
như trờ thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức.

11
Hữu Ngọc – Dương Phú Hiệp – Lê Hữu Tầng: Từ điển triết học giản yếu, Nxb THCN, HN, 1987, tr.471.

21
+ Vô thức: là trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh suy nghĩ, hành vi, thái độ
ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự truyền thông tin
bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí,..
* Ý nghĩa phương pháp luận:
CNDVBC khẳng định, vật chất có trước, sinh ra ý thức, quyết định ý thức, song ý thức
cũng có tính độc lập tương đối và có tác động ngược lại đối với vật chất. Sự tác động
này diễn ra theo hai hướng:
+ Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan nó sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt
động thực tiễn.
+ Nếu ý thức phẩnnhs không đúng hiện thực khách quan thì sẽ kìm hãm sự phát triển
của thực tiễn.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức
* Vật chất quyết định ý thức
- Hiện thực khách quan hay những nhân tố vật chất là nguồn gốc duy nhất,
nguồn gốc cuối cùng của ý thức. Ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới vật chất và hiện
thực khách quan đó. Các quy luật khách quan, hoạt động thực tiễn chính là cơ sở cho
sự hình thành các quan điểm, quan niệm, ý chí, tình cảm xã hội
- Trong tồn tại xã hội, ý thức chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội, tồn tại xã hội thay
đổi thì ý thức xã hội sớm muộn cũng phải thay đổi theo. Tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội.
- Ý thức xã hội không tồn tại tự nó, nó chỉ có thể hình thành và phát triển trên
cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.
b. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Vai trò của ý thức đối với vật chất chính là vai trò của con người trong quá trình
cải tạo thế giới khách quan.
- Tri thức khoa học giúp con người hiểu biết được những mối liên hệ và quy
luật khách quan nhờ đó mà cải tạo được tự nhiên và xã hội. Trình độ nhận thức quy
luật càng cao thì khả năng cải tạo tự nhiên và xã hội càng lớn.
Tất nhiên, ý thức tự nó không làm biến đổi gì cả, ý thức chỉ tác động đến vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn.
- Ngày nay, khoa học và công nghệ có vai trò cực kỳ to lớn: khoa học đã và
đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học giúp con người chế tạo được
những công cụ lao động có năng suất cao, sáng tạo những quy trình công nghệ hiện
đại, khai thác những đối tượng lao động mới, những nguồn năng lượng mới, nâng cao

22
đời sống vật chất và tinh thần cho xã hội. Khoa học góp phần quan trọng trong quản lý
kinh tế, quản lý nhà nước, tổ chức cuộc sống cá nhân và xã hội tốt đẹp hơn.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khẳng định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn
ý thức chỉ là sản phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan.
Trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ hiện thực khách
quan, tôn trọng và hành động theo hiện thực khách quan, chống chủ nghĩa duy tâm và
chủ quan duy ý chí.
- Khẳng định ý thức có vai trò tích cực trong sự tác động trở lại đối với vật chất,
phép biện chứng duy vật yêu cầu trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn con
người cần phải nhận thức và vận dụng quy luật khách quan một cách chủ động, sáng
tạo, chống lại thái độ tiêu cực, thụ động.
- Sức mạnh của ý thức con người không phải là ở chỗ tách rời những điều kiện
vật chất mà phải biết dựa vào đó, phản ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế
giới khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý trí và nhiệt tình cao. Ý thức của
con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế
giới khách quan có hiệu quả. Vì vậy phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức,
phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan. Đồng thời
phải khắc phục bệnh bảo thủ, trì truệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.

23
Chương II

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT


1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Phép biện chứng
* Sự đối lập giữa hai quan điểm biện chứng và siêu hình trong việc nhận
thức thế giới và cải tạo thế giới
Biện chứng và siêu hình là hai phương pháp nghiên cứu thế giới khác nhau:
Quan điểm siêu hình Quan điểm biện chứng
- Chỉ nhìn thấy những sự vật riêng lẻ mà - Không chỉ nhìn thấy sự vật riêng lẻ mà còn
không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa chúng
những sự vật ấy.
- Chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng - Không chỉ thấy cây mà còn thấy rừng
- Thấy bộ phận mà không thấy toàn thể - Vừa thấy bộ phận vừa thấy toàn thể.
- Chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không - Không chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự mà
thấy sự phát sinh và tiêu vong của sự vật còn thấy cả sự sinh thành và tiêu vong của sự
vật ấy.
- Chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh mà không - Không chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh mà còn
thấy sự vận động và biến đổi liên tục của thấy trạng thái động của sự vật.
nó.

* Khái niệm phép biện chứng


- Biện chứng là bản tính của thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy; biện chứng chính là
tính thống nhất trong vận động và phát triển của thế giới.
- Biện chứng khách quan là phạm trù dùng để chỉ biện chứng của bản thân các sự
vật, hiện tượng, quá trình tồn tại độc lập và bên ngoài ý thức con người.
- Biện chứng chủ quan là phạm trù dùng để chỉ tư duy biện chứng và biện chứng
của chính quá trình phản ánh biện chứng khách quan vào đầu óc của con người.
- Phép biện chứng là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của mọi sự
vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
- Phương pháp biện chứng là cái được rút ra từ phép biện chứng, nó tồn tại dưới
dạng nguyên tắc, các công thức, thủ thuật... được con người sử dụng như những công
cụ, phương tiện trong hoạt động nhận thức.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng

24
- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại
Các nhà triết học thời kỳ này đã đề cập đến phép biện chứng trong nội dung triết học
của mình, song đó mới chỉ là những trực kiến sinh động từ đời sống thường nhật chứ chưa
phải là kết quả của nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học thực nghiệm: Platon thì coi
phép biện chứng là nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý; Arixtôt thì đồng nhất phép
biện chứng với lôgíc học.
Tuy nhiên, ở thời kỳ này Heraclite đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong quan điểm
về sự vận động của thế giới. Ông cho rằng: “Mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều biến đổi”
hay “Không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông”. Với quan điểm như vậy,
Heraclite đã trở thành ông tổ của phép biện chứng duy vật.
- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
Phép biện chứng duy tâm có quá trình phát triển lâu dài, đỉnh cao của nó là ở triết
học cổ điển Đức. Hegel được xem là triết gia rường cột của nền triết học này, ông đã
xây dựng phép biện chứng trương đối hoàn chỉnh với hệ thống các khái niệm, phạm
trù, quy luật. Tuy nhiên, phép biện chứng mà ông nêu lên là phép biện chứng duy tâm
“ngược đầu xuống đất”, ông cho rằng thế giới hiện thực là biểu hiện của thế giới “ý
niệm”.
- Phép biện chứng duy vật
K. Mark và F. Engel trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện
chứng của Hegel đã xây dựng thành công phép biện chứng duy vật, trên cơ sở tuân thủ
những logic của tự nhiên, xã hội và tư duy con người.

2. Phép biện chứng duy vật


a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng là sự thống nhất giữa lý luận và phương pháp
- Lý luận là hệ thống những khái niệm, phản ảnh bản chất, những mối liên hệ tất
yếu, những quy luật hoạt động và phát triển của đối tượng nghiên cứu (thế giới sự vật).
- Phương pháp là các thức, là con đường hoặc là phương tiện để con người đạt
được mục đích mà mình đặt ra.
- Phương pháp luận là lý luận về phương pháp.
- Phép biện chứng duy vật, theo F.Engel: “chẳng qua chỉ là môn khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”12.

b. Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản sau đây:

12
Sđd, tr.201.

25
- Thứ nhất, phép biện chứng duy vật của là phép biện chứng được xác lập trên
nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
- Thứ hai, trong phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa nội dung thế giới
quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện chứng duy vật), do đó nó không
dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.

II. CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm liên hệ và mối liên hệ
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến:
+ Quan điểm siêu hình cho rằng, sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập, tách biệt
nhau, giữa chúng không có sự liên hệ hoặc nếu có thì đó chỉ là liên hệ bề ngoài, thụ
động, một chiều, giữa các hình thức liên hệ không có chuyển hoá lẫn nhau.
+ Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng, mối liên hệ là phạm trù triết học
dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới.
Ví dụ:
- Tự nhiên – xã hội – con người
- Môi trường – Con người
c. Tính chất của mối liên hệ
- Mối liên hệ phổ biến mang tính khách quan, nó là cái vốn có của sự vật, hiện
tượng.
- Mối liên hệ mang tính phổ biến, thể hiện ở chỗ:
+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác, không
có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
+ Mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo từng
điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối
liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
- Mối liên hệ mang tính đa dạng, phong phú, vì thế hình thức liên hệ giữa chúng
cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào vị trị, phạm vi, vai trò, tính chất mà
phân chia ra thành những mối liên hệ khác nhau như: Mối liên hệ bên trong; bên
ngoài; mối liên hệ bản chất - không bản chất; mối liên hệ trực tiếp – gián tiếp... Nhưng
sự phân chia này cũng chỉ là tương đối.

26
d. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khi xem xét sự vật, hiện tượng cần phải có quan điểm toàn diện. Qua điểm này yêu
cầu:
+ Phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật và các khâu trung gian của
nó.
+ Phải nắm bắt và đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mặt, từng mối liên hệ trong
quá trình cấu thành sự vật
- Trong quan điểm toàn diện bao hàm cả quan điểm lịch sử cụ thể. Vì vậy, khi xem xét
sự vật, hiện tượng phảiđặt sự vật hiện tượng vào không gian, thời gian cụ thể..
2. Nguyên lý về sự phát triển
a. Khái niệm “phát triển”
* Quan điểm siêu hình cho rằng phát triển chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về mặt
số lượng hay khối lượng mà không có sự thay đổi về chất. Phát triển cũng như quá
trình chuyển lên liên tục,không có bước quanh co, thăng trầm phức tạp. Nguồn gốc
phát triển là do bên ngoài quy định.
* Quan điểm duy vật biện chứng phát triển là quá trình vận động tiến lên từ thấp
lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện tới hoàn thiện hơn.
- Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới.
b. Tính chất của sự phát triển
- Phát triển mang tính khách quan,nó là cái vốn có của bản thân sự vật hiện
tượng.
- Phát triển không chỉ là sự thay đổi về mặt số lượng hay khối lượng mà nó còn là
sự thay đổi về chất.
- Phát triển mang tính kế thừa nhưng trên cơ sở có sự phê phán, lọc bỏ, cải tạo và
phát triển, không kế thừa nguyên xi hay lắp ghép từ cái cũ sang cái mới một cách máy
móc ,hình thức.
- Tùy vào từng sự vật, hiện tượng,quá trình cụ thể, phát triển còn bao gồm cả sự
thụt lùi đi xuống nhưng khuynh hướng chung là đi lên, là tiến bộ. Theo quan điểm duy
vật biện chứng thì khuynh hướng của sự phát triển diễn ra theo đường xoáy ốc.
- Nguồn gốc của sựu phát triển là ở trong bản thân sự vật hiện tượng, do mâu
thuẫn của sự vật hiên tượng quy định.

27
3.Ý nghĩa phương pháp luận:
Khi xem xét sự vật hiện tượng phải có quan điểm phát triển.
Yêu cầu của quan điểm phát triển:
+ Xem xét sự vật hiện phải đặt chúng trong sự vật động phát triển không
ngừng, vạch ra xu hướng biến đổi chuyển hóa của chúng.
+ Phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành nhiều giai đoạn.
Trên cơ sở đó tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy
sự vật phát triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó.

III. CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Cái chung và cái riêng
a. Phạm trù cái chung và cái riêng; cái đơn nhất
* Định nghĩa cái riêng
Trong Bút ký triêt học V.I.V.I.Lênin đã nhận xét rằng, “bất cứ cái riêng nào
cũng thông qua hàng nghìn sự chuyển hoá mà liên hệ với cái riêng thuộc loại khác”
(sự vật, hiện tượng, quá trình).
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiệng tượng, một
quá trình riêng lẻ nhất định.
Ví dụ: + 2 bông hoa hồng của cùg một cây cũng khác nhau về số lượng cánh,
chiều dài cánh hoa, vị trí tương quan giữa các cánh hoa, màu sắc...
+ 2 người cùng giới, thậm chí là song sinh cũng có những khác nhau về
một loạt tham số: trọng lượng, màu da, chiều cao, tính cách....
Tất cả những điểm khác nhau đó gọi là cái riêng của một sự vật hiện tượng,
một quá trình riêng lẻ nhất định.
* Định nghĩa cái chung
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
chung không những chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong
nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Ví dụ: + Nguyên tử của bất cứ nguyên tố hoá học nào cũng có nhân ở giữa và
các điện tử quay xung quanh nhân. Nhân nguyên tử của mọi nguyên tố hó học đều
được tạo bởi 2 loại hat: nơtron và proton.
+ Tất cả giới sinh vật (từ sinh vật có 1 tế bào (đơn bào) đến thực vật,
động vật và cả con người) đều tòn tại quá trình đồng hoá và dị hoá, đây là đặc trưng
của sự sống.

28
* Định nghĩa cái đơn nhất
- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những nét, những mặt, những
thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định nào đó và không được lặp lại ở bất
kỳ một kết cấu vật chất nào khác.
Ví dụ: Vân tay, tính cách của mỗi con người không ai giống ai....
* Định nghĩa cái đặc thù
- Cái đặc thù là phạm trù dùng để chỉ những thuộc tính, những đặc điểm,
những bộ phận giống nhau tồn tại ở một số sự vật, hiện tượng (không tồn tại ở tất cả
các sự vật hiện tượng).
Ví dụ: lao động, tư duy là những cái vốn chỉ tồn tại ở con người (động vật cấp
cao) chứ nó không tồn tại ở các loài sinh vật khác.
b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng và cái
đơn nhất
Vấn đề mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng là một trong những vấn đề quan
trọng nhất, khó khăn nhất của triết học nói riêng của sự nhận thức nhân loại nói chung.
Trong quá trình tìm lời giải cho vấn đề này, trong lịch sử triết học đã hình thành hai
phái rõ rệt đó là: phái duy thực và duy danh.
- Phái duy danh cho rằng chỉ có cái riêng mới tồn tại còn cái chung (khái niệm,
phạm trù) chỉ là những tên gọi trống rỗng do tư ưởng của con người sáng tạo ra.
- Phái duy thực cho rằng chỉ có cái chung mới tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức của con người, không phụ thuộc vào cái riêng, sinh ra cái riêng.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
đều tồn tại và khẳng định:
+ Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn
tại của mình. Điều này có nghĩa là không có cái chung trừu tượng, thuần tuý tồn tại
độc lập ở bên ngoài cái riêng.
Ví dụ: Chúng ta sẽ không có khái niệm sinh viên nếu không có từng sinh viên cụ
thể.
+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ đưa đến cái chung, không có cái riêng
nào tồn tại tác rời cái chung và cũng không có cái riêng nào là tồn tại vĩnh viễn.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ
phận nhưng là cái sâu sắc hơn cái riêng (ta nói cái chung là bộ phận của cái riêng
nhưng đây là bộ phận có tính chất bản chất chứ không phải là bộ phận hợp thành của
cái riêng, nó được xác định trong mối quan hệ cụ thể).
+ Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh thuộc tính, những
mối liên hệ tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền
với bản chất , quy định phương hướng tồn tại và phát triên của cái riêng.

29
+ Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá cho nhau trong quá trình phát
triển của sự vật.
+1. Sự chuyển hoá của cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của của quá trình cái
mới ra đời thay thế cái cũ
+2. Sự chuyển hoá của cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của cái cũ, cái lỗi thời
bị phủ định.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Muốn biết được cái chung, cái bản chất thì phải xuất phát từ cái riêng, từ
những sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
- Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung trong hoạt động thực tiễn,
phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
- Trong hoạt động thực tiễn thấy sự chuyển hoá nào có lợi chúng ta cần chủ
đọng tác động để nó sơm trở thành hiện thực.
2. Bản chất và hiện tượng
a. Phạm trù bản chất, hiện tượng
- Bản chất là một phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những thuộc tính,
những mối liên hệ tất nhiên, hợp thành một tổng thể thống nhất hữu cơ bên trong quy
định sự vận động và phát triển của sự vật.
- Hiện tượng là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, nhữn
mối liên hệ biểu hiện ra bên ngoài của một bản chất nhất định.
b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
* Tính chất
- Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái tạo nên bản
chất của một lớp sự vật nhất định, đồng thời là cái chung của sự vật đó. Tuy nhiên, không
phải cái chung nào cũng là cái bản chất, vì bản chất chỉ là cái chung tất yếu, quyết định sự tồn
tại và phát triển của sự vật.
- Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính quy luật. Nói đến bản chất của sự
vật là nói đến tổ hợp những quy luật quyết định sự vận động và phát triển của nó. Vì
vậy, bản chất là phạm trù cùng bậc với quy luật. Tuy bản chất và quy luật là những
phạm trù cùng bậc nhưng chúng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Quy luật là mối
liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi, lặp lại và ổn định giữa các hiện tượng hay giữa các
mặt của chúng. Còn bản chất là tổng hợp các mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở
bên trong sự vật, nghĩa là ngoài những mối liên hệ tất nhiên, phổ biến chung cho nhiều

30
hiện tượng nó còn bao gồm cả những mối liên hệ tất nhiên, không phổ biến, cá biệt
nữa. Như vậy, phạm trù bản chất rộng lớn và phong phú hơn phạm trù quy luật.
* Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng
- Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan. Bản chất và hiện tượng trong quá
trình tồn tại của mình, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn lẫn nhau. Bản chất bao giờ cũng
được bộc lộ ra thông qua hiện tượng. Còn hiện tượng bao giờ cũng là sự tồn tại thông
qua cái bản chất. Không thể có hiện tượng và bản chất tồn tại tách rời nhau.
- Tính thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Mỗi sự vật là một sự thống nhất
giữa bản chất và hiện tượng. Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo.
- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất là cái bên trong đối lập với hiện tượng là cái bên ngoài. Tuy nhiên,
không phải lúc nào cái bên ngoài cũng phản ánh cái bên trong, thậm chí có lúc nó
không chỉ phản ánh không đúng mà còn xuyên tạc bản chất (đây gọi là hiện tượng giả)
+ Bản chất là cái tương đối ổn định và hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
+ Bản chất là cái sâu sắc hơn hiện tượng và hiện tượng là cái phong phú
hơn bản chất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khẳng định bản chất là cái bên trong tương đối ổn định, còn hiện tượng là cái
bên ngoài thường xuyên biến đổi, phép biện chứng duy vật yêu cầu chúng ta trong
nhận thức không được dừng lại ở cái hiện tượng mà phải căn cứ, đi sâu vào bản chất.
- Khẳng định bản chất bao giờ cũng được bộc lộ ra thông qua cái hiện tượng, cho
nên muốn nhận thức được bản chất thì phải bắt đầu nhận thức cái hiện tượng. Tuy
nhiên, để nhận thức đúng cái bản chất thì cần phải phân loại các hiện tượng để gạt bỏ
các hiện tượng không phản ánh đúng bản chất, loại bỏ các hiện tượng giả.
3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
a. Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên
- Tất nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong
của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng
như thế chứ không phải khác.
- Ngẫu nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái không phải do bản thân kết cấu của sự
vật mà do các nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài
quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như
thế này, cũng có thể xuất hiện như thế khác.
b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
* Tính chất

31
Phạm trù cái tất nhiên và ngẫu nhiên có mối liên hệ với phạm trù cái chung, với tính
nhân quả và tính quy luật.
- Phạm trù tất nhiên với phạm trù cái chung. Phần lớn cái chung đều được quyết định
bởi bản chất nội tại, bởi quy luật bên trong của sự vật, nhưng cũng có cái chung không phải
như thế. Vì cái chung chỉ là những thuộc tính được lặp đi, lặp lại ở nhiều sự vật riêng lẻ. Vì
vậy, có cái chung là tất nhiên, nhưng cũng có cái chung là ngẫu nhiên.
- Phạm trù cái tất nhiên - ngẫu nhiên với tính nhân quả. Như đã nói ở trên, bất kỳ
hiện tượng nào cũng có nguyên nhân. Vì vậy, cái tất nhiên lẫn cái ngẫu nhiên đều có
nguyên nhân. Sự khác nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ, cái tất nhiên gắn liền với nguyên
nhân cơ bản nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là kết quả tác động của một số
nguyên nhân bên ngoài.
- Mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên với tính quy luật.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, những hiện tượng nào là tất nhiên thì phải tuân theo
quy luật, còn những hiện tượng nào là ngẫu nhiên thì không tuân theo quy luật. Quan điểm
này thật ra không đúng. Trên thực tế, cả cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên đều tuân theo quy
luật. Sự khác nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ, cái tất nhiên tuân theo quy luật được gọi là cái
quy luật động lực, còn cái ngẫu nhiên tuân theo quy luật khác được gọi là quy luật thống kê.
 Quy luật động lực là gì? Quy luật động lực là quy luật mà trong đó mối quan hệ
qua lại giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đơn trị, nghĩa là ứng với một nguyên
nhân thì có một kết quả xác định.
 Quy luật thống kê là gì? Quy luật thống kê là quy luật mà trong đó mối quan hệ
giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đa trị, nghĩa là ứng với một nguyên nhân thì có
thể có kết quả như thế này, cũng có thể có kết quả như thế khác.
* Mối quan hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách
quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người.
K.C.Mác đã viết, “lịch sử sẽ mang tính thần bí nếu những cái ngẫu nhiên không có tác
dụng gì cả. Những cái ngẫu nhiên này chính là một bộ phận trong tiến trình phát triển
chung, và sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào cái ngẫu nhiên, kể
cả những cái ngẫu nhiên rất nhỏ” (Ví dụ: cá tính của những người lãnh đạo phong trào).
- Tất nhiên và ngẫu nhiên bao giờ cũng tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ. Song, sự
thống nhất hữu cơ đó thể hiện ở chỗ, cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình
xuyên qua vô vàn cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất
nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên. Điều này giúp ta khẳng định, cái tất nhiên
là khuynh hướng của sự phát triển, nhưng khuynh hướng ấy mỗi khi bộc lộ mình thì bao giờ
cũng phải bộc lộ ra dưới hình thức ngẫu nhiên nào đó so với chiều hướng chung.

32
Ph.Ăngghenviết: “Cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những
ngẫu nhiên thuần tuý cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên lại là hình thức, dưới đó ẩn
nấp cái tất yếu”.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường
xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng chuyển hoá lẫn nhau,
tất nhiên biến thành ngẫu nhiên và ngược lại.
Chú ý: Ranh giới giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối. Thông qua
những mặt này cua quan hệ này thì biểu hiện là ngẫu nhiên nhưng thông qua những mặt
khác hay mối quan hệ khác thì lại biểu hiện là tất nhiên và ngược lại. Do vậy, chúng ta cần
tránh cái nhìn cứng nhắc khi xem xét sự vật và hiện tượng.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn ta cần dựa vào cái tất nhiên chứ không thể dựa vào cái
ngẫu nhiên. Nhưng không phải vì thế mà bỏ qua cái ngẫu nhiên, vì, tuy cái ngẫu nhiên
không chi phối sự phát triển của sự vật nhưng nó vẫn có ảnh hưởng đến sự phát triển ấy,
đôi khi có thể làm cho tiến trình phát triển bình thường của sự vật đột ngột biến đổi...
- Trong hoạt động thực tiễn ta cần dựa vào cái tất nhiên, thì nhiệm vụ của nhận
thức nói chung, của nhận thức khoa học nói riêng cần phải nhận thức cái tất nhiên.
- Vì cái tất nhiên không tồn tại dưới dạng thuần tuý mà bao giờ cũng bộc lộ ra
bên ngoài thông qua cái ngẫu nhiên, cho nên muốn nhận thức cái tất nhiên cần bắt đầu
từ cái ngẫu nhiên.
- Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại một cách thuần tuý mà bao giờ cũng là hình
thức trong đó ẩn nấp cái tất nhiên. Cho nên, trong hoạt động nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn không nên bỏ qua cái ngẫu nhiên mà bao giờ cũng phải chú ý tìm
ra cái tất nhiên ẩn dấu đằng sau cái ngẫu nhiên đó.
- Không phải cái chung nào đồng thời cũng là cái tất nhiên, cho nên vạch ra được
cái chung chưa có ý nghĩa là đã vạch ra được cái tất nhiên. Đó mới chỉ là một bước
trên con đường vạch ra cái tất nhiên mà thôi.
- Trong những điều kiện nhất định, cái tất nhiên có thể biến thành cái ngẫu nhiên
và ngược lại. Cho nên cần chú ý tạo ra những điều kiện cần thiết hoặc để ngăn trở hoặc
để sự chuyển hoá đó diễn ra tuỳ theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.

4. Nguyên nhân và kết quả


a. Phạm trù nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân là phạm trù để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra một biến đổi nhất
định.

33
- Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi do sự tác động lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng hoặc các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng gây ra. Kết quả
chỉ sự biến đổi do nguyên nhân gây ra.
b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
* Tính chất:
- Tính khách quan
- Tính tất yếu
- Tính phổ biến, lặp đi lặp lại
- Nguyên nhân khác nguyên cớ.
Nguyên cớ mang tính chủ quan dùng để che đậy những nguyên nhân. Nguyên cớ
là điều kiện là cái rất cần thiết để chuyển hoá nguyên nhân thành kết quả.
* Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân quyết định kết quả.
- Nguyên nhân có trước, sinh ra kết quả.
- Nguyên nhân thế nào thì sinh ra kết quả thế ấy.
Mối quan hệ nhân quả không chỉ đơn thuần là sự đi kế tiếp nhau về thời gian
(cái này có trước cái kia), mà là mối liên hệ sản sinh: cái này tất yếu sinh ra cái kia.
Cùng một nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả do nhiều
nguyên nhân sinh ra. Do đó, mối quan hệ nhân quả rất phức tạp. Trong trường hợp
nhiều nguyên nhân cùng tham gia sinh ra một kết quả, người ta chia ra các loại nguyên
nhân:
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài
+ Nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp
+ Nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
+ Kết quả tác động trở lại nguyên nhân
Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân theo hai hướng:
+ Thúc đẩy nguyên nhân.
+ Kìm hãm nguyên nhân.
Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất
định.
Nguyên nhân sinh ra kết quả, rồi kết quả lại tác động với sự vật, hiện tượng
khác và trở thành nguyên nhân sinh ra kết quả khác nữa. Do đó, sự phân biệt nguyên
nhân với kết quả chỉ có tính chất tương đối. Chẳng hạn, sự phát triển của vật chất là
nguyên nhân sinh ra tinh thần, nhưng tinh thần lại trở thành nguyên nhân làm biến đổi
vật chất.

34
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý
luận để giải thích một cách đúng đắn mối quan hệ nhân - quả; chống lại các quan điểm
duy tâm, tôn giáo về những nguyên nhân thần bí.
- Vì nguyên nhân quyết định kết quả nên muốn có một kết quả nhất định thì
phải có nguyên nhân và điều kiện nhất định. Muốn khắc phục một hiện tượng tiêu cực
thì phải tiêu diệt nguyên nhân sinh ra nó.
- Phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu giữ
vai trò quyết định đối với kết quả.
- Biết sử dụng sức mạnh tổng hợp của nhiều nguyên nhân để tạo ra kết quả nhất định.
- Biết sử dụng kết quả để tác động lại nguyên nhân, thúc đẩy nguyên nhân tích
cực, hạn chế nguyên nhân tiêu cực.
5. Nội dung và hình thức
a. Phạm trù nội dung và hình thức
* Định nghĩa
- Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự
vật.
- Hình thức là cách tổ chức, kết cấu của nội dung, là mối liên hệ ổn định giữa
các mặt, các yếu tố, bộ phận tạo thành nội dung.
Hình thức có hình thức bên trong và hình thức bên ngoài. Hình thức bên trong
quan trọng hơn hình thức bên ngoài.
Cần phân biệt cặp phạm trù nội dung-hình thức với cặp phạm trù bản chất-hiện
tượng.
b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
+ Nội dung và hình thức gắn bó với nhau trong mỗi sự vật. Không có nội dung
nào lại không có một hình thức nhất định. Cũng không có một hình thức nào lại không
chứa đựng một nội dung nhất định.
+ Nội dung quyết định hình thức. Bởi vì, mối liên hệ giữa những mặt, những
yếu tố, những bộ phận thì do chính những mặt, những yếu tố, bộ phận đó quyết định.
Hình thức phải phù hợp với nội dung. Tuy nhiên, sự phù hợp giữa hình thức với
nội dung không cứng nhắc. Cùng một nội dung nhưng trong những điều kiện tồn tại
khác nhau có thể có nhiều hình thức khác nhau.
+ Hình thức có tác động trở lại nội dung. Nếu hình thức phù hợp với nội dung
sẽ tạo điều kiện cho nội dung phát triển. Ngược lại, nếu hình thức không phù hợp với
nội dung sẽ cản trở sự phát triển của nội dung.
Ví dụ: sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đến sự phát triển của lực lượng
sản xuất.

35
+ Khi hình thức cũ, lỗi thời mâu thuẫn với nội dung mới. Cuộc đấu tranh giữa
nội dung và hình thức sẽ dẫn đến xóa bỏ hình thức cũ, thay bằng hình thức mới cho
phù hợp với nội dung mới. Đồng thời nội dung cũng được cải tạo lại. Lênnin: “Đấu
tranh giữa nội dung với hình thức, vứt bỏ hình thức, cải tạo nội dung”.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn, cần tránh sự tách rời giữa nội dung và hình thức.
- Vì nội dung quyết định hình thức cho nên khi xem xét sự vật, hiện tượng,
trước hết cần căn cứ vào nội dung của nó.
- Trong hoạt động thực tiễn, cần phải biết sử dụng nhiều hình thức để phục vụ
cho một nội dung nhất định.
- Cần thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức hoạt động cho phù hợp với
tình hình mới.
6. Khả năng và hiện thực
a. Định nghĩa
- Khả năng là cái chưa có, chưa tới, nhưng sẽ có, sẽ tới trong những điều kiện
nhất định.
- Hiện thực là cái đang tồn tại trong thực tế.
Hiện thực có hiện thực vật chất và hiện thực tinh thần.
Khả năng có khả năng tất nhiên và khả năng ngẫu nhiên. Khả năng còn được chia
ra: khả năng gần và khả năng xa.
b. Tính chất và mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
- Khả năng và hiện thực không tách rời nhau; chúng làm tiền đề cho nhau,
chuyển hóa lẫn nhau.
- Khả năng trong những điều kiện nhất định thì biến thành hiện thực. Hiện thực
mới lại mở ra khả năng mới.
- Cùng một điều kiện nhất định có thể tồn tại nhiều khả năng, chớ không phải chỉ
có một khả năng.
- Khả năng biến thành hiện thực cần phải có những điều kiện nhất định.
- Sự chuyển hóa khả năng thành hiện thực trong tự nhiên diễn ra một cách tự
phát, không cần có sự tham gia của con người. Trái lại, trong đời sống xã hội, khả
năng biến thành hiện thực phải thông qua hoạt động của con người.
c.Ý nghĩa phương pháp luận

36
+ Khả năng và hiện thực không tách rời nhau, nên trong hiện thực cần xác định
khả năng phát triển của sự vật, lựa chọn khả năng tất yếu và tạo điều kiện để thúc đẩy
sự vật tiến lên. Tranh thủ khả năng có lợi, đề phòng khả năng có hại.
+ Phân biệt khả năng với cái không khả năng; khả năng với hiện thực để tránh
rơi vào ảo tưởng.
+ Trong đời sống xã hội, để khả năng biến thành hiện thực cần phát huy tối đa
tính năng động chủ quan của con người. Cần có chính sách thích hợp để phát huy mọi
tiềm năng sáng tạo của nhân dân.

IV. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Quy luật là gì? Vai trò của con người đối với quy luật
* Quy luật là gì?
+ Theo quan điểm duy tâm, tôn giáo, quy luật là sự an bài của một lực lượng siêu
tự nhiên (Trời, Thượng đế) hoặc là mối liên hệ lặp đi lặp lại của những cảm giác của
con người.
+ Quan điểm duy vật biện chứng:
Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, tương đối ổn định và lặp đi lặp lại
của các mặt bên trong sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.
- Quy luật không phải là cái gì từ bên ngoài giới tự nhiên, từ bên ngoài sự vật áp
đặt cho sự vật, mà chính là mối liên hệ của sự vật, hiện tượng.
- Quy luật là mối liên hệ bản chất, chứ không phải bất cứ mối liên hệ nào. Mối
liên hệ hiện tượng không phải là quy luật.
- Quy luật là mối liên hệ tương đối ổn định
* Các loại quy luật:
- Xét trong từng lĩnh vực khác nhau của thế giới, người ta chia ra:
+ Quy luật tự nhiên
+ Quy luật xã hội
+ Quy luật tư duy
Quy luật tự nhiên và quy luật xã hội đều là quy luật khách quan không phụ thuộc
ý muốn chủ quan của con người. Tuy nhiên, quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy
luật của tư duy có sự khác nhau:
Quy luật tự nhiên phát huy tác dụng một cách mù quáng, không có ý thức, không
có mục đích.
Quy luật xã hội chỉ phát huy tác dụng thông qua hoạt động có ý thức, có mục
đích của con người. Tuy nhiên, quy luật xã hội cũng không phụ thuộc ý thức chủ quan
của con người.
Quy luật của tư duy là phản ánh quy luật khách quan vào trong đầu óc con người.

37
- Xét về phạm vi tác động của quy luật:
+ Quy luật đặc thù
+ Quy luật chung
+ Quy luật phổ biến.
Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy luật đặc thù và quy luật chung. Phép
biện chứng nghiên cứu những quy luật phổ biến, tức những quy luật chung nhất trong
tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Vai trò của con người đối với quy luật
Con người không thể tạo ra hay xóa bỏ quy luật khách quan, không thể bất chấp
hay làm trái quy luật khách quan.
Con người có thể nhận thức được quy luật và hành động phù hợp với quy luật.
Con người có thể vận dụng được quy luật một cách có kế hoạch, hạn chế mặt
tiêu cực, phát huy mặt tích cực của quy luật, hướng quy luật tự nhiên và xã hội vào
phục vụ sản xuất và cuộc sống của con người.
* Quan hệ giữa việc tuân theo quy luật khách quan và hoạt động tự do, sáng
tạo của con người (quan hệ giữa tất yếu và tự do)
Trong hoạt động, con người vừa phải tuân theo quy luật khách quan, vừa có tự do
sáng tạo trong hoạt động của mình.
Tự do sáng tạo không phải là làm trái với quy luật khách quan mà phải phù hợp
với chúng.
Khi con người chưa nhận thức được quy luật thì con người bị chi phối bởi cái tất
yếu mù quáng (tính quy luật khách quan mà con người chưa nhận thức được, nên
nhiều khi quy về thần thánh, số mệnh).
Càng nhận thức và vận dụng được quy luật khách quan thì con người càng thoát
khỏi sự chi phối của cái tất yếu mù quáng, càng phát huy được sự tự do sáng tạo trong
hoạt động của mình; thực hiện bước nhảy từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc
của tự do.
1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại
Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó nói lên cách
thức của sự phát triển.
a. Khái niệm chất, lượng
* Khái niệm “chất”
Chất là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật đó là cái gì,
phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
Chất là khái niệm triết học, là khái niệm rộng nhất, không đồng nhất với khái
niệm chất của các ngành khoa học cụ thể.

38
Chất xuất phát từ cấu trúc bên trong của sự vật và biểu hiện ra thông qua các
thuộc tính của sự vật.
Ví dụ: chất của nước do cấu trúc phân tử của nước là H 2O, khác với cấu trúc
phân tử của rượu là C2H5OH. Thuộc tính của nước và rượu khác nhau.
Chất là tổng hợp các thuộc tính, trong đó có thuộc tính cơ bản và thuộc tính
không cơ bản. Chỉ có thuộc tính cơ bản mới phân biệt chất. Sự phân biệt thuộc tính cơ
bản và thuộc tính không cơ bản chỉ có tính tương đối.
* Khái niệm “lượng”
Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, cường độ, trình độ,
tốc độ, v.v..
Lượng có thể đo được bằng con số. Tuy nhiên, sự vật phức tạp thì thông số về
lượng của nó cũng phức tạp; do đó để nhận thức được lượng của nó, phải sử dụng
nhiều con số thống kê và phải thông qua sự phán đoán, đánh giá của tư duy.
Ví dụ: Chẳng hạn, nếu chỉ xét GDP/đầu người, thì Việt Nam là nước kém phát
triển. Nhưng do xem xét trên nhiều mặt khác nữa, nên nước ta được xếp vào nhóm các
nước đang phát triển.
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có tính tương đối.
b. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
* Tính thống nhất giữa chất và lượng trong một sự vật
Chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chất nào có lượng đó;
lượng nào có chất đó. Chất và lượng có sự phù hợp với nhau. Sự phù hợp này diễn ra
trong một phạm vi, giới hạn nhất định gọi là “độ”. Độ là phạm vi, giới hạn trong đó
lượng đổi chưa làm chất thay đổi.
* Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất
Sự phát triển bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Lượng biến đổi trong phạm vi “độ”
chưa làm chất thay đổi.
Vượt quá độ, sự biến đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Chất cũ mất đi,
chất mới ra đời. Sự thay đổi về chất gọi là bước nhảy. Điểm diễn ra bước nhảy gọi là
điểm nút.

Một số ví dụ của Ph.Ăngghen: CH 4 là chất khí. Cứ mỗi lần thêm một lượng CH 2
thì ta có một chất khí mới. Nếu thêm mãi đến C16H34 thì ta được một chất rắn.
“Hai người lính Mamelúc thì trội hơn hẳn 3 người lính Pháp; 100 người lính
Mamelúc và 100 người lính Pháp thì ngang nhau; 300 người lính Pháp thì thường
thường trội hơn 300 người lính mamelúc ; và 1000 người lính Pháp thì bao giờ cũng
đánh bại được 1500 người lính Mamelúc” (Tập 20, tr.184).

39
* Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về chất thành những sự thay
đổi về lượng
Chất mới ra đời thúc đẩy quá trình biến đổi về lượng với quy mô và tốc độ cao
hơn. Bởi vì, trong phạm vi chất cũ, lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định thì bị
chất cũ kìm hãm. Do đó, thay chất cũ bằng chất mới là phá bỏ sự kìm hãm đó. Mặt
khác, chất mới cần được kết hợp với lượng mới.
* Bước nhảy và các hình thức của bước nhảy
Bước nhảy là sự thay đổi về chất từ chất cũ sang chất mới.
Bước nhảy có nhiều hình thức đa dạng phong phú tùy theo bản chất của sự vật và
điều kiện tồn tại của sự vật.
Người ta chia bước nhảy thành:
Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần
Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Giúp ta hiểu được cách thức của sự phát triển. Chống lại các quan điểm duy tâm,
siêu hình.
Quan điểm siêu hình:
- Chỉ thừa nhận sự thay đổi về lượng, phủ nhận sự thay đổi về chất; không thừa
nhận cái mới, cái tiến bộ tất yếu thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
- Cho rằng cái mới ra đời là ngẫu nhiên, hoặc do nguyên nhân bên ngoài.
Trong hoạt động thực tiễn muốn có chất mới, cần phải có quá trình tích lũy về
lượng. Cần chống khuynh hướng bảo thủ trì trệ, tranh thủ tạo ra những bước nhảy để
thúc đẩy sự vật phát triển tiến lên. Đồng thời phải chống lại bệnh chủ quan nóng vội,
duy ý chí, thực hiện bước nhảy khi chưa có sự chín muồi về lượng và bất chấp những
điều kiện tồn tại cụ thể của sự vật, hiện tượng.
Kết hợp tinh thần cách mạng với tính khoa học nghiêm túc
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Tất cả mọi sựu vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong, quá trình đấu
tranh của các mặt đối lập hay là quá trình giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực
bên trong của sự vận động và phát triển.
Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật duy vật. Nó nói
lên nguồn gốc, động lực của sự phát triển. V.I.Lênin gọi quy luật này là hạt nhân của
phép biện chứng.
a. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
* Mâu thuẫn và mâu thuẫn biện chứng

40
- Khái niệm mâu thuẫn: Mâu thuẫn là sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập
(hai mặt đối lập là một mâu thuẫn)
- Khái niệm mâu thuẫn biện chứng:
Sự vật, hiện tượng càng có cấu tạo phức tạp thì càng tạo ra càng nhiều mâu thuẫn.
Nhưng cũng chỉ có một mâu thuẫn cơ bản nhất định quy định tính chất, xu hướng của
sự vật, hiện tượng đó.
* Tính khách quan, phổ biến và tính đa dạng của các loại mâu thuẫn
Quan điểm siêu hình không thừa nhận mâu thuẫn khách quan của sự vật, hiện
tượng; cho rằng mâu thuẫn chỉ có tính chất chủ quan, trái tự nhiên.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mâu thuẫn tồn tại khách quan phổ biến
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ví dụ: Trong tự nhiên, đó là mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm;
giữa sức hút và sức đẩy; đồng hóa và dị hóa ; di truyền và biến dị; giống đực và giống
cái; sống và chết. Trong xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp bị bóc lột với giai cấp bóc lột;
giữa thiện và ác; giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa hòa bình và chiến tranh. Trong tư duy,
đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; giữa biện chứng và siêu
hình; vô thần và hữu thần; chân lý chân lý và sai lầm.
b. Quá trình vận động của mâu thuẫn
* Sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập
- Khái niệm mặt đối lập:
Mặt đối lập là những mặt có thuộc tính, khuynh hướng vận động trái ngược
nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau, nhưng tồn tại gắn bó với nhau trong một thể
thống nhất hợp thành một mâu thuẫn.
Ví dụ: Hoạt động của hệ thần kinh: hưng phấn và ức chế là hai mặt đối lập của
cùng một hiện tượng
Trong tư duy quá trình nhận thức cũng luôn tồn tại hai mặt: chân lý và sai lầm.
+ Mặt đối lập có thể là bản thân những thuộc tính, khuynh hướng đối lập, cũng có
thể là những yếu tố, bộ phận, sự vật trong đó chứa những thuộc tính, khuynh hướng đối
lập.
+ Một mâu thuẫn bao gồm hai mặt đối lập có mối liên hệ với nhau.
+ Hai mặt đối lập của một mâu thuẫn vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau.
 Thống nhất của các mặt đối lập là sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, làm tiền
đề tồn tại cho nhau, quy định lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
 Đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ gạt bỏ, phủ định, chống đối nhau
của các mặt đối lập.
 Thống nhất của các mặt đối lập là tương đối. Đấu tranh của các mặt đối lập là
tuyệt đối.

41
 Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quá trình phát triển từ thấp đến cao.
+ Lúc đầu chỉ là sự khác nhau của các mặt. Về sau sự khác nhau biến thành sự
đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập từ chỗ chưa gay gắt đến chỗ gay gắt hơn.
+ Trong quá trình đấu tranh của các mặt đối lập, mâu thuẫn thường xuyên được
giải quyết, nhưng đó chỉ là sự giải quyết cục bộ; mâu thuẫn được giải quyết, nhưng
được tái tạo trên cơ sở mới.
+ Chỉ đến khi mâu thuẫn phát triển đến trình độ chín muồi thì nó mới có thể được
giải quyết triệt để hoàn toàn.
Sự giải quyết mâu thuẫn không chỉ phụ thuộc vào bản chất và trình độ chín muồi
của mâu thuẫn, mà còn phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể nhất định của sự tồn tại
của nó.
* Vai trò của mâu thuẫn đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật
- Mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
Nếu sự vật là một thể đồng nhất thì không thể có một sự biến đổi nào có thể tự
diễn ra bên trong sự vật. Chính vì có sự tác động lẫn nhau của các mặt đối lập bên
trong sự vật mà sự vật không ngừng biến đổi về kết cấu và tính chất.
- Đấu tranh của các mặt đối lập dẫn đến sự giải quyết mâu thuẫn làm cho sự vật
không ngừng đổi mới. Mâu thuẫn cơ bản của sự vật được giải quyết tạo ra bước nhảy
của sự vật: sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
- Thông qua sự đấu tranh của các mặt đối lập, những gì lạc hậu, lỗi thời bị loại
bỏ; cái mới, cái tiến bộ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
* Các loại mâu thuẫn
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện
tượng.
+ Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập của các sự vật khác
nhau. Sự phân biệt giữa hai loại mâu thuẫn này chỉ có tính chất tương đối.
Mâu thuẫn bên trong giữ vai trò quyết định sự phát triển của sự vật, hiện tượng .
Mâu thuẫn bên ngoài rất quan trọng nhưng không quyết định.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn xuất phát từ bản chất của sự vật, hiện tượng; tồn
tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng; quy định sự phát triển của sự vật,
hiện tượng; là cơ sở nảy sinh và tồn tại của các mâu thuẫn khác.
Ví dụ: trong CMDTDC, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản là: 1) Mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân, đế quốc; 2) Mâu thuẫn giữa nông dâm lao
động với bọn địa chủ, phong kiến.

42
Hai mâu thuẫn này quy định bản chất của xã hội Việt Nam lúc bấy gời là một xã
hội thuộc địa nửa phong kiến và hai nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng là phản đế,
phản phong. Trong từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta cũng xác định mâu thuẫn chủ yếu
và đề ra nhiệm vụ trung tâm cho thời kỳ đó.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn phát triển
của sự vật, hiện tượng; giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong giai đoạn đó. Mâu thuẫn không chủ yếu thì không giữ vai trò quyết định.
Nghiên cứu mâu thuẫn cơ bản giúp ta nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng;
xác định nhiệm vụ chiến lược cơ bản lâu dài cho cách mạng.
Nghiên cứu mâu thuẫn chủ yếu giúp ta xác định nhiệm vụ trung tâm trước mắt
cần tập trung sức giải quyết, kẻ thù trước mắt cần tập trung sức đánh đổ.
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
+ Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội có
lợi ích cơ bản (sống còn) mâu thuẫn với nhau, không thể điều hòa được. Đó là mâu
thuẫn giữa giai cấp bị bóc lột với giai cấp bóc lột; giữa các dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa đế quốc.
+ Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội có
lợi ích cơ bản nhất trí với nhau, chỉ đối lập ở những lợi ích không cơ bản.
Mâu thuẫn đối kháng chỉ có thể giải quyết bằng bạo lực cách mạng, lật đổ sự
thống trị của giai cấp bóc lột. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn trong nội bộ
nhân dân nên chỉ có thể giải quyết bằng con đường không bạo lực: bằng cạnh tranh
lành mạnh; bằng giáo dục, thuyết phục; bằng đấu tranh phê bình, tự phê bình, v.v..
Trong điều kiện giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã nắm trong tay chính quyền
nhà nước, những mâu thuẫn đối kháng có thể giải quyết bằng con đường hòa bình.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Nghiên cứu quy luật mâu thuẫn giúp ta hiểu được nguồn gốc, động lực của sự tự
thân vận động, tự thân phát triển của sự vật, hiện tượng. Chống quan điểm duy tâm, siêu
hình tìm nguồn gốc vận động, phát triển từ bên ngoài, từ những nguyên nhân thần bí.
- Xác định mâu thuẫn là hiện tượng tất yếu khách quan (chấp nhận mâu thuẫn để
tìm cách giải quyết mâu thuẫn, thúc đẩy sự vật phát triển tiến lên.
- Nắm vững mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu để xác định nhiệm vụ chiến
lược cũng như nhiệm vụ trung tâm trước mắt cho từng thời kỳ cách mạng.
- Có cách giải quyết thích hợp với bản chất của từng mâu thuẫn, trình độ chín
muồi và điều kiện tồn tại của mâu thuẫn.
Mâu thuẫn kinh tế, mâu thuẫn chính trị, mâu thuẫn tư tưởng; mâu thuẫn đối
kháng và mâu thuẫn không đối kháng có những cách giải quyết khác nhau. Giải quyết

43
mâu thuẫn không phải lúc nào cũng đồng nhất với xóa bỏ mâu thuẫn, mà trong đa số
trường hợp, mâu thuẫn được giải quyết bằng cách kết hợp hài hòa các mặt đối lập.
3. Quy luật phủ định của phủ định
Đây cũng là một trong 3 quy luật của phép biện chứng duy vật. Nó nói lên
khuynh hướng của sự phát triển.
Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
* Khái niệm
- Phủ định nói chung là sự bài trừ, bác bỏ sự vật nhất định nào đó. Nói cách
khác, phủ định là một quá trình vận động trong đó sự vật, hiện tượng này được thay
thế bởi sự vật, hiện tượng khác (đây là sự biến đổi nói chung).
- Nghiên cứu sâu vào quá trình phát triển của thế giới, phép biện chứng duy vật
cho rằng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi và
sự vật mới ra đời. Mỗi sự vật được thay thế ấy chính là mắt khâu trong sợi dây truyền
của sự phát triển của hiện thực và tư duy. Sự ra đời của cái mới là kết quả của sự phủ
định cái cũ, cái lỗi thời. Quá trình đó gọi là phủ định biện chứng.
Vậy phủ định biện chứng là gì? Phủ định biện chứng là quá trình tự phủ định,
tự phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ
hơn so với cái tự phủ định.
Có hai loại phủ định:
- Phủ định không biện chứng thực hiện do nguyên nhân bên ngoài, không có tính
tất yếu đối với quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, không có kế thừa.
- Phủ định biện chứng là sự thay thế cái cũ bằng cái mới tiến bộ hơn.
* Đặc trưng của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng gồm hai đặc trưng sau đây:
- Tính khách quan: Phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, là kết quà giải
quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật tồn tại khách quan
- Tính kế thừa: Đây là đặc trưng cơ bản nhất của phủ định biện chứng. Phủ định
biện chứng là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ, nhưng cái mới chỉ phủ định mặt
lạc hậu, lỗi thời của cái cũ, đồng thời kế thừa những giá trị của cái cũ. Do đó, phủ định
biện chứng là sự phủ định nhưng đồng thời cũng là sự khẳng định.
- Từ hai đặc trưng nêu trên của phủ định biện chứng chúng ta thấy nó đối lập hẳn
với quan điểm siêu hình. Quan điểm siêu hình cho rằng:
+ Phủ định đó là biến sự vật thành cái khác, đối lập với nó.
+ Đó là sự phủ định sạch trơn không kế thừa, không có trọn lọc
+ Nó là phủ định có thể là khách quan, có thể là chủ quan. Khách quan là tự thân
phủ định; còn cái bị các thế lực khác chi phối là phủ định chủ quan.

44
b. Phủ định của phủ định – hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển
- Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống
nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được
thực hiện sẽ mang lại những nhân tố mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần
phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.
Ví dụ: Tằm  Kén  Ngài (Bướm  Trứng  Tằm)
CSNT  CHNL  PK TBCN  CSCN
CNDV cổ đại  CNDV siêu hình  CNDVBC
- Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn bên
trong của sự vật. Mỗi lần phủ định là kết quả của đấu tranh và chuyển hoá của các mặt
đối lập trong bản thân sự vật, giữa mặt khẳng định và mặt phủ định.
- Phủ định biện chứng được hoàn thành trong một chu kỳ phát triển. Sự vật ở
điểm xuất phát ban đầu qua lần phủ định thứ nhất trở thành cái đối lập với nó - bước
trung gian của sự phát triển; lần phủ định thứ hai, tái lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở
cao hơn. Lần phủ định thứ hai được gọi là phủ định của phủ định.
Ví dụ: Hạt thóc  Cây lúa  Bông lúa
- Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới là kết quả tổng hợp tất cả
những yếu tố tích cực ban đầu đã được phát triển từ trong cái khẳng định ban đầu và cả
trong những cái phủ định tiếp theo. Do vậy, cái mới với tư cách là kết quả phủ định
của phủ định nó sẽ có nội dung toàn diện và phong phú hơn cái khẳng định ban đầu và
cái kết quả của lần phủ định thứ nhất.
- Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, ở đó
sự phát triển dường như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, đây là đắc điểm
quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng - điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển
đồng thời là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo.
- Phủ định của phủ định được hoàn thành trong chu kỳ phát triển, thông thường
mỗi chu kỳ trải qua hai lần phủ định. Tuy nhiên, thế giới tồn tại rất đa rạng, do đó, số
lần phủ định một chu kỳ có thể nhiều hơn. Nhưng trong số rất nhiều lần phủ định của
một chu kỳ chúng ta vẫn có thể khái quát lại hai lần: Phủ định lần thứ nhất chuyển cái
xuất phát thành cái đối lập mình; phủ định lần thứ hai chuyển cái trung gian thành cái
đối lập với nó, sự vật dường như lặp lại cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Sự
phát triển không phải diễn ra theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”
V.I.V.I.Lênin đã viết, “Sự phát triển dường như diễn lại những giai đoạn đã qua,
nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định); sự
phat triển có thể nói là đường xoáy trôn ốc chứ không theo đường thẳng”.

45
- Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường xoáy ốc chính là hình thức
biểu đạt rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa,
tính lặp lại nhưng không quay trở lại mà tiến lên của sự phát triển. Mỗi vòng mới của
đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như
quay trở lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng
thể hiện tính vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Giúp ta hiểu được khuynh hướng của sự phát triển: tiến lên theo đường trôn ốc,
cái mới, thay thế cái cũ.
- Khắc phục cách nhìn đơn giản về sự phát triển: phát triển theo đường thẳng,
đường tròn khép kín.
- Tin tưởng vào sự tất thắng của cái mới, vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. ủng hộ và tạo điều kiện cho cái mới, cái tiến bộ chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu.

V. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG


Lý luận nhận thức hay còn gọi là nhận thức luận được hình ngay từ khi triết học
mới ra đời. Nó nghiên cứu bản chất của nhận thức, những tính quy luật, những hình
thức, những giai đoạn, trình độ của nhận thức cũng như con đường đi đến chân lý
v.v.... Tất cả các trào lưu triết học đều xuất phát từ lập trường thế giới quan của mình
để đưa ra những hệ thống quan điểm nhất định về vấn đề nhận thức.
Xuất phát từ cách giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học, K.C.Mác đã
xem xét hoạt động nhận thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn, nên đã đưa ra được những
quan điểm đúng đắn về hàng loạt vấn đề phức tạp, nan giải của nhận thức, hình thành
nên lý luận nhận thức thật sự khoa học, một bộ phận quan trọng và không thể thiếu
được của triết học mácxít.
Bản chất của nhận thức
Nhận thức là gì? Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Đây
là một vấn đề rộng lớn của mọi triết học. Các quan điểm khác nhau có những cấu trả
lời khác nhau đối với vấn đề trên.
- Các nhà triết học duy tâm không thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập với ý thức
con người, do đó họ không thừa nhận nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan:
+ Đối với nhiều nhà duy tâm chủ quan, họ cho rằng, tất cả mọi cái đang tồn tại
đều là phức hợp những cảm giác của con người. Do đó, nhận thức chẳng qua là sự
nhận thức các cảm giác, biểu tượng của con người.
+ Nhiều nhà duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận thức
thế giới, song coi nhận thức cũng không phải là sự phản ánh hiện thực khách quan mà

46
chỉ là sự nhận thức ý niệm (Plato, Hegel), họ cho rằng tư tưởng tồn tại ở đâu đó ngoài
con người.
Plato coi tư tưởng chỉ là “sự hồi tưởng của linh hồn về những điều nó đã thấy và
đã trải qua khi còn ở thế giới bên kia – vương quốc của những tư tưởng và cái đẹp
thuần tuý”.
Những nhà duy tâm trong mọi thời đại đã bác bỏ lý luận phản ánh duy vật. Họ
cho rằng, nhận thức chỉ là một quá trình sản sinh ra tư tưởng từ trong chiều sâu ý thức
của chủ thể, là quá trình tự sinh của tri thức. Mặc dù vậy, chủ nghĩa duy tâm, bên cạnh
những sai lầm trong quan niệm về sự sáng tạo của thế giới là bởi tư tưởng, tinh thần,
họ cũng đã nói lên được tính tích cực, chủ động của ý thức, của trí tuệ con người, họ
thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người,
và thừa nhận thế giới đó như là nguồn gốc của nhận thức.
- Những người theo thuyết hoài nghi lại nghi ngờ tính xác thực của tri thức, biến
sự nghi ngờ thành một nguyên tắc nhận thức, thậm chí chuyển thành nghi ngờ sự tồn
tại của bản thân thế giới bên ngoài.
- Những người theo thuyết không thể biết lại phủ nhận khả năng nhận thức của
thế giới. Quan điểm của thuyết hoài nghi và thuyết không thể biết đã bị bác bỏ bởi
thực tiễn và sự phát triển nhận thức của xã hội loài người .
* Quan điểm về bản chất của nhận thức của K.C.Mác, Ph.Ăngghenvà
V.I.V.I.Lênin
- “Thế giới không có gì khác ngoài vật chất vận động và phát triển. Không phải ý
thức con người sản sinh ra thế giới vật chất như các nhà duy tâm quan niệm, mà ngược
lại, vật chất tồn tại độc lập với con người”. Vì vậy, nhận thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ óc của con người. Sự phản ánh đó không phải là hành động nhất thời,
máy móc, giản đơn và thụ động mà là một quá trình phức tạp của hoạt động trí tuệ tích
cực và sáng tạo.
- Một số nhà triết học phương Tây hiện đại thường tập trung phê phán lý luận
phản ánh của V.I.Lênin, họ cho rằng, khái niệm phản ánh đó không nói lên được tính
tích cực trong hoạt động nhận thức của con người.
Thực ra, trong khi khẳng định nhận thức là một quá trình phản ánh trong đầu óc
con người các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, lý luận nhận thức mácxít
không quan niệm đây là một sự tái hiện đơn giản, máy móc, nguyên xi mà là một sự
phản ánh mang tính chất tích cực, sáng tạo.
V.I.V.I.Lênin đã viết, “ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan,
mà còn tạo ra thế giới khách quan”.
Tính chất sáng tạo trong hoạt động phản ánh của con người được thể hiện qua
nhiều khía cạnh, nhiều mức độ; không chỉ tái hiện nguyên xi mà còn tiến hành phân

47
tích, tổng hợp để từ những nguyên liệu có sẵn trong thực tại khách quan, hình dung,
tưởng tượng ra những cái chưa có, nhưng cần có cho con người; không chỉ phản ánh
cái bên ngoài, những mối liên hệ đơn nhất, ngẫu nhiên mà cả cái bên trong, những mối
liên hệ phổ biến mang tính quy luật. Đây là sự phản ánh riêng của con người, nó khác
hẳn với hành vi phản ánh của động vật.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”
V.I.V.I.Lênin đã nêu lên 3 kết luận được xem là cơ sở lý luận của lý luận nhận thức
duy vật biện chứng:
1. Có những sự vật tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta, ở ngoài chúng ta.
2 . Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác nhau nào về nguyên tắc
giữa “hiện tượng” và “vật tự nó”. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã được nhận thức và
cái chưa được nhận thức.
Kết luận này chính là sự khẳng định năng lực nhận thức thế giới của con người.
Với khẳng định trên đây, lý luận nhận thức mácxít khẳng định sức mạnh của con
người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan, bởi nhận thức của
con người là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách
quan. Nhờ có nhận thức, con người mới có ý thức về thế giới. Ý thức về cơ bản là quá
trình nhận thức về thế giới.
Thế giơi vật chất tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với ý thức của con
người, tác động vào giác quan sinh ra cảm giác, từ đó đi tới hình thành ý thức.
3. Nhận thức không phải là hành động tức thời, đơn giản,, máy móc và thụ động,
mà là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn ra theo
con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất
kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Vì vậy, “trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác của
khoa học, cần suy luận một cách biện chứng. Nghĩa là đừng giả định rằng, nhận thức
của chúng ta là bất di, bất dịch và có sẵn rồi; mà phải phân tích sự hiểu biết sinh ra từ
sự không hiểu biết như thế nào? Sự hiểu biết không đầy đủ, không chính xác như thế
nào?
1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
* Khái niệm thực tiễn
- Các nhà duy vật trước K.C.Mác đã có công lao to lớn trong việc phát triển thế
giới quan duy vật, và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể

48
biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm. Như K.C.Mác đã chỉ rõ:
“Khuyết điểm chủ yếu, từ trước cho đến nay của mọi chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ
nghĩa duy vật của Feuerbach) là không thấy được vai trò của thực tiễn” (t1, 252).
+ Feuerbach đã có đề cập đến thực tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như
là hoạt động vật chất cảm tính, có tính năng động của con người. Do đó, ông coi
thường hoạt động thực tiễn, xem thực tiễn là cái gì đó có tính chất con buôn bẩn thỉu,
ông không hiểu được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với việc nhận thức và cải tạo
thế giới. Feuerbach viết: “Con người có vừa đủ các giác quan cần thiết để có thể hiểu
được toàn bộ thế giới một cách đại thể” hay như “chúng ta đọc cuốn sách của giới tự
nhiên bằng giác quan ... nhưng chúng ta không dùng giác quan để hiểu nó được”.
+ Khi đề cập đến “ý niệm thực tiễn”, Hegel đã có tư tưởng hợp lý, sâu sắc: bằng
thực tiễn, chủ thể của tự “nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ
với thế giới bên ngoài. Song, do quan niệm duy tâm nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý
niệm, ở hoạt động tư tưởng, đối với ông thực tiễn là một “suy lý lôgíc”.
- Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm của
các nhà triết học trước mình về thực tiễn K.C.Mác và Ph.Ăngghenđã đem lại một quan
niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối
với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào
lý luân của mình K.C.Mác và Ph.Ăngghenđã thực hiện một bước chuyển biến cách
mạng trong lý luận nói chung và lý luận nhận thức nói riêng.
V.I.V.I.Lênin đã nhận xét, “quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân con người.
* Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Nói đến thực tiễn, trước hết ta phải nói đến hoạt động vật chất (khách quan tồn
tại), hoạt động thực tiễn có nhiều hình thức khác nhau, trong đó phải kể đến ba hình
thức cơ bản sau đây:
- Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn,
có vai trò quyết định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn.
- Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội: Đây là hình thức cao nhất của hoạt
động thực tiễn.
- Quan sát và thực nghiệm khoa học: Nó được xem là khâu tring gian giữa người
nghiên cứu khoa học và ứng dụng vào trong thực tế. Đây là khâu quan trọng nhất trong
các khâu của hoạt động thực tiễn khoa học.
* Hoạt động mang thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội:

49
- Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử nó khác nhau về tính chất, khác nhau về
hình thức biểu hiện, nó khác nhau về nội dung.
- Thực tiễn là một hoạt động mang tính xã hội, nhưng không phải hoạt động cá
nhân nào cũng mang tính thực tiễn.
- Hoạt động thực tiễn bao giờ cũng mang tính cách mạng, đó là hoạt động cải tạo
thế giới và cải tạo chính bản thân con người.
Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức thức tồn tại cơ bản của con người
và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với thế
giới.
b. Nhận thức và các trình độ nhận thức
* Khái niệm nhận thức
* Định nghĩa nhận thức:
Nhận thức là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào trong bộ não
người. Đó là sự phản ánh năng động, sáng tạo, dựa trên hoạt động tích cực của chủ
thể trong mối quan hệ với khách thể.
* Các giai đoạn của quá trình nhận thức:
Quá trình nhận thức của con người và loài người nói chung trải qua hai giai
đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức thức lý tính.
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn đầu của quá trình nhận
thức, là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động, hiện thực khách quan vào các giác
quan của con người. Nhận thức cảm tính bao gồm các hình thức là: cảm giác, tri giác
và biểu tượng.
- Cảm giác là gì? Cảm giác là hình thức đầu tiên của phản ánh hiện thực khách
quan. Sự vật, hiện tượng tác động vào giác quan gây nên sự kích thích của tế bào thần
kinh làm xuất hiện các cảm giác. Cảm giác là sự phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của
sự vật, hiện tượng thông qua các giác quan của con người.
- Tri giác là gì? Tri giác là sự phản ánh nhiều thuộc tính của sự vật, hiện tượng
trong sự liên hệ giữa chúng với nhau. Tri giác được hình thành từ nhiều cảm giác kết
hợp lại. Tri giác là sự phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng thông qua giác quan
của con người.
- Biểu tượng là gì? Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự vật
do tri giác đem lại. Biểu tượng là hình ảnh được lưu giữ trong chủ thể khi không còn
sự vật, hiện tượng hiện diện trực tiếp trước chủ thể.
Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng), đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình
nhận thức, đây là giai đoạn phản ánh trình độ cao, nó không dừng lại ở cái bề ngoài, cái
hiện tượng mà nó là sự phản ánh bên trong, mối liên hệ bản chất. Chính vì vậy mà nó

50
phản ánh, vạch ra được quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức lý tính gồm ba giai đoạn cơ bản sau: Khái niệm, phán đoán và suy lý:
- Khái niệm là gì? Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy phản ánh một cách
tương đối đầy đủ và có hệ thống về bản chất, quy luật của đối tượng và thường được
biểu đạt bằng ngôn ngữ dưới dạng những thuật ngữ.
- Phán đoán là gì? Là sự liên hệ giữa các khái niệm theo một quy tắc xác định
mà chúng ta có thể xác định được trị số lôgíc của nó.
- Suy lý là gì? Là một thao tác của tư duy để đi đến những tri thức mới từ
những tri thức đã có.
* Các cấp độ nhận thức:
- Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực
tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội, hay trong các thí nghiệm khoa
học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm.
- Nhận thức lý luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ
thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.
 Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác
nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau.
+ Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, nó cung cấp cho nhận
thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể; bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết,
khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm chỉ dừng lại ở cấp độ
mô tả, phân loại các sự kiện... Do đó, nó chỉ mang lại những hiểu biết rời rạc, riêng lẻ,
chưa phản ánh được cái bản chất, mối liên hệ của sự vật, hiện tượng.
+ Nhận thức lý luận không hình thành một các tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm.
Do tính đối lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm,
hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh
nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống
con người. Thông quan đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể,
riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, cái phổ biến.
- Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành một cách tự
phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện
tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của
sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với
những quan niệm sống thực tế hàng ngày.
- Nhận thức khoa học: là nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián
tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên
cứu. Nhận thức trừu tượng vừa có tính khách quan, vừa có tính trừu tượng, khái quát
lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực.

51
 Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về
chất của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau:
+ Nhận thức thông thường là chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học.
Song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, cái
không bản chất của đối tượng. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải có
quá trình tổng kết, trừu tượng hoá, khái quát hoá đúng đắn của các nhà khoa học.
+ Khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó sẽ tác động trở lại đối với nhận thức
thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường
phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới.

c. Vai trò của thực tiễn với nhận thức

* Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức


- Nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức, điều này có nghĩa là, không chỉ thông qua
hoạt động thực tiễn, thông qua sự tác động của chủ thể và khách thể khi đó các sự vật,
hiện tượng mới bộc lộ những thuộc tính vốn có của nó, nhờ vậy chúng ta mới nhận
thức được sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Khoa học nói riêng và tri thức của con người nói chung nó bắt nguồn từ
thực tiễn, thông qua quá trình sản xuất. Nhưng đến lượt nó những tri thức khoa học đó
lại trở lại phục vụ cho thực tiễn, phục vụ sản xuất, phục vụ đấu tranh của xã hội.
- Nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì, thông qua sự tác động, giác quan của
con người ngày càng hoàn thiện hơn, nhờ vậy mà nhận thức của con người ngày càng
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn.
* Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức
Chúng ta nói thực tiễn là động lực của quá trình nhận thức là vì, thực tiễn luôn đề
ra những nhu cầu, những nhiệm vụ mới cho quá trình nhận thức. Thực tiễn cũng luôn
luôn vận động, luôn biến đổi, do vậy, mỗi bước tiến, thay đổi của thực tiễn nó lại đặt
ra cho nhận thức những vấn đề phải giải quyết.
* Thực tiễn là mục đích của quá trình nhận thức
Ta nói rằng, thực tiễn là mục đích của quá trình nhận thức theo nghĩa nhận thức
phải phục vụ thực tiễn.
* Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính chân lý trong quá trình phát triển nhận
thức
Chúng ta nói rằng, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý theo nghĩa, thực tiễn là
thước đo cái tính chân thực, cái tính giá trị của những tri thức mà con người đạt được
trong quá trình nhận thức.

52
Lưu ý: Chúng ta nói rằng, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý nhưng đây không phải
là tiêu chuẩn duy nhất, điều này cho thấy chân lý còn có nhiều tiêu chuẩn khác nữa.
Ví dụ: Cùng một vấn đề ngoài thực tiễn nhưng người này trình bày thuyết phục,
người khác thì không. Điều này nó phụ thuộc vào tư duy logic của mỗi người trình
bày.
Chúng ta nói thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý nhưng tiêu chuẩn đó vừa có tính
xác định lại vừa có tính không xác định. ...
* Tính thống nhất biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức
- Lý luận chính là kết quả trực tiếp của quá trình tư duy trừu tượng, vai trò của lý
luận là rất quan trọng đối với thực tiễn, cụ thể là nó nâng hoạt động thực tiễn từ tự phát
lên thành tự giác. V.I.V.I.Lênin đã từng nói: “Không có lý luận cách mạng sẽ không có
phong trào cách mạng” hay “thực tiễn mà không có chân lý là thực tiễn mù quáng”.
- Lý luận và thực tiễn được xem là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác. Thực
tiễn không thể không có lý luận và lý luận phải lấy thực tiễn làn chân lý.
* Nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận
Theo quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người phản ánh
một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội. Quá
trình nhận thức thực tiễn diễn ra không giản đơn, thụ động, máy móc, nhận thức không
có sẵn, bất di bất dịch và là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người
một cách năng động, sáng tạo, biện chứng. Đó là quá trình đi từ không biết đến biết, từ
biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ không đầy đủ và không chính xác trở thành
đầy đủ hơn và chính xác hơn.
2. Chân lý và vai trò của chân lý với thực tiễn
* Khái niệm chân lý
Chân lý (truth: sự thật) là tri thức của con người về thế giới khách quan có nội
dung phù hợp với thế giới đó và đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
* Các tính chất của chân lý: tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ
thể.
Tính khách quan: Nội dung tri thức trong chân lý phù hợp với hiện thực khách
quan, không phải là tư tưởng thuần túy chủ quan. Chân lý khách quan là chân lý không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, loài người.
V.I. V.I.Lênin viết: “Xét theo quan điểm thứ nhất, - quan điểm của thuyết bất
khả tri , hay đi xa hơn nữa, quan điểm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, thì không thể
có chân lý khách quan. Xét theo quan điểm thứ hai, tức là quan điểm của chủ nghĩa
duy vật, thì chủ yếu là thừa nhận chân lý khách quan” (Tập 18, tr.147).
“Thừa nhận chân lý khách quan - đứng trên quan điểm lý luận duy vật về nhận
thức, thì cũng như nhau thôi” (Tập 18, tr.152).

53
Chân lý khách quan là chân lý duy nhất (trong trường hợp cụ thể nhất định chỉ có
một điều đúng, không thể có nhiều chân lý).
Tính cụ thể : Chân lý bao giờ cũng gắn liền với những điều kiện cụ thể nhất
định. Vượt ra ngoài những điều kiện cụ thể đó thì những tri thức vốn là chân lý có thể
trở thành sai lầm.
Tính tương đối và tính tuyệt đối: là hai mặt của một chân lý cụ thể. Một chân
lý cụ thể vừa có tính tuyệt đối (vì nếu áp dụng trong điều kiện cụ thể của nó thì nó luôn
luôn đúng và không bao giờ trở thành sai lầm), vừa có tính tương đối (vì nó chưa đầy
đủ, chưa toàn diện, nếu ấp dụng trong điều kiện khác thì sẽ trở thành sai lầm).
Như vậy, không thể có chân lý vĩnh cữu, tức chân lý bất di bất dịch. Tư duy con
người trong quá trình tiến lên vô cùng tận ngày càng tiệm cận đến chân lý tuyệt đối,
chứ không bao giờ có thể đạt được một cách đầy đủ, hoàn toàn.
V.I. V.I.Lênin: “Như vậy là theo bản chất của nó, tư duy của con người có thể
cung cấp và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng
số những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm
những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối, nhưng những giới hạn chân lý
của mọi định lý khoa học đều là tương đối, khi thì mở rộng ra, khi thì thu hẹp lại, tùy
theo sự tăng tiến của tri thức” (Tập 18, tr.158).
* Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
- Các quan điểm không đúng
+ Quan điểm của R.Descartes: Tính rõ ràng, rành mạch của tư tưởng, không
gây ra bất cứ sự nghi ngờ nào (tính lôgíc).
+ Chủ nghĩa thực chứng: Chân lý là những gì được chứng thực bằng kinh
nghiệm cảm tính.
+ Chủ nghĩa thực dụng: sự thành công hay hiệu quả thực tế, đem lại lợi ích thiết thực.
- Quan điểm duy vật biện chứng :
Tiêu chuẩn của chân lý là hoạt động thực tiễn.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khác với quan điểm thực chứng
và quan điểm thực dụng:
+ Quan điểm thực chứng chỉ hạn chế tiêu chuẩn chân lý trong quan sát và thực
nghiệm khoa học, còn thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất của loài người, trong đó
thực nghiệm khoa học chỉ là một hình thức.
+ Quan điểm thực dụng hạn chế tiêu chuẩn của chân lý ở hiệu quả thực tế của
một công việc cụ thể; trái lại tiêu chuẩn thực tiễn của chủ nghĩa duy vật biện chứng là
hoạt động vật chất trong phạm vi rộng lớn và trong thời gian dài.

54
Chương III

CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

I. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT
1. Sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất
a. Khái niệm sản xuất vật chất và phương thức sản xuất
* Khái niệm sản xuất vật chất
- Sản xuất xã hội là gì? Sản xuất bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất ra tinh
thần và sản xuất ra con người. Ba quá trình này không tách rời nhau, trong đó sản xuất
vật chất giữ vai trò là cơ sở của tồn tại và phát triển xã hội, xét đến cùng nó quyết định
toàn bộ tồn tại xã hội.
- Sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng
công cụ lao động (tác động trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật
chất của giới tự nhiên, tạo ra của cải xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát
triển, nhu cầu phong phú và vô tận của con người.
* Khái niệm phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất, cách thức con người tiến hành sản xuất chính là sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương
ứng trong một giai đoạn lịch sử nhất định..
b. Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội
* Vai trò của sản xuất vật chất:
- Tạo ra các tư liệu sinh hoạt thoả mãn các nhu cầu của con người.
- Tạo ra các mặt của đời sống xã hội, tạo ra các quan hệ xã hội về Nhà nước,
pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật.
- Làm biến đổi tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
- Sự phát triển của sản xuất quyết định sự phát triển các mặt của đời sống xã
hội, quyết định xã hội từ thấp đến cao.
* Vai trò của phương thức sản xuất đối với trình độ và phát triển xã hội
- Sản xuất vật chất được thực hiện trong những điều kiện cụ thể về hoàn cảnh
địa lý, điều kiện tự nhiên; về điều kiện dân số và phương thức sản xuất. Trong đó
phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

55
- Phương thức sản xuất quyết định tính chất, kết cấu của xã hội. Bởi lẽ, trong
mỗi xã hội cụ thể, phương thức sản xuất thống trị như thế nào thì tính chất của chế độ
xã hội sẽ như thế ấy. Kết cấu của giai cấp, tính chất của mối quan hệ giữa các giai cấp
cũng như các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức v.v... suy cho cùng đều do
phương thức sản xuất quyết định.
- Khi phương thức sản xuất mới ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ lỗi thời thì
sớm hay muộn sẽ có sự thay đổi cơ bản từ kết cấu kinh tế đến kết cấu giai cấp; từ các
quan điểm chính trị - xã hội đến các tổ chức xã hội v.v... Vì vậy, lịch sử xã hội loài người,
trước hết là lịch sử sản xuất vật chất, các phương thức sản xuất kế tiếp nhau trong quá
trình phát triển.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất
a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Lực lượng sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất. (Là khái niệm để chỉ những phương thức kết hợp giữa
người lao động với TLSX trong sản xuất vật chất)
Với ý nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con
người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nói cách khác, trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất nó thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, bao gồm:
+ Người lao động với những kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, tri thức, kinh nghịêm nhất
định có khả năng sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật
chất.
+ Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
+ Đối tượng lao động là những vật mà người lao động tác động vào để tạo ra
của cải vật chất.
+ Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và những phương tiện lao động khác,
là những vật hay phức hợp những vật mà người lao động sử dụng để tác động vào đối
tượng lao động.
- Các yếu tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong
đó người lao động đóng vai trò quyết định, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn
nhân loại là công nhân, là người lao động”.
- Trong tư liệu sản xuất, công cụ lao động là yếu tố cơ bản đóng vai trò quyết
định. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được

56
vật thể hoá”, nó có tác dụng “nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ” của con
người trong quá trình lao động sản xuất.
- Ngày nay, khoa học – công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Những thành tựu của khoa học – công nghệ được ứng dụng nhanh chóng và rộng
rãi vào sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự xâm nhập ngày
càng sâu của khoa học – công nghệ vào quá trình sản xuất đã làm cho lực lượng sản
xuất có bước phát triển nhảy vọt.
* Quan hệ sản xuất và ba mặt của quan hệ sản xuất
Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có mối quan hệ cới tự nhiên mà
con có mối quan hệ với nhau. Khái quát mối quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất, triết học Mác - Lênin gọi đó là quan hệ sản xuất.
Vậy, quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất.
Đây không phải là quan hệ tình cảm, quan hệ tinh thần, mà đây là những quan
hệ được hình thành một cách khách quan (quan hệ vật chất). Đây là quan hệ cơ bản
nhất, nó quy định các quan hệ xã hội khác.
- Quan hệ sản xuất bao gồm:
Quan hệ sản xuất

Quan hệ về chiếm Quan hệ về quản lý và Quan hệ về phân


hữu tư liệu sản xuất phân công lao động phối sản phẩm
+ Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất.
Có hai hình thức chiếm hữu cơ bản: Chiếm hữu xã hội (công hữu)

Chiếm hữu tư nhân (tư hữu)


+ Quan hệ giữa người với người trong việc quản lý và phân công lao động.
+ Quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm. Trong lịch sử đã có
những hình thức phân phối như: phân phối bình quân, phân phối theo tư liệu sản xuất,
phân phối theo lao động, v.v..
- Các mặt hợp thành quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó quan
hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, ai nắm được tư liệu sản
xuất trong tay người đó sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân
phối sản phẩm lao động.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

57
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại khồn tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng,
tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất của lực
lượng sản xuất.
Phù hợp là gì? Phù hợp là sự thích ứng tương dối tạm thời, thoảng qua của
QHSX với LLSX, và đây là mối quan hệ luôn vận động và biến đối không ngừng, cái
không phù hợp bị cái phù hợp phủ định…đây là sự phát triển theo con đường xoáy ốc.
* Trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất
- Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao
động, trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân
công lao động xã hội, trình độ ứng dụng của khoa hhọc vào quá trình sản xuất. Như
vậy, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như thế nào nó sẽ phản ánh tính chất
của lực lượng sảm xuất như thế ấy.
- Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và sức lao
động. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì
lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hiện đại,
phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất ngày càng có tính chất xã
hội hoá.
* Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
- Trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của nó. Do đó, trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định.
- Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách
mạng nhất. Bởi vì, trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc, và đạt được
năng xuất, hiệu quả cao hơn, con người luôn tìm cách không ngừng nâng cao trình độ
của mình, cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động
mới ngày càng tinh xảo hơn, vì thế, làm cho lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi
và phát triển.
- Cùng với sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
mới hình thành, biến đổi và phát triển theo:
+ Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và theo kịp, phù hợp với trình độ
phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất
tiếp tục phát triển.
+ Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi nhưng nó không theo kịp, không
phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành
“xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hảm lực lượng sản xuất phát triển. Khi mâu
thuẫn này đạt đến độ chín muồi thì quan hệ sản xuất cũ sẽ bị xoá bỏ và thay thế vào đó

58
là một quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát triển và tính chất
của lực lượng sản xuất. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay thế vào đó là một
quan hệ sản xuất tiến bộ hơn, cũng có nghĩa là sự diệt vong của cả một phương thức
sản xuất cũ, lỗi thời và thay thế vào đó là một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.
Như vậy, lực lượng sản xuất là nguyên nhân, là nội dung sinh động đòi hỏi
quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và phát triển cho phù hợp với trình độ phát triển
và tính chất của lượng sản xuất.
* Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển và tính
chất của lực lượng sản xuất
Mặc dù quan hệ sản xuất do lực lượng sản xuất quy định, nhưng nó cũng có vai
trò nhất định trong sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để
phát triển; do đó, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Tác
động đó diễn ra theo hai hướng:
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ lực lượng sản xuất.
- Kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất không phù
hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
K.C.Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, ... mâu
thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn
phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy
trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc
cách mạng xã hội” (Tuyển tập.tII, 638-639).
Tác dụng kìm hãm của lực lượng sản xuất không chỉ trong trường hợp quan hệ
sản xuất lạc hậu so với trình độ lực lượng sản xuất, mà cả trong trường hợp có những
yếu tố của quan hệ sản xuất vượt trước trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Sở dĩ quan hệ sản xuất đóng vai trò tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực
lượng sản xuất là vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản
xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân thối sản phẩm. Từ đó nó hình
thành nên một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hảm sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển chẳng những do yếu tố nội tại của nó, mà
còn do sự tác động của quan hệ sản xuất. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác
động đến toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động này đã đưa xã hội loài người
trải qua các phương thức sản xuất khác nhau từ thấp đến cao.

59
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Phát triển lực lượng sản xuất: công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng lực
lượng sản xuất tiên tiến. Coi trọng yếu tố con người trong lực lượng sản xuất.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát huy mọi tiềm năng vốn
có của lực lượng sản xuất ở nước ta.
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò chủ
đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Nâng cao sự quản lý của Nhà nước đối với các
thành phần kinh tế; đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

II. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG


TẦNG
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng
* Khái niệm cơ sở hạ tầng
Quan điểm duy tâm, siêu hình coi xã hội là con số cộng đơn giản giữa người
với người, giữa người với vật; trái lại, triết học mácxít coi xã hội là tổng hợp những
quan hệ giữa người với người, trong đó quan hệ kinh tế là nền tảng của xã hội và là cơ
sở của tất cả các quan hệ xã hội khác.
- Cơ sở hạ tầng là gì? Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp
thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
(Kết cấu hạ tầng là những yếu tố gắn kết CÁC yếu tố của LLSX chứ nó không
phải là CSHT)
K.C.Mác đã viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy, hợp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý,
chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.
* Kết cấu của cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng bao gồm nhiều kiểu quan hệ sản xuất:
- Quan hệ sản xuất thống trị
- Quan hệ sản xuất tàn dư
- Quan hệ sản xuất mầm mống
Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò quyết định.
b. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
* Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v… cùng với các thiết chế xã hội tương ứng như

60
nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội … hình thành trên một cơ sở xã hội
nhất định.
* Các yếu tố cơ bản hợp thành kiến trúc thượng tầng của xã hội
- Những tư tưởng xã hội về chính trị, pháp quyền, triết học, khoa học, đạo đức,
nghệ thuật, tôn giáo.
- Những thiết chế tương ứng với những tư tưởng đó (nhà nước, các tổ chức
chính trị, văn hóa, các tổ chức tôn giáo, v.v..)
* Nhà nước – bộ máy tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội có đối kháng giai cấp
Bộ phận có quyền lực đặc biệt nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có
đối kháng giai cấp là Nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị xã hội về chính trị,
pháp lý. Chính nhờ có Nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được
toàn bộ đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị được về mặt kinh tế và nắm giữ quyền
lực nhà nước thì hệ tư tưởng cùng với những thiết chế xã hội của giai cấp ấy cũng giữ
địa vị thống trị, nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng phát triển của toàn bộ
đời sống tinh thần của xã hội và quyết định cả tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ
kiến trúc thượng tầng của xã hội.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của
xã hội
a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết
thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng nào thì nảy sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy.
- Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm vị trí thống trị về kinh tế thì cũng
chiếm địa vị thống trị về đời sống chính trị.
- Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét đến cùng nó sẽ quyết định mâu thuẫn
trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
- Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp hay gián tiếp phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Vai trò quyết định của cơ sở hạ
tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm
hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. Sự thay đổi đó không chỉ
diễn ra trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế -
xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
- Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất
phức tạp. Trong đó có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng
với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp quyền.... nhưng cũng có những yếu
tố thay đổi chậm hơn rất nhiều so với sự biến đổi của cơ sở hạ tầng như tôn giáo, nghệ
thuật, hoặc có những yếu tố tiếp tục tồn tại dai dẳng ngay cả khi cơ sở kinh tế nảy sinh ra

61
nó không còn tồn tại và có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng được kế thừa trong xã
hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó thông qua đấu tranh giai cấp và cách
mạng xã hội.
b. Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính
độc lập tương đối trong quá trình vận động và phát triển của cơ sở hạ tầng. Sự tác động
trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện chức năng xã hội của
kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó,
chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ
có thể đứng vững được trong quan hệ thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng
cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
- Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở
hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động
khác nhau. Trong xã hội có giai cấp thì nhà nước là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất
đối với cơ sở hạ tầng, vì đó là bộ máy bạo lực, tập trung quyền lực của giai cấp thống
trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, nghệ
thuật .... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng những cách khác nhau. Thường
những tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp quyền thì mới phát huy được hiệu
lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với toàn xã hội.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai hướng:
+ Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó
là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
+ Còn ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế, kimg hãm sự phát
triển của xã hội. Nhưng sự kìm hãm đó chỉ là tạm thời, sớm hay muộn, bằng cách này
hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng
mới phù hợp với yêu cầu của cơ sở hạ tầng.
- Trong bản thân kiến trúc thượng tầng cũng diễn ra quá trình biến đổi, phát
triển có tính chất tương đối. Qúa trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác
động của nó đối với cơ sơ hạ tầng càng có hiệu quả.

III. TỒN TẠI XÃ HỘI QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC XÃ HỘI VÀ TÍNH ĐỘC
LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
* Khái niệm tồn tại xã hội và các nhân tố cơ bản cấu thành tồn tại xã hội
- Khái niệm: Về khái niệm tồn tại xã hội cũng có một số khái niệm khác nhau.

62
+ Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện vật chất của xã hội, được đặt trong
phạm vi thực tiễn của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Điểm hạn chế của khái niệm trên là phạm vi phản ánh, ngoại diên của khái niệm
hẹp hơn so với cái cần khái quát. Họ chỉ đưa ra những điều kiện vật chất nên có những
hiện tượng trong đời sống xã hội khái niệm này không thể giải thích được.
+ Tồn tại xã hội là toàn bộ nhữn điều kiện vật chất cùng với những quan hệ
vật chất được đặt trong phạm vi hoạt động thực tiễn của con người trong một giai
đoạn lịch sử nhất định.
- Tồn tại xã hội bao gồm nhiều yếu tố:
+ Phương thức sản xuất vật chất;
+ Điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý;
+ Dân số và mật độ dân cư;...
Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quyết định, hai yếu tố còn lại
có vai trò quan trọng. Ngoài các yếu tố cơ bản trên, khi nói tới tồn tại xã hội cần phải
lưu ý tới các quan hệ vật chất khác như quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc tế.
* Khái niệm ý thức xã hội và cấu trúc của ý thức xã hội (tâm lý xã hội và hệ
tư tưởng xã hội; các hình thái ý thức xã hội).
- Khái niệm ý thức xã hội
Về khái niệm ý thức xã hội cũng tồn tại nhiều khái niệm khác nhau.
+ Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. (Khái niệm cũ)
Đây là khái niệm có ngoại diên quá rộng. Vì căn cứ theo khái niệm này ta thấy,
bản thân tâm lý sơ cấp của động vật nói chung, không chỉ có ở động vật mà còn có ở
con người. Tâm lý sơ cấp nó chưa phải, không phải là ý thức, đây chỉ là “mắt lưới” của
ý thức chứ chưa phải là ý thức. Tuy nhiên, nó cũng là một hoạt động tinh thần.
+ Ý thức xã hội là khái niệm chỉ các hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của
xã hội, phản ánh tông tại xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
+ Về mặt nội dung, ý thức xã hội gồm: tư tưởng, quan điểm, tâm trạng, tình
cảm, tập quán, truyền thống...
 Khái niệm ý thức nhằm trả lời cho câu hỏi: con người có nhận thức được thế
giới hay không?
 Khái niệm ý thức xã hội nhằm trả lời cho câu hỏi: con người đã nhận biết
được gì trong hiện thực,
 Với tư các là một phạm trù thì khái niệm ý thức đối lập với khái niệm vật chất.
 Với tư cách là một phạm trù thì khái niệm ý thức xã hội đối lập với khái niệm
tồn tại xã hội.
Để hiểu rõ hơn về ý thức xã hội, chúng ta cần phải phân biệt nó với ý thức cá nhân.

63
+ Khái niệm ý thức cá nhân: Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những
con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức của các cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với
mức độ khác nhau.
Chúng ta cần nhận thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức
cá nhân.
 Bản thân ý thức xã hội không nằm ngoài ý thức cá nhân, không tồn tại có
tính chất trừu tượng, mà ý thức xã hội bao giờ cũng tồn tại thông qua ý thức cá nhân.
Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân là mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng. Về mặt bản chất thì ý thức cá nhân không thể không mang tính xã hội.
 Ý thức xã hội bao giờ cũng được biểu hiện và thông qua ý thức cá nhân
nhưng không phải ý thức cá nhân nào cũng là ý thức xã hội. Nó không gia nhập hết
vào ý thức xã hội. Vì vậy, ta phải bảo vệ, tôn trọng và phát triển tính sáng tạo của ý
thức cá nhân. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý thức cá nhân tiêu cực cần được dẹp bỏ.
Tóm lại, ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ, biện
chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau.
- Kết cấu của ý thức xã hội
Khi nói về kết cấu của ý thức xã hội chúng ta tiếp cận theo 2 cấp độ:
+ Tiếp cận theo các hình thái ý thức, ý thức xã hội bao gồm: ý thức chính trị,
pháp quyền, triết học, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học, thẩm mỹ ... Đây là cách tiếp cận
theo “lát cắt dọc”. Nghĩa là ta tiếp cận các hình thái ý thức xã hội theo nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội.
+ Tiếp cận ý thức xã hội theo trình độ phản ánh. Cách tiếp cận này gồm 2 cấp độ:
 Ở cấp độ thấp: ý thức xã hội thể hiện ra là ý thức sinh hoạt thông thường
(đời thường). Đây là những tri thức, những quan niệm của con người được hình thành
một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái
quát hoá, đó mới chỉ là những tri thức mang tính kinh nghiệm, phản ánh những cái bề
ngoài, cái không bản chất. Bộ phận quan trọng của nó là tâm lý xã hội.
Tâm lý xã hội là gì? Tâm lý xã hội là một bộ phận của ý thức sinh hoạt đời
thường, nó là biểu hiện của những hoạt động và cử chỉ của con người. Tâm lý xã hội
xã hội bao gồm: tình cảm, tâm trạng, truyền thống, thói quen, nguyện vọng, ý thích, thị
hiếu... riêng của mỗi người trong một hoàn cảnh nào đó.
 Ở cấp độ cao: Ý thức xã hội được thể hiện ra ở ý thức lý luận. Ý thức lý luận
là những tri thức của con người đã được hệ thống hoá, khái quát hoá thành những tư
tưởng, học thuyết và nó được thể hiện thông qua các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nó
mang tính bản chất và thể hiện năng lực tư duy của con người. Bộ phận quan trọng
nhất của ý thức lý luận là hệ tư tưởng.

64
Hệ tư tưởng là gì? Hệ tư tưởng là nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ
thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo)
kết quả của sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành
một các tự giác bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định.
Giữa ý thức thông thường và ý thức lý luận là mối quan hệ biện chứng giữa một
cái cao và thấp trong quá trình phản ánh.
Mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
 Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có sự khác nhau nhưng giữa chúng đều có điểm
giống nhau. Cả tâm lý xã hội và hệ tư tưởng đều có nguồn gốc chung đó là phản ánh
tồn tại xã hội.
 Mặc dù đều có nguồn gốc chung nhưng sự phân biệt rạch ròi giữa tâm lý xã
hội và hệ tư tưởng là rất cần thiết. Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng là hai phạm trù khác
nhau về chất. Tâm lý xã hội ở trình độ thấp, còn hệ tư tưởng ở trình độ cao. Tuy nhiên,
tâm lý xã hội không thể trở thành hệ tư tưởng được. Tình cảm xã hội và lý tưởng xã
hội là cầu nối cho mối quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Tình cảm xã hội và
tâm lý xã hội luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau.
b. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
K.C.Mác viết: “...không thể nhận định được về thời đại đảo lộn như thế căn cứ
vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn
của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và
những quan hệ sản xuất xã hội” (Toàn tập, tập 3, tr.15).
- Tồn tại xã hội là cơ sở, là nguồn gốc khách quan và là nguồn gốc duy nhất của
ý thức xã hội, nó làm hình thành và phát triển ý thức xã hội. Còn ý thức xã hội chỉ là
sự phản ánh tồn tại xã hội.
- Khi tồn tại xã hội thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
- Ta nói tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội là ta nói trong tất cả các bộ phận
của tồn tại xã hội đều có ảnh hưởng đến sự thay đổi của ý thức xã hội. Nhưng trong đó
phương thức sản xuất là yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất, trực tiếp nhất đến sự thay
đổi của ý thức xã hội. Có nghĩa là muốn thay đổi ý thức xã hội, muốn xây dựng ý thức
xã hội mới thì dứt khoát sự thay đổi và xây dựng đó phải dựa trên sự thay đổi của tồn
tại vật chất hay thay đổi bởi những điều kiện vật chất.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở những điểm sau đây:
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội

65
Lịch sử xã hội loài người đã cho thấy, nhiều khi xã hội đã mất đi, thậm chí mất
đi rất lâu nhưng ý thức xã hội do xã hội ấy sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng (truyền thống,
tập quán, thói quen...). Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do
những nguyên nhân sau đây:
- Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực
tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý
thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái
phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã
hội.
- Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán, cũng như do tính
lạc hậu bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
- Ba là, việc kế thừa ý thức xã hội, xét về góc độ xã hội: trong xã hội có giai cấp
thì giai cấp thống trị bao giờ nó cũng phải kế thừa ý thức của các thời đại trước, trong
quá trình kế thừa đó, giai cấp thống trị nó phải kế thừa những nội dung có lợi cho địa
vị và lợi ích của giai cấp mình. Cho nên, ngoài những nội dung có giá trị tiến bộ thì nó
còn có những nội dung không tiến bộ, phản khoa học, kéo lùi xã hội.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Tính vượt trước của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội thể hiện ở 2 khuynh hướng
sau:
- Ý thức xã hội có tính vượt trước so với tồn tại xã hội nhưng tính vượt trước
này lại dựa trên quy luật khách quan. Chính vì vậy, khuynh hướng này là khuynh
hướng tiến bộ, khoa học, nó định hướng tích cực cho hoạt động của con người.
- Khuynh hướng thư hai là dựa trên cái chủ quan – là sản phẩm của cái chủ
quan. Nó thường đem lại cho chúng ta nhứng ý thức khôg khoa học, thậm chí phản
khoa học.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
- Ý thức xã hội của một giai đoạn lịch sử nhất định bao giờ nó cũng là sự hợp
thành bởi ý thức xã hội của các thời đại trước với ý thức xã hội của thời đại đó. Điều
này cho thấy, không có sự kế thừa thì không có ý thức xã hội.
- Do ý thức xã hội có tính kế thừa nên xuất hiện hiện tượng: có thể về điều kiện
vật chất của xã hội nó đang còn thiếu, yếu, phát triển ở trình độ thấp, thế nhưng mộ bộ
phận nào đó trong lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội có thể phát triển ở trình độ
cao (tính kế thừa trong sự phát triển).
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội

66
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện của
tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái ý
thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực
tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
- Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy: thông thường ở mỗi thời đại, tùy
theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu
vầ tác động đến các hình thái ý thức xã hội khác.
Nhìn chung, để phản ánh tồn tại xã hội thì mọi hình thái ý thức xã hội đều phải
thông qua lăng kính của hình thái ý thức chính trị để phản ánh tồn tại xã hội. Tính giai
cấp của ý thức xã hội cũng phản ánh qua ý thức chính trị.
e. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Đây là biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là rất lớn. Tuy
nhiên, vai trò này không phải là cơ bản, mà hiệu quả của sự tác động còn phụ thuộc
vào những điều kiện sau đây:
- Phụ thuộc vào lực lượng xã hội, giai cấp đề ra những quan điểm, tư tưởng cho xã
hội.
- Phụ thuộc vào mức độ phù hợp ít hay nhiều của những tư tưởng đó đối với hiện
thực.
- Phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của những tư tưởng đó đối với nhu cầu phát
triển xã hội và vào mức độ mở rộng của tư tưởng đó trong quần chúng.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của các hình thái ý
thức xã hội cũng như đời sống tinh thần của xã hội nói chung. Nguyên lý này đã bác
bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Nghiên cứu ý thức xã hội không được dừng lại ở các hiện tượng ý thức mà
phải đi sâu nghiên cứu tồn tại xã hội.
- Muốn phát triển ý thức xã hội của một xã hội mới về lâu dài phải phát triển cơ
sở vật chất xã hội của nó.
- Phải thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của ý thức xã hội đối với quá trình
phát triển nền văn hoá mới và con người mới. Nói cụ thể hơn, đó chính là việc phát
huy, khai thác tính đa dạng, sáng tạo của ý thức xã hội để làm cho đời sống tinh thần
không bị tẻ nhạt, phát huy được tính chủ động của mỗi người.

67
IV. HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ-TỰ
NHIÊN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI
1. Khái niệm, kết cấu hình thái kinh tế-xã hội
a. Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội
Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất
tương ứng với những lực lượng sản xuất ở một trình độ phát triển nhất định và một
kiến trúc thượng tầng được dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó.
Xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội và tương ứng với 5
phương thức sản xuất: Cộng sản nguyên thủy  chiếm hữu nô lệ  phong kiến  tư
bản chủ nghĩa  cộng sản chủ nghĩa.

b. Kết cấu của hình thái kinh tế-xã hội


Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc, những cá nhân
riêng lẻ. Xã hội là một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp, trong đó có những mặt
cơ bản nhất là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt
đó có một vai trò nhất định và tác động đến các mặt khác tạo nên sự vận động của cơ
chế xã hội. Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh bằng khái niệm hình thái kinh tế -
xã hội.
- Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế -
xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau sẽ có những lực lượng sản xuất khác
nhau. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, xét đến cùng do
lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh tế -
xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Đây là quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định tất cả những quan hệ xã hội khác. Mỗi
hình thái kinh tế - xã hội lại có một quan hệ sản xuất của nó tương ứng với một trình
độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất đó là tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
- Kiến trúc thượng tầng. Những quan hệ sản xuất là bộ xương cơ thể xã hội hợp
thành cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở những quan hệ sản xuất đó hình thành nên những quan
điểm về chính trị, pháp lý, đạo đức, triết học ... và những thiết chế tương ứng hợp
thành kiến trúc tượng tầng xã hội mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và
phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Ngoài những mặt cơ bản nêu trên (lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng) thì hình thái kinh tế - xã hội còn có những quan hệ dân tộc, quan hệ

68
gia đình và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản
xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của các quan hệ sản xuất.
2. Quá trình lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội
a. Tính lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội
- Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển
nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế -
xã hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử đều
do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trìn lịch sử tự nhiên của xã hội.
Trên cơ sở phát hiện các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội,
K.C.Mác đã đi đến kết luận “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử - tự nhiên” (Tập 23, tr.21).
- Các mặt hợp thành của hình thái kinh tế - xã hội không tách rời nhau mà có
mối liên hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật vận động, phát triển
khách quan và phổ biến của xã hội. Đó là quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; quy luật cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác.
Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã
hội vận động và phát triển từ thấp đến cao như một quá trình lịch sử tự nhiên, không
phụ thuộc vào ý muốn của con người. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận
động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội thì sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định
nhất. Nó vừa đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển, vừa biểu hiện tính gián đoạn
trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
- Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội
phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao – đó là con đường phát triển chung của nhân
loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không bị chi phối bởi các quy luật
chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống
văn hoá, điều kiện quốc v.v... Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức
phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những nét độc đáo riêng trong sự phát triển
của mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao. Nhưng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Tuy nhiên, sự bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử tự nhiên chứ không
phải theo ý muốn chủ quan.
K.C.Mác đã từng lưu ý: “Một số dân tộc, một số quốc gia bỏ qua một vài giai
đoạn để đến với một giai đoạn xã hội cao hơn không phải là không có điều kiện mà nó
phải tuân thủ theo các điều kiện: Phương thức sản xuất định bỏ qua đã lạc hậu, lỗi thời;

69
phương thức mà xã hội ấy muốn thiết lập thì nó đã hình thành hoặc ít ra nó cũng đang
hình thành và tỏ rõ được tính ưu việt của nó; phải có sự giúp đỡ của quốc tế; ngoài ra
bản thân dân tộc đó phải có được lực lượng cách mạng - một chính đảng có đầy đủ
năng lực để lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng ấy.
Như vậy, quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng
những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua một
vài hình thái kinh tế - xã hội trong những điều kiện nhất định.

b. Giá trị lịch sử của học thuyết hình thái – kinh tế xã hội
- Là cơ sở lý luận để hiểu được cấu trúc và quy luật phát triển của xã hội loài
người
- Chống lại các quan điểm duy tâm, siêu hình về xã hội.
- Hiểu sự phát triển của xã hội như là quá trình lịch sử - tự nhiên.
V.I.V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác mở đường cho việc nghiên cứu rộng rãi và
toàn diện quá trình phát sinh, phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế-xã hội,
bằng cách xem xét toàn bộ những xu hướng mâu thuẫn nhau, bằng cách quy những xu
hướng ấy vào những điều kiện sinh hoạt và sản xuất đã được xác định rõ ràng của các
giai cấp trong xã hội, bằng cách gạt bỏ chủ nghĩa chủ quan và thái độ tùy tiện khi lựa
chọn những tư tưởng “chỉ đạo” hay khi giải thích những tư tưởng ấy, bằng cách vạch
ra nguồn gốc của mọi tư tưởng và của mọi xu hướng khác nhau trong trạng thái của
của lực lượng sản xuất vật chất, không trừ một tư tưởng, một xu hướng nào cả. Con
người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng cái gì quyết định những động cơ của con
người và của chính quần chúng nhân dân; nguyên nhân của những xung đột giữa
những tư tưởng mâu thuẫn và giữa những nguyện vọng mâu thuẫn là gì, toàn bộ những
xung đột ấy trong toàn thể xã hội loài người là như thế nào; những điều kiện khách
quan của sự sản xuất ra đời sống vật chất, tức là những điều kiện làm cơ sở cho mọi
hoạt động lịch sử của con người, là những gì, quy luật phát triển của những điều kiện
ấy là gì? Mác đã chú ý đến tất cả những vấn đề ấy và đã vạch ra con đường nghiên cứu
lịch sử một cách khoa học, coi lịch sử là một quá trình thống nhất và có quy luật, mặc
dù quá trình đó cực kỳ phức tạp và có rất nhiều mâu thuẫn.
- Nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế-xã hội giúp ta hiểu được đường lối và
chủ trương của Đảng ta trong việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để
xây dựng hình thái kinh tế-xã hội ở nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát
triển lực lượng sản xuất bằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng cơ sở hạ tầng
bằng chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây
dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bằng việc xây dựng nhà nước của dân, do

70
dân, vì dân, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động, v.v..
V. VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI
ĐỐI VỚI SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ ĐỐI KHÁNG GIAI
CẤP
1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã
hội có đối kháng giai cấp
a. Khái niệm giai cấp, tầng lớp xã hội
* Khái niệm giai cấp
- Định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin:
“Người ta gọi là giai cấp những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về
địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về
quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và
thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và
như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều
mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể
chiếm đọat lao động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế-xã hội nhất định”(tập 39, tr. 17-18).
- Theo V.I.Lênin, giai cấp có các đặc trưng sau:
+ Là những tập đoàn người to lớn trong xã hội, khác nhau về địa vị kinh tế. Có
giai cấp thống trị, có giai cấp bị thống trị trong nền kinh tế.
+ Các giai cấp có quan hệ đối khác nhau đối với tư liệu sản xuất: có giai cấp nắm
tư liệu sản xuất (giai cấp chủ nô, giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến, giai cấp tư sản).
Có giai cấp không có tư liệu sản xuất (giai cấp nô lệ, giai cấp nông nô, giai cấp vô
sản). Có giai cấp có ít tư liệu sản xuất.
+ Các giai cấp có vai trò khác nhau trong tổ chức lao động xã hội, tổ chức quản
lý sản xuất. Có giai cấp tổ chức, quản lý sản xuất. Có giai cấp chỉ làm thuê.
+ Các giai cấp có cách thức và quy mô hưởng thụ (thu nhập) khác nhau.
Sau khi nêu ra 4 đặc trưng về giai cấp, V.I.Lênin kết luận: Giai cấp là những tập
đoàn, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác. Đây là thực chất
của đối kháng giai cấp và nguyên nhân của đấu tranh giai cấp.
b. Nguồn gốc giai cấp
* Nguồn gốc giai cấp
- Trong xã hội nguyên thủy chưa có giai cấp vì lực lượng sản xuất quá thấp kém,
chưa có sự phân hoá giai cấp và chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó,
không thể tồn tại khả năng bóc lột sức lao động của người khác.

71
- Khi công cụ bằng kim loại thay thế công cụ bằng đá. Năng suất lao động tăng
lên. Tròng trọt, chăn nuôi ra đời và phát triển cùng với các ngành nghề thủ công khác.
Chế độ tư hữu ra đời thay thế chế độ công hữu.
- Trên cơ sở chế độ tư hữu diễn ra sự phân hóa thành giai cấp bóc lột và giai cấp
bị bóc lột. Chế độ chiếm hữu nô lệ là xã hội đầu tiên có giai cấp đối kháng. Sự hình
thành giai cấp diễn ra bằng hai con đường:
+ Sự phân hóa trong nội bộ thị tộc, bộ lạc thành giai cấp bóc lột thống trị và giai
cấp bị bóc lột, bị thống trị.
+ Chiến tranh cướp bóc là tăng thêm sự giàu có của giai cấp thống trị. Tù binh bị
bắt trong chiến tranh bị biến thành nô lệ.
* Kết cấu giai cấp:
- Trong một hình thái kinh tế-xã hội dựa trên chế độ tư hữu có một kết cấu giai
cấp nhất định. Khi hình thái kinh tế-xã hội này thay đổi thì kết cấu giai cấp cũng thay
đổi theo.
- Trong mỗi kết cấu giai cấp có những giai cấp cơ bản (do phương thức sản xuất
thống trị sinh ra) và những giai cấp và thành phần không cơ bản (tàn dư của phương
thức sản xuất cũ, mầm mống của phương thức sản xuất mới).
c. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có
đối kháng giai cấp
* Đấu tranh giai cấp nguyên nhân của đấu tranh giai cấp
- Đấu tranh giai cấp là gì ?
Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ
phận khác, là đấu tranh của những giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau, không thể
điều hòa được. Đó là cuộc đấu tranh của quần chúng thống trị, áp bức, bóc lột chống
lại giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột; là đấu tranh của giai cấp nô lệ chống giai cấp chủ
nô, của giai cấp nông nô chống giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến, đấu tranh của giai
cấp vô sản chống giai cấp tư sản.
Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội và kết quả cuối cùng của
đấu tranh giai cấp là sự diệt vong của cả hai giai cấp đấu tranh với nhau.
- Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp
+ Nguyên nhân sâu xa của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời.
+ Giai cấp bóc lột thống trị có lợi ích gắn liền với quan hệ sản xuất cũ, lỗi thời
nên tìm mọi cách bảo vệ, duy trì quan hệ sản xuất đó. Giai cấp bị thống trị, bị bóc lột
có lợi ích gắn liền với việc xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời nên tiến hành đấu tranh để
chống lại sự áp bức bóc lột và xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ lỗi thời, thay thế bằng quan
hệ sản xuất mới tiến bộ hơn.

72
- Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển lịch sử
Đấu tranh giai cấp là một động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng vì:
+ Đấu tranh giai cấp giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với quan
hệ sản xuất lỗi thời, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Đấu tranh giai cấp dẫn đến đỉnh cao là cách mạng xã hội, xóa bỏ quan hệ sản
xuất cũ, cơ sở kinh tế cũ, kiến trúc thượng tầng cũ đưa xã hội phát triển lên một hình
thái kinh tế-xã hội mới cao hơn.
+ Vai trò động lực của đấu tranh giai cấp thể hiện không chỉ trong thời kỳ cách
mạng, mà ngay cả trong thời kỳ hòa bình. Chẳng hạn, đấu tranh của giai cấp vô sản
trong xã hội tư bản, tuy chưa xóa bỏ được chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng đã buộc các
nhà tư bản phải cải thiện đời sống và điều kiện lao động của giai cấp công nhân; buộc
các nhà tư bản phải áp dụng khoa học-kỹ thuật vào trong sản xuất để tăng năng suất
lao động.
d. Ý nghĩa phương pháp luận
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lêninvề giai cấp và đấu tranh giai cấp là cơ
sở lý luận khoa học để hiểu thực chất của vấn đề giai cấp trong xã hội, hiểu được
nguồn gốc của những mâu thuẫn, xung đột, những cuộc đấu tranh v.v.. trong xã hội.
V.I.Lênin viết: “Ai cũng biết rằng, trong mọi xã hội, nguyện vọng của những kẻ
này thì ngược với nguyện vọng của những kẻ khác; rằng đời sống xã hội chứa đầy mâu
thuẫn;...Chủ nghĩa Mác đã cho ta cái kim chỉ nam để tìm ra những quy luật trong tình
trạng rối tung và hỗn độn bề ngoài ấy, đó là lý luận về đấu tranh giai cấp” (Tập, 26,
tr.69).
- Là cơ sở khoa học để phân định giai cấp trong xã hội, hiểu thái độ, động cơ
của từng giai cấp và xác định lực lượng, động lực của cách mạng.
- Tìm ra con đường đúng đắn, khoa học để xóa bỏ sự phân biệt giai cấp và đấu
tranh giai cấp, tiến tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, không có áp bức, bóc lột,
không còn đối kháng giai cấp và bạo lực, chiến tranh, đem lại hòa bình vĩnh viễn cho dân
tộc và nhân loại.
2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối
kháng giai cấp
a. Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của cách mạng xã hội
* Khái niệm cách mạng xã hội và khái niệm cải cách xã hội
- Khái niệm cách mạng xã hội
+ Theo nghĩa rộng:Cách mạng là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn
bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ hình
thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.

73
+ Theo nghĩa hẹp: Cách xã hội là việc lật đổ một chế chính trị đã lỗi, thiết lập
một chế độ chính trị tiến bộ.
- Khái niệm cải cách xã hội: Cải các xã hội là cách tạo ra những bước ngoặt,
tạo nên sự thay đổi về chất nhất định trong đời sống xã hội nhưng cải cách này nó
không làm thay đổi một cách triệt để về mặt chính quyền, nó chỉ tạo nên sự biến đổi
riêng lẻ, bộ phận chế độ xã hội đang tồn.
- Khái niệm đảo chính: Đảo chính là thủ đoạn giành quyền lực nhà nước bởi
một cá nhân hoặc một nhóm người. Nó không phải là phong trào cách mạng của quần
chúng. Cuộc đảo chính chỉ mang tính cách mạng khi nó hoà nhập được với phong trào
cách mạng trong xã hội.
- Khái niệm tiến hoá xã hội: Tiến hoá được xem như một quá trình biến đổi về
lượng, tích luỹ mà không có sự biến đổi về chất.
- Khái niệm cải lương: Đây là con đường mà những người theo chủ nghĩa cải
lương thực hiện nhằm biến đổi. Họ hy vọng làm biến đổi xã hội bằng con đường đấu
tranh nghị trường, xa rời đấu tranh bạo lực.
* Nguyên nhân của cách mạng xã hội: Cách mạng xã hội có nguyên nhân sâu
xa từ mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và biểu hiện về mặt xã hội của nó là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị
lỗi thời với giai cấp cách mạng (giai cấp bị thống trị). Khi mâu thuẫn này phát triển
đến độ gay gắt nó sẽ dẫn tới đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp ắt sẽ dẫn tới cách
mạng xã hội nhằm lật đổ chế độ xã hội lỗi thời và thay thế vào đó là một chế độ xã hội
mới tiến bộ hơn.
* Các loại hình cách mạng trong lịch sử:
- Cách mạng chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội cộng đồng nguyên thủy lên hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ.
- Cách mạng chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ lên hình thái
kinh tế - xã hội phong kiến.
- Cách mạng chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội phong kiến lên hình thái kinh tế
- xã hội tư bản chủ nghĩa.
- Cách mạng chuyển hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
b. Những điều kiện khách quan và chủ quan của một cuộc cách mạng xã hội
- Để một cuộc cách mạng xã hội có thể nổ ra được thì cần phải có sự chín muồi
về những điều kiện khách quan nhất định, gọi là tình thế cách mạng, bao gồm tình
trạng giai cấp thống trị không thể tiếp tục thống trị như trước nữa; chúng đã lâm vào
một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Giai cấp bị thống trị cũng không thể tiếp tục
sống như trước nữa, vì nổi cùng khổ, quẫn bách của họ đã đến mức nặng nề. Đồng thời

74
tính tích cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt: quần chúng sẵn sàng đứng lên làm
cách mạng.
- Ngoài ra còn phải có những điều kiện chủ quan nữa. Đó là năng lực tổ chức,
lãnh đạo của giai cấp cách mạng, nhất là có một chính đảng có đường lối chiến lược,
sách lược đúng đắn, có khả năng tập hợp, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đứng lên
làm cách mạng.
c. Đặc trưng của một cuộc cách mạng xã hội
Dấu hiệu dặc trưng của một cuộc cách mạng là sự chuyển chính quyền nhà nước
từ tay giai cấp thống trị lỗi thời sang tay giai cấp cách mạng đại diện cho phương thức
sản xuất mới cao hơn. Cùng với sự thay đổi chính quyền nhà nước là sự thay đổi cơ sở
kinh tế và kiến trúc thượng tầng của xã hội; xã hội thực hiện một bước nhảy từ hình
thái kinh tế-xã hội cũ lên hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn.
d. Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội
- Tính chất của cách mạng xã hội được xã định bởi nhiệm vụ giải quyết mâu
thuẫn kinh tế và xã hội tương ứng (mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị,
xoá bỏ xã hội cũ thiết lập xã hội mới tiến bộ hơn).
- Lực lượng của cách mạng là những giai cấp và tầng lớp nhân dân có lợi ích ít
nhiều gắn với cách mạng và thúc đẩy cách mạng phát triển.
- Động lực của cách mạng xã hội là những giai cấp có lợi ích gắn bó chặt chẽ và
lâu dài đối với cách mạng xã hội.
- Vai trò lãnh đạo cách mạng xã hội thuộc về giai cấp đứng ở trí trung tâm của
thời đại, giai câp đại biểu cho phương thức sản xuất mới.
e. Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
- Trong lĩnh vực kinh tế: cách mạng xã hội nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nó xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một kiểu
quan hệ sản xuất mới, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Trong lĩnh vực chính trị: Các cuộc cách mạng xã hội nhằm giải quyết mâu
thuẫn giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng cũ. Tức là thiết lập một kiểu kiến
trúc thượng tầng mới. Trước hêt là thay đổi bộ máy nhà nước, tạo điều kiện cho chính
quyền mới phát triển. Đồng thời với việc thay đổi kiến trúc thượng tầng cách mạng xã
hội còn thiết lập một nền dân chủ mới.
- Trên lĩnh vực văn hoá – tư tưởng: cách mạng xã hộ có nhiệm vụ xoá bỏ những
lạc hậu, bảo thủ, những tư tưởng không phù hợp với xã hội mới. Trên cơ sở đó xây
dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới nhằm phát triển xã hội.

75
f. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội có
đối kháng giai cấp
* Cách mạng xã hội là phương thức và động lực của sự vận động, phát triển
xã hội có đối kháng giai cấp
- Các nhà lý luận của giai cấp tư sản phủ nhận cách mạng xã hội. Họ cho rằng
xã hội có thể tiến hóa dần dần mãi mãi mà không cần đến cách mạng.
- Theo quan điểm mácxít, xã hội chỉ có thể tiến hóa trong phạm vi một hình thái
kinh tế-xã hội nhất định; nhưng đến một trình độ nhất định thì xã hội không thể tiếp
tục tiến hóa nữa. Do đó, cần phải có một cuộc cách mạng xã hội thì mới có thể tạo ra
bước nhảy đưa xã hội đi lên một trạng thái mới cao hơn.
- Trong phạm vị hình thái kinh tế - xã hội cũ, giai cấp thống trị mặc dù lỗi thời
nhưng vẫn tìm mọi cách, kể cả việc sử dụng công cụ bạo lực để duy trì quan hệ sản
xuất cũ và sự thống trị chính trị của nó,. Do đó, muốn thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng quan hệ sản xuất mới, thực hiện bước chuyển biến cơ bản và sâu sắc trong tất cả
các mặt của đời sống xã hội thì cần phải có một cuộc cách mạng xã hội.
VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON
NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN
1. Con người và bản chất của con người
a. Quan niệm về con người trong Triết học Phương đông
- Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh thần).
Cuộc sống vĩnh cửu là cõi Niết bàn, nơi linh hồn con người được giải thoát để trở
thành bất diệt.
- Khổng Tử: Bản chất của con người là do “thiên mệnh”, chi phối, đức “nhân”
là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là con người quân tử.
- Mạnh Tử: quy tính chất của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng
của phong tục, tập quán xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tư tưởng, rèn
luyện để giữ được đạo đức của mình.
- Tuân Tử: Ông cho rằng, bản chất của con người khi sinh ra là các, nhưng có
thể cải biến được, phải chống lại cái ác, con người mới tốt được.
- Đổng Trọng Thư: Là người kế thừa Nho giáo theo xu hướng duy tâm cực
đoan. Ông quan niệm Trời và Người có thể thông hiểu lẫn nhau (Thiên nhân cảm ứng).
Cuộc đời con người bị quyết định bởi “thiên mệnh”.
- Lão Tử: Con người được sinh ra từ “Đạo”. Vì vậy, con người cần phải sống
“vô vi” theo lẽ tự nhiên, không trái với tự nhiên.

76
Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đông biểu
hiện tính đa dạng và phong phú thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo
đức...
Nhìn chung con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm có pha
trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
b. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước K.C.Mác.
- Ky tô giáo: Ky tô giáo quan niệm con người có thể xác và linh hồn. Thể xác thì
mất đi nhưng linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc linh hồn để
hướng đến Thiên đường vĩnh của.
- Hy Lạp cổ đại: Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ bao la.
- Thời kỳ Trung cổ: Con người là sản phẩm sáng tạo của thượng đế. Cuộc sống
trần thế là tạm bợ, hạnh phúc là ở thế giới bên kia.
- Triết học Phục hưng: Con người là một thực thể có trí tuệ.
- Triết học cổ điển Đức: G.V.Hegel cho rằng, là hiện thân của “ý niệm tuyệt
đối”, còn L.Feuerbach lại cho rằng, con người là kết quả của sự phát triển của tự nhiên.
Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời.
Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước C.Mác, dù là đứng trên
nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đền không phản ánh đúng
bản chất con người. Nhìn chung các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu
tượng, hoặc là tuyệt đối hoá mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con người,
tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người.
c. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người.
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.C.Mác chỉ ra hạn chế của
Feuerbach trong việc xem xét con người như là một cơ thể sinh vật có ý thức và tình
cảm, như tình yêu, tình bạn, không thấy mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con
người. K.C.Mác vạch rõ: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng
hòa những mối quan hệ xã hội” (Toàn tập, tập 3, tr.11).
* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hộ
- Mặt sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật
sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người.
- Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã
hội, đời sống tinh thần của con người.
Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh
học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết
định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của
con người. Bởi mặt xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất.

77
Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội
của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quas trình hình thành và phát triển của
con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống
nhất với nhau:
- Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể
- Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức.
- Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.
Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời
sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
Bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình thành,
phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người.
* Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã
hội.
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.C.Mác khẳng định: “Trong tính
hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”.
- Luận đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôm cụ thể, xác định, sống trong một
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động
thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và
phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con
người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
- Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác - Lênin
không phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, triết học Mác - Lênin chỉ
muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết ở bản
chất xã hội.
* Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
- Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người.
Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
- Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự
nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội.
- Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của
chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử
của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống
đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn
cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách

78
tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau. Đó là biện
chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của
lịch sử xã hội loài người.
2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần
chúng nhân dân và cá nhân
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân là bộ phân có cùng chung lợi ích căn bản bao gồm
những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp liên kết lại thành tập thể dưới sự
lãnh đạo của một cá nhân, một tổ chức hay một đảng phái nhằm giải quyết những vấn
đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động, biến đổi theo sự phát
triển của lịch sử xã hội.
b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong
lịch sử
* Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát
triển của lịch sử
- Quần chúng nhân dân là người sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Hoạt
động sản xuất vật chất của họ là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần cho xã hội.
- Quần chúng nhân dân là chủ thể và là động lực của các phong trào xã hội.
- Lợi ích của quần chúng là điểm khởi đầu và cũng là mục đích cao nhất của
mọi phong trào cách mạng.
* Vai trò của cá nhân, vĩ nhân đối với sự phát triển của lịch sử
- Lãnh tụ là cá nhân kiệt xuất xuất hiện trong phong trào quần chúng nhân dân,
được quần chúng suy tôn làm người lãnh đạo phong trào quần chúng.
- Lãnh tụ là người có tri thức uyên bác, có tầm nhìn xa trông rộng, nắm được xu
thế phát triển khách quan của lịch sử, đề ra được đường lối chiến lược và sách lược
đúng đắn cho phong trào quần chúng.
- Lãnh tụ là người có năng lực tập hợp, thống nhất, tổ chức, lãnh đạo quần chúng,
thống nhất hoạt động của quần chúng nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề ra.
- Lãnh tụ là người có ý chí, quyết tâm cao, có đạo đức tiêu biểu, là hạt nhât
đoàn kết và tượng trưng cho ý chí và sức mạnh của phong trào quần chúng.
* Cá nhân và mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội
- Cá nhân là gì? Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã
hội nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính
phổ biến của nó.

79
- Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Cá nhân và xã hội có mối quan hệ khắng khít tác động lẫn nhau. Quan hệ về lợi
ích (trước hết là lợi ích kinh tế) là nền tảng của quan hệ cá nhân và xã hội.
+ Xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân, bởi vì:
 Sự hình thành nhân cách của cá nhân chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện
xã hội nhất định và phụ thuộc vào những điều kiện đó.
 Nhu cầu và lợi ích cá nhân chỉ hình thành và được thực hiện trong những điều
kiện xã hội nhất định.
+ Sự phát triển của cá nhân có tác động trở lại sự phát triển của xã hội:
 Cá nhân tích cực có vai trò thúc đẩy sự phát triển xã hội. nhất là những cá
nhân kiệt xuất (vĩ nhân) có vai trò rất to lớn trong sự phát triển xã hội. Nhân cách và
hoạt động của họ để lại dấu ấn rất sâu sắc trong lịch sử. Đó là những lãnh tụ cách
mạng, những tướng tài, những nhà triết học, khoa học, những tài năng nghệ thuật.
 Cá nhân tiêu cực có tác dụng kìm hãm sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, tác
dụng kìm hảm của họ chỉ có tính chất tạm thời, vì xã hội phát triển theo quy luật khách
quan không phụ thục ý chí cá nhân nào.
Trong các xã hội có giai cấp bóc lột, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có mâu
thuẫn gay gắt. Chủ nghĩa cá nhân, nhất là chủ nghĩa cá nhân cực đoan là một trở ngại
lớn cho sự phát triển xã hội. Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một xã hội, trong đó lợi
ích cá nhân và lợi ích xã hội được kết hợp hài hòa, tác động, thúc đẩy lẫn nhau cùg
phát triển.
* Ý nghĩa phương pháp luận.
- Hiểu được vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, tư đó xây dựng quan
điểm quần chúng: tôn trọng và tin tưởng vào sức mạnh và khả năng to lớn của quần
chúng, dựa vào quần chúng, phát huy nguồn sức mạnh tiềm tàng của quần chúng. Hiểu
được quan điểm của Hồ Chủ tịch và Đảng ta: coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, người cán bộ là đầy tờ trung thành của nhân dân.
- Hiểu được vai trò to lớn của lãnh tụ, lựa chọn lãnh tụ có đủ tài đức để lãnh đạo
phong trào. Tôn kính lãnh tụ, nhưng không được sùng bái cá nhân lãnh tụ. Tôn kính lãnh
tụ là tình cảm đạo đức đúng đắn, xuất phát từ chỗ hiểu biết tài năng, phẩm chất và cống
hiến của lãnh tụ. Trái lại, sùng bái cá nhân lãnh tụ xuất phát từ sự ngu dốt và mê tín, coi
lãnh tụ là thần thánh, làm cho lãnh tụ xa rời quần chúng, phạm sai lầm sai lầm không khắc
phục được.

80
MỤC LỤC
Chương mở đầu NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN........................................................................................................1
Phần thứ nhất THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRIẾT HỌC
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN................................................................................11
Chương I CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG..................................................11
Chương II PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT...............................................................24
Chương III CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ.........................................................55

81

You might also like