You are on page 1of 20

Trường Đại học Luật TP.

Hồ Chí Minh

Lớp Dân sự 45.1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT

NGHĨA VỤ

Môn: Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải

Nhóm: 05

Danh sách thành viên:

1 Hoàng Thị Đào 2053801012047


2 Đỗ Nguyễn Hoàng Anh 2053801012009
3 Tạ Minh Anh 2053801012023
4 Trần Tuyết Anh 2053801012026
5 Bùi Công Dân 2053801012044
6 Phan Thành Đạt 2053801012051
7 Nguyễn Phương Đông 2053801012060
8 Đỗ Thị Hương Giang 2053801012069
9 Đỗ Mỹ Hằng 2053801012083

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 09 năm 2021


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN...................1
Câu 1.1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?................................1
Câu 1.2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ?.......................................................................................................................... 1
Câu 1.3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực
hiện công việc không có ủy quyền"........................................................................1
Câu 1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền" theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện...............................................2
Câu 1.5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có
thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của
chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không? Vì
sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..........................................................................3
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)
................................................................................................................................... 5
Câu 2.1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?..........................................................................5
Câu 2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời............................6
Câu 2.3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao? 6
Câu 2.4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị
nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ
Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?.........................................................................6
Câu 2.5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa?
Nêu một tiền lệ (nếu có)?.......................................................................................7
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN.....................9
Câu 3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?..................................................................9
Câu 3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán
cho bà Tú?............................................................................................................11
Câu 3.3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?..............................................11
Câu 3.4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?................................11
Câu 3.5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm
đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................................................12
Câu 3.6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện......................................................................................................................13
Câu 3.7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?...........................................13
Câu 3.8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền....................................................................14
Câu 3.9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án....................15
Câu 3.10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh
có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời...........................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1

VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN


Câu 1.1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
“Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa
vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của
người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không
phản đối.” theo điều 574 Luật dân sự 2015.

Câu 1.2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ?
Thực hiện công việc không có ủy quyền là những sự kiện có thể xảy ra trong
thực tế, được pháp luật dự liệu trước và công nhận là có giá trị pháp lý thông qua
các quy phạm pháp luật nhất định, cụ thể: Khoản 3 Điều 275, Điều 574 đến Điều
578 BLDS 2015. Sự xuất hiện của các sự kiện pháp lý này chính là nguyên nhân
khiến những quan hệ pháp luật dân sự phát sinh, thay đổi và chấm dứt, kéo theo đó
là nghĩa vụ giữa các bên chủ thể được hình thành. Vì vậy, có thể nói thực hiện công
việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ.

Câu 1.3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực
hiện công việc không có ủy quyền".
Về khái niệm: Điều 594 BLDS 2005 quy định: “Thực hiện công việc không
có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự
nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được
thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”. Tuy nhiên, Điều
574 BLDS 2015 đã bỏ đi chữ “hoàn toàn”. Thay đổi trên là hoàn toàn hợp lí vì
trong thực tế, có nhiều trường hợp một người thực hiện công việc không có ủy
quyền không chỉ hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện mà còn
để đảm bảo cho lợi ích của bản thân.

Về nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền:

- Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015 quy định các trường hợp người thực hiện
công việc không có ủy quyền không cần phải báo cho người có công việc
được thực hiện về quá trình và kết quả thực hiện công việc bao gồm cả
“không biết nơi cư trú” và không biết trụ sở của người có công việc được
thực hiện. Còn Khoản 3 Điều 595 BLDS 2005 thì chỉ quy định về “không
biết nơi cư trú”. Sự bổ sung trên là hoàn toàn hợp lí vì chủ thể của luật dân
2

sự ngoài cá nhân thì còn có pháp nhân. Theo đó, với một pháp nhân thì lại
không tồn tại khái niệm “nơi cư trú” mà lại là khái niệm “trụ sở”, tức nơi đặt
cơ quan điều hành của pháp nhân đó.
- Khoản 4 Điều 575 BLDS 2015 quy định rõ ràng về trường hợp người có
công việc được thực hiện chết, nếu là cá nhân và chấm dứt tồn tại nếu là
pháp nhân thì người thực hiện công việc phải tiếp tục thực hiện công việc...,
trong khi Khoản 4 Điều 595 BLDS năm 2005 thì lại không quy định đối với
pháp nhân. Sự bổ sung trên là hoàn toàn hợp lí vì chủ thể của luật dân sự
không chỉ có cá nhân mà còn bao gồm pháp nhân. Mà đối với pháp nhân,
khái niệm “chết” không tồn tại mà thay vào đó là “chấm dứt tồn tại”.

Về chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền:

- Khoản 4 Điều 578 BLDS quy định rõ ràng một trong các trường hợp chấm
dứt thực hiện công việc không có ủy quyền là “người thực hiện công việc
không có ủy quyền chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp
nhân” trong khi Khoản 4 Điều 598 BLDS 2005 chỉ quy định: “người thực
hiện công việc không có ủy quyền chết”. Sự thay đổi này hoàn toàn hợp lí vì
có bổ sung thêm quy định đối với pháp nhân. Theo đó, đối với một pháp
nhân thì không có khái niệm “chết” mà chỉ có “chấm dứt tồn tại.

Câu 1.4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền" theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền”:

1. Khi có công việc cần thiết, cấp bách mà theo đó, các công việc này cần phải
thực hiện ngay. Nếu không được thực hiện thì chủ công việc hoặc những
người xung quanh sẽ phải chịu hậu quả bất lợi hơn.
2. Có người có nhu cầu thực hiện công việc. Mặc dù Bộ Luật Dân sự 2015
không thể hiện rõ điều kiện để áp dụng chế định này, nhưng dựa vào quy
định tại Điều 574 và các vụ việc xảy ra trên thực tế, chúng ta hiểu rằng, phải
có một người có công việc cần thực hiện (nếu không có ai có công việc có
nhu cầu được thực hiện thì chế định này không có ý nghĩa). Chính yêu cầu
này đã làm xuất hiện thuật ngữ “người có công việc” trong BLDS như tại
một số điều luật: Điều 575, Điều 576, Điều 577.
3

3. Người khác thực hiện công việc. Với quy định trên, để thực hiện công việc
không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự, thì phải có một
người “thực hiện công việc” của người khác. Trong điều kiện này, Bộ Luật
Dân sự không có quy định về năng lực hành vi của người thực hiện công việc
không có ủy quyền nên ai cũng có thể là người thực hiện công việc không có
ủy quyền.
4. Người thực hiện công việc không có nghĩa vụ. Với quy định trên, người thực
hiện công việc là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó. Nghĩa vụ
ở đây là nghĩa vụ pháp lý do luật định hoặc do các bên thỏa thuận.
5. Vì lợi ích của người có công việc. Yêu cầu này có thể được hiểu theo hai
nghĩa. Nghĩa thứ nhất là người thực hiện công việc không có lợi ích trong
công việc mà họ thực hiện, và tất cả đều vì lợi ích của người có công việc
được thực hiện. Nghĩa thứ hai là việc thực hiện công việc vì lợi ích của
người có công việc được thực hiện và không loại trừ khả năng người tiến
hành công việc cũng có lợi ích từ việc thực hiện. Nói theo cách khác là chế
định nào cũng có thể được áp dụng khi người thực hiện có lợi trong việc thực
hiện.
6. Các điều kiện khác. Ngoài các điều kiện quan trọng trên, việc áp dụng chế
định thực hiện công việc không có ủy quyền còn phải đáp ứng điều kiện
khác. Giữa người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện
không tồn tại một hợp đồng, không có ủy quyền.

Câu 1.5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C
có thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định
của chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không?
Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong tình huống nêu trên, nhà thầu C không thể yêu cầu chủ đầu tư A thực
hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc
không có ủy quyền” theo BLDS năm 2015, vì không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện
để phát nghĩa vụ do thực hiện công việc không có ủy quyền. Cụ thể như sau:

- Việc xây dựng xong công trình của nhà thầu C không phải là công việc cần
thiết cấp bách. Việc xây dựng công trình này nếu không được thực hiện ngay
cũng không làm cho chủ đầu tư A sẽ phải chịu hậu quả bất lợi hơn.
4

- Nhà thầu C không tự nguyện mà có thông qua thỏa thuận để thực hiện việc
xây dựng công trình.
- Nhà thầu C không xây dựng công trình đơn thuần vì lợi ích của chủ đầu tư A
mà là do lợi nhuận đã thỏa thuận với B.

Cơ sở pháp lý: Điều 574 BLDS 2015.


5

VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)


Tóm tắt quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội.

Nguyên đơn là cụ Ngô Quang Bảng, bị đơn là bà Mai Hương, cụ Bảng và bà


Hương tranh chấp với nhau về nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng chuyển nhượng nhà
và quyền sử dụng đất.

Ngày 26/11/1991, cụ Bảng chuyển nhượng nhà, đất diện tích 1.010m2 tại thị
trấn Quảng Yên, huyện Yên Hưng cho vợ chồng bà Mai Hương. Tuy nhiên, bà
Hương chưa thanh toán hết tiền nhận chuyển nhượng đất cho cụ Bảng khi mới
thanh toán được cho cụ số tiền 4.000.000 đồng trong tổng số tiền 5.000.000 đồng
mà đã chuyển nhượng toàn bộ đất, nhà trên cho vợ chồng ông Hoàng Văn Chinh.
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xác định số tiền 1.000.000 đồng là khoản tiền
nợ và buộc bà Hương phải trả số tiền này cùng lãi suất theo quy định. Tòa án nhân
dân cấp cao Hà Nội quyết định hủy bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ
lại cho Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm

Tòa giám đốc thẩm đã xác định sửa bản án phúc thẩm, buộc bà Hương phải
trả cho cụ Bảng sô tiền tương đương 1/5 giá trị quyền sử dụng đất nhận chuyển
nhượng theo định giá của Tòa án cấp sơ thẩm.

Câu 2.1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như
thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Theo Điểm a Khoản 1 Phần I Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng
dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản có quy định: “a) Nếu việc gây thiệt hại
hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và trong thời gian từ
thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá
gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo
loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây
thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại
thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu
án phí theo số tiền đó.”
6

Thông tư trên đã cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán theo “giá
gạo” tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó
thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài
sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.

Giá trị khoản tiền phải thanh toán được tính lại qua trung gian là gạo.

Câu 2.2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là 5.475.000đ.

- Cơ sở pháp lý: Điểm a Mục 1 Chương I Thông tư 01/TTLT năm 1997.


- Cách tính cụ thể:

Giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg => Số lượng gạo tương ứng =
50.000đ/137đ = 365 kg.

Giá gạo trung bình hiện nay là 15.000đ/kg => Số tiền ông Quới cần trả =
15.000đ x 365 kg = 5.475.000đ.

Câu 2.3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?
Căn cứ Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997:

- Điều 1 chỉ điều chỉnh đối với nghĩa vụ tài sản là các khoản tiền, vàng: các
khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản,
tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu
thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính.
- Điều 2 chỉ điều chỉnh đối với nghĩa vụ về tài sản là hiện vật

Do đó, thông tư trên không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng
chuyển nhượng bất động sản như trong quyết định số 15/2018/DS-GĐT

Câu 2.4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị
nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì,
theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán
cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?

Trong bản án, TAND cấp cao tại Hà Nội có nói rõ: “Bà Hương phải thanh
toán cho cụ Bảng số tiền còn nợ tương ứng với 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại
7

thời điểm xét xử sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2 tiểu mục 2.1, mục 2,
phần II nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.”

Do đó, nếu xác định giá trị nhà đất là 1.697.760.000đ thì bà Hương phải
thanh toán cho cụ Bảng số tiền là: 339.552.000đ

Câu 2.5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Hướng như trên tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. Đó là
Quyết định Giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 “Vụ án tranh chấp
nhà đất với đòi nợ”.

Tóm tắt bản án:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Lai.

Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân.

Diễn biến vụ việc:

Năm 1994, bà Lai cho ông Xuân vay 11.500.000đ (giấy ghi nợ không ghi rõ
ngày tháng năm nhưng hai bên đều thống nhất thời gian cho vay là năm 1994).

Ngày 12/02/1996, bà Lai cho ông Xuân vay tiếp 128.954.000đ.

Ngày 08/8/1996, hai bên thống nhất số tiền nợ (lẫn lãi) là 188.600.000đ,
đồng thời thỏa thuận chuyển nhượng căn nhà số 19 Chu Văn An cho bà Lai với giá
188.600.000đ.

Do vợ chồng ông Xuân không thanh toán nợ và không giao nhà mà vẫn quản
lý ngôi nhà nên bà Lai vẫn tính lãi của số tiền 188.600.000đ.

Ngày 05/8/1997, vợ chồng ông Xuân và vợ chồng bà Lai tiếp tục chốt nợ gốc
và lãi từ 188.600.000đ lên 250.000.000đ; hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với giá 250.000.000đ.

Sau khi lập hợp đồng, bà Lai vẫn tính lãi số tiền 250.000.000đ trong thời
gian 02 tháng thành 6.000.000đ để cộng dồn vào số tiền 44.000.000đ bà Lai đã cho
ông Xuân vay vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ.

Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
8

Vụ tranh chấp phải giải quyết cả hai quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà
đất. Xác minh, thu thập các chứng cứ chứng minh rằng liệu thủ tục làm giấy tờ mua
bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có theo quy trình pháp luật quy định
hay không.

Trường hợp xác định được việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất là hợp
pháp và bên mua chưa trả đủ tiền thanh toán thì phần còn thiếu sẽ được tính thông
qua giá trị của tài sản chuyển nhượng tại thị trường địa phương tại thời điểm xét xử.

Đây chính là tiền lệ cho hướng giải quyết cho Tòa án nhân dân cấp cao của
Hà Nội tại Quyết định số 28/2018/DS-GĐT
9

VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN


Tóm tắt bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã
Châu Đốc, tỉnh An Giang.

Năm 2003, bà Tú cho bà Phượng vay số tiền 550.000.000đ với lãi suất 1,8%
có biên nhận. Ngày 27/02/2004, bà Tú tiếp tục vay ngân hàng cho bà Phượng vay
lại số tiền 615.000.000đ có biên nhận.

Đến 4/2005, bà Phượng không có tiền trả nên nhờ bà Tú vay nóng bến ngoài
để trả ngân hàng khi đến hạn và và đồng ý trả số tiền lãi 2,5% trên số vay
615.000.000đ, đồng thời bà Phượng xin giảm lãi xuống 1,3% sau đó đến 5/2005, bà
Phượng ngưng trả lãi theo thảo thuận.

Tuy nhiên, bà Phượng cho bà Ngọc vay 465.000.000đ và bà Phùng Thị Bích
Loan cùng chồng là Trần Phú Thạnh vay 150.000.000đ. Nghĩa vụ trả nợ vay của bà
Phượng đã chấm dứt, đồng thời phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan với ông
Thạnh khi hợp đồng vay tiền đã ký. Vào tháng 3/2007, bà Phượng đã trả
8.350.000đ, còn lại 14.900.000đ bà Ngọc đã thừa nhận và đồng ý trả vào ngày
26/06 và 06/09 năm 2007, Như vậy, tổng số tiền còn lại bà Ngọc phải trả cho bà Tú
là 651.981.000đ.

Vì thế, Tòa án nhân dân thị xã Châu Đốc ra quyết định buộc bà Ngọc phải trả
cho bà Tú số tiền trên.

Câu 3.1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Cơ sở pháp lý: Điều 365, 370, 371 BLDS 2015.
Điểm giống nhau:
- Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/ bên có quyền nếu chuyển
giao quyền/chuyển giao nghĩa vụ.
- Không được chuyển giao trong trường hai bên dã thỏa thuận không
chuyển giao hoặc pháp luật có quy định về việc không được chuyển
giao, như nghĩa vụ gắn liền với nhân thân, quyền yêu cầu cấp dưỡng,
bồi dưỡng do xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân thân,
uy tín.
10

- Hậu quả pháp lí là làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao
quyền/nghĩa vụ, làm phát sinh tư cách chủ thể, quyền và nghĩa vụ dân
sự ở người được chuyển giao.
- Sau khi chuyển giao quyền/ nghĩa vụ, bên có quyền/ nghĩa vụ ban đầu
chấm dứt toàn bộ quan hệ nghĩa vụ với bên có nghĩa vụ/ quyền.
- Xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên.
- Chỉ áp dụng đối với các nghĩa vụ quan hệ đang còn hiệu lực.
- Hình thức thực hiện: bằng văn bản hoặc bằng lời nói trừ trường hợp
pháp luật có quy định việc chuyển giao phải được lập thành văn bản,
phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký, xin phép thì mới
tuân thực hiện theo quy định đó. (điều 310, 316 Bộ Luật dân sự 2015)
Điểm khác nhau:
Tiêu chí Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ
theo thoả thuận
Đối tượng có Bên có quyền có quyền Bên có nghĩa vụ có thể
quyền chuyển giao quyền cho sang chuyển nghĩa vụ cho bên
chuyển giao bên thứ ba (người thế quyền) thứ ba (người thế nghĩa vụ)

Nguyên tắc Người chuyển giao quyền yêu Người đã chuyển giao nghĩa
cầu không phải chịu trách vụ phải chịu trách nhiệm về
nhiệm về khả năng thực hiện khả năng thực hiện nghĩa vụ
nghĩa vụ của bên có nghĩa của mình đối với bên
vụ nên việc chuyển giao có quyền nên để bảo vệ lợi
quyền không cần có sự đồng ích của bên có quyền, việc
ý của bên có nghĩa vụ (khoản chuyển giao nghĩa vụ phải
2 Điều 365 BLDS) được sự đồng ý của bên có
quyền (khoản 1 Điều 370
BLDS)
Hiệu lực của Đối với chuyển quyền yêu Đối với chuyển giao nghĩa
biện pháp cầu có các biện pháp bảo đảm vụ có biện pháp bảo đảm thì
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì việc biện pháp bảo đảm sẽ
chuyển giao quyền yêu cầu đương nhiên chấm dứt, trừ
bao gồm cả các biện pháp bảo trường hợp có thỏa thuận
đảm đó (Điều 368 BLDS). khác (Điều 371 BLDS).
Người chuyển giao quyền có Không quy định về nghĩa
nghĩa vụ đối với người thế vụ của người chuyển giao
quyền: người chuyển giao nghĩa vụ đối với người thế
quyền yêu cầu vi phạm nghĩa nghĩa vụ.
11

vụ cung cấp thông tin và


chuyển giao giấy tờ có liên
quan cho người thế quyền mà
gây thiệt hại thì phải bồi
thường thiệt hại (Điều 366
BLDS).

Câu 3.2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán
cho bà Tú?
Thông tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú
là: “...Theo lời khai của bà Tú thì chính bà Phượng yêu cầu cho Phượng vay tiền để
kinh doanh cá khô xuất khẩu [...] Bà Phượng có làm đơn nhận tiền với bà Tú”.

“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là
người trực tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555 triệu đồng và
theo biên nhận ngày 27/4/2004 thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền
615 triệu đồng. Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc
thỏa thuận vay tiền của bà Tú. Cũng theo lời khai của bà Phượng, tháng 4/2014 do
bà Loan, ông Thạnh, bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả Ngân Hàng nên bà
Phượng cùng bà Tú vay nóng bên ngoài để trả Ngân Hàng. Xác định bà Phượng là
người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú”.

“Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú, phía bà Phượng đã vi
phạm nghĩa vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú”.

Câu 3.3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Trong bản án đoạn cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển
sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh là: “...phía bà Tú đã chấp nhận cho bà
Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh thể hiện qua
việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho
bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ
thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh thì nghĩa
vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc yêu
cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà Tú là không có căn cứ chấp
nhận”.
12

Câu 3.4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
Thấy rằng, Điều 370 BLDS 2015 nêu trên có đề cập tới việc chuyển giao
nhưng không cho biết cụ thể người có nghĩa vụ ban đầu có được giải phóng nghĩa
vụ hay không.
Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ thực tiễn xét xử, nghĩa vụ đó có thể được giải
phóng.
Theo quan điểm của tôi thì đánh giá trên của Tòa án là hợp lý.
- Thứ nhất, luật quy định, khi chuyển giao nghĩa vụ phải có sự đồng ý của bên
có quyền, đồng nghĩa với việc người có quyền phải xét đến điều kiện, khả
năng thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ để bảo đảm quyền lợi của
mình. Vì lẽ đó, xem xét giải phóng hoàn toàn cho người chuyển giao nghĩa
vụ là có căn cứ.
- Thứ hai, nếu như không giải phóng hoàn toàn người có nghĩa vụ ban đầu thì
chế định này sẽ không tìm thấy sự khác nhau với chế định ủy quyền (thực
hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba). Do vậy, để chuyển giao nghĩa
vụ là một chế định độc lập, nên xác định rõ việc giải phóng hay không với
người có nghĩa vụ ban đầu.
Câu 3.5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm
đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nhìn từ góc độ văn bản, Bộ luật Dân sự 2015 không quy định rõ rằng người
có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người có quyền không khi người
thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao.
Cụ thể ở khoản 2 Điều 370 BLDS 2015 quy định: “Khi được chuyển giao
nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.
Dựa và khoản 2 Điều 370 BLDS 2015, ta có thể hiểu theo 2 cách:
Cách 1: Người có nghĩa vụ ban đầu vẫn phải chịu trách nhiệm đối với người
có quyền, khi người thế nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ đối
với người có quyền. Vậy, người có nghĩa vụ ban đầu không được hoàn toàn giải
phóng nghĩa vụ ban dầu mà vẫn phải chịu trách nhiệm đối với người có quyền trọng
việc thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ.
Cách 2: Người có nghĩa vụ ban đầu không phải chịu trách nhiệm với người
có quyền nữa. Bởi vì sau khi được người có quyền chấp nhận thì người có nghĩa vụ
lúc đầu sẽ chấm dứt nghĩa vụ, bên cạnh đó người thế nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm
một cách độc lập trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền. BLDS hiện
hành chưa có quy định rõ ràng về vấn đề này, nhưng thực tiễn xét xử cho thấy, Tòa
13

án đã giải phóng cho người có nghĩa vụ ban đầu, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác. Việc chuyển giao nghĩa vụ cũng cần có sự đồng ý của người có quyền
nên nếu hiểu theo nghĩa người có nghĩa vụ ban đầu vẫn phải chiu trách nhiệm đối
với người có quyền thì việc quy định chuyển giao nghĩa vụ cần có sự đồng ý của
người có quyền sẽ trở nên không cần thiết.
Câu 3.6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có
còn trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không
thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.

Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn
có trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa
chuyển giao nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do vậy, để chuyển giao
nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua
người thứ ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ
ban đầu, trừ khi các bên có thỏa thuận khác”. Tác giả đưa ra những ví dụ cụ thể như
hướng giải quyết của Trọng tài trong vụ việc Công ty Việt Nam và Công ty Hong
Kong hay quyết định của Tòa án cấp sơ thầm trong Bản án số 913/2006/DS-PT
ngày 06-09-2006 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, tác
giả một lần khẳng định “khi có chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận thì người có
nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm với người có quyển đối với nghĩa vụ hay
phần nghĩa vụ được chuyển giao” thông qua hướng giải quyết của Tòa giám đốc
thẩm trong Quyết định số 361/2009/DS-GĐT ngày 13/08/2009 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao.

Bên cạnh đó, tác giả Chế Mỹ Phương Đài cũng cho rằng: “Trên cơ sở thỏa
thuận, với sự đồng ý của bên có quyền, người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ
trước đó trở thành người có nghĩa vụ mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ. Người
có nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc
chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có quyển chỉ được phép yêu cầu người thế
nghĩ vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu
trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ”.
14

Câu 3.7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ
ban đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền là:

“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan
và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt, làm
phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng
vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà
là không có căn cứ chấp nhận.”

“Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận.
Phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại cho bà
Phương giấy chứng minh Hải quan”.

Câu 3.8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
Quan hệ giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có quyền:

- Xét về điều kiện đề có thể chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý:

Để chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận có giá trị pháp lý thì cần phải có sự
đồng ý của bên có quyền nhằm bảo đảm lợi ích của bên có quyền. Ngoài pháp luật
nước ta thì pháp luật nước ngoài cũng xây dựng những quy tắc quy định về vấn đề
này như:

Bộ nguyên tắc Unidroit, Điều 9.2.3 quy định: “Việc chuyển giao nghĩa vụ
theo thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải có
sự đồng ý của người có quyền”.

- Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan:


Theo Bộ nguyên tắc Unidroit, Điều 9.2.5 quy định:
1. Người có quyền có thể giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu.

Ta thấy được rằng, sau khi chuyển giao nghĩa vụ cho người khác thì người
có nghĩa vụ ban đầu được hoàn toàn giải phóng nghĩa vụ đối với người có quyền

2. Người có quyền cũng có thể quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là
người có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới không thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình.
15

Điều đó cho thấy, người có nghĩa vụ ban đầu vẫn còn trách nhiệm đối với
người có quyền khi người có nghĩa vụ mới thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình
nếu như người có quyền quyết định

3. Trong mọi trường hợp khác, người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ
mới phải liên đới chịu trách nhiệm.

Ở đây thể hiện giải pháp cuối cùng khi người có quyền không có quyết định.

Câu 3.9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, vì:

- Toà đã công nhận sự chuyển giao nghĩa vụ từ bà Phượng (bên có nghĩa vụ)
sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh (bên thế nghĩa vụ): Trong trường
hợp này, Tòa chứng minh thông qua việc khẳng định việc chuyển giao nghĩa
vụ trên là hoàn toàn có sự chấp thuận của bà Tú (bên có quyền). Cụ thể:
“Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà
Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số
tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005.”. Như vậy, “khi được chuyển giao
nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.
- Tòa khẳng định bà Phượng không còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ đã được
chuyển giao. Cụ thể: “Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay
với bà Ngọc, và Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng
đối với bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và
ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu
bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp
nhận” và “Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo
thỏa thuận. Phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú
hoàn trả lại bà Phượng giấy chứng minh Hải quan”. Điều này không chỉ có ý
nghĩa bảo vệ quyền lợi cho bà Phượng, mà còn thể hiện cách giải quyết hợp
lý của Toà án khi phân định “chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập
với chế định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba” trong tình thế pháp
luật nước nhà chưa quy định rõ ràng về vấn đề này
16

Câu 3.10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo
lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Cơ sở pháp lý: Điều 335, điểm a khoản 1 Điều 343, Điều 371 BLDS 2015.

Trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của
người thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh sẽ chấm dứt.
Bởi Điều 335 BLDS2015 quy định: “bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là
bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh)”. Khi
chuyển giao nghĩa vụ, người phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thay đổi, thì
nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh (người có nghĩa vụ ban đầu) chấm dứt. Điểm a
khoản 1 Điều 343 quy định bảo lãnh chấm dứt khi “nghĩa vụ được bảo lãnh chấm
dứt”, mà bảo lãnh chính là một trong những biện pháp bảo đảm nên Điều 371
BLDS 2015 quy định: “nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì
biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Văn bản quy phạm pháp luật

1. Bộ luật Dân sự số: 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội.
2. Bộ luật Dân sự số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội.
3. Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi
hành án về tài sản.

B. Tài liệu tham khảo

1. Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017.
2. Lê Minh Hùng, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2017.
3. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM 2007.
4. Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án, Nxb.
Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2020 (xuất bản lần thứ tư).

You might also like