Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ CƯƠNG LLDH
ĐỀ CƯƠNG LLDH
Câu 1: Khái niệm và bản chất của quá trình dạy học.
1) Khái niệm quá trình dạy học
- Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của người dạy,
người học tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học
tập của mình nhằm thực hiện tốt mục đích dạy học, qua đó, phát triển nhân cách.
- Ví dụ: QTDH ở trường HNUE là hệ thống những hành động liên tiếp và thâm nhập vào nhau
của giáo viên và học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên, nhằm trang bị cho học sinh những kiến
thức, kỹ năng và bước đầu hình thành kỹ xảo liên quan đến một nghề nhất định, qua đó góp phần
hoàn thiện nhân cách nói chung, hình thành và phát triển nhân cách nghề nghiệp nói riêng ở học sinh.
2) Bản chất của quá trình dạy học
a. Cơ sở xác định bản chất của quá trình dạy học
* Mối quan hệ giữa nhận thức và dạy học trong sự phát triển xã hội:
- Trong xã hội diễn ra hoạt động nhận thức của loài người và hoạt động dạy học cho thế hệ
trẻ. Trong đó, hoạt động nhận thức của loài người có trước hoạt động dạy học và là nhu cầu tất yếu
của xã hội. Tuy nhiên, hoạt động của người học trong dạy học diễn ra trong môi trường sư phạm đặc
biệt và có sự hướng dẫn, tổ chức, điều khiển của thầy.
* Mối quan hệ giữa dạy và học, thầy và trò:
- Dạy và học là hai hoạt động đặc trưng cơ bản của qua trình dạy học có mối quan hệ thống
nhất biện chứng với nhau. Xét cho cùng, mọi hoạt động giảng dạy của thầy và hoạt động học tập của
trò là nhằm thúc đẩy hoạt động nhận thức của người học chiếm lĩnh nội dung học tập được quy định
trong chương trình dạy học nhằm thực hiện tốt mục tiêu nhiệm vụ dạy học.
- Dạy là gi?
"Dạy là một hoạt động đặc trưng của người dạy nhằm tổ chức, điều khiển, tạo ra nhiều điều
kiện và cơ hội cho quá trình học diễn ra một cách thuận lợi và đạt mục đích". Hoạt động phải tổ chức,
sắp xếp các điều kiện, tạo ra các cơ hội thuận lợi và điều khiển, kiểm soát quá trình học nhằm làm
tăng thêm lượng kiến thức, kỹ năng và thay đổi thái độ, cách đánh giá hiện có của người học. Kết quả
cuối cùng là tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình học diễn ra trong một môi trường thuận lợi nhất
- Học là gì?
"Học là một hoạt động tích cực (TC), tự lực và sáng tạo của người học nhằm tạo ra sự thay
đổi trong nhận thức, thái độ và kỹ năng trên cơ sở những kiến thức, thái độ và kỹ năng hiện có của
bản thân".
Học chính là tạo ra sự thay đổi, nếu người học không thay đổi, điều có có nghĩa là chưa diễn ra
quá trình học. Tuy nhiên, sự thay đổi về mặt nhận thức sẽ là mục tiêu cuối cùng của quá trình học.
Nhờ có nhận thức, qua quá trình TC hoạt động, các hành vi, kỹ năng và thái độ của người học sẽ
được điều chỉnh theo hướng hoàn thiện hơn.
- Mối quan hệ giữa dạy và học:
+) Dạy và học là hai hoạt động thống nhất biện chứng (nhưng không đồng nhất) với nhau,
phản ánh tính hai mặt của QTDH và là một quy luật cơ bản của QTDH.
+) Trong lượng kiến thức mà người dạy cung cấp cho người học thì sẽ có một phần không
được người học tiếp nhận
+) Phần vòng tròn tượng trưng cho những kiến thức do người dạy cung cấp bao giờ cũng nhỏ
hơn những gì người học học được
+) Phần vòng tròn tượng trưng cho "những gì được học nhưng không được dạy" sẽ tác động
đến "những gì được dạy và được học".
b.Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức có tính chất độc đáo
của người học dưới sự tổ chức, định hướng, điều khiển của người giáo viên nhằm giúp người học
chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo trên cơ sở đó phát triển các phẩm chất và năng
lực, đáp ứng mục tiêu dạy học.
- Quá trình nhân thức của học sinh giống với các quá trình nhận thức khác (nhận
thức thông thường và nhận thức của nhà khoa học)
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người thông qua chủ thể – đó là sự phản
ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác, tri giác đến tư duy, tưởng tượng. Sự học tập của học
sinh cũng là quá trình như vậy.Quá trình nhận thức của học sinh cũng diễn ra theo quy luật nhận thức
chung của loài người.
Trong quá trình nhận thức, con người muốn nhận thức đầy đủ một vấn đề, một sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan, cần phải huy động các thao tác tư duy ở mức độ cao nhất. Việc huy
động các thao tác tư duy cũng không theo một trình tự đơn thuần mà đó là một sự phối hợp sáng tạo
tùy thuộc vào mỗi cá nhân.
Kết quả nhận thức học sinh nói riêng và loài người nói chung đều có điểm chung
là làm cho vốn hiểu biết của chủ thể tăng lên. Sau mỗi một giai đoạn nhận thức, vốn
hiểu biết của chủ thể tăng lên nhờ sự tích lũy những tri thức, hình thành những kinh
nghiệm mới trong quá trình nhận thức của mình.
-Tính độc đáo quá trình nhận thức của học sinh trong quá trình học tập (điểm khác biệt với
nhận thức thông thường và nhận thức của nhà khoa học)
Trong dạy học, quá trình nhận thức của học sinh diễn ra trong điều kiện sư phạm
đặc biệt. Vì vậy, hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học được tối ưu hoá, chỉ trong thời gian
học tập ngắn, học sinh đã nắm vững được hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách hiệu quả.
Mục đích quá trình nhận thức của học sinh là nhận thức được cái mới đối với
bản thân mình, rút ra từ kho tàng hiểu biết chung của nhân loại. Những tri thức này rút
ra từ tri thức khoa học của các ngành khoa học tương ứng và được gia công về mặt sư
phạm thể hiện trong nội dung dạy học. Trong khi đó, mục đích quá trình nhận thức của
nhà khoa học là mang lại cái mới không chỉ cho nhà khoa học mà cho cả nhân loại về tri thức đó,
một chân lý mới làm sâu sắc và phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
Kết quả quá trình nhận thức của học sinh là nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
hòa được những tri thức đó vào hệ thống vốn kinh nghiệm của bản thân mình, lưu trữ được bền vững,
khi cần có thể tái hiện và vận dụng được trong cuộc sống. Vì vậy những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
được hình thành ở học sinh phải được kiểm tra, đánh giá một cách có kế hoạch và có hệ thống nhằm
đảm bảo tính vững chắc của tri thức thực hiện những yêu cầu về mặt dạy học và giáo dục. Trong quá
trình nhận thức của học sinh, phải có khâu kiểm tra và đánh giá, đảm bảo cho quá trình này hợp thành
một chu trình kín.
Quá trình nhận thức của học sinh trong dạy học luôn mang ý nghĩa giáo dục, bởi
thông qua dạy học các môn học, người học lĩnh hội tri thức khoa học các môn học trên
cơ sở đó hình thành được cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan đúng đắn, phát
triển trí tuệ và những phẩm chất đạo đức của người công dân, người lao động mà xã hội
yêu cầu.
Kết luận sư phạm
- Cần dạy học phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo hoạt động học tập của
học sinh tham gia vào quá trình dạy học.
- Tổ chức, hướng dẫn hoạt động học tập của học sinh một cách khoa học dựa trên cơ sở quy
luật nhận thức, các lý thuyết hoạt động học tập nhằm thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ dạy học.
- Đảm bảo ý nghĩa giáo dục của dạy học , được thể hiện trong mọi hoạt động, mọi khâu, mọi
thành tố của quá trình dạ y học. Ví dụ: nội dung dạy học, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học,
mối quan hệ giao tiếp ứng xử của giáo viên với học sinh…
- Không nên quá cường điệu những nét riêng biệt, độc đáo trong hoạt động học tập của
người học. Nếu như vậy sẽ rơi vào xu hướng sai lầm là chỉ chú trọng truyền đạt cho học sinh một số
tri thức có sẵn, quy trình hoạt động máy móc, mà coi nhẹ việc tổ chức cho học sinh độc lập nghiên
cứu để nắm lấy tri thức và rèn luyện phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu.
- Trong quá trình dạy học, bên cạnh việc trang bị cho học sinh những tri thức khoa học
cơ bản, tổ chức thực hành để hình thành kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống thì người giáo viên
còn cần chú ý sử dụng những phương pháp dạy học, đề xuất các bài tập nhận thức có tác dụng phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập, giúp họ tiếp cận với
hoạt động nhận thức của các nhà khoa học.
Câu 2: Các qui luật cơ bản của quá trình dạy học.
1. Khái niệm:
- Quy luật là hiện tượng có tính bản chất, là mối quan hệ bản chất, bên trong xuyên suốt đối
tượng và quá trình (quan hệ khách quan, tất yếu, lặp lại, phổ biến, bền vững trong những điều kiện
xác định).
- Quy luật dạy học phản ánh những quan hệ chủ yếu, bên trong của những hiện tượng dạy học
quy định sự thể hiện tất yếu và sự phát triển của chúng.
2. Quy luật cơ bản của quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một hiện tượng xã hội, tồn tại như một hệ thống: chứa đựng
các thành tố và những mối quan hệ giữa chúng. Việc xác định những mối quan hệ này,
sắp đặt chúng theo thứ bậc là nhiệm vụ của lí luận dạy học. Dựa trên những thành quả
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, cho tới nay, người ta nêu ra
một số những nối quan hệ tồn tại trong quá trình dạy học mà sự vận động của chúng
mang tính chất như là những quy luật của quá trình dạy học. Trong số những quy luật
đó có thể kể tới:
- Quy luật về tính quy định của xã hội đối với quá trình dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy học và phát triển trí tuệ;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa dạy học và giáo dục tư tưởng chính
trị, đạo đức;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa nội dung dạy học với phương pháp
và phương tiện dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa việc xây dựng kế hoạch, việc tổ
chức, việc điều chỉnh và việc kiểm tra hoạt động của học sinh trong tiến trình thực
hiện;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa nội dung, phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học với mục đích dạy học;
- Quy luật về sự thống nhất biện chứng giữa phương pháp dạy học với phương
pháp khoa học. v.v...
Trong các quy luật nêu trên, lí luận dạy học coi quy luật về sự thống nhất biện
chứng giữa dạy và học là quy luật cơ bản của quá trình dạy học, bởi sự có mặt những
yếu tố dạy và học quy định sự tồn tại, phát triển của quá trình dạy học. Ở đâu nói tới
sự dạy thì ở đó theo nó là sự học.
Câu 3: Một số biện pháp xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh.
2. Động cơ học tập:
- Khái niệm: Động cơ học tập của học sinh là hợp kim giữa sự thúc đẩy bởi động lực học, trong đó,
nhu cầu học là cốt lõi với sự hấp dẫn, lôi cuốn của đối tượng học mà học sinh thấy cần chiếm lĩnh để
thoả mãn nhu cầu học của mình.
- Các loại động cơ học tập:
+ Động cơ học tập trong là động cơ liên quan trực tiếp đến hoạt động học tập, do chính sự tồn tại của
hoạt động học: nhu cầu học, sự ham hiểu biết, hứng thú học, niềm vui và thử thách bản thân, sự thỏa
mãn do thành tựu học tập đem lại.
+ Động cơ học tập ngoài là động cơ rất ít liên quan trực tiếp tới hoạt động học tập mà thường là do
kết quả của hoạt động học tập mang lại: Lời khen, phần thưởng, sự trừng phạt, ý thức trách nhiệm
v.v, tóm lại là toàn bộ các phẩm chất tâm lí cá nhân, các trạng thái tâm lí (vui vẻ/ lo âu v.v) cá nhân
và các yêu cầu, áp lực từ bên ngoài khi tiến hành hoạt động đều có thể trở thành nguồn ở để tạo ra
động lực thúc đẩy hoạt động của cá nhân
- Khi được thúc đẩy từ động cơ trong, học sinh ít cần đến sự khuyến khích hay trừng phạt, bởi vì
chính hoạt động học và sản phẩm của nó là một phần thưởng cao quý. Học sinh học tập được thúc
đẩy bởi động cơ trong thường ít phải diễn ra sự “đấu tranh động cơ”giữa giá trị của những phần
thưởng do việc học mang lại với sự khó khăn, trở ngại do chính việc học nảy sinh. Còn khi hoạt động
học được kích thích bởi động cơ ngoài, thì học sinh không quan tâm đến bản thân hoạt động học, mà
chỉ quan tâm qua hoạt động đó ta sẽ được cái gì? được bằng cấp, phần thưởng hay tránh được sự
trừng phạt từ phía nhà trường hay gia đình v.v…
- Động cơ trong có tác dụng thúc đẩy và phát triển hoạt động học của học sinh và không làm suy
giảm xu thế tích cực của hoạt động học, vì những thành tựu mà học sinh đạt được trong quá trình học
là nguồn vô tận nuôi dưỡng và phát triển động cơ. Còn phần thưởng (động cơ ngoài) cũng kích thích
tính tích cực hoạt động học, nhưng về bản chất sẽ giảm xu thế tích cực của hoạt động, vì sức mạnh
kích thích phụ thuộc vào giá trị của phần thưởng và nhu cầu, sở thích của học sinh đối với phần
thưởng đó.
3. Một số biện pháp xây dựng động cơ học tập:
* Các biện pháp kích thích từ bên trong:
- Hoàn thiện những yêu cầu cơ bản:
+ Cung cấp một môi trường lớp học có tổ chức.
+ Là một người giáo viên luôn quan tâm đến lớp học.
+ Giao những bài tập có thử thách nhưng không quá khó.
+ Làm cho bài tập trở nên có giá trị với học sinh.
- Xây dựng niềm tin và những kì vọng tích cực:
+ Bắt đầu công việc ở mức độ vừa sức của học sinh.
+ Làm cho mục tiêu học tập rõ ràng, cụ thể và có thể đạt tới được.
+ Nhấn mạnh vào sự tự so sánh hơn là cạnh tranh.
+ Thông báo cho học sinh thấy được rằng năng lực học thuật có thể được nâng cao.
+ Làm mẫu những mô hình giải quyết vấn đề tốt.
– Chỉ cho thấy giá trị của học tập:
+ Liên kết giữa bài học với nhu cầu của học sinh.
+ Gắn các hoạt động của lớp học với những nhu cầu, hứng thú của học sinh.
+ Kích thích tính tò mò, ham hiểu biết.
+ Làm cho bài học trở thành “niềm vui”.
+ Cung cấp sự khích lệ, phần thưởng nếu cần thiết.
– Giúp học sinh tập trung vào bài tập:
+ Cho học sinh cơ hội thường xuyên trả lời.
+ Cung cấp cơ hội cho học sinh để có thể tạo ra một sản phẩm cuối cùng nào đó.
+ Tránh việc nhấn mạnh quá mức vào việc tính điểm.
+ Giảm bớt rủi do khi thực hiện bài tập, không xem thường bài tập quá mức.
+ Xây dựng mô hình động cơ học tập.
+ Dạy những chiến thuật, kĩ thuật học tập.
* Các biện pháp kích thích từ bên ngoài:
- Khen thưởng:
• Biểu dương thành công từng phần. Trong mỗi việc nên tìm ra một cái gì đó đáng mừng để động
viên. Nếu xét kĩ lưỡng việc làm của học sinh, chắc chắn ta sẽ tìm ra điểm tốt của họ.
• Biểu dương cố gắng, tiến bộ và thành tích trong những việc làm đơn giản, cũng như những thành
tích hiển hiện. Quan tâm động viên thích đáng đến các học sinh có hoàn cảnh khó khăn, vẫn khắc
phục vượt qua.
- Trách phạt:
• Tìm hiểu kĩ, chỉ trách phạt học sinh khi nào thật đáng trách; khi khen nên hào phóng còn khi
chê nên chặt chẽ.
• Về nguyên tắc hạn chế việc chê, trách học sinh trước tập thể và trước người khác, nhất là đối
với học sinh lớn tuổi.
• Không đột ngột quát tháo. Cần chỉnh lại chỗ sai của học sinh rồi giảng giải cho các em biết để
sửa.
• Không để tình cảm riêng xen vào; nên tỏ thái độ hi vọng vào sự tiến bộ khi trách phạt.
• Không trách phạt với thái độ mỉa mai, miệt thị.
• Chỉ phạt vì công việc, không xúc phạm nhân cách hoặc đưa việc khác vào.
• Sau khi trách, nên có lời động viên, khích lệ để học sinh có niềm tin và cố gắng sửa.
Câu 4: Các nguyên tắc dạy học ở trường phổ thông.
Nguyên tắc dạy học là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lí luận dạy
học, chỉ đạo toàn bộ tiến trình dạy và học nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ dạy
học. Hệ thống các nguyên tắc dạy học ở trường phổ thông bao gồm:
1. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục:
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải vũ trang cho người học những tri thức
khoa học chân chính, phản ánh những thành tựu khoa học, công nghệ và văn hoá hiện đại, phải dần
dần giúp học sinh tiếp cận với những phương pháp học tập, nhận thức, thói quen suy nghĩ và làm việc
một cách khoa học. Thông qua đó mà dần dần hình thành cơ sở thế giới quan khoa học, tình cảm và
những phẩm chất đạo đức cao quý của con người hiện đại.
Chính vì vậy, để thực hiện nguyên tắc này cần phải:
- Vũ trang cho người học những tri thức khoa học chân chính, hiện đại nhằm giúp cho họ nắm
được quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội, tư duy, có cách nhìn và thái độ hành động đúng đắn đối
với hiện thực.
- Cung cấp cho họ những hiểu biết sâu sắc về thiên nhiên, xã hội, con người Việt Nam.Từ đó
giáo dục cho học sinh tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ công dân trước sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước trong học tập và tu dưỡng.
- Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực phân tích, biết phê phán một cách đúng mức
những thông tin đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, những quan niệm khác nhau về
một vấn đề
- Vận dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học theo hướng giúp học sinh làm
quen với một số phương pháp nghiên cứu khoa học ở mức độ đơn giản nhằm dần dần tiếp cận với
hoạt động khoa học, rèn luyện những tác phong, phẩm chất của người nghiên cứu khoa học
Ví dụ: Khi dạy học sinh bài VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP, GV cần
phải giúp HS biết được:
Về kiến thức:
- Nắm được các thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới ở nước ta.
- Nắm được một số định hướng chính để đẩy mạnh công cuộc đổi mới
Bối cảnh
- Ngày 30 - 4 - 1975: Đất nước thống nhất, cả nước tập trung vào hàn gắn các vết thương chiến tranh
và xây dựng, phát triển đất nước.
- Nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu
Thành tựu
- Nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Lạm phát được đẩy lùi và
kiềm chế ở mức một con số.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, (đạt 9,5% năm 1999, 8,4% năm 2005).
Về kĩ năng:
- Khai thác được các thông tin kinh tế - xã hội từ bảng số liệu, biểu đồ.
- Biết liên hệ các kiến thức địa lí với các kiến thức về lịch sử, giáo dục công dân trong lĩnh hội tri
thức mới.
Về thái độ:
Xác định tinh thần trách nhiệm của mỗi người đốivới sự nghiệp phát triển của đất nước.
Như vậy:
Sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục được đảm bảo.
2.Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học nắm vững tri thức, nắm vững cơ sở khoa học,
kỹ thuật, văn hoá khi kết hợp hai điều kiện: Thứ nhất tri thức là những điểm có hệ thống, quan trọng
và then chốt hơn cả. Thứ hai tri thức đó phải được vận dụng trong thực tiễn để cải tạo hiện thực, cải
tạo bản thân. Thông qua đó mà giúp họ ý thức rõ tác dụng của tri thức lý thuyết đối với đời sống, với
thực tiễn, với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, hình thành cho họ những kỹ năng vận dụng
chúng ở những mức độ khác nhau mà mức độ cao nhất là góp phần phát triển kinh tế xã hội và văn
hoá khoa học của đất nước.
Để thực hiện nguyên tắc này cần phải:
- Khi xây dựng kế hoạch chương trình dạy học cần lựa chọn những môn học và những tri cơ
bản, phù hợp với những điều kiện thiên nhiên, với hoàn cảnh thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế
– xã hội
- Về nội dung dạy học phải làm cho người học nắm vững tri thức lý thuyết, thấy rõ nguồn gốc
của những tri thức đó và vai trò của tri thức khoa học đối với thực tiễn
- Về phương pháp dạy học cần khai thác vốn sống của người học để minh hoạ, để đặt ra và giải
quyết những vấn đề lý luận. Thông qua đó, bước đầu giúp học sinh làm quen với những phương pháp
nghiên cứu khoa học
- Về hình thức tổ chức dạy học thì cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học khác nhau
Ví dụ: Giáo viên dạy về phát triển cây công nghiệp lâu năm ở Tây Nguyên
Về lí thuyết
Cho học sinh đọc SGK nắm lí thuyết về phát triểt cây công nghiệp như:
Các loại cây công nghiệp lâu năm về diện tích, sản lượng, phân bố
Về điều kiện thuận lợi: khí hậu, thổ nhưỡng,thị trường, nguồn vốn
Về thực tiễn
Cho học sinh quan sát át lát.
Giới thiệu các hình ảnh về các loại cây công nghiệp.
Kết quả đạt được của học sinh
Biết quan sát và trình bày nội dung bài học
Nắm được lí thuyết và hiểu bài hơn
Vận dụng vào làm các bài tập một cách nhanh chóng
Làm cho tiết học hứng thú hơn
3.Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan và tính trừu tượng trong dạy
học.
Nội dung nguyên tắc:
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học có thể cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với sự
vật, hiện tượng hay hình tượng của chúng, từ đó hình thành những khái niệm, quy luật, lý thuyết;
ngược lại, có thể từ việc lĩnh hội những tri thức lý thuyết trước rồi xem xét những sự vật, hiện tượng
cụ thể sau. Trong việc vận dụng nguyên tắc này bao giờ cũng đảm bảo mối quan hệ qua lại giữa tư
duy cụ thể và tư duy trừu tượng.
Để thực hiện nguyên tắc này cần:
- Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau với tư cách là phương tiện và nguồn
nhận thức.
- Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan và lời nói sinh động, diễn cảm, nghĩa là kết
hợp hai hệ thống tín hiệu.
- Cần sử dụng lời nói giàu hình ảnh để giúp học sinh vận dụng những biểu tượng đã có để hình
thành những biểu tượng mới, qua đó mà hình thành những khái niệm, định luật mới.
- Cần vận dụng một trong những cách sử dụng trực quan nêu trên phù hợp với lứa tuổi, nội
dung và hoàn cảnh cụ thể nhằm hình thành và phát triển tư duy lý thuyết cho họ.
- Cần sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học một cách hiệu quả.
- Đề ra cho học sinh những bài tập nhận thức đòi hỏi phải thiết lập được mối quan hệ giữa cái cụ
thể, cái trừu tượng và ngược lại.
Ví dụ: Tư duy cánh chim bay lên trời và con
người cũng có thể đi trên không, sáng chế ra
máy bay giúp con người đi trên không
lĩnh hội khái niệm tư duy, trừu tượng, khoa học
ở trên lớp và về nhà mới cụ thể, chi tiết.
Trừu tượng:
là bộ phận của cái toàn bộ được tách ra và cô lập với mối quan hệ và sự tương tác giữa các thuộc tính,
các mặt của toàn bộ ấy, cho phép lĩnh hội gián tiếp
4.Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững chắc của tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và
tính mềm dẻo của tư duy.
Đối với học sinh lớp 10 khi học về bài “DÒNG BIỂN”
Học sinh gặp một số khó khăn trong quá trình tiếp nhận tri thức:
Khó nắm quy luật hoạt động của các dòng biển
khó nhớ tên cũng như vị trí của các dòng biển
Giáo viên giúp học sinh hình thành hệ thống tri thức:
Các dòng biển nóng thường di chuyển từ vĩ độ thấp đến vĩ độ cao
Các dòng biển lạnh thì ngược lại
Ở BBC, Các dòng biển di chuyển theo hướng cùng chiều kim đồng hồ
Ở NBC, thì ngược lại
Các dòng biển nóng lạnh đối xứng nhau qua xích đạo
Đặc tính của các dòng biển:
Dòng biển nóng mang đặc tính ẩm và gây mưa nhiều, mùa đông thì ấm, mùa hè thì mát cho nơi nó đi
qua.
Dòng biển nóng thì ngược lại ,mang khí hậu khô và lạnh cho vùng nó đi qua.
Qua đó học sinh hình thành các kĩ năng, kĩ xảo về đọc bảng đồ về các dòng biển, bảng đồ thế
giới…
Từ bài học trên, khả năng tư duy của học sinh cũng được hình thành. Lúc này học sinh vận dụng tính
mềm dẻo của tư duy để giải thích các hiện tượng liên quan đến các dòng biển:
Khí hậu của các nơi khác nhau khi có dòng biển chạy qua.
5.Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính tuần tự trong dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi phải giúp người học lĩnh hội hay nói cách khác là nhận thức được trình tự
hệ thống logic, phải cho người học biết hệ thống những kiến thức khoa học hiện đại. Trong lịch sử
khoa học, sự nhận thức những vật thể và hiện tượng phức tạp hơn thường đi trước sự nhận thức
những thành phần của nó, trong quá trình dạy học ở trường phổ thông khi muốn giới thiệu về tế bào
của động, thực vật thì cần phải giới thiệu những thực vật, động vật trước hay việc trình bày các hợp
chất trước tiên phải nghiên cứu các phân tử, nguyên tử,… Chính vì thế hệ thống hợp lý về mặt lý luận
dạy học của những giáo trình phải được xây dựng trên sự nghiên cứu cẩn thận logic của khoa học và
sự phát triển của những khái niệm, định luật trong lịch sử khoa học và trong ý thức của người học
sinh.
Để thực hiện nguyên tắc dạy học này, về mặt nội dung dạy học cần:
- Xây dựng hệ thống dạy học cần phải phụ thuộc vào lý thuyết làm cơ sở cho việc giảng dạy, với
tính tuần tự như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi để phát triển tư duy lý luận cho học sinh.
6.Thống nhất vai trò chủ đạo của người dạy và vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo độc lập
của học sinh trong dạy học
Trong dạy học, phải đảm bảo mối quan hệ thuận lợi nhất giữa sự chỉ đạo sư phạm của thầy giáo và
lao động tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh
- Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ người học phải tự nhận thức đầy đủ mục đích của việc học
này, nhiệm vụ của mình cần phải làm gì.
- Tính tích cực nhận thức ở đây được hiểu là người học có thái độ tích cực trọng việc học, có sự
tương tác cao trong việc dạy và học của hai.
- Tính sáng tạo độc lập ở đây được hiểu là học sinh tự độc lập trong việc giải quyết các vấn đề, cần
sáng tạo trong lúc cần thiết điều này cần phải linh động từ ý thức tới hành động
Để thực hiện nguyên tắc này, trong quá trình dạy học cần:
- Hoạt động dạy học phải hướng vào người học sinh, phải phát huy cao độ tính tích cực, độc lập,
sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện cho họ có thể học tập bằng chính hoạt động của mình.
- Giáo dục cho học sinh ý thức đầy đủ, sâu sắc về mục đích, nhiệm vụ học tập, từ đó có động cơ,
thái độ học tập đúng đắn.
- Phát huy tư duy ngôn ngữ cho học sinh, khéo léo dẫn dắt học sinh vào các tình huống có vấn đề,
giải các bài tập có tính độc lập.
- Bồi dưỡng cho các em năng lực tự học, tự nghiên cứu, óc hoài nghi khoa học…
- Trong giảng dạy, giáo viên phải thu được thông tin ngược chiều từ phía học sinh để điều chỉnh và
hoàn thiện hơn công tác dạy và học.
8.Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá biệt và
tính tập thể của việc dạy học
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học, khi lựa chọn nội dung, phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học phải không ngừng nâng cao mức độ khó khăn trong học tập, gây nên sự căng
thẳng về trí lực, thể lực một cách cần thiết, nói cách khác, dạy học vừa sức có nghĩa là trong dạy học
phải tạo nên khó khăn vừa sức, những yêu cầu và nhiệm vụ học tập đề ra phải tương ứng với giới hạn
cao nhất của vùng phát triển trí tuệ gần nhất.
Để đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới những đặc điểm cá biệt trong điều kiện tiến hành dạy và
học với cả tập thể cần:
- Xác định mức độ tính chất khó khăn trong quá trình dạy học để thiết lập những cách thức chủ yếu
tạo nên động lực học tập, mở rộng khả năng nhận thức của học sinh, suy nghĩ những biện pháp tiến
hành chung với cả lớp và với từng học sinh.
- Phối hợp hình thức lên lớp, hình thức độc lập công tác của học sinh và hình thức học tập nhóm tại
lớp, trước tập thể lớp, giáo viên đề ra nhiệm vụ chung và dưới sự chỉ đạo của giáo viên, từng cá nhân
suy nghĩ cách giải quyết và trong thời gian đó, giáo viên giúp đỡ những học sinh yếu kém.
- Cách tiến hành dạy học như vậy không chỉ giáo dục tinh thần tập thể cho học sinh, mà từng học
sinh giúp đỡ lẫn nhau nên nhiệm vụ học tập đề ra trở nên vừa sức mỗi người.
Câu5: Khái niệm và chức năng của mục tiêu dạy học
1.Khái niệm
Mục tiêu dạy học là trạng thái phát triển nhân cách được dự kiến trước củangười học sau một
quá trình đào tạo dựa trên yêu cầu phát triển của một ngành nghề nhất định.
Ví dụ: Từ một thanh niên (hoặc quân nhân) trúng tuyển vào trường sỹ quan, sau 4 năm đào tạo
trở thành một sỹ quan quân đội có trình độ cử nhân quân sự và là 1 đảng viên Đảng cộng sản Việt
Nam.Trạng thái phát triển nhân cách của người được đào tạo thể hiện ở phẩm chất vànăng lực hoàn
thành nhiệm vụ sau khi tốt nghiệp mà trước khi được đào tạo họ khôngthể làm được. Như vậy, hiểu
một cách cụ thể hơn:
Mục tiêu dạy học là những nhiệm vụ, công việc mà học viên phải làm được sau một quá trình
học tập mà trước đó họ chưa làm đựơc.
Quá trình đào tạo trong nhà trường là tổng hoà của nhiều hoạt động khác nhau:quá trình dạy học;
quá trình giáo dục (hiểu theo nghĩa hẹp); quá trình rèn luyện…Quá trình dạy học có thể là quá trình
dạy học toàn khoá, một môn học, một bài học. Như vậy, mục tiêu dạy học xác định những kết quả
cần đạt đựơc ở người học. Nó không phải là bản liệt kê hay mô tả nội dung dạy học.
2.Chức năng
- Chức năng định hướng: Giáo viên căn cứ vào mục tiêu dạy học để thiết kế nội dung dạy học,
lựa chọn phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm mang lại hiệu quả tối
ưu cho hoạt động dạy học. Còn học sinh, trên cơ sở ý thức được mục tiêu dạy học sẽ có ý thức, hành
vi điều chỉnh hoạt động học tập của bản thân để hoàn thành tốt các nhiệm vụ dạy học.
- Chức năng kiểm tra - đánh giá: Mục tiêu dạy học như là những thước đo mà giáo viên căn cứ
vào đó để đánh giá kết quả học tập của học sinh, cũng như tự đánh giá hiệu quả hoạt động dạy học
của bản thân
Câu 6: Khái niệm và cấu trúc nội dung dạy học phổ thông.
1. Khái niệm nội dung dạy học và nội dung dạy học phổ thông
Nội dung dạy học là hệ thống những tri thức, kinh nghiệm thực hiện những cách thức hoạt động đã
biết, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo và kinh nghiệm về thái độ đối với thế giới, con người, được xử
lí về mặt sư phạm và được định hướng về mặt chính trị, mà người giáo viên cần tổ chức cho học sinh
lĩnh hội để đảm bảo hình thành và phát triển nhân cách học sinh theo mục tiêu dạy học đã định.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy những đặc trưng của nội dung dạy học là:
- Là một hệ thống bao gồm đầy đủ các yếu tố của cấu trúc kinh nghiệm xã hội cần truyền đạt cho thế
hệ trẻ.
Ví dụ: Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 thực hiện mục tiêu giáo dục hình thành, phát triển
phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua các nội dung giáo dục ngôn ngữ và văn học, giáo dục
toán học, giáo dục khoa học xã hội, giáo dục khoa học tự nhiên, giáo dục công nghệ, giáo dục tin học,
giáo dục công dân, giáo dục quốc phòng và an ninh, giáo dục nghệ thuật, giáo dục thể chất, giáo dục
hướng nghiệp. Mỗi nội dung giáo dục đều được thực hiện ở tất cả các môn học và hoạt động giáo
dục, trong đó có một số môn học và hoạt động giáo dục đảm nhiệm vai trò cốt lõi.
- Được lựa chọn và xây dựng từ kinh nghiệm xã hội của loài người theo một định hướng chính trị
nhất định. Điều đó nói lên tính lịch sử, tính giai cấp của nội dung dạy học.
Ví dụ:
+ Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 xây dựng trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; kế thừa và phát triển những ưu điểm của các chương
trình giáo dục phổ thông đã có của Việt Nam; gắn với nhu cầu phát triển của đất nước, những tiến bộ
của thời đại về khoa học - công nghệ và xã hội; phù hợp với đặc điểm con người, văn hoá Việt Nam,
các giá trị truyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các sáng kiến và
định hướng phát triển chung của UNESCO về giáo dục; tạo cơ hội bình đẳng về quyền được bảo vệ,
chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn trọng và được tham gia của học sinh; đặt
nền tảng cho một xã hội nhân văn, phát triển bền vững và phồn vinh.
+ Luật giáo dục 2019: “Nội dung phải bảo đảm […] coi trọng giáo dục tư tưởng, phẩm chất đạo đức
và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại…nội dung sách giáo khoa không mang định kiến dân tộc, tôn giáo, nghề
nghiệp, giới, lứa tuổi và địa vị xã hội”.
+ Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 môn Lịch sử: “…giúp học sinh có nhận thức đúng về
chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, tiến bộ của dân tộc Việt Nam, vị thế của quốc
gia –dân tộc trong khu vực và trên thế giới trong các thời kì lịch sử, hướng tới xây dựng lòng tự hào
dân tộc chân chính, nhận thức được thế mạnh và cả những hạn chế trong di tồn lịch sử của dân
tộc…”
- Đã được xử lí về mặt sư phạm để phù hợp với đặc điểm tâm lí – sinh lí của học sinh ở từng lứa tuổi,
từng cấp học, bậc học.
Ví dụ (Luật giáo dục 2019): “Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh nền tảng phát triển toàn
diện về thể chất, tình cảm, kỹ năng xã hội; có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con
người; có nhận thức đạo đức xã hội; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói
quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật”.
Nội dung dạy học phổ thông là hệ thống những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về nhiều lĩnh vực ở trình
độ phổ thông mà học sinh cần nắm vững trong suốt thời gian học phổ thông và hệ thống những hoạt
động được tổ chức trong quá trình dạy học nhằm đảm bảo hình thành ở người học thế giới quan, nhân
sinh quan khoa học và những phẩm chất nhân cách của con người mới, chuẩn bị cho các em bước vào
cuộc sống, và lao động sản xuất.
2. Cấu trúc nội dung dạy học:
Nội dung dạy học có 4 thành phần, được cụ thể hóa như sau:
Thứ nhất: Tri thức về nhiều lĩnh vực khác nhau (tự nhiên, xã hội, tư duy, kĩ thuật, phương pháp…).
Sự lĩnh hội các tri thức này sẽ giúp cho học sinh có vốn hiểu biết phong phú, có công cụ để hình
thành thế giới quan khoa học.
Ví dụ: Trong môn chủ nghĩa xã hội khoa học, chúng ta được học về Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa, mang bản chất của giai cấp công nhân, khác
biệt với kiểu Nhà nước tư bản chủ nghĩa của đa số các quốc gia phương Tây. Việc trang bị những
nhận thức chính trị - xã hội về quá trình tất yếu lịch sử dẫn đến hình thành, phát triển hình thái kinh tế
xã hội cộng sản chủ nghĩa góp phần vào sự hình thành niềm tin, lý tưởng và bản lĩnh cách mạng vững
vàng trong mọi tình huống, đồng thời góp phần định hướng chính trị - xã hội cho hoạt động thực tiễn
của Đảng cộng sản trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai: Kinh nghiệm tiến hành các phương thức hoạt động đã biết (KN, KX chung và chuyên
biệt, phương pháp, quy trình…). Nắm vững yếu tố này giúp học sinh vận dụng tri thức để giải quyết
vấn đề cụ thể.
Ví dụ: Trong môn Sinh học 10, qua kiến thức về bài học lên men lactic, học sinh hiểu được nguyên lý
của quá trình lên men (cần điều kiện gì, diễn ra như thế nào,…),… từ đó có thể áp dụng để tiến hành
tự làm sữa chua, dưa cải muối hoặc muối chua hoa quả ở nhà sao cho chất lượng tốt nhất.
Thứ ba: Kinh nghiệm tiến hành các hoạt động sáng tạo (vận dụng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo,
phương pháp và các thao tác tư duy trong những tình huống mới, không giống mẫu). Nhờ có yếu tố
này mà học sinh có năng lực giải quyết vấn đề mới, cải tạo hiện thực, thực hành nghiên cứu khoa học
Ví dụ: Hoạt động nghiên cứu khoa học trong giáo dục STEM (chương trình giáo dục phổ thông mới
2018) yêu cầu học sinh vận dụng linh hoạt, sáng tạo, tích hợp kiến thức liên môn để giải quyết hoặc
xây dựng các mô hình giải quyết vấn đề thực tiễn, đa dạng, mới lạ trên cơ sở phân tích, xử lý vấn đề
theo cách tiếp cận khoa học. Học sinh lúc này không chỉ đơn giản là học và làm theo mẫu mà được
định hướng để tự do sáng tạo, xây dựng phương pháp giải quyết một cách linh động, tích cực, sáng
tạo, tự bản thân làm chủ và vận dụng kiến thức.
Thứ tư: Kinh nghiệm về thái độ cảm xúc đánh giá đối với thế giới, đối với con người. Thành
phần này thể hiện tính giáo dục của nội dung dạy học. Đây là các tri thức, thái độ và hành vi trong các
quan hệ theo những chuẩn mực xã hội. Lĩnh hội yếu tố này sẽ tạo nên niềm tin, lí tưởng, hình thành
hệ thống giá trị đúng đắn ở học sinh.
Ví dụ: Qua môn chủ nghĩa xã hội khoa học, học sinh biết đánh giá hành vi nào là đi ngược lại quan
điểm của nhà nước chủ nghĩa xã hội, từ đó biết phân tích đúng và đấu tranh chống lại những nhận
thức sai lệch, những tuyên truyền chống phá của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động, biết cảnh giác
trong mọi tình huống.
Câu 7: Mối quan hệ giữa các thành phần của nội dung dạy học
Bốn thành phần trên của nội dung dạy học liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau: Tri
thức là cơ sở hình thành KN, KX. Tri thức và KN, KX lại là cơ sở để tạo ra kinh nghiệm hoạt động
sáng tạo. Không có tri thức thì không thể có KN, KX và cũng không thể có hoạt động sáng tạo. Bởi
hoạt động sáng tạo bắt nguồn từ những cái đã biết, trên cơ sở đó mới có những thay đổi, chỉnh sửa
thích hợp. Song, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo không phải tỉ lệ thuận với khối lượng tri thức mà
phụ thuộc vào cách thức lĩnh hội và vận dụng tri thức đó. Đến lượt mình, kinh nghiệm hoạt động sáng
tạo lại tạo điều kịện để lĩnh hội tri thức, KN, KX nhanh hơn, tốt hơn, sâu sắc hơn. Nắm vững các
thành phần trên giúp học sinh có thái độ đánh giá đúng đắn với TN, XH và con người. Còn thái độ tác
động trở lại tạo ra sự tích cực hay không tích cực trong việc lĩnh hội TT, KN, KX và hoạt động sáng
tạo.
Bốn thành phần này không thể thiếu trong NDDH để giáo dục nên con người phát triển toàn diện,
cho nên không được coi nhẹ bất cứ thành phần nào.
Câu 8: Một số kĩ thuật và phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học.
1. Dạy học nêu và giải quyết vấn đề
Bản chất của dạy học nêu và giải quyết vấn đề là tạo nên một chuỗi những tình
huống có vấn đề hấp dẫn, vừa sức và điều khiển học sinh giải quyết các vấn đề học tập
đó thông qua thực hiện các nhiệm vụ học tập .
học sinh sử dụng tri thức đã có nỗ lực giải quyết tình h uống nhưng không thể đạt
kết quả . Lúc này xuất hiện mâu thuẫn nhận thức giữa điều đã biết và điều chưa biết
nhưng muốn biết . sau khi giải quyết xong vấn đề mình đạt được tri thức mới.
Ví dụ : Hình học không gian lớp 11 phá vỡ lý thuyết ở hình học phẳng lớp dưới : “
2 đường thẳng không có điểm chung thì song song hoặc chéo nhau ” => học sinh …
Dạy học nêu và giải quyết vấn đề có các mức độ khác nhau như sau:
– Trình bày có tính chất vấn đề (thuyết trình nêu vấn đề). Giáo viên nêu vấn đề và chủ động
giải quyết vấn đề đó; chỉ ra con đường giải quyết những mâu thuẫn. Học sinh kiểm tra tính
đúng đắn, phù hợp của tiến trình giải quyết vấn đề.
– Tìm tòi bộ phận – Ơristic. Giáo viên nêu vấn đề và dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo
viên, học sinh thực hiện từng phần, từng bước trong tiến trình giải quyết vấn đề do giáo viên
đặt ra (inquiry-based learning).
- Tìm tòi toàn phần. Giáo viên nêu vấn đề; học sinh chủ động đề xuất và thực hiện giải pháp
giải quyết vấn đề (problem solving) dưới sự hỗ trợ của giáo viên khi cần.
– Tự lực nghiên cứu. Giáo viên chỉ đưa ra tình huống có vấn đề; học sinh sau khi tìm hiểu đã
xác định được vấn đề; sau đó, tự lực giải quyết. Trong quá trình học tập, đôi khi học sinh tự
phát hiện ra tình huống có vấn đề mới và giải quyết vấn đề mới nảy sinh đó.
Trong thực tiễn dạy học, các phương pháp dạy học cần được sử dụng kết hợp với nhau, thể hiện sự
tác động thống nhất giữa giáo viên và học sinh. Sự phân biệt rạch ròi giữa phương pháp “truyền
thống” và “hiện đại” không thực sự cần thiết; quan trọng hơn cả là hiệu quả của việc phối hợp
phương pháp dạy học – thể hiện ở việc học sinh đạt được các mục tiêu đặt ra đối với bài học.
Câu 9: Phương tiện tiện dạy học và vai trò của nó.
1.Khái niệm
- Phương tiện dạy học là các thiết bị, dụng cụ, phần mềm ứng dụng CNTT…mà giáo viên sử
dụng để biểu diễn, minh hoạ nội dung dạy học hoặc để tổ chức hoạt động thực hành, thí
nghiệm, chế tạo của học sinh, qua đó nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học
- Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển thì vai trò và yêu cầu đối với phương tiện dạy học
càng cao. Việc lựa chọn và sử dụng phương tiện dạy học cần phù hợp với mục tiêu, nội dung,
phương pháp dạy học và từng đối tượng học sinh
2.Vai trò
Vai trò của phương tiện trong việc dạy
Phương tiện dạy học đóng nhiều vai trò trong quá trình dạy học. Các phương tiện dạy học thay
thế cho những sự vật, hiện tượng và các quá trình xảy ra trong thực tiễn mà giáo viên và học sinh
không thể tiếp cận trực tiếp được.
Chúng giúp cho thầy giáo phát huy tất cả các giác quan của học sinh trong quá trình truyền thụ
kiến thức, do đó giúp cho học sinh nhận biết được quan hệ giữa các hiện tượng và tái hiện được
những khái niệm, quy luật làm cơ sở cho việc đúc rút kinh nghiệm và áp dụng kiến thức đã học vào
thực tế sản xuất.
Câu 10: Mối quan hệ của phương tiện dạy học với các yếu tố của quá trình dạy học.
1. Quan hệ của phương tiện dạy học với mục đích dạy học
- Mục đích được coi như biểu tượng cần đạt được của quá trình hoạt động mà chủ thể đã định
trước. Nó là cơ sở định hướng đúng cho việc thực hiện nội dung phương pháp, tìm kiếm
phương tiện hoạt động của chủ thể
- Mục đích dạy học là cơ sở để chủ thể tiến hành định hướng cho việc lựa chọn phương tiện dạy
học. Tính chất và đặc trưng của mục đích dạy học sẽ quy định tính chất đặc thù của việc lựa
chọn và sử dụng phương tiện dạy học của chủ thể trong quá trình dạy học
2. Quan hệ của phương tiện dạy học với nội dung dạy học
- Mỗi nội dung dạy học cụ thể cần đến các phương pháp cũng như các phương tiện dạy học đặc
thù khác nhau để giúp người dạy truyền tải và người học lĩnh hội. Việc học sinh nắm vững
chắc nội dung dạy học cụ thể sẽ phụ thuộc vào việc lựa chọn và vận dụng một cách phù hợp có
hiệu quả phương tiện dạy học tương ứng của người giáo viên
- Nói chung, các phương tiện kỹ thuật có thể được vận dụng vào để tổ chức dạy học cho nhiều
nội dung dạy học khác nhau. Vấn đề ở chỗ người dạy phải biết cách tiến hành khai thác các
phương tiện dạy trong phạm vi nội dung cụ thể, chọn được phương tiện dạy học phù hợp với
nội dung sẽ làm tăng hiệu quả truyền tải
- Người dạy cần am hiểu mối quan hệ này để có sự sáng tạo và tích cực trong việc tìm, chọn và
vận dụng hợp lí các phương tiện dạy học trong qui trình giảng dạy ở lớp
3. Quan hệ của phương tiện dạy học với phương pháp dạy học
- Giữa phương pháp và phương tiện cũng có mối quan hệ qua lại tương hỗ nhau.
Phương tiện hỗ trợ cho việc thực tiện các tác động của phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học khi đã được xác định sẽ cần tới sự trợ giúp của các phương tiện
dạy học thích hợp, ứng với nội dung dạy học nhất định
- Để làm tăng hiệu quả vận dụng phương pháp dạy học, người ta căn cứ vào thực tiễn mà nỗ lực
tư duy nhằm tìm kiếm cho bằng được các phương tiện dạy học sẵn có để tiến hành thực hiện
các nhiệm vụ dạy học. Sự lựa chọn được các phương tiện phù hợp sẽ đem lại hiệu quả tối ưu
của sự vận dụng phương pháp trong quá trình dạy học cụ thể của mỗi giáo viên.
Câu 11: Các đặc điểm của cơ chế học tập theo các lí thuyết học tập và việc vận dụng các lí
thuyết dạy học trong môn học mình sẽ đảm nhận.
1. Thuyết hành vi: Học là sự thay đổi hành vi
- Dạy học được định hướng theo các hành vi đặc trưng có thể quan sát được.
- Các quá trình học tập phức tạp được chia thành một chuỗi các bước học tập đơn
giản, trong đó bao gồm các hành vi cụ thể.
- Giáo viên hỗ trợ và khuyến khích hành vi đúng đắn, tức là tổ chức việc học tập
sao cho học sinh đạt được hành vi mong muốn và sẽ được phản hồi trực tiếp (khen
thưởng và công nhận).
- Giáo viên thường xuyên điều chỉnh và giám sát quá trình học tập để kiểm soát
tiến độ học tập và điều chỉnh kịp thời những sai lầm.
-Thuyết hành vi được ứng dụng đặc biệt trong dạy học chương trình hóa, dạy học
bằng máy vi tính, trong dạy học thông báo tri thức và huấn luyện thao tác. Trong đó nguyên tắc
quan trọng là phân chia nội dung học tập thành những đơn vị kiến thức nhỏ, tổ chức cho học
lĩnh hội tri thức, kĩ năng theo một trình tự và thường xuyên kiểm tra kết q..uả đầu ra để điều
chỉnh quá trình học tập.
Ví dụ minh họa
-Khi dạy về phần “Cân bằng phản ứng oxi hóa khử bằng phương pháp thăng bằng
electron" Giáo viên chia việc “cân bằng phản ứng oxi hóa khử bằng phương pháp thăng bằng
electron thành nhiều bước sau đó yêu cầu học sinh làm từng bước nhỏ rồi tổng hợp các bước
nhỏ lại để cân bằng được một phản ứng oxi hóa khử
-Cụ thể:
Bước 1: Xác định số oxi hóa của các nguyên tố trong các chất tham gia và chất sản
phẩm của nhiều phương trình phản ứng oxi hóa khử khác nhau để học sinh thành thạo việc xác
định số oxi hóa. Nếu học sinh xác định sai giáo viên có thể gợi ý điều chỉnh lại cho đúng
Bước 2: Xác định vai trò của các chất trong phương trình (đâu là chất khử đâu là chất
oxi hóa) để học sinh có thể viết đúng được các quá trình oxi hóa và quá trình khử.
(Cho học sinh làm với nhiều phương trình khác nhau)
Bước 3: Hướng dẫn học sinh cách thăng bằng electron (Cho học sinh làm với nhiều cặp quá
trình khác nhau)
Bước 4: Hướng dẫn học sinh cách điền hệ số
-Cứ cho học sinh tiến hành thành thạo nhiều bước nhỏ đó để học sinh nắm được các
| bước cân bằng phản ứng oxi hóa khử, từ đó học sinh biết cách cân bằng phản ứng oxi hóa khử
bằng phương pháp thăng bằng electron
- Những đặc điểm cơ bản của học tập theo quan điểm của thuyết Nhận thức là:
- Mục đích của dạy học là tạo ra những khả năng để người học hiểu thế giới thực (kiến thức khách
quan). Vì vậy, để đạt được các mục tiêu học tập, không chỉ kết quả học tập mà quá trình học tập và
quá trình tư duy là điều quan trọng.
- Nhiệm vụ của người dạy là tạo ra môi trường học tập thuận lợi, thường xuyên khuyến khích các
quá trình tư duy, HS cần được tạo cơ hội hành động và tư duy tích cực.
- Giải quyết vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy. Các quá trình tư duy
được thực hiện không chỉ thông qua các vấn đề nhỏ, đưa ra một cách tuyến tính, mà thông qua việc
đưa ra các nội dung học tập phức hợp.
- Các phương pháp học tập có vai trò quan trọng trong quá trình học tập của HS. Các phương pháp
học tập gồm tất cả các cách thức làm việc và tư duy mà HS sử dụng để tổ chức và thực hiện quá trình
học tập của mình một cách hiệu quả nhất.
- Việc học tập thực hiện trong nhóm có vai trò quan trọng, giúp tăng cường những khả năng về mặt
xã hội.
- Cần có sự kết hợp thích hợp giữa những nội dung do GV truyền đạt và những nhiệm vụ tự lực
chiếm lĩnh và vận dụng tri thức của HS.
Cơ chế học tập theo thuyết Kiến tạo trái ngược với cách học tập cơ học theo thuyết Hành vi: thay
cho việc HS tham gia các chương trình dạy học được lập trình sẵn, người ta để cho HS có cơ hội để
tự tìm hiểu. HS phải học tập từ lí trí riêng và có thể làm điều này càng tốt hơn nếu không phải tuân
theo một chương trình giảng dạy cứng nhắc, mà có thể tự mình điều chỉnh rất nhiều quá trình học tập
của chính mình.
-Trong mô hình học tập theo thuyết kiến tạo thì học sinh tự tìm hiểu kiến thức chứ
không tham gia các chương trình dạy học được lập trình sẵn.
- Những đặc điểm cơ bản của học tập theo thuyết kiến tạo:
+Tri thức được lĩnh hội trong học tập là một quá trình và sản phẩm kiến tạo theo từng
cá nhân thong qua tương tác giữa người học và nội dung học tập.
+ Dạy học phải định hướng theo các lĩnh vực và vấn đề phức hợp gần với cuộc sống
và nghề nghiệp, được khảo sát một cách tổng thể.
- Việc học tập chỉ có thể thực hiện trong hoạt động tích cực của người học, vì chỉ từ
những kinh nghiệm và kiến thức mới của bản thân thì mới có thể thay đổi và cá nhân hóa
những kiến thức kĩ năng đã có.
+Học tập trong nhóm có ý nghĩa quan trọng, thong qua tương tác xã hội trong nhóm
góp phần cho người học tự điều chỉnh sự học tập của bản thân.
+ Học qua sai lầm là điều có ý nghĩa
+Nội dung học tập cần định hướng vào hứng thú người học vì có thể học hỏi dễ nhất
từ những nội dung mà người ta thấy hứng thú hoặc có tính thách thức
+ Thuyết kiến tạo không chỉ giới hạn ở những khía cạnh nhận thức của việc dạy và
học. Sự học tập hợp tác đòi hỏi và khuyến khích phát triển không chỉ có lý chí mà cả mặt tình
cảm, thái độ, giao tiếp.
+Mục đích học tập là kiến tạo kiến thức của bản thân, nên khi đánh giá các kết quả
học tập không định hướng theo các sản phẩm học tập, mà cần kiểm tra những tiến bộ trong
quá trình học tập và trong những tình huống học tập phức hợp.
Vi du 1:
Khi học sinh đã học và đã biết được tính chất của một số chất mà nó được sử dụng
làm thực phẩm trong gia đình ví dụ như dấm ăn, nước đường, nước muối, rượu, nước cất (đều
là những dung dịch không có màu), không được dùng cách nghi và nếm thử làm sao có thể
phân biệt được
Học sinh sẽ tự tìm tòi các cách làm khác nhau để tìm ra cách phân biệt
Vi du 2:
- Khi học sinh học về các hợp chất cacbohidrat và tính chất của chúng yêu cầu học
sinh nêu quá trình nấu rượu xuất phát từ nguồn nguyên liệu nào?
- Có thể thêm nguồn nguyên liệu đó bằng các chất khác được không?
- Học sinh sẽ phải tự tìm hiểu thêm để biết được các nguồn nguyên liệu khác có thể
sản xuất ra rượu
Ví du 3:
- Khi dạy về phần phân bón GV đặt ra tình huống: Nếu đi mua phân đạm về bón cho
cây mà ở cửa hàng có 2 loại một loại chứa thành phần chính là KNO3, một loại chứa than
thành phần chính là ure thì nên mua loại nào?
- HS sẽ phải vận dụng kiến thức về độ dinh dưỡng của phân đạm để lựa chọn
Ví dụ 4:
Khi dạy về phần phân loại các phản ứng trong hóa học vô cơ GV có thể đưa ra các
phản ứng thuộc các loại khác nhau, yêu cầu học sinh lấy các ví dụ tương tự rồi từ đó đi đến
kết luận về sự phân loại và khái niệm của các loại phản ứng trong hóa học vô cơ.
Câu 12: Đặc điểm cơ bản của từng loại trí tuệ theo Howard Gardner và phân tích các chiến
lược dạy học tương ứng.
A, Đặc điểm
- Trí tuệ ngôn ngữ. Đó là khả năng sử dụng một cách có hiệu quả các từ ngữ, hoặc bằng lời nói
(như một người kể chuyện, một thuyết khách hay một nhà chính trị), hoặc bằng chữ viết (như một
nhà thơ, nhà soạn kịch, biên tập viên hay nhà báo). Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng xử lí văn
phạm hay cấu trúc ngôn ngữ, âm vị học hay âm thanh của ngôn ngữ, ngữ nghĩa học hay nghĩa của
ngôn ngữ, ngữ dụng học hay việc sử dụng thực tiễn ngôn ngữ. Một số ứng dụng của trí tuệ ngôn ngữ:
+ Thuật hùng biện (dùng lời nói để thuyết phục người khác làm theo một mệnh lệnh, hành
động cụ thể).
+ Thuật gợi nhớ (mượn ngôn ngữ để hồi tưởng các thông tin).
+ Thuật giải thích (dùng lời nói để thuyết trình cho người khác hiểu).
+ Thuật siêu ngôn ngữ (dùng ngôn ngữ để nói về ngôn ngữ).
Vận dụng:
Giáo viên xây dựng phiếu học tập, học sinh nêu cảm nhận của mình về nội dung chính
của bài học thông qua phiếu học tập trong tiết học văn bản “Hai đứa trẻ” (chương trình Ngữ Văn lớp
11). Học sinh được yêu cầu nêu lên cảm nghĩ của bản thân, đặc biệt với phiếu học tập, phương pháp
này giúp các em có cơ hội vận động khả năng ngôn ngữ, sử dụng từ ngữ, đặt câu và viết đoạn văn bày
tỏ quan điểm của cá nhân mình. Qua đó, phát huy khả năng xử lí văn phạm, luyện tập khả năng trình
bày ý tưởng bằng ngôn ngữ viết trôi chảy, sâu sắc.
- Trí tuệ logic – toán học. Đó là khả năng sử dụng có hiệu quả các con số (như nhà toán học,
người lập biểu thuế, nhà thống kê) và lí luận thông thạo (như nhà khoa học, lập trình viên máy tính
hay nhà logic học). Dạng trí tuệ này bao gồm: tính nhạy cảm với các mối quan hệ và các sơ đồ logic;
các mệnh đề và tỉ lệ thức (nếu – thì, nguyên nhân – hệ quả); các hàm số và các dạng trừu tượng hóa
có liên quan. Các ứng dụng của trí tuệ logic – toán học: Thuật xếp loại, phân lớp, suy luận, khái quát
hóa, tính toán và kiểm nghiệm giả thuyết.
Vận dụng:
Giáo viên dựa theo chiến lược Phân loại và xếp hạng để lên giáo án những phần nội dung tổng
kết chương, phần, quá trình học. Giáo viên có thể khai thác mô hình dạng bảng, để hệ thống kiến thức
cho học sinh, đặc biệt là phần văn bản, phần ngữ pháp Tiếng Việt. Ví dụ như bảng phân loại các biện
pháp tu từ (tên biện pháp tu từ, tác dụng, cách sử dụng, ví dụ). Giáo viên hướng dẫn học sinh, học
sinh là người vận dụng, xử lí mô hình bảng mà giáo viên đưa ra. Qua bảng phân loại đó, các em được
hệ thống lại toàn bộ những phần nội dung biện pháp tu từ đã được học một cách logic, tiện lợi, đầy
đủ, khái quát, các em dễ nắm bắt, dễ ghi nhớ, dễ vận dụng khi cần.
- Trí tuệ không gian. Đó là khả năng tiếp nhận một cách chính xác vị trí, định hướng không
gian qua thị giác (ví dụ, một người đi săn, người dẫn đường, người lái xe, cầu thủ) và thực hiện thành
thạo các hoạt động thay hình đổi dạng trên cơ sở các năng khiếu đó (chẳng hạn, một nhà trang trí nội
thất, kiến trúc sư, hoạ sĩ hay một nhà phát minh). Dạng trí tuệ này liên hệ chặt chẽ với tính nhạy cảm
về màu sắc, đường nét, hình dạng và các tương quan vốn có giữa những yếu tố đó. Dạng trí tuệ này
bao gồm khả năng quan sát, khả năng thể hiện bằng đồ thị và khả năng tự định hướng một cách thích
hợp trong không gian.
Vận dụng:
trong giờ học thông qua bài thơ ‘Mùa thu câu cá’ của Nguyễn Khuyến.
-Giáo viên sẽ đặt ra các hình thức khác nhau để học sinh có thể tiếp thu một cách hiệu quả nhất
với việc đưa và sử dụng các tranh ảnh ,phim chiếu hoặc yêu cầu học sinh có thể thiết kế sơ đồ hay vẽ
tranh để trình bày trước lớp về không gian ‘mùa thu’ của Nguyễn Khuyến.
+Giáo viên sẽ có thể trực tiếp tạo hình ảnh thông qua việc vẽ lên bảng tóm tắt sơ đồ gợi ý cho
học sinh về tác phẩm của Nguyễn Khuyến.(ảnh minh họa)
+Từ đây,giáo viên có thể yêu cầu học sinh sẽ vẽ một bức họa về mùa thu thông qua cảnh vật về
màu sắc của ‘ nước trong veo,sóng biếc,trời xanh ngắt’ ; về hình ảnh bình dị ,thân thuộc ‘ao,thuyền
câu,ngõ trúc,...’ trong bài thơ ,từ đó giúp học sinh thoải mái giảm ,giảm bớt sự nhàm chán trong tiết
học tạo nên không gian học đầy thú vị hiểu rõ hơn về đặc trưng của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ mà
nhà thơ Nguyễn Khuyến đã phác họa.
+Cuối cùng sau khi thảo luận ,phân tích xong qua các cách thức giảng bài của giáo viên,giáo
viên có thể lại tiếp tục yêu cầu học sinh có thể tự vẽ lại bằng sơ đồ tư duy về bài thơ hoặc thông qua
một số trò chơi trên bảng tạo không khí hứng thú để học sinh có thể hiểu bài tốt nhất.
- Trí tuệ hình thể - động năng. Đó là sự thành thạo trong việc sử dụng toàn bộ cơ thể để thể
hiện các ý tưởng và cảm xúc (chẳng hạn như một diễn viên kịch, người thuyết minh bằng ngôn ngữ kí
hiệu, một lực sĩ hoặc một nghệ sĩ múa), cũng như sự khéo léo trong việc sử dụng hai bàn tay để sản
xuất hay biến đổi sự vật (chẳng hạn như một nghệ nhân, một nhà điêu khắc, một thợ cơ khí hay một
bác sĩ phẫu thuật). Dạng trí tuệ này bao gồm các kĩ năng cơ thể đặc biệt như sự phối hợp cử động,
khả năng giữ thăng bằng, sự khéo tay, sức mạnh cơ bắp, sự mềm dẻo (tài uốn éo) và tốc độ. Cũng như
các năng khiếu tự cảm, chẩn đoán bằng tay.
Vận dụng:
Dạng trí tuệ hình thể - động năng thường được vận dụng cho môn Ngữ Văn bằng hình thức
nhiệm vụ, trò chơi đóng kịch. Trong chương trình Ngữ Văn lớp 12, học sinh được học văn bản “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt”, đây là một văn bản thể loại kịch của tác giả Lưu Quang Vũ, là một vở kịch
viết về cuộc xung đột căng thẳng giữa Hồn và Xác mà Lưu Quang Vũ đã mượn cốt truyện dân gian
để xây dựng nên. Giáo viên đưa ra nhiệm vụ cho các nhóm học tập, 1 nhóm khoảng 5-7 bạn cùng
thảo luận và thực hiện yêu cầu sau: Đóng vai nhân vật trong vở kịch, nhóm các em hãy diễn lại đoạn
hội thoại giữa Hồn và Xác. Các thành viên trong nhóm sẽ cùng thống nhất lại về nội dung phân cảnh
được yêu cầu, đây là đoạn hội thoại chính và quan trọng nhất, các em trước hết có cơ hội để chủ động
ôn tập, tìm hiểu, nghiên cứu sâu về phần nội dung quan trọng của văn bản, nắm bắt ở mức độ sâu để
cấc em thực hiện phân vai, diễn lại vở kịch. Sau đó các em phân công thành viên theo từng nhiệm vụ:
dựng khung cảnh nền, đóng vai Hồn, đóng vai Xác, người dẫn chuyện… Kiến thức văn bản đã được
các em diễn đạt bằng hình thể, bằng hành động cơ thể, kịch nói, hội thoại. Qua hoạt động này, các em
không những được trải nghiệm những cảm xúc, suy nghĩ khi được sống là nhân vật trong chính câu
chuyện trên giấy các em được đọc, mà bên cạnh đó, các em được phát huy khả năng ứng biến, diễn
đạt hình thể, các em học sinh còn lại cũng được tiếp thu bài học một cách chân thực, sống động hơn.
Giáo viên cần cố gắng cho các em học sinh một tâm thế thoải mái, tự tin, tự nhiên để hoạt động này
được thực hiện một cách hiệu quả nhất.
- Trí tuệ âm nhạc. Đó là khả năng cảm nhận (như người yêu âm nhạc), phân biệt (như nhà phê
bình âm nhạc), biến đổi (như nhà soạn nhạc) và thể hiện (như một nhạc công) các hình thức âm nhạc.
Dạng trí tuệ này bao gồm tính nhạy cảm đối với nhịp điệu, âm sắc, âm tần của một bản nhạc. Một
người có thể nắm bắt âm nhạc một các chung chung, tổng quát “từ trên xuống dưới” (sành nhạc theo
lối trực giác) hoặc nắm bắt âm nhạc một các chính quy, có bài bản, “từ dưới lên trên” (sành nhạc theo
lối phân tích, qua nhạc lí). Trí tuệ âm nhạc còn có thể là một kết hợp của hai dạng thưởng thức này.
Vận dụng:
trong môn ngữ văn thông qua bài thơ ‘Sóng’ của nhà thơ Xuân Quỳnh trong tiết học trên lớp.
-Trước hết,giáo viên sẽ yêu cầu học sinh đọc trôi chảy bài thơ và suy ngẫm trước khi phân tích
cụ thể và để làm rõ hơn có trí tưởng tượng sâu sắc hơn giáo viên sẽ tìm những giai điệu ,bài hát ,âm
thanh du dương,...để học sinh có thể cảm nhận tiếng’sóng’ của biển cả mêng mông rộng hơn là tiếng
‘sóng’ của nỗi lòng thi sĩ.Như việc mở băng đoạn hát của các ca sĩ hay những bạn trẻ cover lại , hơn
nữa giáo viên có thể trực tiếp mời các thành viên trong lớp có thể tự thể hiện bạn thân trước lớp thông
qua việc hát,thổi sáo,... từ đó sẽ giúp âm nhạc đi vào trong suy nghĩ của học sinh cảm nhận nó dễ
dàng hơn trong bài thơ.
-Giáo viên cũng có thể hướng dẫn học sinh tìm kiếm trên mạng về những giai điệu liên quan
đến bài cụ thể như giai điệu của ‘tiếng sóng ào ạt’ giúp học sinh liên tưởng đến con sóng tình yêu
nồng cháy mãnh liệt của thi sĩ Xuân Quỳnh ,giai điệu của ‘tiếng sóng dịu êm’ lại giúp học sinh hình
dung ra hình ảnh người phụ nữ đang có một nỗi niềm riêng trong tình yêu,...nó sẽ giúp học sinh như
hòa vào chính cảm xúc của người viết trong bài thơ.
-Hơn nữa,giáo viên có thể yêu cầu học sinh ghi âm lại những trọng tâm bài học có ghép nhạc
kèm theo để dễ dàng tiếp thu hơn như hình tượng giữa ‘sóng’ và ‘em’ lúc phân tách,lúc lại soi chiếu
vào nhau,lúc hòa nhập làm nên một cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh thông qua việc ghi âm
bài giảng về các đoạn thơ.
- Trí tuệ giao tiếp. Đó là khả năng cảm nhận và phân biệt giữa các tâm trạng, ý đồ, động cơ và
cảm nghĩ của người khác. Dạng trí tuệ này bao gồm năng khiếu nắm bắt những thay đổi về nét mặt,
giọng nói, động tác, tư thế; khả năng phân biệt các biểu hiện giao lưu giữa người với người và đáp
ứng các biểu hiện đó một cách thích hợp.
Vận dụng:
Vận dụng kĩ thuật “ Chia sẻ nhóm đôi “
Bước 1 : Giáo viên giới thiệu vấn đề, đặt câu hỏi mở và dành thời gian để học sinh suy nghĩ
Bước 2 : Học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý tưởng, thảo luận, phân loại với nhau
Bước 3 : Nhóm đôi này lại tiếp tục chia sẻ với nhóm đôi khác hoặc với cả lớp
Việc sử dụng kĩ thuật “chia sẻ nhóm đôi” trong dạy học giúp cho không khí lớp học thêm
sôi nổi, học sinh được mạnh dạn, tự tin chia sẻ ý kiến của mình, giúp cho các em được rèn
luyện khả năng giải quyết vấn đề và kĩ năng lắng nghe tích cực.
- Trí tuệ nội tâm. Đó là khả năng hiểu biết bản thân và hành động một các thích hợp trên cơ sở
sự tự hiểu mình. Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng có một hình ảnh rõ nét về mình (về ưu điểm, hạn
chế của chính mình); ý thức đầy đủ và đúng về tâm trạng, ý đồ, động cơ, tính khí và ước ao của riêng
mình; kèm theo khả năng tự kiềm chế, tự kiểm soát (tính kỉ luật, tự kỉ), lòng tự trọng.
Vận dụng:
trong môn Ngữ Văn qua tác phẩm ‘Chí Phèo’ về diễn biến tâm trạng của Chí trong giờ học.
-Thứ nhất,sau khi học sinh đọc văn bản xong giáo viên sẽ đặt ra các câu hỏi để học sinh có thể
suy ngẵm trong vài phút về tâm trạng trước và sau khi gặp Thị Nở.Từ đó học sinh có thể tiếp thu,duy
trì ‘tính năng động’ và ‘tính sẵn sằng’, nghĩa là học sinh sẽ liên tưởng trong đầu những hình ảnh,âm
thanh,độc thoại nội tâm,....từ đó giúp học sinh sẵn sàng trả lời câu hỏi ,đạt được hiệu quả tốt nhất .
+Cụ thể như trong tác phẩm đó là sau khi gặp Nở ,học sinh sẽ liên tưởng đến những cảm
xúc ,tâm trạng của Chí về sự thức tỉnh của Chí Phèo thông qua những hội thoại nội tâm của Chí về
thời gian ,cảm thấy sự bâng khuâng,mơ hồ trong lòng ,hắn nhận ra những âm thanh của sự sống
’tiếng chim hót,mặt trời lên cao....’
-Thứ hai, giáo viên sẽ liên kết các cá nhân lại để học sinh tìm được ra câu trả lời về những điều
đã học với thực tiễn .Học sinh sẽ ngẫm ra từ cuộc đời của Chí về xã hội đầy định kiến nhưng đã tìm
thấy tình yêu thương sau khi gặp Nở.
-Thứ ba,từ việc suy ngẫm đó học sinh sẽ bộc lộ cảm xúc thông qua một số hình thức trong giờ
học như phát biểu ý kiến về sự thức tỉnh của Chí,xem trích đoạn video về hình ảnh Thị Nở nấu bát
cháo hành,..để tăng thêm sự tiếp thu thông qua một phân đoạn trong bài.
-Cuối cùng,giáo viên sẽ đưa ra phần kết luận này và đặt ra câu hỏi để học sinh có thể tự đặt
mục đích về việc hiểu bài như ‘Các bạn có thể liệt kê những hình ảnh thích nhất trong cảnh Chí gặp
Thị sau bài học hôm nay hay không ?.Hay các bạn có suy nghĩ gì về tình yêu của Thị dành cho Chí ?
- Trí tuệ tự nhiên học. Đó là năng khiếu nắm bắt, nhận dạng và phân loại các loài đông đảo
(thực vật và động vật) có trong môi trường. Dạng trí tuệ này cũng bao gồm sự nhạy cảm đối với các
hiện tượng thiên nhiên (chẳng hạn, sự hình thành mây, sự tạo thành núi…). Đối với những người
sống ở đô thị, loại trí thông minh này thể hiện ở năng khiếu phân biệt giữa các vật ô tô, quần áo, máy
tính…
Vận dụng:
Tổ chức các chuyến đi thực tế ( Tham quan vườn bách thú, bảo tàng địa phương,… ) hay các buổi dã
ngoại, cắm trại ở công viên hay khu rừng nhỏ nào đó cho học sinh và giáo viên vận dụng những vật
tự nhiên mà học sinh có thể nhìn thấy, sờ nắm, cảm nhận,… để dẫn dắt vào bài học
Tạo cơ hội cho học sinh tương tác với môi trường bên ngoài giúp các bạn hứng thú với môn học
đồng thời kích thích sự sáng tạo và để lại ấn tượng sâu sắc về bài học với học sinh
Câu 16: Mối quan hệ giữa dạy học trải nghiệm với hoạt động giáo dục trải nghiệm trong nhà
trường.
Để nâng cao kết quả học tập, hướng tới hình thành và phát triển năng lực cho người học, việc
dạy học cần phải dựa trên quá trình trải nghiệm của người học, dựa trên kiến thức và kinh nghiệm sẵn
có của người học để tạo môi trường, cơ hội nhằm giúp họ làm mới, bổ sung, nâng cao hoàn chỉnh...
những kinh nghiệm cũ, đồng thời việc xem xét mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học, kiểm soát, đánh giá quá trình học của người học phải dưới góc nhìn của trải nghiệm. Ngoài
ra, quá trình trải nghiệm của người học không nhất thiết phải là trải nghiệm hoạt động mà có thể là
trải nghiệm cảm xúc hoặc nhận thức.
Như vậy, dạy học theo tiếp cận trải nghiệm được định nghĩa như sau:
Dạy học theo tiếp cận trải nghiệm là một quan điểm dạy học, trong đó người dạy dựa
vào lý thuyết học tập trải nghiệm để tổ chức cho người học được tham gia vào các hoạt
động thực tiễn, dựa trên hiểu biết và kinh nghiệm sẵn có của chính người học, nhằm giúp
người học phát triển năng lực và cảm xúc học tập tích cực.