You are on page 1of 9

KHỔ 1:

Hình ảnh quan sát trên dòng sông rất chân thực nhưng giàu sức gợi, mở ra về hình ảnh của dòng
sông mênh mang
Sóng “gợn”: sóng nhẹ, lăn tăn, gợn nhẹ nhàng lan tỏa đến vô cùng, gợi tả những vòng xoáy đang
lan ra đến vô tận như nỗi buồn âm thầm mà da diết của tác giả.
=> sóng nước và sóng lòng, màu sắc buồn bao trùm vạn vật
Các từ ngữ gợi nỗi buồn thê lương “buồn”, “sầu trăm ngả”,.. kết hợp với láy “Điệp điệp”, “song
song: hình ảnh con sóng nối tiếp nhau, đều đều lan tỏa, triền miên, tô đậm thêm sự rộng lớn của
khung cảnh xung quanh
=> nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn vô tận của tác giả, hình ảnh sóng nối tiếp
nhau tạo dư âm vang xa trầm buồn.
Thuyền xuôi mái > < nước song song: Con thuyền buông trôi, vô định, hờ hững, con thuyền
buông mái chèo một cách thụ động, mặc cho nước đưa đẩy, gợi sự lênh đênh
=> làm cho bức tranh sông nước càng trở nên hiu quạnh, mênh mông
=> So với dòng sông con thuyền hết sức nhỏ bé. Chính sự đối lập giữa không gian mênh mông
và con người nhỏ bé đã gợi lên thêm về dáng vẻ cô đơn, sự lẻ loi của con người

Biện pháp NT đối: thuyền về > < nước lại: thuyền và nước không gắn bó, sự đối lập tạo sự chia
ly, xa cách.
“Sầu trăm ngả” là khối sầu thỏa trăm ngả của đất trời.
=> Không gian rộng lớn, mênh mông, sự vật chia lìa, xa cách. Nỗi buồn tăng cấp lên, từ buồn đã
trở thành sầu
Câu thơ: “Củi một cành khô lạc mấy dòng” (ngắt nhịp 1/3/3) đặc biệt gợi cảm. Nó gợi nghĩ tới
thân phận cá thể nhỏ nhoi, bơ vơ giữa dòng đời
+“Một” gợi sự lạc lõng, khô héo.
+ Đảo ngữ: Củi một cành khô nhấn mạnh sự bé nhỏ.
+ Một cành >< mấy dòng: Đối lập giữa không gian bao la, rộng lớn của sông nước với sự nhỏ bé,
trơ trọi, mong manh của cành củi khô.
=> Hình ảnh mong manh, nhỏ bé gợi sự liên tưởng đến kiếp người mong manh, vô định, trôi dạt
giữa dòng đời.
=> Không gian sông nước mênh mông, rộng lớn, cảnh vật chia lìa.

Nghệ thuật: Sử dụng hiệu quả phép đối (buồn điệp điệp - nước song song, sầu trăm ngả - lạc mấy
dòng), từ láy âm (điệp điệp, song song), tương phản giữa cá thể và vũ trụ

⇒ Khổ thơ gợi nỗi buồn về sự chia li, tách biệt thiếu giao cảm giữa cá thể với nhau, đặc biệt là
nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé vô định, nỗi buồn không nguôi, không dứt của tác giả.

KHỔ 2:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

*2 câu đầu: Khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều
Từ láy tượng hình: lơ thơ, đìu hiu, chót vót
Lơ thơ: thưa thớt, rời rạc, ít ỏi.
Cồn đất → mọc lên những cây lau, cây sậy nhỏ cùng với gió tạo tiếng xào xạc, nghe đìu hiu,
buồn sầu → đìu hiu gợi khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều
⇒ Gợi sự hoang sơ, vắng vẻ, buồn bã.
→ Tạo âm hưởng trôi chảy triền miên cùng nỗi buồn vô tận trong cảnh vật và hồn người.
Thời gian: buổi chiều
Cảnh vật:
Thiên nhiên: gió, nắng, trời, sông
Cồn nhỏ, làng, chợ chiều
“Chợ” là nơi mà khi đến đó ta biết được cuộc sống nơi đây có ấm no sầm uất hay không. Nguyễn
Trãi đã từng viết: “Lao xao chợ cá làng Ngư Phủ”, Đủ để thấy cái vui tươi nhộn nhịp của một
phiên chợ. Huy Cận không như thế, ông chọn cho mình thời điểm vãn chợ như một tín hiệu nghệ
thuật đặc sắc. Chợ vãn là khi “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.
Từ chỉ sự ít ỏi: nhỏ, xa, vãn → Có âm thanh từ cuộc sống sinh hoạt đời thường (làng, chợ)
nhưng lại quá bé nhỏ, không đủ sức làm cho cảnh vật sinh động hơn
Âm thanh ấy cũng mờ mờ ảo ảo, vừa thực mà vừa hư.
Câu hỏi tu từ “Đâu…”: niềm khao khát, sự tìm kiếm của nhà thơ về nơi có âm thanh, hoạt động,
hiện diện của con người
(cũng có thể hiểu là “đâu có” - câu phủ định - chỉ có cái im lặng của dòng sông, của thiên nhiên
bao trùm lên cảnh vật)

*2 câu cuối: Tâm trạng của thi nhân


Nỗi sầu không chỉ nhuốm màu vào không gian mà còn trải dài theo thời gian bất tận:
- Không gian rộng lớn: “nắng xuống, trời lên”, “trời rộng”, “sông dài”
⇒ Có đủ chiều cao, chiều rộng và cả chiều dài thậm chí cả chiều sâu (trời sâu)
⇒ 1 vũ trụ bao la, vô tận còn con người thì lại quá nhỏ bé, cô độc
⇒ Hoang sơ, tiêu điều thế, nơi bến nước không có một bóng người qua lại, không có một tiếng
động của cỏ cây hay tiếng thở của con người xung quanh chỉ có đất trời dài rộng, cô đơn lẻ loi
một mình.
- Với nghệ thuật đối ý, nắng xuống >< trời lên gợi sự chuyển động, không gian càng thêm mênh
mông, rộng lớn, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau.
- MỚI LẠ: Miêu tả “trời lên sâu chót vót” thay vì “trời lên cao chót vót”: “Sâu” ở đây gợi
lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài đến vô cùng tận của lòng người, sự rợn ngợp của
con người.
⇒ sự choáng ngợp trong tâm hồn thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ
- Hình ảnh “bến cô liêu”: mang âm hưởng buồn mang mác với hai chữ “cô liêu”
⇒ Gợi ra nỗi buồn nhân thế, cái tôi mang nỗi sầu vạn kỉ của nhà thơ, không gian càng vắng lặng
rộng lớn bao la thì hình ảnh con người càng cô đơn đến tột cùng, Huy Cận như bến kia bơ vơ
giữa cuộc đời
- Thủ pháp đối lập: “Sông dài trời rộng” >< “bến cô liêu” => Sự tương phản giữa cái nhỏ bé và
cái vô cùng không làm cho cảnh vật sống động hơn mà càng chìm sâu vào tĩnh lặng, cô đơn, hiu
quạnh
- Nhịp thơ: 2/2/3 (Câu 1+4), đôi chỗ là 4/3 (Câu 2) hoặc 2/5 (Câu 3)
⇒ Nhịp thơ đều, chậm gợi nỗi buồn sầu mênh mang
- Hình ảnh: Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như:
sông, trời, nắng, cuộc sống. Con người thì buồn tẻ, chán chường với “vãn chợ chiều”, mọi thứ đã
tan rã, chia lìa.
→ Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang vừa có sự vận động, vừa hữu hình vừa vô hình, thời
gian, không gian phụ họa, hài hòa với nhau khiến cho cảnh vật càng lúc càng âm u, xa vắng, xúc
cảm càng nặng nề.
=> Huy Cận như muốn lấy âm thanh để xóa nhòa không gian buồn tẻ hiện hữu nhưng không
được. Nhà thơ cố tìm sự giao cảm với vũ trụ cao rộng nhưng tất cả đều đóng kín.
=> Nỗi buồn thấm đẫm vào cảnh vật, không gian, con người trở nên cô đơn, bé nhỏ không chỉ là
nỗi buồn mênh mông trước trời rộng - sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc
đời
*Chất cổ điển và hiện đại ở đoạn 2 bài thơ Tràng Giang
Chất cổ điển:
- Đề tài sông nước: Đây là đề tài quen thuộc của thi sĩ muôn đời, đặc biệt là thơ cổ
- Tứ thơ: Mượn không gian hùng vĩ, đượm buồn khi chiều xuống, nhà thơ gửi gắm tâm sự của
mình. Không gian càng mênh mông, rợn ngợp, con người càng nhỏ bé, cô đơn, kiếp người lênh
đên giữa dòng đời không biết đi đâu về đâu. Đây là tứ thơ quen thuộc trong thơ cổ.
- Thể thơ: Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn: có khả năng bày tỏ suy tư, cảm xúc mênh
mang của con người.
- Tác giả vận dụng tự nhiên, nhuần nhuyễn lối đối hài hòa của thơ cổ.
- Thi liệu: Đọc bài thơ, ta bắt gặp nhiều hình ảnh quen thuộc trở di trở lại trong áng văn thơ cổ
điển: Dòng sông dài mênh mông vắt ngang bầu trời cao rộng; bến vắng cô liêu
- Hình ảnh thơ chia thành hai hệ thống đối lập: một bên là thiên nhiên rộng lớn cao rộng, một bên
là kiếp người bé nhỏ, cô đơn.
- Bút pháp: Bút pháp họa vân hiển nguyệt của Đường thi: lấy động tả tĩnh, lấy cái vô hạn để tả
cái hữu hạn, lấy cái mênh mông rợn ngợp để tải cái bé nhỏ mong manh, thủ pháp đối lập, tả cảnh
ngụ tình...
Chất hiện đại:
Thể hiện cái tôi cá nhân trước cuộc đời: Nỗi ngậm ngùi trước sự sống nhỏ nhoi, mong manh
trong âm thanh của tiếng chợ chiều thưa thớt.
- Nỗi buồn đặc trưng của Thơ mới:
+ Đây là nỗi buồn có nguyên cớ từ đặc điểm tâm hồn, đời sống xã hội bấy giờ. Đó là nỗi buồn
nhân thế, nỗi buồn thời cuộc. Nỗi buồn tất yếu khi nhà thơ đa sầu đa cảm ý thức được thân phận
và cảnh ngộ của đất nước.
- Bức tranh thiên nhiên được quan sát dưới lăng kính cảm hứng vũ trụ. Không gian mở rộng dưới
mọi chiều kích (điệp điệp, song song), (nắng xuống, trời lên, sâu chót vót/ Sông dài, trời rộng,
bến cô liêu)
- Thi liệu hiện đại, gần gũi: cồn nhỏ, làng, chợ, bến
- Nhịp thơ: Linh hoạt, 2/2/3 hoặc 2/55

KHỔ 3:
Bức tranh Tràng Giang ở khổ 3 đã trở lại với hình ảnh của một dòng sông bến bãi thật sự. Không
bắt đầu bằng những câu thơ miêu tả như khổ 1,2; mở đầu khổ 3 là một câu hỏi băn khoăn nhuốm
chút ngậm ngùi, buồn bã: “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”.
Khổ thơ thứ ba sự sống được mở ra tầng tầng, lớp lớp với "bèo dạt về đâu, hàng nối hàng".
"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng"
Cánh bèo nhỏ nhoi, đơn côi của Huy Cận có sự tương giao với cánh bèo buồn mênh mang trong
ca dao xưa “Bèo dạt mây trôi chốn xa xôi” hay trong tác phẩm của Nguyễn Du với những hình
ảnh thơ gây ám ảnh về số phận lạc lõng, cô đơn, vô định của con người trên dòng đời vô tận:
“ Hoa trôi bèo dạt đã đành
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi”
Mặc dù “hàng nối hàng” thì cái âm điệu của câu hỏi vẫn vang lên đầy nhức nhối như một nỗi bơ
vơ lạc lõng: "Bèo dạt về đâu".
"dạt" => "hàng nối hàng" bị đẩy vào cảm giác phiêu dạt trôi nổi.
Huy Cận đã đẩy những hình ảnh của sự sống ấy dạt ra ngoài rìa của bức tranh để tạo nên một
cảm giác song song.
Hình ảnh bèo trôi dạt chính là thân phận của nhà thơ trong xã hộ đương thời: số phận của 1 trí
thức yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp nhưng chẳng thể xác định được bản thân muốn gì?
Hình ảnh thơ ngoài ý nghĩa tả thực còn có ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng: Nhà thơ đang sống trong
cảnh mất nước, nô lệ, nên đã cảm nhận được cả thế hệ thanh niên lúc đó cũng như mình đang vật
vờ, lênh đênh, trôi dạt, bị cuộc đời cuốn đi mà không biết trôi về đâu?
Từ những hàng bèo buồn bã, đơn điệu, nhà thơ hướng tầm mắt tới những không gian xa vời hơn
trên tràng giang:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Giữa hai dòng chảy miên viễn ấy là một cảm giác mênh mông "không chuyến đò ngang", "không
cầu".
"Cầu" và "đò ngang" vốn là phương tiện để chuyên chở, để kết nối. Cây cầu nối hai bờ không
gian lại, chuyến đò để đưa người sang sông, đưa tâm hồn đến với tâm hồn.
Hơn thế nữa trong các tôn giáo thì cả cầu và đò đều là biểu tượng của sự siêu thoát, tái sinh và
gặp gỡ, đoàn tụ - hay nói cách khác chính là cái “niềm thân mật” viết trong thơ Huy Cận. (phân
tích miệng dài ra)
“không một chuyến đò ngàng”, “không cầu”: khiến khoảng cách tiếp tục được dàn ra, trải ra, các
đường biên của tạo vật bị xóa nhòa bởi những cái không mang tính phủ định tuyệt đối
Tnh từ gợi tả không gian “mênh mông” càng khiến cho không gian không có tình người, không
có dấu hiệu của sự đoàn tụ, chỉ có thiên nhiên hiu hắt buồn vắng.
=> Cuộc sống dường như biệt lập, tách lìa hoàn toàn nơi nhà thơ đang đứng

“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”:


Tính từ chỉ màu sắc: “xanh” “vàng” khiến bức tranh sáng hơn nhưng vẫn ảm đạm vì Từ láy “lặng
lẽ” đứng đầu qua biện pháp đảo ngữ phủ lên toàn cảnh sắc thái tĩnh lặng
“Lặng lẽ”+ “tiếp” là sự mở rộng đến vô cùng của không gian.: bờ tiếp bãi, màu xanh tiếp màu
vàng => h/a thiên nhiên trải dài tới vô tận, k có hình bóng và dấu vết con người
Nỗi buồn của Huy Cận cũng chính là nỗi cô đơn ngay ở giữa dòng đời, cô đơn ngay giữa đám
đông, làm tăng cảm giác bơ vơ, ngơ ngác, làm tăng sự hoài nghi về chính sự tồn tại của mình.
=> CHỐT LẠI: 2 luồng suy nghĩ
Khổ 3 thêm vào nỗi buồn Huy Cận 1 niềm khao khát mãnh liệt tình đời, tình người, khao khát 1
chuyến đò, 1 cây cầu để được giao tiếp, được tìm kiếm tri âm
Và cũng là cảm thức về thân phận mà Huy Cận đưa đến: Mình chỉ như một kẻ trôi dạt vô định, ở
trên như một bến cô liêu, ở đây còn nhỏ nhoi hơn: như một cánh bèo.
Cái mới + cái cổ điển của Huy Cận:
Vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, bút pháp tả cảnh ngụ tình,
gợi hơn là tả, nhiều từ Hán Việt cổ kính
Tình cảm khi nhân mang màu sắc hiện đại: một cái tôi thơ mới lãng mạn.
Hình ảnh sinh động (cánh bèo truyền thống, cầu và đò), cảm giác tinh vi phong phú, nhiều sáng
tạo bất ngờ: lối tách từ bờ xanh, bãi vàng, câu hỏi tu từ.

KHỔ 4:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.

2 câu thơ đầu: bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà đẹp hùng vĩ, nên thơ
C1: 
Nét cổ điển với bút pháp chấm phá “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
Từ láy “lớp lớp” gợi nên hình ảnh mây vờn quanh núi từng lớp, từng lớp dày đặc, đầy nội lực,
mạnh mẽ 
Từ “đùn”: sự xao động không ngừng nghỉ của những đám mây →  khiến cho ngọn núi phủ một
màu trắng ngà.
Hình ảnh ẩn dụ “núi bạc” gợi liên tưởng thú vị: Dưới ánh nắng mặt trời những ngọn núi ấy trông
như được dát bạc, tạo nên cảnh tượng hùng vĩ hiếm có
 Từ "đùn" làm ta nhớ đến hai câu thơ của Đỗ Phủ (Thu hứng)
"Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa"
=> Nếu như từ “đùn” trong Tràng giang gợi vẻ đẹp thơ mộng, sự nhẹ nhàng, từ “đùn” trong Thu
hứng lại làm cảnh sắc có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Nó miêu tả mây đùn cửa ải xa, khi
những đám mây đang xâm lấn và bao trùm vạn vật, càng gia tăng sự trống trải, cô đơn 
C2: 
Giữa không trung có “lớp lớp mây cao” , cánh chim hiện lên đã nhỏ bé, cô độc, mà đến dòng thơ
thứ 2 lại càng nhỏ bé hơn giữa cái bao la của trời đấy 
→ Xuất hiện như ánh lên 1 tia nắng ấm áp cho cảnh vật, song vẫn không làm vơi đi nỗi buồn
thăm thẳm trong lòng nhà thơ
“chim nghiêng cánh nhỏ” gợi cảm giác nhỏ bé, bơ vơ, cánh chim bé nhỏ đang đơn độc “nghiêng”
(trạng thái không vững vàng) mình dưới bóng chiều buồn. 
Nét hiện đại: dấu “:” ở câu thơ thứ 2  → mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: chim nghiêng
cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống hay như thể cánh chim bị bóng chiều đè  
Đây là một hình ảnh quen thuộc, là hình ảnh ước lệ tượng trưng để khắc hoạ cảnh chiều trong thi
ca cổ điển. Tuy nhiên, trong thơ Huy Cận, có một sự mới mẻ trong hình ảnh cánh chim: là tượng
trưng của cái tôi cô đơn. 
Cánh chim là bản thân người thi sĩ cô độc, không có nổi một chốn cho tâm hồn nương tựa trước
những cảnh tượng mênh mông rộng lớn, hùng vĩ đến thế —> sự hữu hình hoá cái vô hình của tác
giả
Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và “bóng chiều sa”- vũ trụ bao la hùng vĩ ⇒ nhấn mạnh
nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng đạt.
CHỐT!!: 2 câu thơ đã lấy động tả tĩnh: lấy sự chuyển động của mây trời và cánh chim để gợi ra
sự tĩnh vắng, đượm buồn của thiên nhiên

2 câu thơ sau: nỗi nhớ quê hương da diết, cháy bỏng của tác giả
Dùng chất liệu thơ cổ, thế nhưng nội dung thơ lại đậm tính hiện đại, = cách bộc lộ nỗi nhớ quê
nhà tha thiết của tác giả
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Hình ảnh “dợn dợn vời con nước” 


dợn dợn: dấy lên, gợi lên, có nỗi niềm khó nói
ko chỉ tả những đợt sóng lan xa mà còn gợi lên nỗi buồn người xa xứ nhớ quê hương da diết
“Dợn dợn” là từ láy được ông sáng tạo riêng. Hai thanh nặng xuất hiện như nỗi buồn của nhà thơ
đang vào hố sâu tuyệt vọng. Nó như cơn sóng gợn buồn trong lòng tác giả.
Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch: "Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương"?
(Tĩnh dạ tứ - lớp 7)
=> Phép đối có tác dụng làm cho người đọc thấy được rõ hơn nỗi nhớ quê hương, ánh trăng thấm
đẫm buồn của nhà thơ.
Rốt cuộc thì điểm trở về của một tâm hồn cô đơn vẫn là quê hương và nỗi nhớ ấy được đo bằng
từ láy ‘dợn dợn”. Đó là nỗi nhớ thường trực, không phút nào nguôi ngoai
Nỗi nhớ ấy mạnh đến mức dù cho bài thơ có tồn tại bao nhiêu lần phủ định như “không cầu”,
“không đò”, “không khói hoàng hôn” thì cũng không thể ngăn cản cái tôi cá nhân sầu não kia về
với nỗi nhớ quê da diết của mình
Vời: ánh mắt thi nhân nhìn về phía xa. Kết hợp với các từ “cánh nhỏ”, “chiều sa”, “dợn dợn”,
“vời”, “nhớ” → càng tô đậm thêm nỗi buồn man mác của nhà thơ.
   
Trong Đường Thi cũng đã từng viết:
 “Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”
Nếu như Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà thì trong “Tràng giang”, Huy
Cận, đứng ngay trên quê hương mình, dòng sông không có khói mà vẫn dâng lên nỗi nhớ nhà. 
Nhà ở đây có thể hiểu rộng là nước nhà →  bộc lộ kín đáo tình cảm với đất nước, quê hương.
Đây là một tình cảm cao đẹp, bởi lẽ:
“Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người.”
Nỗi nhớ ấy không phải chỉ riêng của một người xa quê, mà thơ Huy Cận còn mang nỗi buồn của
thời đại, nỗi niềm của cả một thế hệ.
Đặt bài thơ trong bối cảnh xã hội bấy giờ, có thể hiểu là nỗi buồn đất nước mất chủ quyền, nỗi
buồn vong quốc.
CHỐT!! Câu thơ cuối đậm chất cổ điển khép lại bài thơ 1 cách chân thực và rõ nét niềm thương
nhớ quê hương đất nước của thi nhân. Khát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương, góp sức
mình cho đất nước

Hiện đại & cổ điển: 


Cổ điển 1: lối thơ bảy chữ, thi liệu cổ như mây, sông, cánh chim
Huy Cận có nét vẽ vừa cổ điển và hiện đại ở 2 câu thơ đầu tiên 
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc 
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa 
bút pháp chấm phá với mây cao đùn núi bạc thành lớp lớp → hình ảnh mang nét cổ điển thật trữ
tình và thi vị 
Từ đùn là 1 nét mới miêu tả mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp cứ đùn ra
mãi 
Hiện đại thứ 2: dấu “:” ở câu thơ thứ 2  → mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: chim nghiêng
cánh nhỏ kéo bóng chiều cùng sa xuống hoặc cũng có thể hiểu là bóng chiều đè nặng lên cánh
chim nhỏ làm nghiêng cả đi → gợi cả không gian lẫn thời gian  bởi sử dụng hình ảnh “cánh
chim” và “bóng chiều” vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển
Hiện đại thứ 3: Cái tôi trữ tình là một cái tôi thật lẻ loi, cô độc mang những nỗi sầu, những cảm
giác bất lực, bế tắc trước những đớn đau của quê hương đất nước

Tổng kết 
Nội dung: 

Nghệ thuật: 
Lấy động tả tĩnh (câu 1) 
Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: nhỏ bé/lớn lao; không/có.
Cách ngắt nhịp (4/3) tạo nên sự cân đối, hài hòa. 
Sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển (Đường thi) và yếu tố thơ mới
yếu tố đường thi: đề tài thiên nhiên cổ kính, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên hoang sơ, tả cảnh
ngụ tình, đối lập, thể thơ thất ngôn trang nghiêm,cổ kính 
yếu tố thơ mới: cái tôi giàu cảm xúc, hình ảnh giàu sức gợi, 

You might also like