You are on page 1of 11

NGUYỄN ĐỨC DUY

MSSV: 2053801011056
LỚP: 114-TM45.1

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


MÔN HỌC: LUẬT BIỂN
TÊN ĐỀ TÀI:
QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA CÁC VÙNG BIỂN THUỘC CHỦ
QUYỀN QUỐC GIA THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT QUỐC
TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Học kỳ I – Năm học 2021-2022


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1


I. KHÁI QUÁT CHUNG ............................................................................................ 2
1. Khái quát về các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia..................................... 2
2. Khái niệm nội thủy............................................................................................... 2
2.1. Theo quy định của pháp luật quốc tế .................................................................... 2
2.2. Theo quy định của pháp luật Việt Nam ................................................................. 3
3. Khái niệm lãnh hải ............................................................................................... 3
3.1. Theo quy định của pháp luật quốc tế ..................................................................... 3
3.2. Theo quy định của pháp luật Việt Nam ................................................................. 3
II. QUY CHẾ PHÁP LÝ........................................................................................... 4
1. Quy chế pháp lý của nội thủy theo quy định pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam ...................................................................................................................... 4
1.1. Đặc điểm chế độ pháp lý của nội thủy ................................................................... 4
1.2. Cách phân định vùng nội thủy ............................................................................... 5
2. Quy chế pháp lý của lãnh hải theo quy định pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam ...................................................................................................................... 6
2.1. Đặc điểm chế độ pháp lý của lãnh hải ............................................................... 6
3. Bất cập và kiến nghị ............................................................................................. 7
3.1. Bất cập ................................................................................................................ 7
3.2. Kiến nghị............................................................................................................. 7
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 8
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 9
1

LỜI MỞ ĐẦU

Công ước Luật biển của Liên hợp quốc 1982 gọi tắt là Công ước 1982
(UNCLOS) là kết quả của Hội nghị Luật biển lần thứ III của Liên hợp quốc, kéo dài từ
năm 1973 đến năm 1982 nhằm xây dựng một trật tự pháp lý quốc tế mới về biển và đại
dương. Được coi là “Hiến pháp về biển và đại dương”, Công ước 1982 quy định một
cách toàn diện các quyền và nghĩa vụ của tất cả các quốc gia, có thể là có biển, không
có biển, bất lợi về mặt địa lý… trong việc sử dụng biển và đại dương. Công ước 1982
có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 và tính đến nay đã có 168 quốc gia thành viên. Việt
Nam là quốc gia phê chuẩn Công ước 1982 vào ngày 23/6/1994.
Theo Công ước, về nguyên tắc các quốc gia ven biển, kể cả các quốc gia quần
đảo có 5 vùng biển, tuy nhiên, việc quốc gia ven biển có đầy đủ các vùng biển trên hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào đặc điểm và cấu tạo địa lý của quốc gia ven biển. Việt
Nam là một quốc gia ven biển và có đặc điểm địa lý phù hợp cho việc yêu sách cả 5
vùng biển. Vì vậy, phạm vi để nghiên cứu các quy chế pháp lý của cả 5 là rất rộng lớn
và nhiều khía cạnh.
Xét về tính chất pháp lý, các vùng biển mà các quốc gia ven biển có quyền yêu
sách theo Công ước có thể được chia thành 2 nhóm khác nhau. Các vùng biển thuộc
chủ quyền của quốc gia ven như “Nội thủy” và “Lãnh hải” có quy chế pháp lý như lãnh
thổ lục địa, điều này có ý nghĩa là quốc gia ven biển có quyền thực thi chủ quyền của
mình tại vùng biển này như đối với lãnh thổ đất liền. Còn đối với những vùng như
”Vùng tiếp giáp”, “Vùng đặc quyền kinh tế”, “Thềm lục địa”. Tại các vùng biển này,
quốc gia ven biển được thực hiện một số quyền mang tính chất chủ quyền và chỉ có
quyền tài phán trong một số lĩnh vực nhất định.
Trong số những vùng biển được nêu trên, có thể thấy chỉ có 2 nội dung vùng
biển thuộc chủ quyền của quốc gia là “Nội thủy” và “Lãnh hải”, đây là các vùng mà
quốc gia được phép áp dụng luật của mình để quản lý, thực hiện mọi quyền của quốc
gia, có thể ban hành những quy định riêng nhưng phải phù hợp và tôn trọng quy định
của Luật biển quốc tế. Đây sẽ chính là nội dung mà chúng ta cần đi sâu và nghiên cứu
trong đề tài lần này.
Vì cần làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt, phân tích chi tiết và kỹ lưỡng
về nội dung này, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu nội hàm về Quy chế pháp lý của các
vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia theo quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam.
2

I. KHÁI QUÁT CHUNG


1. Khái quát về các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia

Tính từ bờ biển của quốc gia trở ra ngoài khơi, Luật biển quốc tế xác định có các
vùng biển: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục
địa. Chế độ pháp lý cũng như chiều rộng của mỗi vùng biển được xác lập khác nhau
hoàn toàn phù hợp với tính chất của vùng biển đó.
Trong đó, các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia là các vùng biển nằm phía trong
đường biên giới quốc gia trên biển và là một bộ phận cấu thành lãnh thổ của quốc gia
ven biển. Như vậy, chỉ có nội thủy và lãnh hải là lãnh thổ biển của quốc gia ven biển.
Trên cơ sở chủ quyền quốc gia và phù hợp với các quy định của Luật biển quốc tế, các
quốc gia có biển trong đó có Việt Nam đã ban hành các quy định có liên quan nhằm
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, khai thác hiệu quả các lợi ích ở nội thủy và lãnh hải của
mình.
2. Khái niệm nội thủy
2.1. Theo quy định của pháp luật quốc tế

Khoản 1 Điều 8 Công ước Luật biển 1982 định nghĩa, nội thuỷ là “các vùng nước
ở phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”. Một quốc gia có thể
có một hay nhiều vùng nước nội thuỷ với các chế độ pháp lý khác nhau như: nội thuỷ,
nội thuỷ trong đó quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền được tôn trọng.
Các vùng nước nằm bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, giáp
với bờ biển như vịnh, cửa sông, vũng tàu... là nội thủy thông thường, còn nội thuỷ
trong đó tồn tại quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài là các vùng
nước có các đường hàng hải quốc tế đi qua mà vốn trước đó chưa được coi là nội thuỷ
nhưng do việc vạch đường cơ sở thẳng, vùng này đã bị gộp vào nội thuỷ dựa theo
khoản 2 Điều 8 của Công ước 1982.
Vùng nước hoặc vịnh lịch sử là các vùng biển, không phải là nội thuỷ nhưng do
tính chất lịch sử của mình, chúng được hưởng quy chế nội thuỷ. Hiện nay, vịnh hay
vùng nước lịch sử không được quy định rõ trong Luật biển quốc tế. Tuy nhiên, ý kiến
chung cho rằng một vịnh được coi là lịch sử phải thoả mãn ba điều kiện:
- Quốc gia ven biển thực hiện một cách thực sự chủ quyền của mình trên đó;
- Việc sử dụng vùng biển trên được thực hiện một cách liên tục, hoà bình và lâu dài;
3

- Có sự công nhận của cộng đồng quốc tế bằng sự chấp nhận công khai hoặc sự im lặng
không phản đối của các quốc gia quan tâm, nhất là các quốc gia láng giềng và có quyền
lợi tại vùng biển này.
2.2. Theo quy định của pháp luật Việt Nam

Cũng giống như quy định về nội thủy của Luật biển thế giới, ở Điều 9 Luật biển
Việt Nam 2012 do Quốc Hội ban hành có quy định: “Nội thủy là vùng nước tiếp giáp
với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.”
Theo định nghĩa này, nội thủy bao gồm cửa sông, vũng, vịnh, cảng biển và vùng
nước ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển; vùng nước lịch sử cũng theo chế
độ nội thủy. Nội thủy được coi như là bộ phận lãnh thổ trên đất liền của quốc gia ven
biển.
Điều đáng lưu ý là khi một đường cơ sở thẳng được vạch ra theo đúng phương
pháp mà gộp vào nội thủy các vùng nước trước đó chưa được coi là nội thuỷ thì quyền
đi qua không gây hại nói trong Công ước 1982 vẫn được áp dụng ở các vùng nước đó.
3. Khái niệm lãnh hải
3.1. Theo quy định của pháp luật quốc tế

Lãnh hải của quốc gia ven biển là vùng biển tiếp liền và nằm phía ngoài đường cơ
sở, thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển. Theo quy định tại Điều 3 Công ước 1982,
các quốc gia ven biển có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình tới một giới hạn
không vượt quá 12 hải lí tính từ đường cơ sở.
Chủ quyền quốc gia ven biển đối với lãnh hải không phải tuyệt đối như đối với nội
thủy, do Công ước 1982 thừa nhận quyền qua lại vô hại lãnh hải của tàu thuyền nước
ngoài. Đây chính là sự thỏa hiệp giữa các quốc gia ven biển và các cường quốc hàng
hải trong việc thừa nhận quốc gia ven biển có vùng lãnh hải rộng 12 hải lí (trước đây,
thông thường lãnh hải của quốc gia ven biển chỉ rộng 3 hải lí).
3.2. Theo quy định của pháp luật Việt Nam

Điều 11 Luật biển Việt Nam 2012 khẳng định: "Lãnh hải là vùng biển có chiều
rộng 12 hải lí tính từ đường cơ sở ra phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên
giới quốc gia trên biển của Việt Nam".
Nhìn chung, nội dung quy định không khác là mấy so với pháp luật quốc tế quy
định về lãnh hải, các khái niệm có sự tương đồng với nhau.
4

II. QUY CHẾ PHÁP LÝ


1. Quy chế pháp lý của nội thủy theo quy định pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam
1.1. Đặc điểm chế độ pháp lý của nội thủy

Nội thủy là một vùng biển gắn với đất liền, là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia,
tại đó quốc gia có chủ quyền hoàn toàn tuyệt đối.
Chủ quyền này bao trùm cả lớp mặt nước, đáy biển, lòng biển và cả vùng trời bên
trên. Chính vì vậy, trong vùng nội thủy, quốc gia ven biển sẽ được thực hiện đầy đủ
quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp giống như trên đất liền. Mọi luật lệ mà quốc gia
ban hành đều được áp dụng cho vùng nội thủy mà không có một ngoại lệ nào
“Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy
như trên lãnh thổ đất liền”. (Điều 10 Luật biển Việt Nam 2012)
Tàu thuyền thương mại vào các cảng biển quốc tế trên cơ sở nguyên tắc tự do
thông thương và có đi có lại. Tàu thuyền nhà nước dùng vào mục đích không thương
mại và tàu thuyền quân sự phải xin phép. Các thủ tục xin phép cho tàu thuyền nước
ngoài hoạt động tại nội thủy của mỗi quốc gia được điều chỉnh bởi quy định của Luật
biển quốc tế và pháp luật quốc gia.
Về nguyên tắc, một quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với vùng nước nội địa
cũng như đối với đất liền. Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 không có
quy định cụ thể nào về quyền tài phán hình sự hoặc dân sự của các quốc gia ven biển
đối với tàu nước ngoài trong vùng nước nội địa. Với vị trí tiếp giáp với đất liền, các
hành vi vi phạm của tàu thuyền trên tàu hoặc trong vùng nội thủy có thể ảnh hưởng trực
tiếp và ảnh hưởng đến các quốc gia ven biển. Do đó, quốc gia ven biển có quyền xác
định phạm vi và giới hạn quyền tài phán của mình đối với các vấn đề hình sự và dân sự.
Trên cơ sở chủ quyền lãnh thổ, thực tiễn và luật pháp của các nước trên thế giới thừa
nhận rằng quyền tài phán quốc gia được thiết lập và thực hiện trong phạm vi lãnh thổ,
kể cả đối với tàu nước ngoài neo đậu hoặc đi qua vùng nước nội địa. Tuy nhiên, việc
thực hiện quyền tài phán đối với các tàu này tùy thuộc vào mức độ vi phạm ảnh hưởng
đến lợi ích, an toàn và trật tự của quốc gia ven biển.
Khi hoạt động trong vùng nội thủy, quốc gia ven biển có quyền thực hiện quyền tài
phán dân sự nếu tàu nước ngoài có hành vi trái pháp luật. Đối với các tàu được hưởng
quyền miễn trừ như tàu quốc gia sử dụng vào mục đích phi thương mại và tàu quân sự
nước ngoài vi phạm quy định, quốc gia ven biển có quyền buộc tàu rời khỏi vùng nội
5

thủy của mình và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của quốc gia tàu mang cờ trừng trị
các vi phạm đó. Quốc gia mà tàu mang cờ chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại do hành vi
phạm pháp của tàu thuyền đó gây ra.
Đối với các vi phạm hình sự và dân sự trên tàu thuyền nước ngoài, luật áp dụng là
luật của quốc gia mà tàu mang cờ. Quốc gia ven biển chỉ can thiệp:
- Nếu hành vi phạm tội do một người ngoài thuỷ thủ đoàn thực hiện;
- Nếu thuyền trưởng yêu cầu chính quyền sở tại can thiệp;
- Nếu hậu quả của nó ảnh hưởng tới an ninh trật tự của cảng.
1.2. Cách phân định vùng nội thủy

Vùng nội thủy được phân định theo đường cơ sở duyên hải. Khi tính toán nội thủy
cần chú ý tất cả các cửa sông hoặc vịnh nhỏ mà toàn phần thuộc các quốc gia ven biển
thì được xác định theo quy thức sau:
1. Nếu một con sông chảy trực tiếp ra biển thì đường cơ sở sẽ là đường thẳng đi
ngang qua cửa sông, nối các điểm ở mực nước thấp nhất (tức mực nước ròng đo trung
bình trong nhiều năm) trên hai bờ con sông.
2. Nếu một vịnh nhỏ thuộc toàn phần về một quốc gia thì cần xác định xem đó là
một vịnh "đúng" (theo định nghĩa địa hình) hay chỉ là đoạn thụt vào tự nhiên của bờ
biển
Một vũng hay vịnh được coi là "đúng" nếu diện tích của phần lõm vào, bị cắt bởi
đường cơ sở, lớn bằng hoặc là hơn diện tích của hình bán nguyệt được tạo ra với đường
kính bằng chính chiều dài của phân đoạn đường cơ sở tại phần lõm vào đó. Nếu trong
đoạn lõm vào này có một số đảo thì hình bán nguyệt tưởng tượng sẽ có đường kính
bằng tổng chiều dài các phân đoạn của các đường cơ sở. Ngoài ra, chiều dài của đường
kính này không vượt quá 24 hải lý. Vùng nước bên trong của đường cơ sở tưởng tượng
đó cũng được coi là nội thủy. Quy tắc này không áp dụng cho các vũng, vịnh đã thuộc
chủ quyền của một quốc gia nào đó mang tính chất "lịch sử" hoặc trong bất kỳ trường
hợp nào mà việc áp dụng đường cơ sở thẳng là hợp lý (theo khoản 2 điều 10 phần II
của Công ước 1982).
6

2. Quy chế pháp lý của lãnh hải theo quy định pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam
2.1. Đặc điểm chế độ pháp lý của lãnh hải

Lãnh hải có chế độ pháp lý tương tự như lãnh thổ trên đất liền. Nghĩa là, quốc gia
ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ đối với lãnh hải, được hiểu là vùng
trời, vùng nước, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải.
Tuy nhiên, chủ quyền dành cho quốc gia ven biển đối với lãnh hải không phải là
tuyệt đối, vì tàu thuyền các nước khác được phép "Đi qua không gây hại" trong lãnh
hải. Đây là vấn đề mang tính tập quán và được các quốc gia thừa nhận cho việc giao
thương, phát triển hàng hải, du lịch..., vì lợi ích của cộng đồng quốc tế nói chung, quốc
gia ven biển nói riêng. Việc "Đi qua không gây hại" là không được gây tổn hại đến hòa
bình, an ninh trật tự hoặc những lợi ích chính đáng khác của quốc gia ven biển và phải
tuân theo quy định tại điều 19 của Công ước 1982.
Các quốc gia ven biển có quyền ấn định, phù hợp với Công ước Luật biển 1982 các
tuyến đường hàng hải, quy định việc phân chia luồng giao thông trên biển dành cho tàu
nước ngoài khi đi qua lãnh hải nước mình. Trường hợp có sự vi phạm, quốc gia ven
biển có quyền tạm thời đình chỉ việc "Đi qua không gây hại", nhằm bảo đảm chủ
quyền, an ninh và lợi ích quốc gia của mình.
Chế độ pháp lý lãnh hải của pháp luật trong nước được quy định tại Điều 12 Luật
biển Việt Nam 2012. Cụ thể như sau:
“1. Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời,
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên hợp
quốc về Luật biển năm 1982.
2. Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong
lãnh hải Việt Nam. Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không
gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam.
3. Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở
tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Các phương tiện bay nước ngoài không được vào vùng trời ở trên lãnh hải Việt
Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều
ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
7

5. Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt
Nam.”
3. Bất cập và kiến nghị
3.1. Bất cập

Chỉ có một vài điểm bất cập đáng lưu ý chủ yếu đến từ Công ước 1982 (UNCLOS),
mặc dù hiệp ước này đã quy định và chi tiết những điều luật chung nhất liên quan đến
chủ quyền biển, đảo. Nhưng sau khi xem xét và tìm hiểu kỹ lại, Công ước 1982 vẫn
còn nhiều điều khoản chưa được xác định toàn vẹn:
1. Công ước 1982 không có bất kỳ điều khoản nào quy định về quy chế pháp lý của
nội thủy.
2. Khoản 2 Điều 8 của Công ước 1982 vẫn còn nhiều bất cập về việc xác định nội thủy
và lãnh hải
Còn một vài vấn đề không được quy định rõ ràng đến từ khu vực trong nước, đó là
tình hình Biển Đông đang bị xâm phạm một cách nghiêm trọng, có thể kể đến “đường
lưỡi bò” mà Trung Quốc ngang nhiên áp đặt lên bản đồ thế giới, tranh chấp ở khu vực
này chưa bao giờ là nguôi ngoai, Việt Nam vẫn đang là quốc gia chịu thiệt thòi trong
“cuộc chiến” này.
3.2. Kiến nghị

Mặc dù là “Bộ luật quốc tế về biển và đại dương” nhưng Công ước 1982 đã trải
qua một thời gian dài tồn tại. Hiệp ước được ký kết vào thế kỷ trước nên không thể
tránh khỏi sự lạc hậu, mất đi nhiều tính khả thi trong việc áp dụng. Mong rằng trong
tương lai, cộng đồng quốc tế sẽ tích cực sửa đổi, hoàn thiện UNCLOS, làm rõ những
quy định còn mơ hồ và bổ sung những điều khoản còn thiếu để tránh những tranh chấp
đáng tiếc, xung đột không đáng xảy ra giữa các quốc gia. Mang lại sự thịnh vượng và
đoàn kết chung cho biển và đại dương toàn thế giới.
Suy cho cùng, vấn đề Biển Đông không phải là việc có thể giải quyết trong một
sớm một chiều, mà cần sự kiên trì, lâu dài. Để góp phần đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, mỗi người dân Việt Nam yêu nước rất cần có cái
nhìn khách quan về tình hình Biển Đông, về đường lối, chủ trương giải quyết vấn đề
này của Đảng và Nhà nước, đồng thời tỉnh táo, cảnh giác, phản bác mạnh mẽ các luận
điệu xuyên tạc, kích động mà những phần tử xấu đã và đang rắp tâm tạo ra.
8

KẾT LUẬN

Vừa rồi, chúng ta đã tìm hiểu những khái niệm căn bản và quy chế pháp lý của
vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia. Sở dĩ những quy chế pháp lý của vùng biển này
rất riêng biệt và có sự khác lạ với các vùng biển khác là vì chủ quyền quốc gia là quyền
tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia
trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền tối cao về
lập pháp, hành pháp và tư pháp, mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của quốc
gia phải do quốc gia đó quyết định, các quốc gia khác cũng như các tổ chức quốc tế
không có quyền can thiệp. Mọi tổ chức, cá nhân cư trú trên lãnh thổ của quốc gia đó
phải tuân thủ pháp luật của quốc gia nếu điều ước quốc tế mà quốc gia đã ký kết không
có quy định khác. Áp dụng những quy định đó vào vùng biển “Nội thủy” và “Lãnh
hải” để có thể thấy được sự tương đồng cũng như khác biệt của pháp luật trong nước so
với quy định chung của pháp luật thế giới và quốc tế.
Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền của mình một cách tuyệt đối, đầy đủ,
toàn vẹn ở trong vùng nội thủy, bởi vì, nội thủy được coi là bộ phận đất liền như ao hồ,
sông suối, các vùng nước nằm trong đất liền. Đối với vùng lãnh hải thì quốc gia ven
biển không được thực hiện chủ quyền một cách tuyệt đối, tàu thuyền của các quốc gia
khác được quyền "đi qua vô hại" trong lãnh hải của quốc gia ven biển, với những quy
định kiểm soát chặt chẽ của quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS 1982. Tuy
nhiên, các quốc gia ven biển vẫn được thực hiện chủ quyển của mình đối với vùng lãnh
hải của mình một cách đầy đủ và toàn vẹn.
Liên hệ đến tình hình khu vực, trên Biển Đông, ngoài việc thực thi và bảo vệ
chủ quyền ở vùng nội thủy, lãnh hải mà phạm vi của chúng được tính từ hệ thống
đường cơ sở thẳng theo Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam, Việt Nam còn có chủ
quyền đối với nhiều đảo, quần đảo trên Biển Đông, trong đó có quần đảo Trường Sa,
Hoàng Sa.
Hiện nay, Trung Quốc đang chiếm giữ trái phép quần đảo Hoàng Sa; Trung
Quốc và một số quốc gia khác trong khu vực đang chiếm đóng trái phép một số thực
thể thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, đây là vấn đề cực kỳ đáng báo động.
Chủ quyền quốc gia là một định nghĩa vô cùng thiêng liêng và cao quý, mỗi
người dân đều phải chung tay bảo vệ, nhất là chủ quyền biển đảo, một vấn đề đang
nhức nhối và âm ĩ nhiều năm nay. Mong rằng qua bài nghiên cứu lần này, chúng ta sẽ
có cái nhìn chính xác và nhận định được tầm quan trọng về quy chế pháp lý của các
vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia, từ đó chung tay bảo vệ và gìn giữ đất nước.
9

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1) Ngô Hữu Phước, “Những quy định gây tranh cãi về quy chế pháp lý của các vùng biển
theo quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982”, Tạp chí
khoa học pháp lý Việt Nam, 05(90)/2015, tr. 71-80.

2) Ngô Hữu Phước, “Chương V: Luật biển”, Giáo trình Công pháp quốc tế (quyển 1),
NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Trường Đại học Luật TPHCM, 2019, tr.
329-347; 353-361.

3) Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (tiếng Anh: United Nations Convention on
Law of the Sea - UNCLOS).

4) Luật số 18/2012/QH13: Luật biển Việt Nam do Quốc Hội ban hành.

5) Trung tá Lưu Văn Nhiệm, “Làm chủ vùng biển của Tổ quốc”, Báo Người Lao Động
ngày 31/10/2021, xem tại: https://nld.com.vn/bien-dao/lam-chu-vung-bien-cua-to-
quoc-20211030185029647.htm.

You might also like