You are on page 1of 14

GV.

Đàm Thị Hải Yến


HAI ĐỨA TRẺ
A. Kiến thức cơ bản
I. Tác giả
- Thạch Lam sinh năm 1910 và mất 1942 (32 tuổi) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh sau
đổi là Nguyễn Tường Lân, bút danh là Thạch Lam. Sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình công
chức gốc quan lại. Quê nội: Quảng Nam, quê ngoại: Cẩm Giàng, Hải Dương. Gia đình có 7
người con, TL là con thứ 6. Ba anh em trai: Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam đều là thành
viên của Tự lực văn đoàn.
- Thuở nhỏ sống ở quê ngoại, phố huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương sau đó theo cha sang tỉnh
Thái Bình. Ông học ở Hà Nội, hết tú tài năm thứ nhất ông ra làm báo, viết văn.
- Tính tình đôn hậu, rất tinh tế. Là người thông minh, lãng mạn, sống thanh bạch, hướng nội,
thích sự lặng lẽ, nhẹ nhàng.
- Ông có quan niệm về văn chương rất lành mạnh, tiến bộ “Đối với tôi, văn chương không
phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại, văn chương là thứ khí
giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác
vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”; “Thiên chức của nhà văn cũng như
các chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, yêu
thương hơn”.
- Phong cách truyện ngắn TL:
+ Thường viết hay và xúc động về con người, cuộc sống nơi phố huyện, ngoại ô nghèo. Trang
văn TL thấm đẫm nỗi thương cảm với “những người nghèo khổ đang lầm than trong cái đói rét
cả một đời…mùa đông lạnh giá và lầy lội phủ trên lưng họ cái màn lặng lẽ của sương mù”(TL).
Nhà văn muốn mang đến cho họ dù “chỉ một chút âu yếm, một chút tình thương” để “nâng đỡ an
ủi những con người khốn cùng ấy”.
+ Thường không chú ý xây dựng cốt truyện với tình huống gay cấn mà chú ý đến việc phô
diễn tâm trạng, khắc họa cảm giác. (Truyện mà không có chuyện). Truyện TL không có tình
huống gay cấn, bất ngờ; không có chi tiết thắt nút, mở nút đầy kịch tính như nhiều truyện ngắn
của các nhà văn khác cùng thời (NCHoan, NTTố, Nam Cao: lôi cuốn bởi cốt truyện hấp dẫn, tình
thiết mới lạ, cách dẫn truyện khéo léo, bút pháp phóng đại…), mà chỉ là dòng cảm xúc chảy trôi
triền miên của nhân vật. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn TL là những cảm giác. Nhà văn
không làm thay cho độc giả, càng không làm thay cho nhân vật. Ở đó tâm hồn nhân vật luôn rộng
mở, mài sắc các giác quan để thấy, cảm thấy thế giới theo cái cách của chính mình và qua đó mà
lắng nghe tâm hồn mình khẽ rung lên. “Ở chỗ mà người khác dùng tư tưởng, dùng lời có khi rất
đậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ nói một cách giản dị cái cảm giác của ông. Cái cảm giác ấy bao
quát hết tư tưởng của tác giả, nhiều khi đi xa hơn, sâu hơn tư tưởng vì có cái ta cảm thấy mà
không thể dùng tư tưởng để mô tả, giải phẫu cái cảm giác của ta được” (Khái Hưng). Văn TL
“kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm”. Truyện TL có chiều sâu hun hút, chiều sâu của cuộc sống,
chiều sâu của lòng người và chiều sâu của mộng mơ, ước vọng.
+ Lối viết hòa trộn giữa hiện thực và lãng mạn, tự sự và trữ tình “TL đến văn chương mang sứ
mệnh hòa giải: hòa giải giữa thơ và văn xuôi, giữa hiện thực và lãng mạn” (Chu Văn Sơn).
Nhưng hiện thực trong trang văn TL là chủ nghĩa hiện thực khộng tả thực mà là một chủ nghĩa
hiện thực mĩ thuật. Nơi đây ko có rùng rợn và bão tố, ko có sần sùi, gồ ghề kịch tính….Tất cả chỉ
là vẻ đẹp tinh tế, nhẹ thấm vào lòng ta.
+ Ngôn ngữ nhẹ nhàng, sâu lắng, giàu chất thơ.
- Tác phẩm chính củaThạch Lam: Tiểu thuyết Ngày mới (1939); Các tập truyện ngắn: Gió đầu
mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); tập tiểu luận: Theo dòng (1941); Tuỳ bút:
Hà Nội băm sáu phố phường (1943).
GV. Đàm Thị Hải Yến
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ: Hai đứa trẻ là truyện ngắn in trong tập Nắng trong vườn (1938), được đánh
giá là môt tuyệt tác “bình dị như đời sống, sâu xa như đời sống” (Chu Văn Sơn)
2. Kết cấu tác phẩm:
 Theo thời gian: chia 3 phần:
- Cảnh phố huyện lúc chiều tối (Từ đầu -> nhỏ dần về phía làng)
- Cảnh phố huyện lúc đêm về (Tiếp -> mơ hồ không hiểu)
- Cảnh phố huyện lúc chuyến tàu đêm đi qua (Còn lại)
 Theo tâm trạng:
- Tâm trạng Liên trước cảnh ngày tàn, chợ tàn (Từ đầu -> cho chúng nó)
- Tâm trạng Liên trước những cảnh đời tàn (Trời nhá nhem tối -> cuộc sống hằng ngày
của họ)
- Tâm trạng Liên trước cảnh chuyến tàu đêm đi qua. (Còn lại)
 Theo nội dung chính:
- Bức tranh thiên nhiên
- Bức tranh đời sống.
3. Nội dung cảm hứng:
Đọc Hai đứa trẻ, người ta như cùng lúc lắng nghe được nhiều tiếng nói khác nhau, hòa phối
trong nhau, theo đó, truyện ngắn cũng toát lên nhiều ý nghĩa khác nhau, khi nhìn từ nhiều góc độ
khác nhau:
- Lời gợi nhắc về tình cảm đối với nguồn cội, quê hương với những mẩu kí ức đẹp mà buồn
(HĐT như một bài thơ êm dịu về quê hương trong kí ức tuổi thơ)
- Lời cảnh tỉnh của nhà văn đối với những kiếp sống quẩn quanh, mòn mỏi, đơn điệu (Xét về
mặt này, chủ đề của HĐT rất gần gũi với Tỏa nhị Kiều – Xuân Diệu, Đời thừa – Nam Cao, hay
thơ Huy Cận Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu- Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người - Vì
quá thân nên quá đỗi buồn cười, - Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.)
- Niềm trân trọng đối với từng điều mong ước nhỏ nhoi khiêm nhường nhất của con người bất
hạnh bị bỏ quên nơi ga xép của những chuyến tàu thời gian…
- Tuy vậy, cảm hứng bao trùm và chủ đạo vẫn là niềm cảm thương chân thành đối với những
cuộc sống chìm khuất, mòn mỏi, quẩn quanh của những con người nhỏ nhoi nơi phố huyện bình
lặng, tối tăm cùng những điều mong ước khiêm nhường mà thiết tha của họ.
4. Đặc sắc nghệ thuật:
- Truyện không có chuyện, chỉ là dòng tâm trạng chảy trôi , những cảm xúc mong manh,
mơ hồ. Truyện ko hấp dẫn ở tình tiết sự việc mà hấp dẫn ở những câu văn chở đầy cảm xúc, nặng
trĩu tâm tư, mang giọng điệu trữ tình sâu lắng.
- Bút pháp lãng mạn thể hiện ở nghệ thuật tương phản đối lập (giữa bóng tối và ánh sáng,
giữa khung cảnh phố huyện lúc trước khi có chuyến tàu đêm và phố huyện lúc chuyến tàu đêm đi
qua)
- Ngôn ngữ, hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng (bóng tối, ánh sáng, đoàn tàu…)

B. Đọc – hiểu tác phẩm:


1. Tâm trạng Liên trước cảnh ngày tàn, chợ tàn:
* Cảnh ngày tàn:
- Âm thanh:
+ Tiếng trống thu không (Tiếng trống báo hiệu trời sắp tối)
+ Tiếng ếch nhái từ đồng xa vọng vào.
+ Trong cửa hàng, muỗi đã bắt đầu vo ve.
 Âm thanh từ xa đến gần gợi sự vắng vẻ, quạnh hiu, tĩnh lặng.
GV. Đàm Thị Hải Yến
- Hình ảnh:
+ Phương Tây đỏ rực như lửa cháy
+ Đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn.
+ Dãy tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.
 Miêu tả khoảnh khắc ánh sáng bừng lên lần cuối để nhường chỗ cho bóng tối.
 Bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình gợi bức tranh thiên nhiên buồn mà đẹp trong khoảnh
khắc chiều tàn.

* Cảnh chợ tàn:


+ Chợ họp đã vãn từ lâu, người về hết, tiếng ồn ào cũng mất.
+ Chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía.
+ Một vài người bán hàng về muộn, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang, đứng nói chuyện ít câu
nữa.
+ Mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi đi lại lại tìm tòi.
 Những chi tiết chọn lọc đắt giá, những từ ngữ gợi sự ít ỏi, thưa thớt cùng nghệ thuật liệt kê
vẽ ra cái nghèo đói, xơ xác của cuộc sống nơi phố huyện.

*Tâm trạng, cảm nhận của Liên:


+ Thấm thía nỗi buồn man mác
+ Cảm nhận được mùi riêng của đất, của quê hương này – mùi vị của sự nghèo khó - bằng tình
cảm gần gũi, thương mến.
+ Thương những đứa trẻ nghèo nơi phố huyện
 Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, giàu tình thương.

* Nhận xét chung:


- Chọn cảnh ngày tàn, chợ tàn gợi không khí đượm buồn cho câu chuyện ngay từ những dòng
đầu tiên.
- Có sự hoà quyện giữa ngoại cảnh và nội tâm. Cảnh buồn và lòng người cũng buồn man mác.
- Hai loại chi tiết và hình ảnh như hoà vào nhau. Một bên là hình ảnh êm đềm thi vị, một bên
là hình ảnh nghèo khó, lam lũ của cuộc sống tối tăm nơi bùn lầy nước đọng gợi một bức tranh
phố huyện buồn mà đẹp.
- Sự cảm thông, thấu hiểu và những cảm nhận tinh tế của Thạch Lam.

2. Tâm trạng Liên trước những cảnh đời tàn


(HS đọc từ “Trời nhá nhem tối…đến hết đoạn 2)

* Khung cảnh thiên nhiên:


- Đây là thời điểm chuyển giao giữa ngày và đêm. Ánh sáng và bóng tối hòa trộn vào nhau
- Ánh sáng thì chỉ le lói, leo lét (“khe sáng” “hột sáng” “chấm sáng” “quầng sáng” “vệt sáng”
…)
- Bóng tối thì mênh mông, hiu quạnh và dày đặc. (“Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông,
con đường ra chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa” ….)
-> Bóng tối và ánh sáng là những chi tiết gây ấn tượng sâu sắc. Nó vừa gợi bức tranh thiên phố
huyện lúc đêm về hiu hắt và mịt mùng vừa gợi những kiếp người sống chìm khuất, le lói; những
thân phận con người “bị bỏ quên” ở một ga xép phố huyện tỉnh lẻ.
GV. Đàm Thị Hải Yến
* Bức tranh đời sống: Trên nền không gian, thời gian ấy, gắn với mỗi ánh sáng nhỏ bé kia là
một thân phận, một cuộc đời.
- Mẹ con chị Tí với gánh hàng nước nhỏ, một cái chõng, hai cái ghế, điếu đóm, mấy cái bát
uống nước và một ngọn đèn hoa kì vặn nhỏ. Ngày chị đi mò cua bắt tép tối lại dọn hàng nước này
để mưu sinh, chị chẳng kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào cũng dọn hàng, từ chập tối cho
đến đêm. Đó là một cuộc sống nghèo khổ, lam lũ.
- Gia đình Liên: bố mất việc, mẹ làm hàng xáo, hai chị em Liên và An trông coi gian hàng tạp
hóa nhỏ thuê lại của một bà lão móm. Ngày nào cũng chừng ấy công việc, bán hàng, kiểm tiền
hàng, trông hàng, đêm cũng ngủ luôn tại đó. Thậm chí có lúc An muốn chạy ra chơi với lũ trẻ con
mà không dám vì sợ trái lời mẹ dặn. Chiều nào hai chị em cũng ngồi trên cãi chõng nhìn ra phố
rồi lại nhìn vào trong cửa hàng, nơi có ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hột sáng, từ lúc chiều
xuống cho tới tận lúc chuyến tàu đêm đi qua. Tất cả gợi một cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu.
- Bà cụ Thi hơi điên, nghiện rượu với tiếng cười khanh khách, với dáng người lảo đảo đi lần
vào bóng tối gợi ám ảnh về một kiếp sống lay lắt, cô độc.
- Bác Siêu với gánh hàng phở kĩu kịt, xuất hiện cùng chấm lửa nhỏ vàng lơ lửng đi trong đêm
tối, với cái bóng dài mênh mông đổ trên nền đất như một kiếp người trong bóng tối triền miên.
Đây là một thức quà xa xỉ với người dân phố huyện nên chẳng mấy ai mua. Chị em Liên cũng
chẳng bao giờ mua được. Với Liên, thức quà xa xỉ ấy gợi Liên nhớ về những thức quà ngon lạ
của Hà Nội trong kí ức xa vời. Bác Siêu cũng giống những con người nơi đây, sống trong sự
quẩn quanh và vô vọng.
- Gia đình bác xẩm với “gia tài” là một manh chiếu, một cây đàn bầu, một cái thau sắt trắng
để trước mặt. Đêm nào bác cũng bày ra bên đường, chờ người đi qua để hát xẩm cho khách nghe,
mong có được ít tiền sống qua ngày. Thi thoảng vợ chồng bác góp chuyện bằng mấy tiếng đàn
bầu bật lên trong yên lặng, tê tái, não nề.

 Cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, vất vả mưu sinh – nỗi khổ về vật chất
 Sự quẩn quanh, đơn điệu đến nhàm chán, tẻ nhạt – nỗi khổ về tinh thần
 Những con người ấy đều lặng lẽ trong đêm như những cái bóng. Dù họ đều xuất hiện với
một ngọn đèn nhưng ngọn đèn ấy không đủ thắp sáng cuộc đời họ, trái lại biến họ thành những
cái bóng đổ dài trên mặt đất.
 Song “chừng ấy người trong bóng tối vẫn mong chờ một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo
khổ hằng ngày của họ”, đó là lý do vì sao những ngọn đèn vẫn được thắp lên, những công việc
mưu sinh vẫn tiếp diễn từ ngày này qua ngày khác.

* Tâm trạng, cảm xúc của Liên:


- Cảm nhận vẻ đẹp êm ái, thi vị của thiên nhiên phố huyện lúc trời bắt đầu đêm
- Đồng cảm với người dân phố huyện, dành cho họ tình cảm trìu mến, thân thương.
- Nhớ về Hà Nội xa xăm và rực rỡ ánh đèn.
 Tâm hồn nhạy cảm, giàu yêu thương, đầy khao khát.

* Nghệ thuật miêu tả:


- NT tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối.
+ Ánh sáng: nhỏ bé, leo lét với tia sáng, hột sáng, quầng sáng, chấm lửa nhỏ… Có ánh sáng
của ngàn sao nhưng chỉ lấp lánh không đủ soi đường, chiếu qua kẽ lá thưa thớt, mong manh. Con
đom đóm nhấp nháy (lúc tối lúc sáng) làm nhoè đi ánh sáng của sao đêm.
+ Bóng tối: thăm thẳm, mịt mù, dày đặc bao trùm cả phố huyện và phủ lên những cuộc đời,
những kiếp người nơi đây.
GV. Đàm Thị Hải Yến
- Đối lập giữa hiện tại và quá khứ: Hiện tại là phố huyện tối tăm, mù mịt, buồn tẻ. Quá khứ là Hà
Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo.
- Hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng:
+ Ánh sáng: Phải chăng ánh sáng là biểu tượng cho cuộc đời những con người nơi đây, cũng
leo lét, nhỏ nhoi, hiu hắt như những ngọn đèn sắp tắt? Nhưng chúng cũng biểu tượng cho những
hi vọng nhỏ bé mong manh mơ hồ mà họ vẫn cố bấu víu từng ngày để không bị chìm nghỉm
trong bóng tối mịt mù của cuộc đời buồn tẻ và nghèo khó?
+ Bóng tối: cũng trở đi trở lại đầy ám ảnh là biểu tượng cho cuộc sống tối tăm tù đọng của
người dân phố huyện nghèo, rộng hơn là biểu tượng cho sự ngột ngạt, tăm tối của xã hội nông
thôn Việt Nam trước cách mạng tháng 8.
- Ngôn ngữ miêu tả tinh tế, giàu chất trữ tình.

* Giá trị nội dung:


- Giá trị hiện thực sâu sắc (bức tranh đời sống)
- Giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của ngòi bút Thạch Lam (sự cảm thương, sự nâng niu
trân trọng ước mơ, hy vọng)

3. Tâm trạng của hai đứa trẻ khi đón đợi chuyến tàu đêm (HS đọc đoạn từ “An và Liên đã
buồn ngủ…. đến hết)
* Khung cảnh phố huyện lúc đêm khuya: Càng thêm vắng lặng, tịch mịch
- Không gian vắng lặng, dày đặc bóng tối đến nỗi nghe rõ âm thanh khô khốc của tiếng trống
cầm canh “đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào
bóng tối.”
- Người cũng vẫn thưa vắng. Giữa cảnh ấy những ai còn thức? Có thể đếm trên đầu ngón tay:
chị em Liên, chị Tí, vợ chồng bác xẩm, bác Siêu, hai ba bác phu, mấy người làm công… Nó khác
hẳn những sân ga huyên náo nhộn nhịp. Người đọc nhận ra cuộc sống vắng lặng đến buồn tẻ.

* Hình ảnh chuyến tàu đêm:


- Miêu tả theo trình tự thời gian, không gian từ xa tới gần và được cảm nhận bằng nhiều giác
quan -> vừa làm nổi bật hình ảnh đoàn tàu vừa tô đậm sự chờ đợi tha thiết của chị em Liên.
- Xuất hiện với ánh sáng và âm thanh:
+ Ánh sáng: ngọn lửa xanh biếc, làn khói bừng sáng trắng, toa đèn sáng trưng, đồng và kền lấp
lánh … -> rực rỡ, ngập tràn
+ Âm thanh: vang lại, kéo dài, dồn dập, rít mạnh, ồn ào, rít lên, rầm rộ -> mạnh mẽ, vang động
-> Khác hẳn với ánh sáng và âm thanh nơi phố huyện
-> Đối lập hoàn toàn với bóng tối mịt mù nơi đây
-> Biểu tượng cho một thế giới khác: lung linh, rực rỡ, sôi động.

* Tâm trạng của chị em Liên:


- Lúc chờ tàu: Háo hức mong đợi.
- Khi tàu đến: Tha thiết, say sưa
- Khi tàu đi: Bâng khuâng tiếc nuối, mơ tưởng xa xôi

* Ý nghĩa của việc chờ đợi chuyến tàu đêm:


- Để được nhìn một thế giới khác đi qua phố huyện, để không chìm vào sự mòn mỏi, vô vọng,
tăm tối trong hiện tại.
- Để được sống lại ký ức tuổi thơ đẹp đẽ trong quá khứ.
- Để mong chờ một điều gì tươi sáng hơn ở tương lai.
GV. Đàm Thị Hải Yến
=> Chuyến tàu đêm giống như một chiếc phao tinh thần giúp những con người nơi đây không
bị chìm nghỉm trong chiếc ao đời phẳng lặng.

* Nghệ thuật:
Bút pháp lãng mạn thể hiện rõ nét qua:
+ Nghệ thuật tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa hình ảnh đoàn tàu và hình
ảnh phố huyện làm nổi bật giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm.
+ Niềm hy vọng, mong ước đáng quý của những con người nhỏ bé nơi phố huyện về một cuộc
sống tốt đẹp hơn, nhất là tâm hồn giàu cảm xúc và nhiều mơ ước rất đáng trân trọng của trẻ thơ.
+ Ngôn ngữ tinh tế, giàu chất thơ.

4.Đánh giá, mở rộng:


* Nội dung:
- Thể hiện chân thực, thấm thía cuộc sống tối tăm, mòn mỏi của những người dân nơi phố huyện.
Qua đó cho thấy tấm lòng thương cảm sâu xa của Thạch Lam.
- Thể hiện niềm ước mơ, hy vọng nhỏ bé của những người dân nghèo, nhất là những đứa trẻ. Qua
đó thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng của nhà văn đối với những niềm hi vọng mơ hồ mong
manh ấy, nhất là vẻ đẹp trong tâm hồn trẻ thơ.

* Nghệ thuật:
- Tạo không khí truyện cho tác phẩm.
- Ngòi bút tinh tế trong nghệ thuật tả cảnh, tả tâm trạng.
- Bút pháp lãng mạn nhưng vẫn đậm chất hiện thực:
+ Truyện giàu cảm xúc, tâm trạng.
+ Hướng tới thế giới lý tưởng dù còn mơ hồ, mong manh (thế giới đoàn tàu đem đến)
+ NT tương phản đối lập
+ Ngôn ngữ giàu chất thơ khiến HĐT giống như một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi.
+ Lãng mạn mà vẫn hiện thực ở bức tranh đời sống, những chi tiết tả thực, ở đối tượng miêu tả là
những con người rất đỗi bình dị, bình thường.

*So sánh điểm khác của Thạch Lam với các nhà văn khác:
- So sánh với các nhà văn lãng mạn cùng thời, nhất là các tác giả trong Tự lực văn đoàn: Trong
khi các nhà thơ nhà văn lãng mạn khác hướng tới những câu chuyện tình yêu đẹp đẽ, thơm tho;
hướng tới những vẻ đẹp bay bổng, lãng mạn thoát ly hiện thực tối tăm, buồn tẻ thì Thạch Lam lại
viết về những con người nhỏ bé, bình dị trong cuộc sống đời thường.

- So sánh với các nhà văn hiện thực: Nếu các nhà văn hiện thực khi viết về cái nghèo cái đói
thường khai thác đến tận cùng số phận đau khổ, bi thương của nhân vật, đi sâu vào sự chết dần
chết mòn của đời sống tinh thần, thậm chí nhân vật bị đẩy tới bước đường cùng phải tìm đến cái
chết thì Thạch Lam khi viết về những con người nghèo khổ, ông vẫn nhìn thấy ở họ một niềm
hy vọng, một niềm khát khao dù nhỏ bé mơ hồ nhưng chưa bao giờ mất đi.

C. Đề văn
Đề 1. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Liên (trong 1 đoạn văn)
Đề 2. “Hai đứa trẻ của TL là một truyện ngắn trữ tình đượm buồn”. Hãy phân tích khung cảnh
phố huyện và tâm trạng của nhân vật Liên trong tp HĐT để để làm sáng tỏ ý kiến trên. (Đề khối
D năm 2011)
GV. Đàm Thị Hải Yến
Đề 3. Phân tích cảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Từ đó nhận xét về giá trị nhân đạo sâu
sắc của tác phẩm và bút pháp lãng mạn của ngòi bút Thạch Lam.
Đề 4. Phân tích nghệ thuật tương phản đối lập trong tác phẩm.
Đề 5. Giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Hai đứa trẻ
Đề 6. Đánh giá về tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam, có ý kiến cho rằng “Đây là tác phẩm
văn xuôi hiện thực”, ý kiến khác lại khẳng định “Đây là một tác phẩm văn xuôi lãng mạn”. Bằng
cảm nhận của anh chị về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, hãy bình luận hai ý kiến trên.
Đề 7. Cảm nhận đoạn văn sau: “Tiếng trống thu không…. Không có tiền để mà cho chúng”.
Từ đó nhận xét về phong cách truyện ngắn Thạch Lam.
Đề 8. Phân tích những cảnh đời tàn nơi phố huyện. Từ đó nhận xét về giá trị hiện thực và nhân
đạo của tác phẩm.

Bài làm tham khảo: Cảm nhận truyện ngắn Hai đứa trẻ
Mở bài: Trong các nhà văn lãng mạn nổi tiếng giai đoạn 1930-1945, Thạch Lam có một
phong cách riêng độc đáo. Trong khi các cây bút trong Tự lực văn đoàn thiên về tầng lớp trên của
xã hội thì TL lại viết về những con người nhỏ bé, nghèo khổ, sống trong bóng tối. Văn TL nhẹ
nhàng với lối quan sát và phân tích tâm lý tinh tế. Tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn TL là
truyện ngắn HĐT (in trong tập Nắng trong vườn – xb năm 1938). Truyện không có cốt truyện,
chỉ là dòng tâm trạng mơ hồ miên man của nhân vật Liên – một cô bé mới lớn - trước cảnh chiều
xuống đêm về nơi phố huyện, qua đó thể hiện biệt tài của TL trong việc miêu tả tâm trạng nhân
vật.
Thân bài:
1. Tóm lược tác phẩm: Ngay từ nhan đề đã cho ta thấy tác phẩm xoay quanh câu chuyện
của hai đứa trẻ, hai chị em Liên và An. Hai đứa trẻ đã từng sống ở HN, rồi gia đình bị sa cơ thất
thế nên phải trở về quê, một phố huyện hẻo lánh. Hai chị em giúp mẹ trông coi một gian hàng tạp
hóa nhỏ xíu và buổi tối vẫn phải trông hàng đến khuya. Rất nhiều buổi chiều và đêm đã đi qua và
hôm nào hai đứa trẻ cũng cố chờ đợi chuyến tàu đêm trước khi đóng cửa hàng. Truyện chỉ có thế
nhưng vẫn có sức hấp dẫn người đọc, gợi nhiều suy nghĩ thấm thía, sâu xa về những cảnh đời,
những kiếp người nhỏ bé, sống vô danh vô nghĩa, héo mòn cùng những hi vọng mong manh, mơ
hồ trong XH cũ. Cũng giống như nhiều truyện ngắn khác của TL, HĐT là truyện ko có chuyện.
Câu chuyện như một bài thơ, tất thảy đều khá êm dịu và đều được cảm nhận qua tâm trạng của cô
bé Liên.

2. Truyện được đặt trong bối cảnh không gian và thời gian đầy sức ám ảnh. Đó là
không gian một phố huyện nghèo, nơi có đường sắt chạy qua, có ga xép nhỏ, cái chợ nhỏ, khu
phố nhỏ, mấy gian hàng, gánh hàng nhỏ cùng một ít nhân vật quen thuộc lặng lẽ như những cái
bóng. Thời gian được miêu tả từ lúc hoàng hôn cho đến đêm khuya nhưng tập trung vào ba thời
điểm chính, tạo thành một bối cảnh khác đặc biệt: phố huyện lúc chiều buông, phố huyện lúc vào
đêm và phố huyện khi đã về khuya. Không gian thời gian ấy làm nền cho sự xuất hiện của con
người nơi đây, những kiếp sống mòn mỏi quẩn quanh, đơn điệu.

3. Tâm trạng của Liên:


a. Tâm trạng Liên trước cảnh ngày tàn, chợ tàn: Tác phẩm bắt đầu bằng tâm trạng của
Liên trước cảnh ngày tàn, chợ tàn nơi phố huyện.
- Cảm nhận về thiên nhiên chiều tàn:
+ Âm thanh: Người đọc bị hút ngay vào thiên truyện trước hết bởi những câu văn mở đầu
miêu tả khung cảnh buổi chiều quê vừa khớp đúng với hiện thực vừa chứa đầy tâm trạng qua một
âm thanh quen thuộc nơi phố huyện lúc chiều về tối: “tiếng trống thu không trên cái chòi của
GV. Đàm Thị Hải Yến
huyện nhỏ từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”. Đó là âm thanh khô khốc từng tiếng một
của tiếng trống cầm canh, tiếng trống báo hiệu thời khắc ngày tàn. Có cảm giác từng tiếng trống
vang lên rồi tan ra giữa khoảng không vắng lặng, mênh mông. Không chỉ là âm thanh tiếng trống
trên cái chòi cao, đó còn là âm thanh “tiếng ếch nhái văng vẳng kêu ran ngoài đồng ruộng theo
gió nhẹ đưa vào” rất đặc trưng của làng quê; là âm thanh “tiếng muỗi vo ve” đều đều buồn tẻ
trong gian hàng vắng lặng. Tất cả gợi không khí buồn vắng của một buổi chiều quê êm đềm.
+ Màu sắc: Thiên nhiên phố huyện lúc ngày tàn còn được cảm nhận qua màu sắc. “Phương tây
đỏ rực lên như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Đó là thứ ánh sáng
rực lên lần cuối để rồi vụt tắt, thứ ánh sáng hâp hối của một ngày tàn. Trong khoảng khắc, màu
đen bao phủ lên cảnh vật và trở thành màu sắc chủ đạo “Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt
hình rõ rệt trên nền trời”.
+ Ánh sáng: TL thật tinh tế khi miêu tả sự tượng phản về màu sắc của bầu trời và mặt đất, giữa
trong nhà “đã lên đèn cả rồi” và ngoài phố “lấp lánh từng chỗ” “một bên sáng, một bên tối” để
làm nổi bật khoảnh khắc tranh tối tranh sáng lúc ngày tàn.
+ Những từ ngữ biểu cảm “êm ả như ru” “gió nhẹ đưa vào” kết hợp cới nhịp điệu chậm rãi của
những câu văn gợi nên một bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng vắng vẻ như truyền vào lòng người
cảm giác mơ hồ man mác bâng khuâng.
=> Thiên nhiên mang đậm nét riêng nơi phố huyện, vừa thi vị, êm ả vừa tĩnh mịch, đượm
buồn. Nhịp điệu
=> Tâm trạng Liên: buồn man mác bâng khuâng trước cái thời khắc của ngày tàn. Không biết
cái buồn của cảnh đã nhuốm sang tâm trạng con người hay chính nỗi buồn trong lòng người đã
phủ lên cảnh vật. Chỉ biết rằng, cảnh và người có một sự hòa điệu kì lạ trong một nỗi buồn man
mác, mênh mang.
- Cảm nhận về cảnh chợ tàn: Trong thời khắc ngày tàn, TL đã chọn cảnh chợ tàn để làm nổi
bật cái xơ xác tiêu điều của cuộc sống nơi đây. Chợ phiên biểu hiện sức sống của một làng quê,
biểu hiện sự đông vui tấp nập nhưng đó là lúc đang diễn ra còn khi đã tàn chợ thì bao nhiêu buồn
vắng xác xơ lại bộc lộ rõ nhất.
+ Chợ không còn người qua lại, không còn âm thanh “chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về
hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cái còn lại chỉ là rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía. Những
hình ảnh liệt kê gợi sự tiêu điều, xơ xác của phiên chợ nghèo nơi làng quê còn sót lại sau ngày
làm lụng cực nhọc, mà đó cũng chính là một thứ bóng tối của chợ.
+ Cùng với hình ảnh là mùi vị. Đó là “mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi
cát bụi quen thuộc quá”. Mùi riêng của đất, của quê hương cũng là mùi của sự nghèo khó nhọc
nhằn.
+ Nổi bật trên nền chợ tàn là hình ảnh mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom, tìm tòi, nhặt
nhạnh bất cứ cái gì có thể dùng được. Sự lam lũ, đói nghèo hiện ngay trong dáng vẻ, cử chỉ của
những đứa trẻ tội nghiệp.
->Hai loại chi tiết và hình ảnh như hoà vào nhau. Một bên là hình ảnh êm đềm thi vị, một bên
gợi cái nghèo khó, lam lũ. Ta hãy đọc: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng
tiếng một vang ra để gọi buổi chiều” là thi vị, giàu chất thơ. Xen vào đó là tiếng “ếch nhái kêu
ran”, tiếng “muỗi vo ve” như gợi cái lam lũ, nghèo khó của cuộc sống tối tăm bùn lầy, nước
đọng. Hay “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru” và “Mùi riêng của đất, của quê hương này”
là chất thơ. Còn: Mặt trời tàn, cái chõng, ọp ẹp, phiên chợ tan, những đứa trẻ nghèo thơ thẩn tìm
kiếm những gì của người bán hàng để lại trên bãi chợ thì lại gợi nỗi buồn của buổi chiều quê
thấm thía vào tâm hồn. Một bức tranh chiều tàn vừa thi vị vừa đượm buồn.
-> Tất cả được cảm nhận qua tâm hồn của một cô bé mới lớn, thể hiện tâm trạng buồn thương
khắc khoải trước cuộc sống lam lũ, khổ nghèo của những đứa trẻ nơi đây. Niềm thương ấy là biểu
hiện của một trái tim đa cảm, giàu yêu thương.
GV. Đàm Thị Hải Yến

b. Tâm trạng Liên trước những cảnh đời tàn:


- TL rất có dụng ý khi để Liên chứng kiến những cảnh đời trong bóng tối, bởi đây là thời khắc
con người đáng lẽ phải được nghỉ ngơi thì nơi đây lại bắt đầu một cuộc mưu sinh. Nếu trong ánh
sáng ban ngày với những hoạt động ít nhiều sôi động, những cảnh đời ấy bị mờ đi thì trong trong
đêm tối sẽ đọng lại và sự tiêu điều, xác xơ, tàn lụi sẽ được tô đậm.
- Không gian phố huyện về đêm: Không gian phố huyện càng về đêm càng vắng vẻ và tịch
mịch. TL đã tái hiện không gian đó trong sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng. Bóng tối (26
lần) và ánh sáng (52 lần), đb ánh sáng ngọn đèn chị Tí (7 lần). Bóng tối dày đặc, mênh mang, bao
bọc khắp một vùng còn ánh sáng thì mờ nhạt, nhỏ nhoi, leo lét, không đủ để xua đi bóng tối. TL
hay miêu tả bóng tối (như trong “Tối ba mươi”, “Trong bóng tối buổi chiều” “Cô hàng xén”)
nhưng chỉ ở truyện này, bóng tối mới đủ hình hài cung bậc: “Đường phố và các con ngõ chứa đầy
bóng tối”; phố xá “tối hết cả”, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ
vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bầu trời cũng tối “một bầu trời thăm thẳm bao la đầy bí
mật”. Bóng tối thâm nhập vào mọi trạng thái hoạt động của con người, là hướng đi tới, đi về, đi
đến, đi ra của bao người. Mẹ con chị Tí “ở trong ngõ đi ra” khi “trời nhá nhem tối”, bà cụ Thi “đi
lần vào bóng tối”, những người về muộn “từ từ đi trong đêm”. Trong cái thế giới ngập tràn bóng
đêm, ánh sáng lại quá yêu ớt, mờ nhạt, nhỏ bé, leo lét. Ánh sáng trong các cửa hiệu thì chỉ là
những “khe sáng” lọt ra ngoài. Ánh đèn của bác phở Siêu (nhắc tới 4 lần) chỉ là “một chấm lửa
nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối”. Ánh sáng ngọn đèn nơi gian hàng chị em Liên chỉ “thưa
thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa” (nhắc tới 3 lần) …Trong văn học xưa nay, ánh sáng cũng
xuất hiện nhiều nhưng chưa mấy ai miêu tả ánh sáng là “khe sáng”, “vệt sáng”, “quầng sáng”,
chấm sáng, hột sáng…một cách róng riết như TL. Ấn tượng nhất là hình ảnh ánh sáng ngọn đèn
nơi hàng nước chị Tí “một quầng sáng nhỏ nhoi, chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ” cứ trở đi trở
lại tới 5 lần trong tác phẩm tạo ra sức ám ảnh và gợi rất nhiều về những cảnh đời những kiếp
sống nhỏ bé lay lắt trong bóng đêm của sự nghèo khổ, tăm tối.
- Những cảnh đời tàn: Trên nền không gian thời gian ấy, gắn với mỗi ánh sáng nhỏ bé kia là
một thân phận, một cuộc đời.
+ Đó là mẹ con chị Tí “Ngày chị đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nước này
dưới gốc cây bàng”, để bán cho ai? “Mấy người phu gạo hay phu xe”. “Chị Tí chẳng kiếm được
bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”. Cái chép miệng của chị
và câu nói: “Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì”, nghe thật ngao ngán. Cuộc sống nghèo,
lam lũ, chủ yếu kiếm sống bằng “mò cua bắt tép”. Trời nắng đã vậy còn trời mưa thì kiếm đâu?
Hàng nước cũng chỉ phục vụ cho người nghèo. Còn mấy lính lệ cao hứng thì vào hàng chị uống
bát chè tươi, hút điếu thuốc lào “Chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm” gợi ra
cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu, lay lắt của những con người, kiếp người ở một phố huyện.
+ Đó là gánh phở bác Siêu, một thứ quà sang với người dân phố huyện nghèo. Bác cũng như
những người dân nghèo nơi đây, cố kiếm kế sinh nhai bằng gánh hàng phở nhưng vì nó là một
thứ quà xa xỉ nên chẳng mấy người mua. Tiếng đòn gánh kĩu kịt, chấm lửa vàng lơ lửng trong
đêm cùng hình ảnh “bóng bác mênh mông ngả xuống một vùng” cũng gợi sự khổ nghèo, lam lũ.
+ Đó còn là gia đình bác xẩm “ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng
bác chưa hát vì chưa có khách nghe. Giữa đêm khuya, tiếng đàn bầu bật lên trong yên lặng như
lời lời ai oán cho số kiếp khổ nghèo.
+ Đó còn là bà cụ Thi, một bà già nghiện rượu, hơi điên. Hình ảnh bà cụ “ngửa cổ ra đằng sau
uống một hơi cạn sạch, rồi vừa chép miệng vừa lần ruột tượng trả tiền” với dáng đi lảo đảo lần
vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng gợi sự ám ảnh về một thân phận cô
độc, bất hạnh.
GV. Đàm Thị Hải Yến
+ Gia đình Liên cũng chung cái nghèo với người dân phố huyện. “Cái cửa hàng hai chị em
trông coi là một cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở vì
thầy Liên mất việc. Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa
dán giấy nhật trình. Mẹ Liên giao cho Liên trông coi - bà còn bận làm hàng xáo”. Cái gia sản ấy
chẳng đáng giá gì bởi hàng hoá lèo tèo vài bánh xà phòng, thuốc, rượu bán cho người nhỡ, người
mua lẻ. Ngoài ra còn cái chõng tre ọp ẹp. “Chợ ngày phiên mà bán chẳng ăn thua gì”. Cảnh sống
chật vật.
Những con người ấy đều lặng lẽ trong đêm như những cái bóng. Dù họ đều xuất hiện với một
ngọn đèn nhưng ngọn đèn ấy không đủ thắp sáng cuộc đời họ, trái lại biến họ thành những cái
bóng đổ dài trên mặt đất.
- Tâm trạng Liên:
+ Đồng cảm, xót thương cho những số phận khổ nghèo.
+ Ảnh sáng leo lét nơi phố huyện gắn với những kiếp sống mòn mỏi, nhất là mùi phở thơm từ
gánh phở bác Siêu khiến Liên hồi tưởng về quá khứ. Đó là thời sống ở Hà Nội được hưởng thứ
quà ngon lạ. Liên được dạo chơi ở Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ và kỉ niệm đó còn
là vùng sáng lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá. Và Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và
huyên náo.

c. Tâm trạng của Liên khi chuyến tàu đêm đi qua:


* Cảm nhận cảnh phố huyện lúc đêm khuya
Cảnh khuya về được miêu tả: “Trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô
khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối. Giữa cảnh ấy những ai còn thức? Có
thể đếm trên đầu ngón tay: Liên, chị Tí, vợ chồng bác xẩm, bác Siêu, vài bác phu ngồi uống
nước, hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng dài…. Nó khác hẳn những sân ga huyên náo
nhộn nhịp. Người đọc nhận ra cuộc sống vắng lặng đến buồn tẻ.
* Hình ảnh chuyến tàu đêm:
- Trên nền không gian, thời gian ấy, xuất hiện hình ảnh chuyến tàu đêm. Con tàu xuất hiện
mang theo âm thanh và ánh sáng khác hẳn những gì có ở phố huyện. Con tàu cũng gắn với sự chờ
đợi tha thiết của bao con người nơi đây, đặc biệt của chị em Liên.
- Chuyến tàu được TL miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, từ xa tới gần rồi
lại từ gần tới xa; kết hợp với sự quan sát miêu tả bằng nhiều giác quan: thính giác, thị giác, bằng
cả hồi ức và hiện tại. Cách miêu tả ấy vừa làm nổi bật hình ảnh đoàn tàu vừa khắc họa rõ nét tâm
trạng chị em Liên khi tàu đến và tàu đi.
- Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với nhiều ánh sáng và âm thanh.
Con tàu đến mang theo nguồn ánh sáng rực rỡ, ngập tràn. Bắt đầu là ngọn lửa xanh biếc sát
mặt đất như ma trơi, tiếp đó là một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa. Khi tàu đến gần, hai
đứa trẻ có thể nhìn thấy rõ các toa đèn sáng trưng chiếu ánh xuống mặt đường, đồng và kền lấp
lánh, các cửa kính sáng. Những ánh sáng của đoàn tàu đối lập hoàn toàn với ánh sáng nhỏ bé, leo
lắt nơi phố huyện. Dù chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, ánh sáng ấy cũng kịp xua đi bóng đêm
tăm tối mịt mùng khi nó đi qua.
- Con tàu còn mang theo âm thanh mạnh mẽ, náo nhiệt. Đó là tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh
vào ghi, tiếng hành khách ồn ào khe khẽ khi nó còn ở phía xa. Đó là tiếng còi rít lên, âm thanh
rầm rộ vang động khi tàu tới gần. Những âm thanh ấy đối lập hoàn toàn với bản hòa tấu đều đều
buồn tẻ của phố huyện.
* Tâm trạng Liên và An:
- Miêu tả đoàn tàu theo trình tự thời gian, tác giả muốn làm nổi bật tâm trạng chờ đợi tha thiết
của hai đứa trẻ. Khi tàu chưa đến, đó là sự háo hức mong chờ đến khắc khoải. Dẫu buồn ngủ đến
díu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm. Lời dặn của An “Tàu đến, chị đánh
GV. Đàm Thị Hải Yến
thức em dạy nhé” và cảm giác thấy tâm hồn mình “yên tĩnh hẳn” khi chờ đợi tàu của Liên đã lí
giải cho sự khát khao trông, trông ngóng để rồi chỉ một dấu hiệu nhỏ từ xa cũng thhu hút cái nhìn
của Liên “bác gác ghi”, “ngọn lửa xanh biếc”, “tiếng còi” …
- Khi tàu đến, đó là niềm hân hoan, hạnh phúc. Liên vội gọi em dậy, An nhỏm dậy, dụi mắt
cho tỉnh để nhìn tàu cho rõ. Bao nhiêu âm thanh, ánh sáng thu hút cái nhìn của hai đứa trẻ.
CHúng không bỏ sót một âm thanh, áng sáng nào “toa đèn sáng trưng”, “toa hạng trên lố nhố
những người”. Thậm chí An còn phát hiện ra “tàu hôm nay không đông chị nhỉ” chứng tỏ đêm
nào Liên và An cũng quan sát rất kỹ chuyến tàu với tất cả niềm say sưa.
- Khi tàu đi, hai chị em còn lưu luyến nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa
sau cùng. Tàu đã đi, mà chị em Liên và An còn đứng đó, cảm nhận về chuyến tàu đêm nay, lặng
theo mơ tưởng về một HN xa xăm.
Tâm trạng của Liên “Những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và hình ảnh thế
giới quanh mình mờ đi trong mắt chị. Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi như chiếc
đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ. Nhưng Liên không nghĩ được lâu. Mắt chị
nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch
và đầy bóng tối”. Ta bắt gặp hai hình ảnh đối lập nhau. Đó là sự đối lập giữa ánh sáng và âm
thanh của tàu với bóng tối và sự im lặng nơi phố huyện. Một bên là sự náo nhiệt cuối cùng của
một đêm với sự im lặng của đồng quê, trong giấc ngủ và có sự lãng quên nữa. Phải chăng đó là
nỗi buồn thấm thía trong tâm hồn hai đứa trẻ.
-> Thạch Lam chú ý những biến động của thời gian. Thời gian trôi qua lặng lẽ. Bóng tối tràn
đến chiếm lĩnh tất cả. Ánh sáng bừng lên rồi tắt hẳn. Chỉ còn tâm hồn của Liên là nguồn ánh sáng
chiếu rọi cả câu chuyện đầy bóng tối. Đó là tâm hồn biết yêu thương và biết ước mơ. Nét đẹp tâm
hồn Liên là ở chỗ ấy.

* Ý nghĩa việc đón đợi chuyến tàu:


-Tại sao đoàn tàu lại có ý nghĩa như vậy với hai đứa trẻ? Phải chăng hai chị em chờ tàu để
được bán hàng? Không, Liên không mong còn ai đến mua nữa. Hai chị em cố thức chỉ vì “muốn
được nhìn chuyến tàu” bởi với hai đứa trẻ nó đâu chỉ là con tàu mà là một thế giới khác - một TG
khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Trên cái nền tịch mịch của
bóng đêm, có một sự tương phản rất nổi bật giữa đoàn tàu và bức tranh cuộc sống phố huyện.
Một bên là “sự hoạt động náo nhiệt cuối cùng của đêm” và một bên là sự “im lặng mênh mông”
trong đêm tối, trong giấc ngủ và có khi trong cả sự lãng quên? Một bên rầm rộ âm thanh, một bên
vắng lặng buồn tẻ với âm thanh vo ve của tiếng muỗi, tiếng kĩu kịt của đòn gánh…; một bên rực
rỡ ánh sáng một bên leo lét ánh đèn, ánh lửa và ngập tràn bóng tối mênh mông. Bởi vậy, chuyến
tàu đêm dù chỉ vụt qua trong khoảnh khắc những đã đủ cho Liên và An được nghe, được nhìn và
được nhớ. Đó là giây phút hai đứa trẻ được sống trong một thế giới khác - một thế giới của những
hoài niệm về Hà Nội xa xăm, rực sáng, vui vẻ. Thế giới huyên náo, đầy âm thanh và ánh sáng
khác hẳn với cái thế giới nghèo nàn, buồn tẻ, đơn điệu nơi phố huyện. Đoàn tàu vừa là hình ảnh
của quá khứ - một quá khứ đẹp đẽ, vừa là hình ảnh của tương lai - một tương lai tươi sáng hơn.
Đó cũng là lí do đêm nào hai đứa trẻ cũng đón đợi chuyến tàu quen thuộc với bao xảm xúc mong
chờ. Hóa ra đằng sau cái tịch mịch của phố huyện là cái náo nức bên trong, cái sôi động của ước
mơ rất đáng trân trọng.
- Còn với người dân phố huyện, chuyến tàu đêm là cơ hội để họ bán thêm chút hàng cho
những người khách dừng chân nghỉ tạm. Dẫu chả bán được là bao những ít nhất đó cũng là hy
vọng, là niềm vui nho nhỏ khi có cái gì đó để chờ mong giữa cái vô vọng, quẩn quanh của cuộc
sống thường ngày. Bởi vậy, chuyến tàu như chiếc phao tinh thần để những con người nhỏ bé nơi
đây không bị chìm sâu vào bóng tối của sự mệt mỏi và bế tắc.
GV. Đàm Thị Hải Yến
* Giá trị hiện thực, nhân đạo:
+ Phản ánh chân thực, sinh động cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của người dân VN trước CM
tháng 8
+ Thể hiện ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp, về một điều gì đó khác hơn cuộc sống tẻ nhạt,
đơn điệu thường ngày.
+ Muốn lay tỉnh những con người đang buồn chán, đang sống quẩn quanh, lam lũ hãy cố vươn
tới ánh sáng. ở đây, TL đã bắt gặp XD, HC, NTuân ở dòng VHLM. NC, Bùi Hiển, Tô Hoài… ở
dòng VHHT trong việc không chấp nhận, không thể bằng lòng với cuộc sống nhạt nhẽo, trong cái
ao đời phẳng lặng mòn mỏi và tù túng.
+ Trân trọng những ước mơ, hi vọng của con người dẫu còn nhỏ bé, mơ hồ. Những hi vọng ấy
chính là điểm bấu víu tinh thần để cuộc sống của hai đứa trẻ hay rộng hơn là của những người
dân nơi đây không chìm sâu vào sự tuyệt vọng.
+ Thể hiện một cách nhẹ nhàng khát vọng hướng về cs tươi sáng của những con người bình
thường, HĐT có một giá trị nhân bản đáng quý.

* Nghệ thuật:
- Toàn bộ truyện ngắn miêu tả rất tinh tế diễn biến tâm trạng con người và sự thay đổi của
cảnh vật. Đặc biệt là sự hoà trộn giữa tâm cảnh và thực cảnh. Tâm trạng của Liên trước giờ khắc
ngày tàn (chiều buông xuống) gợi nỗi buồn man mác qua hình ảnh chiều tàn, mây tàn, chợ vãn,
người về hết. Nỗi buồn trước buổi chiều quê qua âm thanh của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve
và qua cảm nhận “mùi riêng của đất này”. Nỗi buồn thương trước những cảnh đời nhá nhem, nỗi
buồn hoà trong chờ đợi và khát vọng.
- Thạch Lam sử dụng trí tưởng tượng và nghệ thuật đối lập trong miêu tả. Đó là những nét đặc
sắc về bút pháp nghệ thuật của văn chương lãng mạn.
+ Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng. Ánh sáng có nhưng nhỏ nhoi (Tia sáng, hột
sáng). Bóng tối tràn ngập tất cả. Có lúc ánh sáng bừng lên xua bóng tối. Đó là lúc đoàn tàu đi tới,
nhưng ánh sáng mới lạ ấy chỉ diễn ra trong chốc lát rồi tắt hẳn.
+ Đối lập giữa ánh sáng, âm thanh phố huyện với ánh sáng, âm thanh đoàn tàu.
- Giọng văn nhẹ nhàng, tự nhiên (Tiếng trống, buổi chiều quê, áng mây hồng, ngàn ngôi sao
lấp lánh, Liên chìm trong giấc ngủ…) qua giọng văn cảm nhận được sự rung động tinh tế trong
tâm hồn tác giả, sự cảm thương đối với những con người nghèo khổ phải sống quẩn quanh lam
lũ, tối tăm nơi ga xép của phố huyện tỉnh lẻ.

Kết bài: Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam gợi người đọc về cuộc sống lam lũ của
những người nghèo sau luỹ tre xanh. Cách đặt vấn đề của tác giả không lớn lao, không đặt nhân
vật của mình trước hoàn cảnh gay cấn, không hề có dáng dấp, bộ mặt của kẻ thù dân tộc và bọn
phong kiến, địa chủ, truyện thấm thía tình yêu thương con người, gợi nhớ về nguồn cội, quê
hương. Sâu sắc hơn, Thạch Lam trân trọng ước mơ dù là mong manh, nhỏ bé của con người. Ông
muốn thay đổi cuộc sống ấy. Nhưng bằng cách nào? Cũng như các nhà văn đương thời, Thạch
Lam không nói ra được.
Từ đó ta thấy truyện ngắn Hai đứa trẻ vươn tới tư tưởng nhân đạo đáng trân trọng.

Đề 8. Phân tích những cảnh đời tàn nơi phố huyện, từ đó nhận xét về giá trị nhân đạo của tác
phẩm.
I. Mở bài:
- Tác giả Thạch Lam
- Tác phẩm Hai đứa trẻ
- Vấn đề: những cảnh đời tàn nơi phố huyện, qua đó thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.
GV. Đàm Thị Hải Yến
II. Thân bài:
1. Dẫn dắt:
- Tóm lược tác phẩm
- Bối cảnh không gian, thời gian
2. Những cảnh đời tàn:
- Những đứa trẻ nghèo trên nền chợt tàn
- Mẹ con chị Tí với gánh hàng nước nhỏ mưu sinh
- Gia đình Liên: bố mất việc, mẹ làm hàng xáo, hai chị em thì trông coi một cửa hàng
tạp hóa
- Bác Siêu với gánh phở rong – một thức quà xa xỉ
- Gia đình bác xẩm với manh chiếu rách, tiếng đàn bầu bật lên trong đêm…
- Bà cụ Thi hơi điên, nghiện rượu…
3. Đánh giá chung:
- Nội dung
- Nghệ thuật: kể và tả sinh động, ngôn ngữ tinh tế, giọng điệu cảm thương
4. Đánh giá về giá trị nhân đạo:
- Cảm thương
- Trân trọng, nâng niu
III. Kết bài

Chữa đề 3.
Đề 3. Phân tích cảnh chuyến tàu đêm đi qua phố huyện:
1. Mở bài:
- Tác giả, tác phẩm
- Vấn đề
2. Thân bài:
a. Dẫn dắt:
- Tóm tắt diễn biến tác phẩm
- Nêu vị trí đoạn trích
b. Luận điểm:
- LĐ 1. Trước khi chuyến tàu xuất hiện:
+ Khung cảnh phố huyện
+ Tâm trạng chờ đợi của chị em Liên
- LĐ 2. Khi chuyến tàu xuất hiện:
+ Hình ảnh đoàn tàu từ xa đến gần (chi tiết miêu tả ánh sáng, âm thanh)
+ Tâm trạng háo hức, say mê của chị em Liên
- LĐ3. Khi chuyến tàu dần đi khuất:
+ Hình ảnh chuyến tàu (dư âm, dư ảnh)
+ Tâm trạng Liên
+ Khung cảnh phố huyện
c. Ý nghĩa của chuyến tàu đêm?
- Đối với chị em Liên
- Đối với những người dân phố huyện
- Đối với việc thể hiện chủ đề tác phẩm:
+ Thể hiện rõ hơn cuộc sống quẩn quanh đơn điệu nhàm chán tới mức một chuyến
tàu đêm cũng trở thành niềm khao khát mong chờ
GV. Đàm Thị Hải Yến
+ Thể hiện khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn
d. Đánh giá:
- Giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ
+ Thể hiện niềm cảm thương sâu sắc
+ Thể hiện thái độ trân trọng nâng niu
+ Thể hiện mong muốn lay tỉnh ý thức cá nhân
- Bút pháp lãng mạn
3. Kết bài

You might also like