Professional Documents
Culture Documents
Bài Giảng Tâm Lý Học Lao Động-đã Chuyển Đổi
Bài Giảng Tâm Lý Học Lao Động-đã Chuyển Đổi
1.1.1. Nguồn gốc và quá trình phát triển của Tâm lý học lao động
Tâm lý học lao động bắt nguồn từ hai nguồn gốc riêng biệt của tâm lý
học ứng dụng: thứ nhất là nhóm các trường phái nghiên cứu sự phù
hợp của con người đối với công việc (thường được gọi là trường phái
FMJ- Fitting the man to the job) và thứ hai là nhóm các trường phái
nghiên cứu sự phù hợp của công việc đối với con người ( FJM-Fitting
the job to the man). Trường phái FMJ tập trung vào việc tuyển chọn,
đào tạo và hướng nghiệp cho người lao động với ý nghĩa nhằm tạo ra
sự phù hợp hiệu quả giữa con người và công việc, trong đó con người
được xem là yếu tố quan trọng. Trường phái FJM tập trung vào công
việc đặc biệt trong việc thiết kế công việc, thiết bị và điều kiện làm
việc phù hợp với đặc điểm thể chất và tâm lý của người lao động.
Các nghiên cứu ban đầu của cả hai trường phái này đều được tiến
hành nhằm đáp ứng nhu cầu của hai cuộc chiến tranh thế giới lần I và
II. Tại Anh, các nghiên cứu được tiến hành nhằm giải quyết các hậu
quả bất lợi của việc lao động liên tục trong các nhà máy sản xuất trong
thế chiến I và II. Ở cả Anh và Mỹ, trong chiến tranh thế giới lần thứ I
đều nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển các phương pháp sàng lọc
nhằm tuyển chọn các ứng viên phù hợp với một vị trí công việc nhất
định. Nhu cầu này đã được đáp ứng thông qua việc phát triển các bài
kiểm tra về khả năng và tính cách. Tại Vương Quốc Anh, quá trình
này được Viện Tâm lý công nghiệp Quốc gia (National Institute of
Industrial Psychology- NIIP) tiến hành, NIIP được hai nhà tâm lý
học Charles Samuel Myer
(1873-1946) và H.J.Welch thành lập năm 1921 với mục tiêu chính là
“thúc đẩy và khuyến khích các ứng dụng thực tế của khoa học tâm lý
và sinh lý học vào thương mại và công nghiệp bằng bất kỳ phương
tiện nào có thể tìm thấy trọng thực tế”. Sau chiến tranh thế giới lần
thứ II, cơ quan dân sự tại Anh bắt đầu tuyển dụng một số lượng đáng
kể các nhà tâm lý học với mục tiêu cơ bản chủ yếu là cải thiện các
dịch vụ công, trong đó nhấn mạnh đến việc tuyển chọn và đào tạo.
Đặc biệt trong những năm 1960 và 1970, một số các tổ chức lớn cũng
bắt đầu sử dụng các nhà tâm lý học. Tuy nhiên, sự thay đổi trong xu
hướng tổ chức và thị trường lao động trong những năm 1980 đã làm
giảm tỷ lệ các nhà tâm lý học làm việc trong các tổ chức lớn và tăng
tỷ lệ các nhà tâm lý học hoạt động độc lập hoặc làm việc cho các công
ty tư vấn nhỏ.
Cả trường phái FMJ và FJM đều tập trung nghiên cứu mối quan hệ
giữa người lao động và công việc của họ. Một trong những nhánh
nghiên cứu khác của Tâm lý học lao động thường được một cách đơn
giản là Quan hệ lao động, nó liên quan đến việc tương tác phức tạp
giữa cá nhân, nhóm, tổ chức và công việc và vì thế thường thiên về
mối quan hệ xã hội tại nơi làm việc hơn là FMJ và FJM. Tầm quan
trọng của quan hệ lao động được đề cao thông qua một nghiên cứu nổi
tiếng với tên gọi Nghiên cứu Hawthorn. Nghiên cứu Hawthorn được
tiến hành tại nhà máy Hawthorn của Công ty Western Electrics tại
Chicago trong đó chỉ ra hành vi của nhân viên rất phức tạp và quá
trình tương tác giữa nhân viên và người quản lý đóng vai trò quan
trọng trong việc định hình hành vi của nhân viên. Nghiên cứu này ban
đầu được thiết kế nhằm điều tra các vấn đề như sự ảnh hưởng của mức
độ ánh sáng, lịch trình làm việc, nhiệt độ môi trường, tiền lương và
thời gian nghỉ ngơi đối với hiệu
suất của nhân viên. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng điều kiện làm
việc thực tế không ảnh hưởng đến năng suất như dự đoán ban đầu. Cụ
thể là, có những thời điểm năng suất lao động được cải thiện mặc dù
điều kiện làm việc tồi tệ hơn và có những thời điểm năng suất lao
động lại giảm sau khi điều kiện làm việc được cải thiện. Sau khi tiến
hành phỏng vấn người lao động và nghiên cứu sâu hơn, các nhà khoa
học nhận ra rằng người lao động thay đổi hành vi của họ và trở nên
năng suất hơn là do họ đang được nghiên cứu và nhận được sự quan
tâm từ các nhà quản lý – đây là cơ sở của thuật ngữ “Hiệu ứng
Hawthorn”.
Highhouse (1999) đã lập luận rằng một kết quả của các nghiên cứu ở
Hawthorne là sự gia tăng đáng kể việc sử dụng tư vấn cá nhân tại các
nơi làm việc của Mỹ trong suốt giữa thế kỷ XX. Điều này bao gồm
chính Hawthorne, nơi mà vào năm 1941- 1955 cố vấn đã phục vụ
21000 công nhân. Ý tưởng là các cố vấn có sẵn cho mọi thành viên
của lực lượng lao động, và thực sự sẽ thường xuyên luân chuyển giữa
họ. Họ sẽ giúp nhân viên giải quyết các vấn đề cá nhân, từ đó được
cho là có thể dẫn đến việc tăng năng suất của họ. Tuy nhiên,
Highhouse cũng lưu ý rằng tư vấn cá nhân hầu như đã biến mất khỏi
nơi làm việc vào những năm 1960. Ông đã xác định một số lý do cho
điều này. Một số người trong số họ phản ánh những vấn đề liên tục và
chung cho các nhà tâm lý học trong công việc gần nửa thế kỷ sau:
Rất khó để chứng minh sự đóng góp của các cố vấn tâm lý vào
lợi nhuận của công ty.
Các nhà quản lý cấp cao nghĩ rằng các cố vấn đứng về phía
người lao động.
Các quan chức công đoàn nghĩ rằng các cố vấn đang cố gắng
lấy lòng người lao động ' cũng như lòng trung thành với ông
chủ của họ.
Các cố vấn đã phải làm việc với công việc hành chính.
Các nhà quản lý và giám sát ngày càng được đào tạo về quan hệ
con người và có thể thực hiện (hoặc nghĩ rằng họ có thể làm)
bất kỳ tư vấn nào được yêu cầu.
Đã có nhiều lời chỉ trích về các phương pháp thử nghiệm được sử
dụng bởi các nhà nghiên cứu Hawthorne và tranh luận đáng kể về lý
do chính xác cho những phát hiện của họ. Tuy nhiên, nghiên cứu sau
đó của các nhà khoa học xã hội khác đã xác nhận và mở rộng thông
điệp chung rằng quan hệ giữa con người với nhau là quan trọng. Ví
dụ, Trist và Bamforth (1951), làm việc trong các mỏ than của Anh, đã
chỉ ra rằng nếu công nghệ được đưa vào làm phá vỡ các nhóm xã hội
và các mối quan hệ hiện có, thì sẽ có những hậu quả nghiêm trọng đối
với năng suất, quan hệ lao động và tâm lý của nhân viên. Công việc
của họ đã khai sinh ra phương pháp tiếp cận hệ thống kỹ thuật - xã hội
để thiết kế công việc
1.1.2. Giai đoạn phát triển hiện nay của Tâm lý học lao động:
Hiện nay, Tâm lý học lao động có rất nhiều tên gọi khác nhau và do
đó dẫn tới một số nhầm lẫn nhất định. Tại Anh và Mỹ, thuật ngữ lâu
đời và đôi khi vẫn còn được sử dụng là Tâm lý học công nghiệp
(Industrial Psychology). Tại Mỹ thuật ngữ này được mở rộng thành
Tâm lý học
công nghiệp và tổ chức (Industrial/Organisational Psychology), tại
Anh nó có tên gọi là Tâm lý học nghề nghiệp (Occupational
Psychology). Hiện nay, tại Châu Âu, thuật ngữ này được sử dụng phổ
biến với tên gọi Tâm lý học lao động và Tổ chức và trong một số
trường hợp được sử dụng với tên gọi Tâm lý học nghề nghiệp, Tâm lý
học quản lý và Tâm lý học nhân sự. Ngoài ra một số lĩnh vực khác mà
Tâm lý học đóng vai trò rất lớn bao gồm Hành vi tổ chức và Quản trị
nhân lực.
Sự khác biệt về tên gọi này chỉ có ý nghĩa đối với những người làm
việc trong những lĩnh vực cụ thể đó. Về cơ bản đều tập trung vào hai
hướng tiếp cận chủ yếu đã được đề cập ở trên là: thiên về con người
và thiên về tổ chức/nhóm. Trong giáo trình này, chúng tôi thống nhất
sử dụng thuật ngữ Tâm lý học lao động bởi tính đơn giản, dễ hiểu và
đồng thời phản ánh cấp độ phân tích cả về cá nhân và tổ chức.
Để nhằm cụ thể hoá và đưa ra bức tranh toàn cảnh, Tâm lý học lao
động bao gồm 8 lĩnh vực nghiên cứu cơ bản như sau:
2. Đào tạo: xác định nhu cầu đào tạo và thiết kế, phân phối và đánh
giá đào tạo.
3. Đánh giá quá trình thực hiện công việc: xác định các khía cạnh
chính của việc thực hiện công việc; thiết kế các hệ thống để đánh
giá hiệu suất chính xác
4. Phân tích các mối quan hệ, kỹ năng lãnh đạo và đàm phán; phân
tích sự thay đổi của văn hóa và môi trường tổ chức.
5. Tương tác giữa người và máy: phân tích và thiết kế các thiết bị và
môi trường làm việc để phù hợp với khả năng nhận thức và thể
chất của người lao động.
6. Tư vấn và phát triển: kỹ thuật lắng nghe và tư vấn về công việc và
các vấn đề liên quan đến nghề nghiệp; đánh giá và phân tích sở
thích và nguyện vọng nghề nghiệp của người lao động.
7. Thiết kế môi trường và công việc - sức khỏe và an toàn lao động:
đánh giá các đặc điểm hiện có và phù hợp của môi trường như mức
độ ánh sáng, vị trí không gian làm việc và các nguồn nguy hiểm,
rủi ro hoặc căng thẳng.
8. Quan hệ nhân viên và tạo động lực lao động: phân bổ và thiết kế
công việc nhằm tạo động lực và thỏa mãn nhất có thể; xây dựng
nhóm, các phương pháp đàm phán và thương lượng; kỹ thuật phân
tích và cải thiện quan hệ giữa các nhóm.
1.4. Sự thay đổi của môi trường lao động và ảnh hưởng của nó đối với Tâm lý học
lao động.
Sự thay đổi môi trường lao động Những hàm í thay đổi trong Tlhld
Già hoá lao động Học tập, hiệu suất, sự hài lòng và gắn
bó với công việc của người lớn tuổi
Tăng cường tham gia thị trường lao Phát triển hơn nữa các qui trình tuyển
động và vấn đề bình đẳng cho các chọn công bằng; kinh nghiệm làm việc
nhóm yếu thế, bao gồm cả dân tộc của các thành viên trong nhóm yếu thế;
thiểu số và người khuyết tật tác động của sự đa dạng đến nơi làm
việc và hiệu suất của tổ chức; chính
sách đa dạng; quan hệ giữa các nhóm
tại nơi làm việc
Tăng khối lượng công việc cho những Căng thẳng và áp lực trong công
việc; người làm việc kiệt sức và sức khỏe tâm thần; cân
bằng giữa công việc và các khía cạnh khác
của cuộc sống;
ảnh hưởng của khối lượng công việc
lên suy nghĩ và hành vi
Nhiều người hơn làm việc từ xa (ví Lựa chọn những người phù hợp với
dụ như tại nhà) sử dụng công nghệ công việc tại nhà; sự giám sát và lãnh
thông tin và truyền thông (ICT) đạo của những người không có mặt
thực tế; va chạm
Sự cô lập về hiệu quả công việc và sự
hài lòng; giao tiếp ảo hiệu quả và làm
việc theo nhóm; tuyển dụng và tuyển
chọn qua internet
Gây áp lực lên các tổ chức để cắt Tác động của những áp lực cạnh tranh
giảm chi phí và sử dụng hiệu quả tri này (bao gồm cả công nghệ mới) đối
thức với việc thiết kế các công việc; tổ chức
học tập và quản lý tri thức; căng thẳng
và
áp lực trong công việc; Đổi mới và
sáng tạo; thay đổi tổ chức
Cắt giảm quy mô và outsourcing Những vấn đề cá nhân trong việc đối phó với những
Sự tham gia của lao động nữ trong Định kiến giới; thành công trong sự
những công việc có vị trí cao do nam nghiệp của phụ nữ, phần thưởng
giới thống trị theo truyền thống và chi phí so với của nam giới; Cách
làm việc 'nữ tính'
Giảm sự sẵn có của công việc thủ Tác động tâm lý và xã hội của
chênh công; tăng trưởng việc làm trong lệch thu nhập và giàu nghèo; kinh
khu vực dịch vụ kỹ năng thấp; sự nghiệm và hậu quả của thất nghiệp
và phân chia ngày càng tăng giữa thiếu việc làm
những người có kỹ năng và trình
độ phù hợp với yêu cầu thị trường
và những người không có
Tăng cường quốc tế hóa các tổ chức So sánh giữa các nền văn hóa về nơi
và thị trường làm việc; làm việc ở nước ngoài; ảnh
hưởng giữa các cá nhân và giữa các
nền văn hóa; sự phù hợp của việc lựa
chọn, v.v.
Kết luận chương:
Tâm lý học hiện đại có thể được chia thành một số phân ngành phản ánh
các khía cạnh khác nhau của hoạt động tâm lý con người. Có rất nhiều
những hướng tiếp và nghiên cứu trong tâm lý học, bao gồm: phân tâm
học, tiếp cận tâm lý theo đặc điểm (Trait), theo hướng hành vi, hiện
tượng học và nhận thức xã hội. Tuy nhiên, không một lý thuyết hay
trường phái nào có thể được cho là hợp lý trong nghiên cứu, mặc dù
phương pháp tiếp cận theo nhận thức xã hội được sử dụng phổ biến nhất
hiện nay.
Các phương pháp tiếp cận đưa ra một số giả định khác nhau về bản chất
cơ bản của con người. Mỗi phương pháp đều đưa ra kết luận về một số
biểu hiện trong tâm lý lao động. Sự khác biệt giữa chúng nhấn mạnh
rằng bất kỳ sự gắn kết rõ ràng nào của tâm lý lao động là do nó luôn diễn
ra trong bối cảnh công việc và không có một cái nhìn thống nhất chung
về bản chất con người.
Tâm lý học lao động liên quan đến cả sự tương tác giữa một cá nhân với
công việc của họ và mối quan hệ giữa những người trong môi trường
làm việc. Điều này bao gồm lựa chọn và đánh giá nhân sự, đào tạo, đánh
giá hiệu suất, phát triển nghề nghiệp, thay đổi và phát triển tổ chức,
tương tác giữa người và máy, tư vấn, thiết kế môi trường làm việc, quan
hệ nhân viên và động lực. Các nhà tâm lý học lao động đóng vai trò là
nhà nghiên cứu, giáo viên và nhà tư vấn trong các lĩnh vực này.
Như vậy, vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là phải xem xét bối cảnh mà
tâm lý học lao động đang vận hành. Có rất nhiều những thay đổi đã xảy
ra trong hơn hai thập kỷ qua, điều này có nghĩa là các tổ chức chịu nhiều
áp lực hơn so với trước đây, với cấu trúc phẳng hơn, ít nhân viên hơn và
các điều khoản và điều kiện đa dạng hơn.
Người lao động có thể được yêu cầu linh hoạt để phù hợp với nhu cầu
của người sử dụng lao động, đồng thời người sử dụng lao động cũng tạo
ra các điều kiện và cơ hội để người lao động làm việc một cách linh hoạt
để phù hợp với nhu cầu của chính họ.
Việc áp dụng những công nghệ mới đã dẫn tới những tác động không thể
tránh khỏi; ảnh hưởng của nó đối với con người, công việc và tổ chức
phụ thuộc rất nhiều vào cách nó được giới thiệu và sử dụng sau đó. Sự
thay đổi của những người trong lực lượng lao động về giới tính, thành
phần dân tộc, tôn giáo, quốc tịch, tuổi tác và các yếu tố khác tạo ra cả
thách thức và cơ hội cho tâm lý học lao động. Tâm lý học lao động cần
phải đảm bảo rằng nó vượt ra khỏi nguồn gốc của nó trong các tổ chức
điều hành nhân công lớn với lực lượng lao động chủ yếu là nam giới và
cơ cấu ổn định. Nó nên được phân tích và trả lời các câu hỏi như 'làm
thế nào để các nhóm khác nhau tại nơi làm việc liên hệ với nhau?', 'Làm
thế nào có thể đạt được sự công bằng tại nơi làm việc?', 'Làm thế nào để
giá trị tiềm năng của một lực lượng lao động đa dạng trở thành hiện
thực?' và 'làm thế nào các tổ chức nhỏ với nguồn lực hạn chế có thể tận
dụng những gì mà tâm lý học lao động có thể mang lại?'
PHẦN II: SỰ KHÁC BIỆT CỦA CÁ NHÂN
Thực tế hiện nay cho việc sử dụng ngày càng nhiều các biện pháp đánh
giá trí tuệ và tính cách để dự đoán thành công trong học tập và hiệu quả
công việc ở nhiều môi trường khác nhau. Vậy, những bài kiểm tra trí
thông minh thực sự đo lường điều gì? Trong phần này, chúng ta khám
phá các
lý thuyết khác nhau về trí thông minh và tính cách và cung cấp một cái
nhìn tổng quan lịch sử ngắn gọn về các nghiên cứu trong các lĩnh vực
này. Theo truyền thống, các nghiên cứu về trí thông minh và tính cách
được xử lý riêng biệt nhưng các lý thuyết hiện đại hơn về sự khác biệt
của từng cá nhân đã bắt đầu tích hợp những cách tiếp cận này để giải
thích hành vi. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận để hình thành khái niệm và
hiểu được sự khác biệt của cá nhân con người, nhưng chỉ có một cách
tiếp cận (biểu thị sự khác biệt của từng cá nhân dưới dạng khái niệm cấu
trúc, có thể đo lường) đã có ảnh hưởng rộng rãi trong nghiên cứu và thực
hành tâm lý học lao động. Cách tiếp cận này, đã được áp dụng cho cả
khả năng nhận thức và tư duy, là cách tiếp cận phân tích yếu tố đặc
điểm. Cơ sở của lý thuyết đặc điểm là có các tình huống tổng quát trong
hành vi. Nói cách khác, các đặc điểm tính cách giải thích tại sao mọi
người lại cư xử theo những cách giống nhau trong những hoàn cảnh
khác nhau.
Trong quá trình nghiên cứu nhằm giải thích tính cách, các nhà tâm lý
học có xu hướng nhấn mạnh vai trò của các yếu tố bên trong (con người)
hoặc các yếu tố bên ngoài (tình huống). Điều quan trọng ở đây là phải
hiểu rằng tranh luận về tầm quan trọng tương đối của con người và tình
huống trong việc xác định hành vi là một vấn đề lâu dài trong tâm lý
học. Nhiều cách tiếp cận tập trung vào cấu trúc và cách đo lường sự khác
biệt của từng cá nhân; không nhấn mạnh vai trò của các yếu tố tình
huống trong việc xác định hành vi. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa
với việc loại bỏ yếu tố tình huống trong quá trình đánh giá hành vi của
con người.
Các công trình nghiên cứu và lý thuyết gần đây tập trung vào quan điểm
cho rằng cả con người và tình huống đều quan trọng. Đây là ý tưởng mà
mọi người và các tình huống tương tác với nhau để xác định hành vi của
chúng ta. Một lý thuyết hiện tại có ảnh hưởng áp dụng quan điểm tương
tác là lý thuyết nhận thức xã hội (trước đây gọi là học tập xã hội) của
Bandura. Tác động của lý thuyết này có thể được nhìn thấy trong các
lĩnh vực khác nhau của tâm lý học lao động, và sẽ được thảo luận ở cụ
thể hơn trong phần này.
Các mô hình truyền thống về khả năng nhận thức, trí thông minh
Năng lực xử lý và tiếp thu thông tin của mỗi cá nhân đều có sự khác biệt
nhất định . Khi nói đến khả năng nhận thức (tư duy), có những khác biệt
đáng kể giữa mọi người. Sự khác biệt này là kết quả của sự khác biệt về
cơ hội học hỏi (tức là chúng được xác định theo tình huống hoặc môi
trường). Các nhà tâm lý học đã dành rất nhiều thời gian và nỗ lực để cố
gắng hiểu và đo lường sự khác biệt trong khả năng nhận thức.
Một cách tiếp cận các vấn đề liên quan đã có từ lâu đời và đặc biệt liên
quan đến việc lựa chọn và đánh giá nhân sự. Cốt lõi của phương pháp
này liên quan đến việc sử dụng các bài kiểm tra được thiết kế cẩn thận
để đánh giá mức độ khả năng nhận thức của mọi người. Các bài kiểm tra
như vậy cần được thực hiện trong các điều kiện tiêu chuẩn hóa và yêu
cầu mọi người cố gắng trả lời các câu hỏi, tất cả đều được phát triển
thông qua một quá trình thử nghiệm và phân tích kỹ thuật cao (xem
Bảng 3.1 để biết các câu hỏi minh họa). Do nhu cầu tiêu chuẩn hóa
trong quản trị và nội
dung kiểm tra, phương pháp này không thể đánh giá mọi người về năng
lực của họ để thực hiện các công việc hàng ngày, trong cuộc sống thực.
Đây được một số nhà tâm lý học coi là một điểm yếu nghiêm trọng.
Ngoài ra, hãy lưu ý rằng khả năng nhận thức thường được kiểm tra trong
một mô
hình hiệu suất tối đa (tức là điều tốt nhất bạn có thể làm trong một khung
thời gian đã định).
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, hai nhà tâm lý học người Pháp,
Alfred Binet và Theodore Simon, được cho là đã phát triển bài kiểm tra
đầu tiên về trí thông minh của con người. Vào đầu thế kỷ XIX, Pháp,
cùng với các quốc gia công nghiệp phát triển khác, đã áp dụng chế độ
giáo dục bắt buộc. Hầu hết trẻ em vào trường dường như được hưởng lợi
từ các trường bình thường. Một số có lẽ cần sự giúp đỡ đặc biệt, nhưng
có thể được giải quyết bằng hệ thống thông thường. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy có một số trẻ em chậm phát triển đến mức không thể hưởng lợi
từ hệ thống thông thường. Không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định
những đứa trẻ cần được điều trị đặc biệt, và bài kiểm tra do Binet và
Simon phát triển nhằm giúp xác định những đứa trẻ này bằng cách đánh
giá năng lực trí tuệ của chúng.
Phương pháp được Binet và Simon áp dụng vẫn là cơ sở cho các bài
kiểm tra trí thông minh đương thời. Về bản chất, Binet và Simon cho
rằng trí thông minh có thể được đo lường bằng cách đánh giá khả năng
trả lời một bộ sưu tập các câu hỏi được lựa chọn cẩn thận của một người.
Mặc dù các câu hỏi trong các bài kiểm tra hiện đại (xem bảng ví dụ test
IQ) đôi khi
khác với các câu hỏi được sử dụng bởi Binet và Simon, nguyên tắc của
hành vi lấy mẫu trên một nhóm nhiệm vụ được lựa chọn cẩn thận vẫn là
cơ sở của hầu hết các bài kiểm tra. Tuy nhiên có thế thấy rằng, bằng
hành vi lấy mẫu, người ta có nguy cơ đưa ra kết luận sai lầm về một
người - có thể do các câu hỏi cụ thể được hỏi, hoàn cảnh thực hiện bài
kiểm tra hoặc nhiều lý do khác. Binet và Simon chắc chắn nhận ra rằng
chỉ điểm kiểm tra thôi là chưa đủ và họ đề xuất rằng, trước khi đưa ra bất
kỳ quyết định nào về một đứa trẻ, cũng nên thực hiện các hình thức đánh
giá khác.
Kể từ công trình tiên phong của Binet và Simon, các nhà tâm lý học đã
thực hiện một lượng công việc đáng kể trong nỗ lực đo lường trí thông
minh và tìm hiểu cấu trúc của nó. Phần lớn công việc này sử dụng các
phương pháp thống kê, được phát triển để hỗ trợ nghiên cứu về trí thông
minh của con người. Các phương pháp thống kê này (phương pháp
chính là phân tích tương quan và nhân tố) hiện được sử dụng trong nhiều
ngành kinh tế.
Tất nhiên, theo một số cách, quan điểm về trí thông minh này dường như
còn một khoảng cách khá xa so với kiểu suy nghĩ mà chúng ta phải làm
trong cuộc sống hàng ngày. Như chúng ta sẽ thấy ở phần sau của chương
này, một số nhà tâm lý học đã cố gắng nắm bắt các khái niệm về ‘trí
thông minh thực tế’ (ví dụ: Sternberg và Wagner, 1986; Scribner, 1986).
Bảng
3.2 minh họa một số điểm so sánh giữa suy nghĩ thực tế và các bài kiểm
tra trí thông minh truyền thống.
Ví dụ về Test IQ:
Bài Test cực khó về IQ:
Bảng câu hỏi về tính cách của Eysenck Hướng ngoại, rối loạn cảm xúc, rối loạn tâm
(Eysenck Personality Questionaires – EPQ) thần
16 yếu tố tính cách của Cattell ( 16 Mười sáu yếu tố tính cách, ví dụ: tính phục
Personality Factors – 16 PF). Một số phiên tùng (ôn hoà, khiêm tốn, dễ dẫn dắt, ngoan
bản theo hình thức ngắn/dài có sẵn và đo ngoãn, dễ chịu), tự đảm bảo (nhẹ nhàng,
lường các yếu tố nhân cách bậc 2 ngoài các thanh thản, an toàn, tự mãn), dịu dàng (nhạy
yếu tố đã được đề cập cảm, đeo bám, bảo vệ quá mức)
Bảng câu hỏi về tính cách nghề nghiệp 30 khía cạnh cạnh của tính cách được đo lường
( Occupational Personality Questionaires – bao gồm:
OPQ)
- Quan tâm:quan tâm đến
người khác, giúp đỡ những
người gặp khó khăn, cảm
thông, bao dung
- Kiểm soát cảm xúc: Hạn chế
thể hiện cảm xúc, tránh bộc
phát
- Lập kế hoạch: Chuẩn bị tốt,
thích thiết lập mục tiêu, dự
báo xu hướng, lập kế hoạch
dự án
Bản kiểm kê tính cách sửa đổi ( The Năm yếu tố tính cách (Big Five)
Revised NEO Personality Inventory – NEO
PI-R)
Bảng 3-2. Các đặc điểm tính cách được đo lường bởi 16PF
Cao Thấp
phân tích công việc, năng lực và hiệu quả tuyển chọn