Professional Documents
Culture Documents
THSQLBV - bt1 QLKT-TCBV Nhom 4
THSQLBV - bt1 QLKT-TCBV Nhom 4
BÀI TẬP NHÓM 1 - MÔN: QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ TÀI CHÍNH Y BỆNH VIỆN
(Dành cho đối tượng: ThSQLBV)
Bệnh viện II Lâm Đồng là bệnh viện đa khoa hạng II, là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
cho hơn 620.000 nhân dân 6 huyện thị phía Nam tỉnh Lâm Đồng và các tỉnh lân cận. Quy
mô của BV là 450 giường bệnh kế hoạch và số giường bệnh thực kê là 500 giường
Trung bình mỗi ngày khám khoảng 1000 đến 1300 bệnh nhân ngoại trú và điều trị
khoảng 500 đến 650 bệnh nhân nội trú.
Hiện nay bệnh viện đang thực hiện phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh
BHYT theo phương thức tính giá dịch vụ. Tuy nhiên, khi phương thức thanh toán chi phí
khám chữa bệnh BHYT theo nhóm chẩn đoán được triển khai trên toàn quốc, bệnh viện
có những thuận lợi và khó khăn khi triển khai như sau:
Thuận lợi:
Thanh toán theo DRG tạo động lực cho bệnh viện bắt buộc nâng cao chất lượng
chuyên môn, chú trọng đào tạo để nâng cao chất lượng điều trị bệnh, giảm chi phí điều
trị => tăng năng suất tài chính cho bệnh viện.
Thanh toán DRG tạo động lực cho bệnh viện chú trọng phát triển dịch vụ kỹ thuật,
đặc biệt các dịch vụ kỹ thuật cao.
Thanh toán DRG giảm thời gian nằm viện không cần thiết, giảm quá tải bệnh viên.
Khi triển khai phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT theo nhóm
chẩn đoán, bệnh viện sẽ tự chủ trong cung ứng dịch vụ cũng như sử dụng nguồn quỹ
BHYT.
Khó khăn:
Khi bệnh nhân vào viện phải xác định đúng nhóm bệnh và chi phí, nếu không sẽ
gây thất thoát cho bệnh viện.
Bệnh viện chưa có đội ngũ mã hóa lâm sàng chuyên biệt để phục vụ cho công tác
thanh toán DRG. Cán bộ thực hiện nhiệm vụ thanh quyết toán chưa được đào tạo về
hoạch toán chi phí KCB theo DRG.
Nguồn nhân lực hạn chế, đặc biệt là đội ngũ chuyên sâu, do đó việc đào tạo, nâng
cao chất lượng ít phần cũng bị ảnh hưởng=> là tác động ảnh hưởng đến việc thanh toán
DRG.
Bệnh viện đã cập nhật hệ thống mã ICD-10 nhưng NVYT sử dụng theo thói quen,
mã ICD-10 chỉ tập trung vào một số mã, chưa đi sâu vào các mã ICD khác (ICD-10 dạng
4 ký tự).
Cán bộ làm công tác thanh toán chi phí điều trị của khoa phòng hầu như là điều
dưỡng, kế toán viện phí=> do đó không đánh giá được mức độ, tính chất bệnh tật là bệnh
chính, bệnh kèm, biến chứng….=> việc thực hiện thanh toán DRG không hiệu quả, làm
giảm mức thu chi phí KCB.
Ví dụ: Bệnh nhân vào viện được chỉ định mổ lấy thai cho 1 thai với mã chẩn đoán
O82. Trong quá trình mổ lấy thai bệnh nhân có chuyển biến xấu, cần thực hiện cắt tử
cung (O82.2). Khi thực hiện thanh toán chi phí thì phải sử dụng mã chẩn đoán bệnh chính
là O82.2. Nếu sử dụng mã bệnh O82 làm mã bệnh chí thì sẽ làm thất thu cho bệnh viện,
chi phí được giao cho O82 thấp hơn chi phí O82.2. Do đó việc xác định đúng mã bệnh
thanh toán là quan trọng trong việc thanh toán chi phí bằng DRG.
Một ví dụ khác về sự thuận lợi/bất lợi của việc triển khai DRG là ở Bệnh viện 1A
TPHCM, bệnh viện hạng II trực thuộc Bộ Lao Động, với chuyên khoa là phục hồi chức
năng và chấn thương chỉnh hình, nguồn thu từ bảo hiểm y tế chỉ chiếm không quá 50%
doanh thu, ngoài ra bệnh nhân nội trú không chiếm đa số. Hiện nay nguồn thu từ các ca
mổ và dịch vụ kỹ thuật cao chiếm đa số, việc thay đổi sang DRG có thể không gây cho
bệnh viện nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, bệnh viện 1A chắc chắn vẫn sẽ phải đầu tư nguồn lực vào việc mã hóa
lâm sàng theo DRG. Ngoài ra trong tương lai, bệnh viện có thể có kế hoạch đưa vào vận
hành thêm các khoa điều trị nội trú hoặc quảng bá tiếp nhận điều trị nhiều bệnh nhân
BHYT hơn, phương thức DRG có thể làm bệnh viện phải đầu tư nghiên cứu tối ưu hóa
lại quy trình điều trị và các mức chi phí.