Professional Documents
Culture Documents
Nghiên Cứu Đa Dạng Sinh Học & Sinh Thái Học Họ Ô Rô (Acanthaceae) ở Vườn Cát Tiên - Nguyễn Ngọc Thơ (2011)
Nghiên Cứu Đa Dạng Sinh Học & Sinh Thái Học Họ Ô Rô (Acanthaceae) ở Vườn Cát Tiên - Nguyễn Ngọc Thơ (2011)
Nghiên Cứu Đa Dạng Sinh Học & Sinh Thái Học Họ Ô Rô (Acanthaceae) ở Vườn Cát Tiên - Nguyễn Ngọc Thơ (2011)
Hình 1.1. Bản đồ hành chính Vườn Quốc gia Cát Tiên
Bảng 1.1. Bảng thống kê động vật Vườn Quốc gia Cát Tiên
Hình 2.1. Sơ đồ đường đi chính của các tuyến khảo sát
Hình 3.1. Một số dạng hoa đồ của các loài họ Ô rô
Hình 3.2. Hình thái loài Acanthus leucostachyus Wall. ex Nees
Hình 3.3. Acanthus leucostachyus Wall. ex Nees
Hình 3.4. Sinh thái và phân bố của loài Acanthus leucostachyus Wall. ex Nees
Hình 3.5. Hình thái loài Asystasia chelonoides Nees
Hình 3.6. Sinh thái và phân bố của loài Asystasia chelonoides Nees
Hình 3.7. Asystasia chelonoides Nees
Hình 3.8. Hình thái loài Andrographis laxiflora (Bl.) Lindau
Hình 3.9. Andrographis laxiflora (Bl.) Lindau
Hình 3.10. Sinh thái và phân bố của loài Andrographis laxiflora (Bl.) Lindau
Hình 3.11. Hình thái loài Clinacanthus burmannii Nees var. robinsonii R. Ben.
Hình 3.12. Sinh thái và phân bố của loài Clinacanthus burmannii Nees var. robinsonii R.
Ben.
Hình 3.13. Clinacanthus burmannii Nees var. robinsonii R. Ben.
Hình 3.14. Hình thái loài Cryptophragmium pierrei R. Ben.
Hình 3.15. Cryptophragmium pierrei R. Ben.
Hình 3.16. Sinh thái và phân bố của loài Cryptophragmium pierrei R. Ben.
Hình 3.17. Hình thái loài Cyclacanthus coccineus S. Moore
Hình 3.18. Cyclacanthus coccineus S. Moore
Hình 3.19. Sinh thái và phân bố của loài Cyclacanthus coccineus S. Moore
Hình 3.20. Hình thái loài Eranthemum tetragonum Wall.
Hình 3.21. Eranthemum tetragonum Wall.
Hình 3.22. Sinh thái và phân bố của loài Eranthemum tetragonum Wall.
Hình 3.23. Hình thái loài Hemigraphis hirsuta T. Anders.
Hình 3.24. Sinh thái và phân bố của loài Hemigraphis hirsuta T. Anders.
Hình 3.25. Hemigraphis hirsuta T. Anders.
Hình 3.26. Hình thái loài Hygrophila incana Nees in DC.
Hình 3.27. Sinh thái và phân bố của loài Hygrophila incana Nees in DC.
Hình 3.28. Hygrophila incana Nees in DC.
Hình 3.29. Hình thái loài Hygrophila phlomoides Nees in Wall.
Hình 3.30. Hygrophila phlomoides Nees in Wall.
Hình 3.31. Sinh thái và phân bố của loài Hygrophila phlomoides Nees in Wall.
Hình 3.32. Hình thái loài Hygrophila stricta Lindau var. corymbosa Ridley
Hình 3.33. Sinh thái và phân bố của loài Hygrophila stricta Lindau var. corymbosa Ridley
Hình 3.34. Hygrophila stricta Lindau var. corymbosa Ridley
Hình 3.35. Hình thái loài Justicia oreophila C.B. Clarke
Hình 3.36. Justicia oreophila C.B. Clarke
Hình 3.37. Sinh thái và phân bố của loài Justicia oreophila C.B. Clarke
Hình 3.38. Hình thái loài Lepidagathis hyalina Nees
Hình 3.39. Sinh thái và phân bố của loài Lepidagathis hyalina Nees
Hình 3.40. Lepidagathis hyalina Nees
Hình 3.41. Hình thái loài Lepidagathis incurva Buch.-Ham. ex D. Don
Hình 3.42. Lepidagathis incurva Buch.-Ham. ex D. Don
Hình 3.43. Sinh thái và phân bố của loài Lepidagathis incurva Buch.-Ham. ex D. Don
Hình 3.44. Hình thái loài Nelsonia campestris R. Br.
Hình 3.45. Sinh thái và phân bố của loài Nelsonia campestris R. Br.
Hình 3.46. Nelsonia campestris R. Br.
Hình 3.47. Hình thái loài Peristrophe bivalvis (L.) Merr. - NT14
Hình 3.48. Peristrophe bivalvis (L.) Merr. - NT14
Hình 3.49. Sinh thái và phân bố của loài Peristrophe bivalvis (L.) Merr. - NT14
Hình 3.50. Hình thái loài Peristrophe bivalvis (L.) Merr. - NT05
Hình 3.51. Sinh thái và phân bố của loài Peristrophe bivalvis (L.) Merr. -NT05
Hình 3.52. Peristrophe bivalvis (L.) Merr. - NT05
Hình 3.53. Hình thái loài Phlogacanthus cornutus R. Ben.
Hình 3.54. Sinh thái và phân bố của loài Phlogacanthus cornutus R. Ben.
Hình 3.55. Phlogacanthus cornutus R. Ben.
Hình 3.56. Hình thái loài Phlogacanthus turgidus (Fua ex Hook.) Lindau
Hình 3.57. Phlogacanthus turgidus (Fua ex Hook.) Lindau
Hình 3.58. Sinh thái và Phân bố của loài Phlogacanthus turgidus (Fua ex Hook.) Lindau
Hình 3.59. Hình thái loài Polytrema annamense R. Ben.
Hình 3.60. Polytrema annamense R. Ben.
Hình 3.61. Sinh thái và phân bố của loài Polytrema annamense R. Ben.
Hình 3.62. Hình thái loài Pseuderanthemum crenulatum (Lindl.) R. Ben.
Hình 3.63. Pseuderanthemum crenulatum (Lindl.) R. Ben.
Hình 3.64. Sinh thái và phân bố của loài Pseuderanthemum crenulatum (Lindl.) R. Ben.
Hình 3.65. Hình thái loài Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Radlk.
Hình 3.66. Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Radlk.
Hình 3.67. Sinh thái và phân bố của loài Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Radlk.
Hình 3.68. Hình thái loài Ruellia macrosiphon Kurz
Hình 3.69. Ruellia macrosiphon Kurz
Hình 3.70. Sinh thái và phân bố của loài Ruellia macrosiphon Kurz
Hình 3.71. Hình thái loài Ruellia patula Jacq.
Hình 3.72. Ruellia patula Jacq.
Hình 3.73. Sinh thái và phân bố của loài Ruellia patula Jacq.
Hình 3.74. Hình thái loài Rungia sp. – NT32
Hình 3.75. Sinh thái và phân bố của loài Rungia sp. – NT32
Hình 3.76. Rungia sp. – NT32
Hình 3.77. Hình thái loài Rungia sp. – NT36
Hình 3.78. Sinh thái và phân bố của loài Rungia sp. – NT36
Hình 3.79. Rungia sp. – NT36
Hình 3.80. Hình thái loài Staurogyne balansae R. Ben
Hình 3.81. Sinh thái và phân bố của loài Staurogyne balansae R. Ben
Hình 3.82. Staurogyne balansae R. Ben.
Hình 3.83. Hình thái loài Staurogyne glauca (Nees) Kuntze
Hình 3.84. Staurogyne glauca (Nees) Kuntze
Hình 3.85. Sinh thái và phân bố của loài Staurogyne glauca (Nees) Kuntze
Hình 3.86. Hình thái loài Staurogyne lanceolata (Bl.) Kuntze
Hình 3.87. Staurogyne lanceolata (Bl.) Kuntze
Hình 3.88. Sinh thái và phân bố của loài Staurogyne lanceolata (Bl.) O. Ktze
Hình 3.89. Hình thái loài Staurogyne malaccensis C. B. Clarke
Hình 3.90. Sinh thái và phân bố của loài Staurogyne malaccensis C. B. Clarke
Hình 3.91. Staurogyne malaccensis C. B. Clarke
Hình 3.92. Hình thái loài Staurogyne cf. brachystachys R. Ben.
Hình 3.93. Sinh thái và phân bố của loài Staurogyne cf. brachystachys R. Ben.
Hình 3.94. Staurogyne cf. brachystachys R. Ben.
Hình 3.95. Hình thái loài Strobilanthes squalens S. Moore
Hình 3.96. Strobilanthes squalens S. Moore
Hình 3.97. Sinh thái và phân bố của loài Strobilanthes squalens S. Moore
Hình 3.98. Hình thái loài Thunbergia fragrans Roxb. var. heterophylla C.B. Clarke
Hình 3.99. Thunbergia fragrans Roxb. var. heterophylla C.B. Clarke
Hình 3.100. Sinh thái và phân bố của loài Thunbergia fragrans Roxb. var. heterophylla C.B.
Clarke
Hình 3.101. Hình thái loài Thunbergia laurifolia Lindl.
Hình 3.102. Thunbergia laurifolia Lindl.
Hình 3.103. Sinh thái và phân bố của loài Thunbergia laurifolia Lindl.
Phụ lục 1. Một số chỉ tiêu khí hậu Vườn Quốc gia Cát Tiên
Phụ lục 2. Phiếu mô tả
Phụ lục Hình 3.104. Một số dạng nhị của các loài thuộc họ Ô rô
Phụ lục Hình 3.105. Một số dạng đầu nhụy của các loài thuộc họ Ô rô
Phụ lục Hình.3.106. Tiêu bản khô loài Acanthus leucostachyus; Cyclacanthus coccineus;
Hygrophila phlomoides
Phụ lục Hình 3.107. Tiêu bản khô loài Eranthemum tetragonum; Hygrophila hirsuta;
Lepidagathis hyalina; Lepidagathis incurva
Phụ lục Hình 3.108. Tiêu bản khô loài Lepidagathis incurva; Nelsonia campestris;
Peristrophe tinctoria (P. bivalvis)
Phụ lục Hình 3.109. Tiêu bản khô loài Phlogacanthus cornutus; Phlogacanthus turgidus;
Pseuderanthemum crenulatum; Pseuderanthemum palatiferum
Phụ lục Hình 3.110. Tiêu bản khô loài Staurogyne lanceolata; Staurogyne glauca;
Thunbergia laurifolia
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giới sinh vật vô cùng đa dạng và phong phú, tiềm ẩn những giá trị khoa học, thực
tiễn đối với con người. Cuộc sống con người luôn gắn liền với tự nhiên, con người có thể
tạo ra nhiều nguyên liệu, đồ dùng vật dụng, chăn nuôi, trồng trọt để cung cấp cho những nhu
cầu của mình nhưng cũng không thể thay thế hoàn toàn vai trò của thiên nhiên. Sử dụng bền
vững nguồn tài nguyên thiên nhiên là việc làm cần thiết không những cho sự tồn tại của thế
hệ này mà còn cho thế hệ mai sau.
Vì vậy, công tác bảo tồn đã được coi trọng, các Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
nhiên, khu dự trữ sinh quyển…đã được thiết lập để giảm sự khai thác quá mức của con
người. Trong công tác bảo tồn ở các Vườn Quốc gia (VQG), khu bảo tồn thiên nhiên,…con
người chỉ quan tâm chủ yếu đến những taxon cho gỗ đối với thực vật, quý hiếm đối với
động vật mà chưa thật sự quan tâm nhiều đến những loài cây là cây thân thảo, cây bụi, một
taxon dù nhỏ hay lớn cũng đóng vai trò nhất định trong tự nhiên và tiềm năng sử dụng sau
này. Hiện nay vấn đề lâm sản ngoài gỗ (lâm sản phụ) đang được thế giới quan tâm và đánh
giá cao, nên cần được nghiên cứu nhiều hơn nữa.
Họ Ô rô là một họ gồm những loài có dạng cây cỏ, cây bụi, gỗ nhỏ, dây leo, ít được
chú ý khi nghiên cứu về thảm thực vật của các khu bảo tồn, nhưng có nhiều loài cây có giá
trị sử dụng: làm cảnh, làm thuốc chữa bệnh đã được ghi chép trong các tài liệu nghiên cứu
trước đây, còn tiềm ẩn nhiều khả năng trong y học chưa được khám phá hết. Vườn Quốc gia
Cát Tiên có nhiều điều kiện thuận lợi cho các loài trong họ này phát triển, theo điều tra của
Phân viện Điều tra qui hoạch rừng Nam Bộ trong chương trình “Quy hoạch bảo tồn và phát
triển bền vững VQG Cát Tiên giai đoạn 2010 – 2020” thực hiện năm 2010, thì họ
Acanthaceae ở Cát Tiên có 6 loài. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa đầy đủ, các nghiên cứu
khác cũng chỉ là thống kê số loài, chưa nghiên cứu đầy đủ về phân bố, sinh thái, nên việc
điều tra nghiên cứu về họ thực vật này vẫn cần tiếp tục. Do đó chúng tôi chọn đề tài:
“Nghiên cứu đa dạng sinh học và sinh thái họ Ô rô (Acanthaceae Juss., 1789) trong hệ
thực vật Vườn Quốc gia Cát Tiên”.
Vườn Quốc gia Cát Tiên nằm trãi dài trên 5 huyện của 3 tỉnh vùng Đông Nam Bộ và
Nam Tây nguyên, gồm: huyện Tân Phú và huyện Định Quán (tỉnh Đồng Nai); huyện Cát
Tiên và huyện Bảo Lâm (tỉnh Lâm Đồng); huyện Bù Đăng (tỉnh Bình Phước).
Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Đắc Lắc và huyện Bù Đăng (tỉnh Bình Phước) giới
hạn bởi sông Đồng Nai.
Phía Nam giáp Công ty lâm nghiệp La Ngà huyện Định Quán (tỉnh Đồng Nai) giới
hạn bởi đường tỉnh lộ 323.
Phía Đông giáp huyện Cát Tiên (tỉnh Lâm Đồng) và huyện Tân Phú (tỉnh Đồng Nai)
giới hạn bởi sông Đồng Nai.
Phía Tây giáp Khu bảo tồn thiên nhiên và di tích Vĩnh cửu (tỉnh Đồng Nai) nay là
Khu bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai và Nông lâm trường Nghĩa Trung (tỉnh Bình
Phước).
Tổng diện tích tự nhiên hiện nay là 71.350 ha.
Vườn Quốc gia Cát Tiên nằm cuối cùng của dãy Trường Sơn, chuyển tiếp với vùng
đồng bằng Nam Bộ, bao gồm địa hình vùng núi và địa hình vùng đồi, độ cao trung bình so
với mặt nước biển từ 115 – 626 m. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam từ Tây sang Đông.
Phía Bắc và Tây VQG, chủ yếu là vùng núi thấp, cao nhất là ở khu vực Lộc Bắc (626m);
Phía Nam và Đông Nam chủ yếu là kiểu địa hình đồi, thấp nhất là khu vực Núi Tượng cao
115m, đặc biệt khu vực phía Đông Nam Vườn địa hình thấp (<150m) và tương đối bằng
phẳng với 2 dạng địa hình: vùng địa hình bậc thềm sông Đồng Nai và địa hình bậc thềm xen
kẽ với hồ, đầm.
Vườn Quốc gia Cát Tiên thuộc nền địa chất ở thời kỳ trước Kỷ Đệ Tứ, toàn miền
được phủ một lớp trầm tích biển đặc trưng bởi đá phiến thạch sét. Sau Kỷ Đệ Tứ lại được
phủ một lớp phù sa cổ do sông Cửu Long bồi đắp và sau đó do hoạt động của núi lửa thuộc
vùng cao nguyên mà những vùng thấp của khu vực bị phủ lấp bởi lớp đá bọt núi lửa. Cùng
với sự phun trào phủ lấp, quá trình phong hóa bào mòn, rửa trôi, bồi tụ đã tạo nên một bề
mặt địa hình như hiện nay.
Nền địa chất với 3 cấu tạo chính là: Trầm tích, Bazal và Sa phiến thạch đã phát triển
hình thành 4 loại đất chính của VQG Cát Tiên như: Đất feralit phát triển trên đá Bazal, đất
feralit phát triển trên Sa phiến thạch, đất feralit phát triển trên phiến sét, đất feralit phát triển
trên phù sa cổ.
Vườn Quốc gia Cát Tiên nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có 2 mùa
rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trong
đó tháng 2-3 là tháng khô nhất.
Do địa hình khác nhau nên có sự khác nhau rõ rệt về khí hậu giữa 2 vùng Bắc Cát
Tiên và Nam Cát Tiên. Nhiệt độ trung bình năm 21,70C ở Bắc Cát Tiên, 26,50C ở Nam Cát
Tiên. Lượng mưa trung bình hàng năm 2.675 mm ở Bắc Cát Tiên và 2.175 mm ở Nam Cát
Tiên.
Điều kiện thủy văn ở VQG Cát Tiên phụ thuộc hoàn toàn vào chế độ dòng chảy của
sông Đồng Nai và các hệ thống suối, các bàu nước.
Hệ thống sông Đồng Nai có chiều dài 635km, diện tích lưu vực sông 40.800 km2,
đứng thứ 3 sau sông Mê Kông và sông Hồng, chảy qua địa phận các tỉnh Lâm Đồng, Đồng
Nai, Bình Phước, Bình Dương, Long An, thành phố Hồ Chí Minh và một phần địa phận các
tỉnh Đắc Nông, Bình Thuận. Phía Bắc của lưu vực sông Đồng Nai giáp với lưu vực sông
Xrê-pốc, phía Tây Nam và Nam giáp với đồng bằng sông Cửu Long.
Sông Đồng Nai chảy qua VQG Cát Tiên dài khoảng 90 km, rộng trung bình 100 m,
làm thành ranh giới tự nhiên bao bọc 1/3 chu vi vủa Vườn về phía Bắc, phía Tây và phía
Đông. Các suối lớn nhỏ trong Vườn đều chảy ra sông Đồng Nai. Lưu lượng nước bình quân
khoảng 405m3/giây. Mực nước vào thời điểm cao nhất 8,03m; mực nước trung bình 5m.
Vào thời điểm khô kiệt mực nước đạt 2 – 3 m.
Suối ĐắKLua là suối lớn nhất bắt nguồn từ vùng núi có cao độ khoảng 350 m, nằm ở
ranh giới phía Nam của tỉnh Bình Phước. Suối có nước quanh năm, chảy theo hướng Đông
Nam và đổ ra sông Đồng Nai, giúp điều hòa nước trong các bàu của Vườn. Quanh các đầm,
bàu và suối lớn thường xuyên ẩm ướt và ngập nước vào mùa mưa đã hình thành nên các
sinh cảnh với nhiều cây bụi, cây cỏ, song mây, tre, lồ ô và dây leo phát triển mạnh hình
thành nhiều thảm thực vật vùng ngập nước phong phú và đa dạng.
Hệ thực vật rừng của VQG Cát Tiên mang đặc tính của hệ sinh thái nhiệt đới ẩm gió
mùa, sự phân biệt rõ rệt hai mùa mưa và mùa khô cùng một số điều kiện tự nhiên khác đã
tạo nên sự phong phú về kiểu thảm thực vật và đa dạng về thành phần loài. Có 5 kiểu rừng
chính: Rừng lá rộng thường xanh, rừng thường xanh nửa rụng lá, rừng hỗn giao gỗ - tre nứa,
rừng tre nứa thuần loại, thảm thực vật đất ngập nước. Trong đó vùng đất ngập nước ở Bàu
Sấu đã được công nhận là điểm Ramsar của thế giới vào ngày 4-8-2005.
Tuỳ thuộc vào các yếu tố sinh thái phát sinh và quy luật diễn thế của các kiểu rừng đã
hình thành nên các quần xã thực vật rừng khác nhau. Thảm thực vật rừng của VQG Cát Tiên
có đến 30 quần xã thực vật khác nhau và 6 sinh cảnh rừng.
Tài nguyên thực vật rừng phong phú và đa dạng với 1.615 loài thực vật, thuộc 710
chi, 162 họ, 94 bộ, 10 lớp thuộc 06 ngành thực vật khác nhau và thuộc nhiều khu hệ thực vật
khác nhau: khu hệ thực vật Malaisia - Indonesia; khu hệ thực vật Ấn Độ - Miến Điện; khu
hệ thực vật Himalaya - Vân Nam - Quý Châu Trung Quốc; khu hệ thực vật Bắc Việt Nam -
Nam Trung Hoa.
Vườn còn là nơi bảo tồn nguồn gen của 80 loài thực vật rừng quý hiếm và 25 loài
thực vật được ghi nhận lần đầu tiên tại Đồng Nai, 23 loài thực vật đặc hữu, 25 loài, 13 họ
thực vật có tên trong Sách Đỏ Việt Nam năm 2007; 46 loài, 21 họ thực vật có tên trong Sách
Đỏ IUCN năm 2008 [17].
Nhiều loài thực vật hàng trăm tuổi, kích thước to, hình dáng khác lạ như: cây Gõ đỏ
có đường kính trên 2m, cây Bằng lăng 6 ngọn, cây Tung cổ thụ trên 500 tuổi có bạnh vè, rất
to và dài, đường kính thân vài chục người ôm.
Điều kiện tự nhiên thuận lợi với sinh cảnh rừng có độ che phủ cao đã hình thành hệ
động vật đa dạng phong phú về thành phần loài không kém gì thực vật, nhiều loài quý hiếm
có ý nghĩa bảo tồn nguồn gen trên toàn thế giới. Hệ động vật ở Cát Tiên có những nét đặc
trưng của khu hệ động vật vùng bình nguyên Đông Trường Sơn, có quan hệ chặt chẽ với
Tây Nguyên.
- Khu Ramsar bàu Sấu là nơi bảo tồn loài cá sấu Xiêm (Crocodylus siamensis), khu
Cát Lộc bảo tồn loài Tê giác một sừng quý hiếm của Việt Nam và thế giới (Rhinoceros
sondaicus annamiticus). Vườn cũng là nơi bảo tồn loài Bò tót (Bos gaurus), và nhiều động
vật khác. Vườn còn có Trung tâm Cứu hộ động vật hoang dã nguy cấp với chức năng tiếp
nhận các loài động vật hoang dã bị săn bắt hoặc nuôi nhốt trái phép để làm nhiệm vụ cứu hộ
và thả lại rừng khi chúng đã đủ điều kiện sống trở lại môi trường tự nhiên.
Nguồn: Phân viện điều tra qui hoạch rừng Nam Bộ [17]
Hiện nay, Vườn Quốc gia Cát Tiên đang cứu hộ 05 cá thể Gấu chó ( Ursus
malayyanus), 13 cá thể Gấu ngựa (Ursus thibetanus), 1 cá thể báo Hoa mai, 3 cá thể Cá sấu
được cho là khác gen với cá sấu Xiêm đang bảo tồn ở Bàu Sấu, 08 cá thể Vượn đen má
vàng, 02 cá thể Vượn đen má trắng.
1.2 Sơ lược những nghiên cứu về họ Ô rô (Acanthaceae) trên thế giới và Việt
Nam
1.2.1 Thế giới
Thế kỉ 18, Linnaeus (1753) đã mô tả, đặt tên cho 6 chi và 30 loài, xếp vào phân lớp
“2 nhị, 1 vòi nhụy” (Diandria monogynia) và “4 nhị với 2 dài 2 ngắn” (Dydianamia) cùng
với nhiều chi, loài của nhiều họ khác như họ Hoa môi (Lamiaceae), họ Cỏ roi ngựa
(Verbenaceae), họ Nhài (Oleaceae)…, sau này được A. L. de Jussieu (1789) xếp vào họ
Acanthaceae [7].
A. L. de Jussieu (1789) là nhà thực vật học đầu tiên đã hệ thống hóa lại các chi thành
các họ riêng biệt, đặt tên cho nhiều họ thực vật, trong đó có họ Acanthaceae và đặt tên cho
họ này là Acanthi. Năm 1810, R. Brown đã chỉnh tên Acanthi thành Acanthaceae nhưng vẫn
để tên tác giả là Jussieu, tên họ Ô rô Acanthaceae Juss., 1789 được sử dụng cho đến ngày
nay [7].
Về vị trí của họ Ô rô (Acanthaceae) trong hệ thống sinh, có nhiều quan điểm khác
nhau: Bentham & Hooker (1873) xếp họ Acanthaceae trong bộ Personales thuộc phân lớp
“Cánh tràng hợp” (Gymopetalae), Melchior (1964) xếp họ Acanthaceae vào bộ Hoa ống
(Tubiforae) thuộc phân lớp Tràng hợp (Sympetalae), R. F. Thorne xếp Acanthaceae vào bộ
Đinh (Bignoniales)…, nhiều tác giả xếp họ Acanthaceae trong bộ Hoa Mõm chó
(Scrophulariales) nhưng thuộc các phân lớp khác nhau, trong đó A. Takhtajan (1969) [22]
xếp họ Acanthaceae vào phân lớp Cúc (Asteridae), năm 1987 Takhtajan đã chỉnh lại họ
Acanthaceae thuộc phân lớp Hoa môi (Lamiidae), cách sắp xếp này được nhiều nhà phân
loại đồng tình và sử dụng. Ở Việt Nam các nhà thực vật học cũng sử dụng cách sắp xếp này
[7]. Gần đây A. Takhtajan (2009) [23] có sự thay đổi trong hệ thống phân loại, ông xếp họ
Acanthaceae vào bộ Lamiales thuộc phân lớp Lamiidae.
Về các quan điểm phân chia họ Acanthaceae có thể thấy rõ hai quan điểm chính:
quan điểm chia họ Acanthaceae thành các tông (tribus), sau đó chia tiếp thành các tông phụ
(subtribus), theo quan điểm này có E. Nees (1832) chia họ Ô rô thành 3 tông với 7 tông phụ;
sau đó, E. Nees (1847) trong A.P. de Candolle lại chia họ Acanthaceae thành 11 tông phụ;
G. Bentham & J. D. Hooker (1876) trên cơ sở nghiên cứu 120 chi đã phân chia họ
Acanthaceae thành 5 tông với 11 tông phụ. Cả 2 tác giả đều dựa vào đặc điểm noãn (hạt)
đính trên giá có móc cong. Quan điểm tiếp theo là chia họ Acanthaceae thành các họ phụ
(subfamily), rồi chia thành các tông và tông phụ. Theo quan điểm này có G. Lindau (1895)
chia họ Acanthaceae thành 4 họ phụ căn cứ vào đặc điểm hạt đính trên giá noãn có móc
cong, chỉ riêng họ phụ Acanthoideae có đến 15 tông; R. W. Scotland & K. Vollesen (2000)
dựa vào hình thái, hạt phấn và sinh học phân tử đã chia họ Acanthaceae thành 3 họ phụ
Nelsonioideae, Thunbergioideae và Acanthoideae, riêng họ phụ Acanthoideae dược chia
thành 2 tông: Acantheae và Ruellieae với 4 tông phụ Ruelliinae, Andrographiinae,
Jussticiinae, Barleriinae [7]. A. Takhtajan (1969) [22] cho rằng họ Acanthaceae gồm 2 họ
Mendonciaceae và Thunbergiaceae; A. Takhtajan (1987) tách chi Thunbergia để thành lập
họ riêng là Thunbergiaceae; đến năm 1996, chính ông lại nhập Thunbergia vào họ
Acanthaceae và chia họ Acanthaceae thành 3 họ phụ là Nelsonioideae, Thunbergioideae và
Acanthoideae. Năm 2009, Takhtajan đưa ra hệ thống mới vẫn chia họ Acanthaceae thành 3
họ phụ là Nelsonioideae, Thunbergioideae và Acanthoideae nhưng cách chia họ phụ thành
các tông phụ khác với Scotland & K. Vollesen (2000) đồng thời thành lập 1 tông mới
Whitfieldieae gồm các chi Whitfieldia, Clamydacanthus, Lankesteria.
Về số lượng chi, loài và phân bố họ Acanthaceae, A. Takhtajan (2009) trong “Thực
vật có hoa” (Flowering Plants) cho rằng trên thế giới có khoảng 220 đến 240 chi với 3500
đến 4000 loài, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới, đặc biệt là Nam và Đông Nam Á, châu Phi
và trung tâm châu Mỹ (Braxin), một vài chi phân bố rộng đến vùng ôn đới ấm áp; ngược lại,
một vài loài của chi Acanthus cũng hiện diện ở Tây Á và Địa Trung Hải. Chang Fu Hsieh và
Tseng Chieng Huang (1998) [24] trong “Thực vật chí Đài Loan” (Flora of Taiwan) cho rằng
họ này trên thế giới có khoảng 346 chi với trên 4300 loài, riêng ở Đài Loan đã mô tả 15 chi
32 loài có hình vẽ và ảnh minh họa. O. P. Sharma [25] trong “Phân loại thực vật” (Plant
taxonomy) cho rằng họ Acanthaceae trên thế giới có hơn 250 chi với 2500 loài, một số chi
có nhiều loài được thống kê như: Justicia (300 loài), Strobilanthes (250), Barleria (230),
Thunbergia (200), Aphelandra (200), Dicliptera (150), Blepharis (100), Staurogyne (80),
Mendoncia (60), Crossandra (60) và Acanthus (50). Theo Hu Chiachi trong “Thực vật chí
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” (Flora Reipublicae Popularis Sinicae) trên thế giới họ
Ô rô có 250 chi với khoảng 3450 loài, đã mô tả chi tiết 68 chi, 311 loài, với nhiều hình vẽ
minh họa các loài ở Trung Quốc.
Ở Việt Nam, theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), họ Ô rô là một trong những họ có số
lượng loài nhiều và đa dạng nhất của hệ thực vật Việt Nam [19], chỉ xếp sau các họ:
Orchidaceae, Euphorbiaceae, Fabaceae, Poaceae, Rubiaceae, Asteraceae, Cyperaceae.
Những nghiên cứu đầu tiên về họ Ô rô ở Việt Nam đều của các tác giả như: Loureiro
(1790) trong “Flora Cochinchinensis”, R. Benoist (1935) trong “Flore générale de
L’Indochine”. Sau này, trong nước có: Lê Khả Kế và nhiều tác giả khác (1970) trong “Cây
cỏ thường thấy ở Việt Nam”, Phạm Hoàng Hộ (1972) trong “Cây cỏ Miền Nam Việt
Nam”…. Số liệu thống kê, mô tả các taxon họ Acanthaceae có sự khác nhau giữa các tác
giả, theo thời gian cùng với sự phát triển của ngành phân loại thực vật trên thế giới cũng
được các nhà nghiên cứu của Việt Nam phát triển ngày càng hoàn chỉnh. R. Benoist
(1935)[26] đã thống kê họ Acanthaceae ở Đông Dương có 36 chi với khoảng 223 loài và 40
thứ; trong đó, ở Việt nam có 35 chi với 166 loài và 25 thứ; phần lớn mọc hoang, một số
trồng làm cảnh hoặc dùng làm thuốc. Tài liệu này mô tả loài khá chi tiết, có hình vẽ minh
họa nhiều loài và khóa tra cho các taxon. Đây là tài liệu được nhiều tác giả Việt Nam sử
dụng nghiên cứu và định loài. Trong “Bảng phân tích các giống cây Việt Nam” do Nguyễn
Đình Ngỗi dịch (1958) [15] thì họ Acanthaceae ở Việt Nam có 36 chi thuộc 6 nhóm:
Thunbergieae, Nelsonieae, Rueliieae, Barlerieae, Acantheae, Justicieae và có đưa ra khóa
phân loại cho 36 chi.
Lê Khả Kế và nhiều tác giả khác (1969) [11] cho rằng Trên thế giới, họ Ô rô có
khoảng 250 giống (chi) và 2600 loài, phân bố vùng Nhiệt đới và Á nhiệt đới; riêng ở Việt
Nam, các tác giả đã mô tả và đã đưa ra bảng phân loại 19 giống thường thấy, đồng thời có
hình vẽ, mô tả hình thái, sinh học, sinh thái, công dụng 28 loài. Phạm Hoàng Hộ (2000)
trong “Cây cỏ Việt Nam” đã xây dựng khóa định loại cho 35 chi, mô tả 205 loài và 8 thứ.
Đây là tài liệu quan trọng, dùng định danh các loài thuộc họ Ô rô nói riêng và nhiều họ thực
vật khác. Theo Nguyễn Tiến Bân (1997) [1] họ này trên thế giới có 250 chi và 2600 loài, ở
Việt Nam có khoảng 57 chi và khoảng 195 loài. Trần Kim Liên (2005) [21] đã ghi nhận ở
Việt Nam họ Acanthaceae có 47 chi với 212 loài, nhưng không có mô tả.