You are on page 1of 46

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TỔNG CỤC THỐNG KÊ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 191/BC-TCTK Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2021

BÁO CÁO
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
QUÝ III VÀ 9 THÁNG NĂM 2021

Tình hình kinh tế thế giới khởi sắc trong năm 2021 khi các quốc gia triển
khai mạnh mẽ chiến lược tiêm chủng vắc-xin phòng Covid-19 đã giúp giảm
nhanh số ca lây nhiễm và tử vong. Tuy nhiên, tăng trưởng của các nền kinh tế
có sự khác biệt do tốc độ triển khai vắc-xin và chính sách hỗ trợ khác nhau ở
các quốc gia. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD) và các tổ chức quốc tế khác đã đưa ra dự báo về triển vọng kinh tế
toàn cầu1, trong đó có sự điều chỉnh tăng, giảm giữa các nền kinh tế. Thương
mại toàn cầu tiếp tục phục hồi nhưng có xu hướng chậm dần, giá nhiều mặt
hàng tăng mạnh so với năm 2020, lạm phát gia tăng nhưng nhìn chung vẫn
được kiểm soát trên toàn thế giới. Ngoài ra, đại dịch đã gây tắc nghẽn trong
chuỗi giá trị toàn cầu làm cho giá nguyên liệu sản xuất tăng là thách thức
không nhỏ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các quốc gia.
Trong nước, tiếp nối kết quả đã đạt được của năm 2020, những tháng đầu
năm 2021, kinh tế vĩ mô nước ta tiếp tục ổn định và bắt đầu khởi sắc. Tuy nhiên,
làn sóng dịch Covid-19 bùng phát từ cuối tháng Tư với biến chủng mới có tốc
độ lây lan nhanh chóng, nguy hiểm diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương, đặc
biệt tại các tỉnh, thành phố kinh tế trọng điểm như: Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An,
Cần Thơ... ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sức khỏe, tính mạng của
người dân và hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trước tình hình đó, với sự quyết tâm cao nhất của cả hệ thống chính trị,
nhân dân cả nước, cộng đồng doanh nghiệp và lực lượng tuyến đầu chống dịch
đã phát huy tinh thần đoàn kết, đồng lòng, chung sức, huy động mọi nguồn lực
để đẩy lùi dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe, chăm lo, ổn định đời sống cho người dân

1
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (Báo cáo cập nhật triển vọng kinh tế thế giới, tháng 7/2021) nhận định nền kinh tế toàn cầu
sẽ tăng trưởng 6,0% vào năm 2021, không thay đổi so với dự báo đưa ra vào tháng 4/2021. Tuy nhiên, dự báo
tăng trưởng có sự bù trừ giữa các nền kinh tế phát triển với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển; Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Báo cáo sơ bộ Triển vọng kinh tế OECD, tháng 9/2021) dự báo tăng trưởng kinh tế
toàn cầu đạt 5,7% trong năm 2021, giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 5/2021. Tổ chức
kinh tế tài chính tư nhân Fitch Ratings dự báo GDP toàn cầu năm 2021 tăng 6,0% trong năm 2021, điều chỉnh
giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra vào tháng 6/2021 (Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu, tháng
9/2021).
2

và nỗ lực duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh. Kết quả đạt được của các
ngành, lĩnh vực trong quý III và 9 tháng 2021 như sau:
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2021 ước tính giảm 6,17% so với
cùng kỳ năm trước, là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và công bố
GDP quý đến nay. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,04%;
khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 5,02%; khu vực dịch vụ giảm 9,28%.
Về sử dụng GDP quý III/2021, tiêu dùng cuối cùng giảm 2,83% so với cùng kỳ
năm trước; tích lũy tài sản tăng 1,61%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng
2,51%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 10,75%.
GDP 9 tháng năm 2021 chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước do dịch
Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, nhiều địa
phương kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài để phòng
chống dịch bệnh. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 2,74%, đóng góp 23,52%; khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng 3,57%, đóng góp 98,53%; khu vực dịch vụ giảm 0,69%, làm giảm
22,05%.

Tốc độ tăng GDP 9 tháng so với cùng kỳ năm trước


các năm 2017-2021 (%)
10.00 7.16 8.00
7.15
6.49 7.00
8.00
6.00
9.04

6.00
5.00
7.34

2.31
6.97

8.71

4.00 4.00
6.80
7.21

3.97

4.06

3.00
3.13

3.57
1.12

2.74

2.00
2.45

1.42 2.00
2.01

-
2017 2018 2019 2020 2021 1.00
-0.69
(2.00) -

Nông, lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp và xây dựng


Dịch vụ GDP

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đóng vai trò là bệ đỡ của nền kinh tế
trong đại dịch, năng suất lúa tăng cao, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch
xuất khẩu một số nông sản 9 tháng năm 2021 đạt khá so với cùng kỳ năm trước.
3

Ngành nông nghiệp tăng 3,32%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm vào tốc độ tăng
tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,3%, đóng
góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 0,66%, đóng góp 0,02 điểm phần
trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,05%, đóng
góp 1,53 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền
kinh tế. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,24%, đóng góp 0,2 điểm phần
trăm. Ngành khai khoáng giảm 7,17%, làm giảm 0,27 điểm phần trăm do sản
lượng dầu thô khai thác giảm 6% và khí đốt tự nhiên giảm 17,6%. Ngành xây
dựng giảm 0,58%, làm giảm 0,04 điểm phần trăm.
Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động
thương mại và dịch vụ. Tăng trưởng âm trong 9 tháng năm 2021 của một số
ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch
vụ và toàn bộ nền kinh tế. Ngành bán buôn, bán lẻ giảm 3,1% so với cùng kỳ năm
trước, làm giảm 0,3 điểm phần trăm trong tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của
toàn nền kinh tế; ngành vận tải kho bãi giảm 7,79%, làm giảm 0,47 điểm phần
trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 23,18%, làm giảm 0,57 điểm phần
trăm. Ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất với mức
tăng 21,15%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và
bảo hiểm tăng 8,37%, đóng góp 0,45 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền
thông tăng 5,24%, đóng góp 0,32 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế 9 tháng năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản chiếm tỷ trọng 12,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,03%;
khu vực dịch vụ chiếm 40,19%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm
8,99%.
Về sử dụng GDP 9 tháng năm 2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 1,6% so với
cùng kỳ năm 2020; tích lũy tài sản tăng 4,27%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
tăng 14,21%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 18,46%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp 9 tháng năm 2021 diễn ra trong điều kiện thời tiết
tương đối thuận lợi, năng suất cây trồng và chăn nuôi đạt khá. Tuy nhiên, do đại
dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nhiều địa phương thực hiện giãn cách xã hội
làm ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng sản xuất - chế biến - tiêu thụ các sản phẩm
nông, lâm nghiệp và thủy sản. Trước những khó khăn, thách thức, ngành Nông
nghiệp đã có nhiều giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả thể hiện vai trò bệ đỡ
của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết
yếu, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch.
4

a) Nông nghiệp
Nhờ thời tiết thuận lợi và chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng tích
cực, gieo trồng giống lúa mới cho giá trị kinh tế cao dần thay thế giống lúa
truyền thống nên năng suất lúa đông xuân của cả nước năm nay đạt 68,6 tạ/ha,
tăng 2,2 tạ/ha so với vụ đông xuân năm 2020, sản lượng đạt 20,63 triệu tấn, tăng
755,1 nghìn tấn.

Tính đến trung tuần tháng Chín, diện tích gieo cấy lúa mùa cả nước đạt
1.577,4 nghìn ha, bằng 99,8% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía
Bắc đạt 1.040,9 nghìn ha, bằng 99%, các địa phương phía Nam đạt 536,5 nghìn
ha, bằng 101,4%. Diện tích gieo cấy lúa mùa miền Bắc năm nay thấp hơn so với
cùng kỳ năm trước chủ yếu do các địa phương chuyển một phần diện tích đất
trồng lúa sang đất phi nông nghiệp để xây dựng các công trình thủy lợi, cơ sở hạ
tầng; chuyển sang cây trồng khác và nuôi trồng thủy sản hoặc không sản xuất do
thiếu lao động, hiệu quả sản xuất thấp. Một số địa phương giảm nhiều diện tích
gieo cấy lúa: Nghệ An giảm 3,4 nghìn ha; Hà Nội giảm 1,7 nghìn ha; Hưng Yên
giảm 1,1 nghìn ha.
Vụ lúa hè thu năm nay cả nước gieo cấy ước đạt 1.954 nghìn ha, tăng 8,8
nghìn ha so với vụ hè thu năm trước, tăng chủ yếu ở vùng Bắc Trung Bộ và vùng
Duyên hải miền Trung. Riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.509 nghìn
ha, giảm 15,1 nghìn ha, do chuyển đổi cơ cấu cây trồng: Một phần đất trồng lúa
kém hiệu quả chuyển sang trồng cây hoa màu, cây ăn quả; phần khác chuyển
sang nuôi trồng thuỷ sản hoặc sản xuất một vụ lúa - một vụ tôm ở vùng đất bị
nhiễm phèn, nhiễm mặn.
Tính đến ngày 15/9/2021, các địa phương đã thu hoạch được 1.643,8 nghìn
ha lúa hè thu, chiếm 84,1% diện tích gieo cấy và bằng 101,5% cùng kỳ năm
5

trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch 1.364,3 nghìn ha,
chiếm 90,4% và bằng 100,9%. Theo báo cáo của các địa phương, ước tính năng
suất lúa hè thu cả nước năm nay đạt 56,5 tạ/ha, tăng 1,2 tạ/ha so với vụ hè thu
năm 2020. Trong đó, tăng cao nhất ở vùng Bắc Trung Bộ với năng suất đạt 51,4
tạ/ha, tăng 3,6 tạ/ha; tiếp theo là vùng Tây Nguyên đạt 55,9 tạ/ha, tăng 1,7 tạ/ha;
vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 56,6 tạ/ha, tăng 0,9 tạ/ha.
Do diện tích gieo cấy và năng suất tăng so với vụ hè thu trước nên sản lượng
chung toàn vụ đạt 11,03 triệu tấn, tăng 282,7 nghìn tấn. Một số địa phương có
diện tích gieo cấy lúa hè thu và sản lượng tăng so với vụ trước 2: Khánh Hoà tăng
11,2 nghìn ha và tăng 66,7 nghìn tấn; Bình Định tăng 3,2 nghìn ha và tăng 20,7
nghìn tấn; Quảng Ngãi tăng 2,7 nghìn ha và tăng 15,3 nghìn tấn. Riêng vùng
Đồng bằng sông Cửu Long diện tích gieo trồng giảm 15,1 nghìn ha nhưng năng
suất tăng nên sản lượng đạt 8,55 triệu tấn, tăng 76,7 nghìn tấn.
Đến giữa tháng Chín, vùng Đồng bằng sông Cửu Long gieo cấy được 599,7
nghìn ha lúa thu đông, bằng 100,6% cùng kỳ năm trước. Hiện nay, lúa thu đông
đang ở giai đoạn trổ đều và bắt đầu cho thu hoạch. Ngành Nông nghiệp cần tăng
cường công tác giám sát chặt chẽ diện tích lúa thu đông, theo dõi diễn biến tình
hình thời tiết, sâu bệnh, chuẩn bị các phương tiện cần thiết để bảo vệ diện tích
lúa thu đông chưa thu hoạch.
Tổng diện tích cây lâu năm 9 tháng năm 2021 ước tính đạt 3.642,4 nghìn
ha, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm cây công nghiệp đạt
2.192,2 nghìn ha, giảm 0,1%; nhóm cây ăn quả đạt 1.154,1 nghìn ha, tăng 3,6%;
nhóm cây lấy quả chứa dầu đạt 185 nghìn ha, tăng 2,7%; nhóm cây gia vị, dược
liệu đạt 53,7 nghìn ha, tăng 6,5%.
Sản lượng thu hoạch nhiều loại cây ăn quả và cây công nghiệp 9 tháng năm
2021 tăng do thời tiết năm nay thuận lợi, cây trồng không bị hạn hán, thiếu nước
tưới. Trong đó, sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm như điều ước tính đạt
365,2 nghìn tấn, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước; hồ tiêu đạt 275,6 nghìn
tấn, tăng 2,3%; cao su đạt 822,8 nghìn tấn, tăng 2,6%; chè búp đạt 865,2 nghìn
tấn, tăng 1,8%. Sản lượng thu hoạch một số cây ăn quả chủ yếu hầu hết đều tăng
so với cùng kỳ năm trước: Xoài đạt 801,1 nghìn tấn, tăng 6,7%; thanh long đạt
1.030,5 nghìn tấn, tăng 1,7%; cam đạt 689,7 nghìn tấn, tăng 3,8%; bưởi đạt
511,3 nghìn tấn, tăng 6,1%; chuối đạt 1.779,2 nghìn tấn, tăng 2,6%; nhãn đạt
544,4 nghìn tấn, tăng 7,8%.

2
Do năm 2020 chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán, thiếu nước tưới, năm nay thời tiết thuận lợi, nguồn nước
đủ cung cấp cho cả vụ nên sản xuất dần được phục hồi.
6

Chăn nuôi trâu, bò trong tháng nhìn chung ổn định, dịch viêm da nổi cục
đang dần được kiểm soát nhưng nguy cơ tái phát vẫn còn cao. Chính quyền địa
phương và các cơ quan chuyên ngành vẫn cần tiếp tục triển khai các giải pháp
phòng, chống dịch bệnh, tổ chức tốt việc tiêm vắc xin; giám sát, phát hiện và xử
lý kịp thời các ổ dịch mới phát sinh; xử lý nghiêm các trường hợp vận chuyển,
mua bán trâu, bò trái phép, không rõ nguồn gốc.
Chăn nuôi lợn và gia cầm chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhiều chợ
đầu mối, chợ truyền thống tạm ngưng hoạt động, chi phí sản xuất tăng, khâu lưu
thông bị gián đoạn, nhu cầu thị trường giảm do nhà hàng, quán ăn đóng cửa, du
lịch đình trệ nên các cơ sở chăn nuôi nhỏ lẻ gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ,
lượng vật nuôi tồn đọng trong chuồng cao, tăng nguy cơ thua lỗ.
Sản phẩm chăn nuôi

Tốc độ tăng/giảm so với


Ước tính Cộng dồn cùng kỳ năm trước (%)
quý III/2021 9 tháng/2021
Quý III/2021 9 tháng/2021

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng (Nghìn tấn)


Thịt trâu 25,6 86,6 -1,3 -0,4
Thịt bò 101,4 332,4 -1,6 2,4
Thịt lợn 1.058,7 3.060,9 -0,3 5,0
Thịt gia cầm 470,5 1.402,7 1,0 4,3
Trứng (Triệu quả) 4.419,0 12.841,8 2,8 4,3
Sữa (Nghìn tấn) 295,5 856,6 10,5 11,0

Tính đến ngày 20/9/2021, cả nước không còn dịch tai xanh; dịch lở mồm
long móng còn ở Thái Nguyên; dịch cúm gia cầm còn ở Lạng Sơn; dịch tả lợn
7

châu Phi còn ở 35 địa phương3 và dịch viêm da nổi cục còn ở 31 địa phương4
chưa qua 21 ngày.
b) Lâm nghiệp
Quý III năm 2021, sản xuất lâm nghiệp gặp khó khăn do nhiều địa phương
thực hiện giãn cách xã hội trong thời gian dài, hoạt động trồng rừng và khai thác
gỗ giảm tiến độ so với kế hoạch đầu năm. Các doanh nghiệp chế biến gỗ gặp trở
ngại trong thu mua nguyên liệu, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do chuỗi
cung ứng bị đứt gãy.
Trong quý III/2021, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước tính đạt
65,8 nghìn ha, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng
phân tán đạt 18,5 triệu cây, tăng 2,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 4.643,6 nghìn
m3, tăng 2,0%; sản lượng củi khai thác đạt 4,4 triệu ste, giảm 2,7%.
Tính chung 9 tháng năm 2021, ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung
đạt 176,2 nghìn ha, tăng 2,8 % so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp
trồng phân tán đạt 65,1 triệu cây, tăng 2,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 12.589,2
nghìn m3, tăng 4,3%; sản lượng củi khai thác đạt 14,3 triệu ste, giảm 0,9%.
Diện tích rừng bị thiệt hại5 quý III/2021 là 942,4 ha, tăng 56,3% so với cùng
kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 736,8 ha, gấp 1,9 lần; diện tích
rừng bị chặt, phá là 205,6 ha, giảm 8,0%. Tính chung 9 tháng năm 2021, cả nước
có 1.748,2 ha rừng bị thiệt hại, tăng 31,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện
tích rừng bị cháy là 1.020,2 ha, tăng 54,6%; diện tích rừng bị chặt, phá là 728 ha,
tăng 8,3%.
c) Thủy sản
Sản lượng thủy sản quý III/2021 ước tính đạt 2.281,4 nghìn tấn, giảm 5,2%
so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Cá đạt 1.607,5 nghìn tấn, giảm 5,9%; tôm
đạt 337 nghìn tấn, giảm 5,2%; thủy sản khác đạt 337 nghìn tấn, giảm 1,6%. Ước
tính 9 tháng năm 2021, sản lượng thủy sản đạt 6.377,3 nghìn tấn, giảm 0,2% so
với cùng kỳ năm trước; bao gồm: Cá đạt 4.612,5 nghìn tấn, giảm 1,2%; tôm đạt
810 nghìn tấn, tăng 3,4%; thủy sản khác đạt 954,8 nghìn tấn, tăng 1,5%.

3
Hà Nội, Ninh Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Quảng Ninh,
Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng
Tàu, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
4
Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Điện Biên, Tuyên Quang, Sơn La, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Ninh Thuận,
Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, Tiền
Giang, Bến Tre, Kiên Giang, Trà Vinh.
5
Số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính từ 15/8/2021-15/9/2021.
8

Sản lượng thủy sản nuôi trồng quý III ước tính đạt 1.215,3 nghìn tấn, giảm
8,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá đạt 766,4 nghìn tấn, giảm 11,1%;
tôm đạt 300,4 nghìn tấn, giảm 5,2%. Tính chung 9 tháng năm 2021, sản lượng
thủy sản nuôi trồng ước tính đạt 3.320,1 nghìn tấn, giảm 1,0% so với cùng kỳ
năm trước, bao gồm: Cá đạt 2.224,1 nghìn tấn, giảm 3,1%; tôm đạt 699,8 nghìn
tấn, tăng 4,3%; thủy sản khác đạt 396,2 nghìn tấn, tăng 1,9%.
Giá cá tra liên tục ở mức thấp kể từ cuối năm 2019 đến nay, dao động
khoảng 20-22 nghìn đồng/kg khiến cho người nuôi giảm quy mô nuôi hoặc
chuyển sang nuôi thủy sản khác. Việc thực hiện giãn cách xã hội gây trở ngại
cho sản xuất, các doanh nghiệp chế biến cá tra dừng hoặc giảm công suất hoạt
động, do đó sản lượng cá tra giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng cá
tra 9 tháng năm 2021 ước tính đạt 987,4 nghìn tấn, giảm 9,5% so với cùng kỳ
năm trước (quý III/2021 đạt 315,3 nghìn tấn, giảm 19,8%).
Sản lượng thu hoạch tôm nuôi giảm mạnh trong quý chủ yếu do các nhà
máy chế biến giảm thu mua tôm, tạm ngưng hoạt động, giảm công suất hoặc khó
khăn trong thu mua6. Sản lượng tôm sú quý III/2021 đạt 81,5 nghìn tấn, giảm
0,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 204 nghìn tấn,
giảm 6,3%. Ước tính 9 tháng năm 2021, sản lượng tôm sú đạt 196,6 nghìn tấn,
tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 462,2
nghìn tấn, tăng 5,5%.
Sản lượng thủy sản khai thác quý III/2021 ước tính đạt 1.066,1 nghìn tấn,
giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 841,1 nghìn tấn, giảm 0,5%;
tôm đạt 36,6 nghìn tấn, giảm 5,1%. Tính chung 9 tháng năm 2021, sản lượng thủy
sản khai thác ước tính đạt 3.057,2 nghìn tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước,
bao gồm: Cá đạt 2.388,4 nghìn tấn, tăng 0,7%; tôm đạt 110,2 nghìn tấn, giảm
2,2%, thủy sản khác đạt 558,6 nghìn tấn, tăng 1,3%. Sản lượng thủy sản khai thác

6
Khoảng trên 80% sản lượng tôm nuôi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long là nguyên liệu đầu vào của các nhà
máy chế biến nên việc giảm thu mua của các doanh nghiệp tác động mạnh tới sản xuất.
9

biển 9 tháng năm 2021 đạt 2.917,5 nghìn tấn, tăng 0,8%, trong đó: Cá đạt 2.294,3
nghìn tấn, tăng 0,7%; tôm đạt 100,1 nghìn tấn, giảm 2,3%.
3. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trong quý III/2021 gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng
của dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nhất là tại các địa phương có khu công
nghiệp lớn phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài. Giá trị tăng thêm ngành công
nghiệp quý III/2021 giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng
năm 2021, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 4,45% so với cùng kỳ năm
2020.
Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 9 tháng năm 2021 ước tính tăng
4,45% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 6,29%; quý II tăng 11,18%; quý III
giảm 3,5%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,05% (quý I
tăng 8,9%; quý II tăng 13,35%; quý III giảm 3,24%); ngành khai khoáng giảm
7,17% do sản lượng khai thác dầu thô giảm 6% và khí đốt tự nhiên dạng khí giảm
17,6%.
Chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2021 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành
công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng
28,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 7,7%;
sản xuất trang phục tăng 4,8%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng
4,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 3,4%;
sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 2%. Ở chiều ngược lại, chỉ số
IIP của một số ngành giảm: Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 12,4%;
sản xuất đồ uống giảm 4,2%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 2,2%; sản xuất
phương tiện vận tải khác giảm 1,9%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất
giảm 1,1%.

Tốc độ tăng/giảm chỉ số IIP 9 tháng các năm 2017-2021


của một số ngành công nghiệp trọng điểm
%

2017 2018 2019 2020 2021

Sản xuất kim loại 19,1 19,7 36,7 4,6 28,4


Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản
30,0 14,2 6,3 9,1 7,7
phẩm quang học
Sản xuất trang phục 8,8 10,9 8,4 -5,5 4,8
Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan 7,8 10,5 8,9 -4,1 4,5
Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn
8,5 13,8 6,5 3,7 3,4
(trừ máy móc, thiết bị)
Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác 5,2 11,4 7,9 1,3 2,0
10

Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất 6,6 6,0 6,4 7,6 -1,1
Sản xuất phương tiện vận tải khác 9,4 5,7 -5,8 -9,3 -1,9
In, sao chép bản ghi các loại 8,8 7,6 11,8 -2,1 -2,2
Sản xuất đồ uống 4,6 8,2 11,0 -6,2 -4,2
Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên -10,9 -4,9 -2,4 -11,2 -12,4

Chỉ số sản xuất 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước của một số địa
phương giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch Covid-19: (1) Thành phố Hồ Chí
Minh giảm 12,9% do sản xuất trang phục giảm 25,8%; dệt giảm 17,2%; sản xuất
da và các sản phẩm có liên quan giảm 16%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm
7,8%. (2) Bến Tre giảm 11,2% do ngành dệt giảm 25,2%; sản xuất chế biến thực
phẩm giảm 18%; sản xuất trang phục giảm 15,3%; sản xuất xe có động cơ giảm
13%. (3) Đồng Tháp giảm 9,9% do sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm
37,7%; sản xuất trang phục giảm 1,4%; sản xuất sản chế biến thực phẩm giảm
9,6%. (4) Cần Thơ giảm 9,8% do sản xuất trang phục giảm 33,2%; sản xuất đồ
uống giảm 22,9%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 25,1%; sản xuất
chế biến thực phẩm giảm 9,5%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng,
hơi nước và điều hòa không khí giảm 6,7%. (5) Khánh Hòa giảm 9,5% do sản
xuất trang phục giảm 17,1%; sản xuất đồ uống giảm 15,3%; sản xuất sản phẩm
từ khoáng phi kim loại khác giảm 19,5%; sản xuất phương tiện vận tải khác
giảm 29,7%. (6) Trà Vinh giảm 7,3% do sản xuất phân phối điện, khi đốt, nước
nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 7,1%; sản xuất chế biến thực phẩm
giảm 8,8%; sản xuất thiết bị điện giảm 14,3%. (7) Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 5,3%
do khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 12,5%; sản xuất sản phẩm từ kim
loại đúc sẵn (trừ máy móc thiết bị) giảm 6%. (8) Vĩnh Long giảm 4,5% do sản
xuất đồ uống giảm 12,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 7%;
sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất giảm 18,3%; sản xuất sản phẩm từ
khoáng phi kim loại khác giảm 14,1%.
Mức giảm IIP 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước
của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

-12.9% TP. Hồ Chí Minh

-11.2% Bến Tre

-9.9% Đồng Tháp

-9.8% TP. Cần Thơ

-9.5% Khánh Hoà

-7.3% Trà Vinh

-5.3% Bà Rịa - Vũng Tàu

-4.5% Vĩnh Long


11

Ở chiều ngược lại, một số địa phương có chỉ số IIP 9 tháng năm 2021 so với
cùng kỳ năm trước tăng: (1) Ninh Thuận tăng 32,6% do sản xuất chế biến thực
phẩm tăng 13,6%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và
điều hòa không khí tăng 58,5%; dệt tăng 6%. (2) Đắk Lắk tăng 25% do sản xuất
giường, tủ, bàn ghế gấp 2,3 lần; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng
76,9%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa
không khí tăng 60,1%. (3) Hải Phòng tăng 19,7% do sản xuất trang phục tăng
54,7%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 15,5%; sản xuất da
và các sản phẩm liên quan tăng 21,7%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và
sản phẩm quang học tăng 17,5%. (4) Nghệ An tăng 18,3% do sản xuất trang phục
tăng 43,2%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 55,6%; sản xuất sản
phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 22%. (5) Gia Lai tăng 17,4% do sản xuất
giường, tủ, bàn ghế tăng 30%; sản xuất xe có động cơ tăng 26%; sản xuất chế
biến thực phẩm tăng 8,9%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ
giường, tủ, bàn ghế) tăng 2,3%. (6) Hà Tĩnh tăng 16,6% do sản xuất than cốc, sản
phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 16,5%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại
khác tăng 7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng
13,7%. (7) Thanh Hóa tăng 15,3% do sản xuất chế biến thực phẩm tăng 37,7%;
sản xuất da và các sản phẩm liên quan tăng 22,6%; sản xuất sản phẩm từ khoáng
phi kim loại khác tăng 10,6%; sản xuất trang phục tăng 15,1%. (8) Quảng Ngãi
tăng 14,9% do sản xuất kim loại tăng 86,1%; dệt tăng 45,2% (bổ sung Nhà máy
sản xuất sợi và vải Mahang Dung Quất, Xưởng vải Công ty TNHH Xindadong
Textiles có cùng thời gian hoàn thành là tháng 8/2021, năng lực thiết kế tương
ứng là 4.800 tấn/năm và 70 triệu m2/năm); sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim
loại khác tăng 22,9%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 17,1%.
(9) Hà Nam tăng 14,4% do sản xuất chế biến thực phẩm tăng 14,7%; sản xuất sản
phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 16,5%; sản xuất phương tiện vận tải khác
tăng 17,2%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng
15,8%. (10) Bình Phước tăng 14% do sản xuất chế biến thực phẩm tăng 29,3%;
sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí
tăng 11,2%; sản xuất trang phục tăng 6,9%; dệt tăng 5,2%.
Mức tăng IIP 9 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước
của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
12

Bình Phước 14.0%

Hà Nam 14.4%

Quảng Ngãi 14.9%

Thanh Hoá 15.3%

Hà Tĩnh 16.6%

Gia Lai 17.4%

Nghệ An 18.3%

TP. Hải Phòng 19.7%

Đắk Lắk 25.0%

Ninh Thuận 32.6%

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 9 tháng năm 2021 tăng cao so
với cùng kỳ năm trước: Linh kiện điện thoại tăng 43,6%; thép cán tăng 43,3%; ô
tô tăng 18,6%; xăng dầu các loại tăng 16,1%; khí hóa lỏng LPG tăng 15,7%; sắt,
thép thô tăng 12,4%; sữa bột tăng 10,3%; giày, dép da tăng 9,4%; phân hỗn hợp
NPK tăng 9,2%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm
trước: Tivi các loại giảm 35,9%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 17,6%; thủy
hải sản chế biến giảm 8,8%; bia các loại giảm 8,7%; đường kính giảm 8,3%;
thức ăn cho thủy sản giảm 7,2%; dầu mỏ thô khai thác giảm 6%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2021
tăng 12,4% so với tháng trước và giảm 11,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính
chung 9 tháng năm 2021, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời
điểm 30/9/2021 tăng 3,5% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 28,2% so
với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 24,3%). Tỷ lệ tồn
kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân 9 tháng năm 2021 là 81,1% (cùng
kỳ năm trước là 75,6%).
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời
điểm 01/9/2021 tăng 1,5% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 13,9% so
với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp Nhà
nước không đổi và giảm 5,8%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 1,4% và
giảm 16,1%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,8% và giảm 14,2%.
Theo ngành hoạt động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành
khai khoáng tăng 0,2% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,6% so với
cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1,7% và giảm 14,9%;
ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa
13

không khí giảm 0,1% và tăng 1,9%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và
xử lý rác thải, nước thải tăng 0,2% và giảm 2,3%.
4. Hoạt động của doanh nghiệp
Dịch Covid-19 kéo dài đã làm nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với nguy
cơ phá sản; chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế bị đứt gãy do các đợt giãn
cách liên tiếp, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tháng Chín có sự sụt
giảm nghiêm trọng cả về số lượng và số vốn đăng ký. Trong tháng 9/2021, số
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới chỉ đạt 3.899 doanh nghiệp, giảm 62,2%
so với cùng kỳ năm 2020; số vốn đăng ký chỉ đạt 62,4 nghìn tỷ đồng, giảm
69,3%. Tính chung 9 tháng năm 2021, tổng số doanh nghiệp thành lập mới đạt
85,5 nghìn doanh nghiệp, giảm 13,6% so với cùng kỳ năm trước; quy mô vốn
đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 14 tỷ đồng, giảm 3,1%;
số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 90,3 nghìn doanh nghiệp, tăng
15,3%7.
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất
kinh doanh trong quý IV/2021 với 73,7% doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt
hơn.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp8
Trong tháng 9/2021, cả nước có 3.899 doanh nghiệp thành lập mới với số
vốn đăng ký là 62,4 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 49,9 nghìn lao
động, giảm 32,3% về số doanh nghiệp, giảm 8,1% về vốn đăng ký và tăng 15%
về số lao động so với tháng 08/2021; so với cùng kỳ năm 2020, giảm 62,2% về
số doanh nghiệp, giảm 69,3% về số vốn đăng ký và giảm 39,9% về số lao động.
Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng đạt 16 tỷ
đồng, tăng 35,7% so với tháng trước và giảm 18,8% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong tháng, cả nước còn có 3.317 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm
14,2% so với tháng trước và giảm 27,4% so với cùng kỳ năm 2020.
Tính chung 9 tháng năm 2021, cả nước có 85,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.195,8 nghìn tỷ đồng và tổng số lao
động đăng ký là 648,8 nghìn lao động, giảm 13,6% về số doanh nghiệp, giảm
16,3% về vốn đăng ký và giảm 16,6% về số lao động so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng đạt 14 tỷ
đồng, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 1.677,2 nghìn tỷ đồng
vốn đăng ký tăng thêm của 32 nghìn doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số
7
Số liệu này có thể chưa phản ánh được thực sự số doanh nghiệp thực tế rút lui khỏi thị trường, bởi trong điều
kiện nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội nên các doanh nghiệp không thể làm thủ tục liên quan
đến việc rút lui khỏi thị trường.
8
Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, ngày 25/9/2021.
14

vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 9 tháng năm nay là 2.873 nghìn tỷ
đồng, giảm 20,2% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, còn có 32,3 nghìn
doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 6,6% so với 9 tháng năm 2020, nâng
tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong
9 tháng lên 117,8 nghìn doanh nghiệp, giảm 11,8% so với cùng kỳ năm trước.
Bình quân một tháng có 13,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại
hoạt động.
Theo khu vực kinh tế, 9 tháng năm nay có 1.465 doanh nghiệp thành lập
mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, giảm 24,8% so với cùng kỳ
năm trước; 23,1 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng,
giảm 22,2%; 60,9 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, giảm 9,5%.

Cũng trong tháng Chín, có 2.240 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh
doanh có thời hạn, giảm 28,2% so với tháng trước và giảm 31,5% so với cùng kỳ
năm 2020; có 2.509 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, giảm
0,1% và giảm 38,8%; có 606 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 25,4% và
giảm 65,1%.
Tính chung 9 tháng, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là
45,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước; 32,4 nghìn doanh
nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 17,4%; 12,8 nghìn doanh
nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 5,9%, trong đó có 11,4 nghìn doanh nghiệp có
quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, tăng 5,7%; 146 doanh nghiệp có quy mô vốn trên 100
tỷ đồng, giảm 24%. Bình quân một tháng có 10 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi
thị trường.
15

Doanh nghiệp thành lập mới và giải thể 9 tháng năm 2021
phân theo lĩnh vực hoạt động

Số lượng doanh nghiệp Tốc độ tăng/giảm so với


(Doanh nghiệp) cùng kỳ năm trước (%)
Thành lập mới Giải thể Thành lập mới Giải thể

Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy 28.924 4.703 -11,1 0,7

Công nghiệp chế biến chế tạo 11.026 1.486 -10,7 11,5

Xây dựng 10.653 1.185 -15,4 17,6

Kinh doanh bất động sản 5.400 636 11,5 -8,6

Vận tải kho bãi 4.219 571 4,6 17,7

Dịch vụ lưu trú và ăn uống 2.891 728 -24,5 12,0

Sản xuất phân phối, điện, nước, gas 961 270 -77,3 82,4

b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp


Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2021 cho thấy: Có 13,2% số doanh nghiệp
đánh giá tốt hơn so với quý II/2021; 25,4% số doanh nghiệp cho rằng tình hình
sản xuất kinh doanh ổn định và 61,4% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn 9.
Dự kiến quý IV/2021, có 43,4% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên
so với quý III/2021; 26,3% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 30,3% số
doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định. Trong đó, khu
vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lạc quan nhất với 79,4% số doanh
nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý IV/2021 tốt hơn và giữ ổn định
so với quý III/2021; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước và doanh
nghiệp Nhà nước lần lượt là 71,8% và 68,8%.

9
Chỉ số tương ứng của quý II/2021: Có 30,5% số doanh nghiệp đánh giá tốt hơn quý trước; 37,7% số doanh
nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 31,8% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.
16

Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh


của doanh nghiệp quý III/2021
Nhu cầu thị trường trong nước thấp 50.9%

Khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước 46.0%

Khó khăn về tài chính 35.0%

Thiếu nguyên nhiên, vật liệu 33.0%

Nhu cầu thị trường quốc tế thấp 24.2%

Không tuyển dụng được lao động theo yêu cầu 23.9%

Lãi suất vay vốn cao 18.8%

Tính cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu cao 18.1%

Thiết bị công nghệ lạc hậu 15.1%

Chính sách pháp luật của Nhà nước 11.5%

Không có khả năng tiếp cận nguồn vốn vay 4.8%

Thiếu năng lượng ảnh hưởng đến SXKD 1.9%

Về khối lượng sản xuất, có 15% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản
xuất của doanh nghiệp quý III/2021 tăng so với quý II/2021; 27,6% số doanh
nghiệp cho rằng ổn định và 57,4% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản
xuất giảm10. Xu hướng quý IV/2021 so với quý III/2021, có 43,5% số doanh
nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 23,9% số doanh nghiệp dự báo giảm và
32,6% số doanh nghiệp dự báo ổn định.
Về đơn đặt hàng, có 12% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý III/2021
cao hơn quý II/2021; 31,8% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định và
55,4% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm11. Xu hướng quý IV/2021 so với
quý III/2021, có 39,2% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng lên; 24,3% số
doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 36,5% số doanh nghiệp dự kiến có đơn
hàng ổn định.
Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý III/2021 so với quý II/2021, có 11,7% số
doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu mới cao hơn; 37,1% số doanh
nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới ổn định và 51,2% số doanh nghiệp có đơn
hàng xuất khẩu mới giảm. Xu hướng quý IV/2021 so với quý III/2021, có 34,6%
số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu mới; 22,4% số doanh nghiệp
dự kiến giảm và 43% số doanh nghiệp dự kiến ổn định.
5. Hoạt động dịch vụ
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Trong tháng Chín, dịch Covid-19 bước đầu được kiểm soát ở một số địa
phương, nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ được phép hoạt động

10
Chỉ số tương ứng của quý II/2021: Có 34,1% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất tăng so với quý
trước; 35,7% số doanh nghiệp cho rằng ổn định và 30,2% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm.
11
Chỉ số tương ứng của quý II/2021: Có 29,6% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng cao hơn quý trước; 40,4% số
doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định và 30% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm.
17

trở lại. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín
tăng 6,5% so với tháng trước và giảm 28,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính
chung 9 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng giảm 7,1% (cùng kỳ năm 2020 giảm 0,7%).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín năm
2021 ước tính đạt 308,8 nghìn tỷ đồng; quý III đạt 915,7 nghìn tỷ đồng. Tính
chung 9 tháng năm 2021 đạt 3.367,7 nghìn tỷ đồng, giảm 7,1% so với cùng kỳ
năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 8,7% (cùng kỳ năm 2020 giảm 5,1%).
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Nghìn tỷ đồng
Ước tính Ước tính Ước tính Tốc độ tăng/giảm so với
tháng 9 quý III 9 tháng cùng kỳ năm trước (%)
năm năm năm
2021 2021 2021 Tháng 9 Quý III 9 tháng
năm 2021 năm 2021 năm 2021

Tổng số 308,8 915,7 3.367,7 -28,4 -28,3 -7,1

Bán lẻ hàng hóa 270,8 801,7 2.779,7 -21,0 -20,4 -3,4

Dịch vụ lưu trú, ăn uống 19,4 57,0 279,4 -53,6 -55,7 -22,1

Du lịch lữ hành 0,1 0,2 4,6 -92,4 -94,0 -64,0

Dịch vụ khác 18,5 56,8 304,0 -59,6 -58,7 -19,4

Xét theo ngành hoạt động, trong doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng năm
2021 có ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 5%; phương tiện đi lại giảm
6,4%; may mặc giảm 9,6%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình giảm 10%;
vật phẩm văn hoá, giáo dục giảm 10,5%. Doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng so
với cùng kỳ năm trước của một số địa phương: Hà Nội giảm 4,4%; Cần Thơ giảm
5,4%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 22,1%; Đà Nẵng tăng 4,4%; Hải Phòng tăng
9,6%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 9 tháng năm nay so với cùng kỳ năm
trước của một số địa phương: Quảng Ninh giảm 12,6%; Cần Thơ giảm 14,9%;
Đà Nẵng giảm 17,5%; Đồng Nai giảm 20,8%; Hà Nội giảm 24,9%; Bình Dương
giảm 26,4%; Thành phố Hồ Chí Minh giảm 30,5%; Nghệ An giảm 34,1%.
Một số địa phương có doanh thu du lịch lữ hành 9 tháng năm 2021 giảm
mạnh so với cùng kỳ năm trước: Quảng Ninh giảm 31,5%; Đà Nẵng giảm 42%;
Cần Thơ giảm 45,3%; Hà Nội giảm 55,4%; Hải Phòng giảm 55,7%; Thành phố
Hồ Chí Minh giảm 56,2%; Thừa Thiên - Huế giảm 63,1%; Bình Dương giảm
67,8%; Quảng Nam giảm 82,4%; Khánh Hòa giảm 89,5%.
Doanh thu dịch vụ khác 9 tháng so với cùng kỳ năm trước của Phú Yên
giảm 4,5%; Đà Nẵng giảm 8,1%; Bình Dương giảm 9,7%; Nghệ An giảm
18

10,9%; Cần Thơ giảm 11,4%; Đồng Nai giảm 13,5%; Hà Nội giảm 20,4%;
Thành phố Hồ Chí Minh giảm 23,3%.
b) Vận tải và viễn thông
Trong tháng Chín, nhiều địa phương nới lỏng dần giãn cách xã hội từ áp
dụng Chỉ thị số 16/CT-TTg xuống Chỉ thị số 15/CT-TTg nên vận tải hành khách
và hàng hóa đều tăng so với tháng trước nhưng so với cùng kỳ năm trước giảm
70,7% về lượng hành khách vận chuyển, giảm 79,2% về lượng hành khách luân
chuyển và vận tải hàng hóa giảm 27,6% về sản lượng vận chuyển, giảm 15,9%
về sản lượng luân chuyển. Tính chung 9 tháng năm 2021, vận chuyển hành
khách giảm 23,8% so với cùng kỳ năm trước, luân chuyển hành khách giảm
30,9% và vận chuyển hàng hóa giảm 5,6%, luân chuyển hàng hóa giảm 0,3%.
Vận tải hành khách tháng Chín ước tính đạt 80,9 triệu lượt khách vận
chuyển, giảm 70,7% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 2,4 tỷ lượt
khách.km, giảm 79,2%; quý III năm nay ước tính đạt 247,6 triệu lượt khách vận
chuyển, giảm 69,6% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển đạt 7,8 tỷ lượt
khách.km, giảm 78,1%.
Tính chung 9 tháng năm 2021, vận tải hành khách đạt 2.018,8 triệu lượt
khách vận chuyển, giảm 23,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020
giảm 29,6%) và luân chuyển 82,7 tỷ lượt khách.km, giảm 30,9% (cùng kỳ năm
trước giảm 35,2%). Trong đó, vận tải trong nước đạt 2.018,7 triệu lượt khách,
giảm 23,7% và 82,2 tỷ lượt khách.km, giảm 25,2%; vận tải ngoài nước đạt 101,2
nghìn lượt khách, giảm 96,3% và 489,8 triệu lượt khách.km, giảm 95%.
Xét theo ngành vận tải, tất cả các ngành đường 9 tháng năm nay đều giảm
mạnh so với cùng kỳ năm trước, trong đó hàng không và đường sắt là những
ngành chịu thiệt hại khá nặng nề.
Vận tải hành khách 9 tháng năm 2021 phân theo ngành vận tải

Tốc độ tăng/giảm so với


Số lượt hành khách
cùng kỳ năm trước (%)
Vận chuyển Luân chuyển
Vận chuyển Luân chuyển
(Triệu HK) (Tỷ HK.km)

Tổng số 2018,8 82,7 -23,8 -30,9

Đường sắt 1,2 0,5 -57,8 -58,5


Đường biển 4,1 0,2 -26,1 -13,4
Đường thủy nội địa 134,0 2,3 -19,6 -19,0
Đường bộ 1866,1 67,5 -23,8 -24,6
Hàng không 13,4 12,2 -42,0 -52,8
19

Vận tải hàng hóa tháng Chín ước tính đạt 114,5 triệu tấn hàng hóa vận
chuyển, giảm 27,6% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 24,3 tỷ tấn.km,
giảm 15,9%; quý III năm nay ước tính đạt 319,1 triệu tấn hàng hóa vận chuyển,
giảm 29,7% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 70,5 tỷ tấn.km, giảm 14,6%.
Tính chung 9 tháng năm 2021, vận tải hàng hóa đạt 1.195 triệu tấn hàng
hóa vận chuyển, giảm 5,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 giảm
7,3%) và luân chuyển 242,8 tỷ tấn.km, giảm 0,3% (cùng kỳ năm trước giảm
8,2%), trong đó: Vận tải trong nước đạt 1.175 triệu tấn vận chuyển, giảm 5,3%
và 143,9 tỷ tấn.km luân chuyển, tăng 12,8%; vận tải ngoài nước đạt 20 triệu tấn
vận chuyển, giảm 18,9% và 98,9 tỷ tấn.km luân chuyển, giảm 14,7%.
Vận tải hàng hóa 9 tháng năm 2021 phân theo ngành vận tải

Tốc độ tăng/giảm so với


Sản lượng hàng hóa
cùng kỳ năm trước (%)
Vận chuyển Luân chuyển
Vận chuyển Luân chuyển
(Triệu tấn) (Tỷ tấn.km)

Tổng số 1195,0 242,8 -5,6 -0,3


Đường sắt 4,1 2,7 10,0 1,2
Đường biển 61,0 124,8 3,6 0,4
Đường thủy nội địa 237,1 50,1 -1,0 2,9
Đường bộ 892,6 61,9 -7,4 -5,2
Hàng không 0,2 3,3 -9,7 24,9

Doanh thu hoạt động viễn thông quý III/2021 ước tính đạt 76 nghìn tỷ
đồng, giảm 0,2% so với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá giảm 0,3%).
Tính chung 9 tháng năm 2021, doanh thu đạt 234 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6% so
với cùng kỳ năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá tăng 2,1%).
Tổng số thuê bao điện thoại tại thời điểm cuối tháng 9/2021 ước tính đạt
126,3 triệu thuê bao, tăng 0,6% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó thuê
bao di động đạt 123 triệu thuê bao, tăng 0,7%. Số thuê bao truy nhập Internet
băng rộng cố định tại thời điểm cuối tháng Chín ước tính đạt 18,4 triệu thuê bao,
tăng 13% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó thuê bao truy nhập qua hệ
thống cáp quang (FTTH) và qua hệ thống cáp truyền hình (CATV) tăng nhanh,
thuê bao truy nhập qua hình thức xDSL tiếp tục giảm.
c) Khách quốc tế đến Việt Nam12
Khách quốc tế đến nước ta trong quý III/2021 đạt 26,3 nghìn lượt người,
giảm 40,3% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam tiếp tục thực hiện các biện
pháp phòng, chống dịch Covid-19, chưa mở cửa du lịch quốc tế nên lượng
khách đến chủ yếu là chuyên gia, lao động kỹ thuật nước ngoài làm việc tại các
12
Theo báo cáo của Cục cửa khẩu, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, Bộ Quốc phòng và Cục Xuất nhập cảnh, Bộ Công
an, kỳ báo cáo từ ngày 21/8-20/9/2021.
20

dự án ở Việt Nam. Tính chung 9 tháng năm 2021, khách quốc tế đến nước ta đạt
114,5 nghìn lượt người, giảm 97% so với cùng kỳ năm trước.
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Chín ước tính đạt 9,5 nghìn lượt
người, tăng 2,2% so với tháng trước và giảm 31% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 9 tháng năm 2021, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 114,5
nghìn lượt người, giảm 97% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng
đường hàng không đạt 75,6 nghìn lượt người, chiếm 66% lượng khách quốc tế
đến Việt Nam, giảm 97,5%; bằng đường bộ đạt 38,5 nghìn lượt người, chiếm
33,6% và giảm 93,4%; bằng đường biển đạt 398 lượt người, chiếm 0,4% và
giảm 99,7%.

II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT


1. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, thị trường chứng khoán
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, tăng trưởng tín dụng đạt
7,17%, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2021. Kinh doanh
bảo hiểm tăng trưởng khá, đảm bảo quyền lợi người tham gia bảo hiểm, doanh
thu phí bảo hiểm toàn thị trường 9 tháng năm 2021 tăng 13% so với cùng kỳ năm
trước; tổng mức huy động vốn trên thị trường chứng khoán cho nền kinh tế tăng
12%.
Tính đến thời điểm 20/9/2021, tổng phương tiện thanh toán tăng 4,95% so
với cuối năm 2020 (cùng thời điểm năm 2020 tăng 7,58%); huy động vốn của các
tổ chức tín dụng tăng 4,28% (cùng thời điểm năm 2020 tăng 7,48%); tăng trưởng
tín dụng của nền kinh tế đạt 7,17% (cùng thời điểm năm 2020 tăng 4,99%).
Để hỗ trợ, giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-
19 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các ngân hàng thương mại lớn trong
hệ thống ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay đối với những khoản dư nợ hiện
hữu từ giữa tháng 7 đến hết năm 2021. Hiện nay, lãi suất cho vay ngắn hạn bình
21

quân bằng đồng Việt Nam đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên ở mức
4,4%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (4,5%/năm). Từ cuối tháng 8/2021, nhiều ngân
hàng đã thay đổi mức lãi suất huy động theo hướng tiếp tục giảm trong bối cảnh
ngân hàng dồi dào thanh khoản và tín dụng tăng chậm do ảnh hưởng của dịch
Covid-19. Lãi suất tiền gửi bình quân bằng đồng Việt Nam của ngân hàng thương
mại trong nước ở mức 0,1%-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn dưới 1 tháng; 3,3%-3,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới
6 tháng; 4,2%-5,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng;
5,4%-6,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ trên 12 tháng đến 24 tháng và
6,1%-6,9% đối với kỳ hạn trên 24 tháng.
Diễn biến thị trường ngoại tệ và tỷ giá USD/VND nhìn chung ổn định,
thanh khoản thị trường thông suốt. Hoạt động thanh toán trong nền kinh tế diễn
ra an toàn, hiệu quả, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán tiếp tục được
hoàn thiện; thanh toán không dùng tiền mặt được đẩy mạnh nhằm đáp ứng nhu
cầu của khách hàng đồng thời ứng phó với diễn biến phức tạp của dịch Covid-
19.
Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường 9 tháng năm 2021 ước tính tăng
13% so với cùng kỳ năm trước (quý III/2021 tăng 7%), trong đó doanh thu phí
bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 17%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 5%.
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và kéo dài, kênh phân phối sản
phẩm bảo hiểm truyền thống như đại lý, ngân hàng… tiếp tục gặp khó khăn, các
công ty bảo hiểm phi nhân thọ đã hợp tác với những doanh nghiệp lớn, đẩy
mạnh các hình thức giới thiệu sản phẩm bảo hiểm trực tuyến nhằm thu hút
khách hàng.
Trong tình hình dịch bệnh kéo dài và diễn ra phức tạp, thị trường chứng
khoán phát triển ổn định với tổng mức huy động vốn cho nền kinh tế trong 9
tháng năm 2021 ước tính đạt 292,1 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ năm
2020.
Trên thị trường cổ phiếu, tính đến ngày 24/9/2021, chỉ số VNIndex đạt
1.351,17 điểm, tăng 1,5% so với cuối tháng trước và tăng 22,4% so với cuối
năm 2020. Giá trị vốn hóa thị trường đạt 6.913 nghìn tỷ đồng, tăng 30,6% so với
cuối năm 2020. Trong tháng 9/2021, giá trị giao dịch bình quân đạt 27.608 tỷ
đồng/phiên, giảm 4% so với tháng trước. Tính chung 9 tháng năm 2021, giá trị
giao dịch bình quân trên thị trường đạt 24.042 tỷ đồng/phiên, tăng 224% so với
bình quân năm 2020. Đến cuối tháng 8/2021, thị trường có 737 cổ phiếu, chứng
chỉ quỹ niêm yết trên 2 Sở GDCK và 901 cổ phiếu đăng ký giao dịch trên sàn
UPCoM với tổng giá trị niêm yết, đăng ký giao dịch đạt 1.628 nghìn tỷ đồng,
tăng 7,6% so với cuối năm 2020.
22

Trên thị trường trái phiếu, đến cuối tháng 8/2021, có 435 mã trái phiếu niêm
yết với giá trị niêm yết đạt hơn 1.428 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9% so với cuối năm
2020. Giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trong tháng Chín đạt 9.708 tỷ
đồng/phiên, tăng 15% so với tháng trước. Tính chung 9 tháng năm 2021, giá trị
giao dịch bình quân đạt 10.948 tỷ đồng/phiên, tăng 5,3% so với bình quân năm
2020.
Trên thị trường chứng khoán phái sinh, đối với sản phẩm hợp đồng tương
lai trên chỉ số VN30, khối lượng giao dịch bình quân đạt 156.531 hợp
đồng/phiên, giảm 38% so với tháng trước. Tính chung 9 tháng năm 2021, khối
lượng giao dịch bình quân đạt 207.171 hợp đồng/phiên, tăng 32% so với bình
quân năm trước. Tính đến ngày 17/9/2021, khối lượng hợp đồng mở (OI) đạt
30.657 hợp đồng, tăng 1% so với cuối tháng trước và giảm 24% so với cuối năm
2020. Đối với sản phẩm chứng quyền có bảo đảm, khối lượng giao dịch bình
quân trong tháng 9/2021 đạt 19,85 triệu chứng quyền/phiên, tăng 95% so với
tháng trước; giá trị giao dịch bình quân đạt 42,7 tỷ đồng/phiên, tăng 51%. Tính
chung 9 tháng năm 2021, khối lượng giao dịch bình quân đạt 18,78 triệu chứng
quyền/phiên, tăng 59% so với bình quân năm trước; giá trị giao dịch bình quân
đạt 81,3 tỷ đồng/phiên, tăng 276%.
2. Đầu tư phát triển
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành 9 tháng năm 2021 chỉ
tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước do nhiều địa phương áp dụng các biện
pháp giãn cách xã hội làm đứt gãy chuỗi sản xuất và cung ứng của hoạt động
sản xuất kinh doanh và đầu tư. Tổng số dự án đầu tư nước ngoài tính đến
20/9/2021 đăng ký cấp mới giảm 37,8% so với cùng kỳ năm 2020 nhưng số vốn
đăng ký tăng 20,6%. Vốn đăng ký cấp mới bình quân 1 dự án trong 9 tháng năm
2021 đạt 10,3 triệu USD/dự án (cùng kỳ năm 2020 đạt 5,3 triệu USD/dự án).
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội quý III/2021 theo giá hiện hành ước tính
đạt 697,2 nghìn tỷ đồng, giảm 9,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn khu
vực Nhà nước giảm 20,6%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 1,4%; khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 20,7%.
Ước tính 9 tháng năm 2021, vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện
hành đạt 1.868,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm:
Vốn khu vực Nhà nước đạt 459,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 24,6% tổng vốn và giảm
4,7% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 1.100,5 nghìn tỷ
đồng, bằng 58,9% và tăng 3,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt
308,1 nghìn tỷ đồng, bằng 16,5% và giảm 3,4%.
Tốc độ phát triển và cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện
9 tháng giai đoạn 2017-2021 (Theo giá hiện hành)
%
Tổng số Khu vực Khu vực Khu vực có
Nhà nước ngoài Nhà nước vốn đầu tư trực
23

tiếp nước ngoài

Tốc độ phát triển


Năm 2017 113,2 104,7 118,2 113,5
Năm 2018 110,4 101,8 115,4 109,1
Năm 2019 109,9 102,2 114,0 108,4
Năm 2020 104,0 111,9 102,7 97,5
Năm 2021 100,4 95,3 103,9 96,6
Cơ cấu

Năm 2017 100,0 28,1 53,2 18,7


Năm 2018 100,0 25,9 55,6 18,5
Năm 2019 100,0 24,1 57,6 18,3
Năm 2020 100,0 26,0 56,9 17,1
Năm 2021 100,0 24,6 58,9 16,5

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực
hiện 9 tháng năm 2021 ước tính đạt 276,3 nghìn tỷ đồng, bằng 57,3% kế hoạch
năm và giảm 6,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020 bằng 58% và tăng
30,6%13), gồm có: Vốn trung ương quản lý đạt 48,5 nghìn tỷ đồng, bằng 57,7% kế
hoạch năm và giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước; vốn địa phương quản lý đạt
227,8 nghìn tỷ đồng, bằng 57,2% và giảm 8,1%, trong đó vốn ngân sách Nhà nước
cấp tỉnh đạt 153,4 nghìn tỷ đồng, bằng 55,1% và giảm 7%; vốn ngân sách Nhà
nước cấp huyện đạt 62,5 nghìn tỷ đồng, bằng 60,6% và giảm 10,2%; vốn ngân
sách Nhà nước cấp xã đạt 11,9 nghìn tỷ đồng, bằng 72,7% và giảm 10,2%.
Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam 14 tính đến ngày 20/9/2021
bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm
trước.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 20/9 hằng năm
Tỷ USD
2017 2018 2019 2020 2021

Vốn đăng ký 25,48 25,37 26,16 21,21 22,15


Đăng ký cấp mới 14,56 14,13 10,97 10,36 12,50
Đăng ký điều chỉnh 6,75 5,54 4,79 5,12 6,43
Góp vốn, mua cổ phần 4,17 5,70 10,40 5,73 3,22
Vốn thực hiện 12,50 13,25 14,22 13,76 13,28

- Vốn đăng ký cấp mới có 1.212 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt
12,5 tỷ USD, giảm 37,8% về số dự án và tăng 20,6% về số vốn đăng ký so với
cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được cấp phép
13
Trong năm 2020, Chính phủ thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của cả nước, kế hoạch vốn thực hiện từ nguồn NSNN năm 2020 đạt 512 nghìn tỷ
đồng, gấp 1,3 lần so với năm 2019.
14
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhận ngày 22/9/2021.
24

mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 5,47 tỷ USD,
chiếm 43,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt,
nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 5,16 tỷ USD, chiếm 41,3%; các
ngành còn lại đạt 1,87 tỷ USD, chiếm 14,9%. Trong số 62 quốc gia và vùng lãnh
thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong 9 tháng, Xin-ga-po là
nhà đầu tư lớn nhất với 4,98 tỷ USD, chiếm 39,9% tổng vốn đăng ký cấp mới;
tiếp đến là Nhật Bản 2,4 tỷ USD, chiếm 19,2%; Đặc khu hành chính Hồng Công
(TQ) 1,49 tỷ USD, chiếm 11,9%; Trung Quốc 1,44 triệu USD, chiếm 11,5%; Hàn
Quốc 767,7 triệu USD, chiếm 6,1%; Hoa Kỳ 365,1 triệu USD, chiếm 2,9%.
- Vốn đăng ký điều chỉnh có 678 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước
đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư tăng thêm 6,43 tỷ USD, tăng 25,6% so với cùng
kỳ năm trước.
Nếu tính cả vốn đăng ký mới và vốn đăng ký điều chỉnh của các dự án đã
cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo đạt 11,03 tỷ USD, chiếm 58,3% tổng vốn đăng ký cấp
mới và tăng thêm; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước
và điều hòa không khí đạt 5,42 tỷ USD, chiếm 28,6%; các ngành còn lại đạt
2,48 tỷ USD, chiếm 13,1%.
- Vốn đăng ký góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài có 2.830 lượt
với tổng giá trị góp vốn 3,22 tỷ USD, giảm 43,8% so cùng kỳ năm trước. Trong đó,
có 1.139 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá
trị góp vốn là 2,05 tỷ USD và 1.691 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần
trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 1,17 tỷ USD. Đối với hình
thức góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo đạt 805,5 triệu USD, chiếm 25% giá trị góp vốn; hoạt
động kinh doanh bất động sản đạt gần 729 triệu USD, chiếm 22,6%; lĩnh vực bán
buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 398,6 triệu
USD, chiếm 12,4%; các ngành còn lại 1,29 tỷ USD, chiếm 40%.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam 9 tháng năm 2021,
ước tính đạt 13,28 tỷ USD, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công
nghiệp chế biến, chế tạo đạt 9,57 tỷ USD, chiếm 72,1% tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 1,74 tỷ USD,
chiếm 13,1%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều
hòa không khí đạt 1,13 tỷ USD, chiếm 8,5%.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong 9 tháng năm 2021 có 41 dự án
được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 150,1
triệu USD, giảm 44,1% so với cùng kỳ năm trước; có 15 lượt dự án điều chỉnh
vốn với số vốn tăng thêm 422,1 triệu USD15, gấp gần 2,6 lần so với cùng kỳ năm
15
Vốn đầu tư điều chỉnh trong 9 tháng năm 2021 giảm so với 8 tháng do có dự án công ty cổ phần Tập đoàn
Điện lạnh điện máy Việt Úc với mục tiêu nhập khẩu và phân phối các sản phẩm điện gia dụng và đồ dùng gia
đình tại Myanmar điều chỉnh giảm vốn đầu tư 3,99 triệu USD.
25

trước16. Tính chung tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và
tăng thêm) đạt 572,3 triệu USD, tăng 32,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó,
hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 270,8 triệu USD, chiếm
47,3% tổng vốn đầu tư; lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy
và xe có động cơ khác đạt 148,1 triệu USD, chiếm 25,9%; nông, lâm nghiệp và
thủy sản đạt 98,4 triệu USD, chiếm 17,2%. Trong 9 tháng năm 2021 có 20 quốc
gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam, trong đó Hoa Kỳ là nước dẫn đầu
với 302,8 triệu USD, chiếm 52,9% tổng vốn đầu tư; Cam-pu-chia 89,4 triệu USD,
chiếm 15,6%; Lào 47,8 triệu USD, chiếm 8,4%; Ca-na-da 32,1 triệu USD, chiếm
5,6%; Pháp, Đức, Hà Lan cùng đạt 32 triệu USD, cùng chiếm khoảng 5,59%.
3. Thu, chi ngân sách Nhà nước17
Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại nhiều địa phương, đặc biệt là các địa
phương phải thực hiện giãn cách xã hội đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh và kết quả thu ngân sách Nhà nước trong 9 tháng năm 2021. Chi
ngân sách Nhà nước tập trung ưu tiên cho công tác phòng, chống dịch Covid-19,
đảm bảo quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.

Thu ngân sách Nhà nước:


Tổng thu ngân sách Nhà nước 15 ngày đầu tháng 9/2021 ước tính đạt 22
nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm
15/9/2021 đạt 1.034,2 nghìn tỷ đồng, bằng 77% dự toán năm (thu ngân sách
Trung ương bằng 73,6%; thu ngân sách địa phương bằng 81,1%). Cụ thể một số
khoản thu chính như sau:
- Thu nội địa trong 15 ngày đầu tháng 9/2021 đạt 12,9 nghìn tỷ đồng. Lũy
kế đến ngày 15/9/2021 đạt 836,2 nghìn tỷ đồng, bằng 73,8% dự toán năm, trong
đó: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 105,6 nghìn tỷ đồng, bằng
71,2%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 143,8
nghìn tỷ đồng, bằng 72,2%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà
nước 176,3 nghìn tỷ đồng, bằng 74,2%; thu thuế thu nhập cá nhân 92,2 nghìn tỷ

16
Vốn đầu tư điều chỉnh tăng mạnh do có dự án của Vingroup tại Hoa Kỳ điều chỉnh tăng 300 triệu USD; dự án
Công ty TNHH Đầu tư và phát triển cao su Đông Dương tại Campuchia tăng 76 triệu USD và 01 dự án của
Vinfast tại Đức tăng 32 triệu USD.
17
Theo báo cáo của Bộ Tài chính tính đến ngày 15/9/2021.
26

đồng, bằng 85,6%; thu thuế bảo vệ môi trường 41 nghìn tỷ đồng, bằng 63,7%;
thu tiền sử dụng đất 103,6 nghìn tỷ đồng, bằng 93%.
- Thu từ dầu thô trong 15 ngày đầu tháng 9/2021 đạt 1,7 nghìn tỷ đồng; lũy
kế đến ngày 15/9/2021 đạt 27,4 nghìn tỷ đồng, bằng 118% dự toán năm;
- Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu trong 15 ngày đầu
tháng 9/2021 đạt 7,3 nghìn tỷ đồng; lũy kế đến ngày 15/9/2021 đạt 170 nghìn tỷ
đồng, bằng 95,3% dự toán năm.
Chi ngân sách Nhà nước:
Tổng chi ngân sách Nhà nước trong 15 ngày đầu tháng 9 ước tính đạt 58,2
nghìn tỷ đồng; lũy kế từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2021 đạt 975,6 nghìn tỷ
đồng, bằng 57,8% dự toán năm, trong đó: Chi thường xuyên đạt 689,3 nghìn tỷ
đồng, bằng 66,5%; chi đầu tư phát triển 202,2 nghìn tỷ đồng, bằng 42,4%; chi
trả nợ lãi 77,7 nghìn tỷ đồng, bằng 70,6%.
27

4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ


a) Xuất nhập khẩu hàng hóa18
Do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nên hoạt động xuất nhập khẩu trong
tháng Chín giảm 2% so với tháng Tám. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng
hóa tháng 9/2021 ước tính đạt 53,5 tỷ USD, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm
trước. Tính chung 9 tháng năm nay, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa
vẫn duy trì tốc độ tăng cao, đạt 483,17 tỷ USD, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó xuất khẩu tăng 18,8%; nhập khẩu tăng 30,5%19.

Xuất khẩu hàng hóa


Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thực hiện tháng 8/2021 đạt 27,23 tỷ USD,
cao hơn 1,03 tỷ USD so với số ước tính.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 9/2021 ước tính đạt 27 tỷ USD,
giảm 0,8% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,87 tỷ
USD, giảm 3,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 20,13
tỷ USD, tăng 0,2%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
tháng Chín giảm 0,6%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 7,3%, khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 1,9%.
Trong quý III/2021, kim ngạch xuất khẩu đạt 83,89 tỷ USD, tăng 5,2% so
với cùng kỳ năm trước và tăng 7,2% so với quý II năm nay (tăng 7% so với quý
I).
Tính chung 9 tháng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt
240,52 tỷ USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế
trong nước đạt 62,72 tỷ USD, tăng 8,5%, chiếm 26,1% tổng kim ngạch xuất

18
Số liệu tháng 9/2021 do Tổ liên ngành gồm Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê họp ước tính căn cứ trên số liệu kim ngạch xuất,
nhập khẩu tính đến ngày 27/9/2021 của Tổng cục Hải quan kết hợp với thông tin thị trường, tỷ trọng và xu
hướng xuất, nhập khẩu các mặt hàng. Tổng cục Thống kê nhận được và cập nhật báo cáo vào ngày
28/9/2021.
19
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2020 đạt 388,42 tỷ USD, tăng 1,7% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 202,54 tỷ USD, tăng 4,1%; nhập khẩu đạt 185,88 tỷ USD, giảm 0,8%.
28

khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 177,8 tỷ USD, tăng
22,8%, chiếm 73,9%.
Trong 9 tháng năm 2021 có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ
USD, chiếm 92,5% tổng kim ngạch xuất khẩu (6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ
USD, chiếm 63,2%). Tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực thuộc về
khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó: Điện thoại và linh kiện
chiếm 99,1%; điện tử, máy tính và linh kiện chiếm 98%; máy móc thiết bị, dụng
cụ và phụ tùng chiếm 92,5%; giày dép chiếm 80,5%; dệt may chiếm 62,6%.

Một số mặt hàng xuất khẩu quý III và 9 tháng năm 2021
Nghìn tấn; Triệu USD

Ước tính Ước tính Tốc độ tăng/giảm so với


quý III 9 tháng cùng kỳ năm trước (%)
năm 2021 năm 2021
Quý III năm 2021 9 tháng năm 2021
Lượn
Lượng Trị giá Trị giá Lượng Trị giá Lượng Trị giá
g

Các mặt hàng đạt giá trị trên 10 tỷ USD


Điện thoại và linh kiện 16.860 41.326 13,7 12,4

Điện tử, máy tính và linh kiện 12.673 36.400 -0,5 13,1

Máy móc thiết bị, DC PT khác 9.230 26.253 19,1 44,5

Dệt, may 8.228 23.460 -7,8 5,8

Giày dép 2.932 13.329 -26,7 9,8

Gỗ và sản phẩm gỗ 3.011 11.139 -13.0 30,9

Các mặt hàng nông, lâm, thủy sản

Thủy sản 2.115 6.169 -12,7 2,4

Rau quả 703 2.770 -4,5 11,1

Hạt điều 151 1.001 425 2.653 7,8 21,5 16,6 14,8

Gạo 1.518 753 4.516 2.389 3,4 3,1 -9,5 -2,4

Cà phê 372 735 1.197 2.252 20,1 29,4 -4,2 4,4

Cao su 622 1.024 1.303 2.173 -1,5 30,5 17,1 52,7

Sắn và sản phẩm của sắn 554 242 2.154 856 0,6 17,0 11,8 26,4

Hạt tiêu 57 219 213 719 7,2 63,8 -3,3 46,9

Chè 34 60 92 155 -15,6 -10,1 -6,3 -1,7

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu 9 tháng năm 2021, nhóm hàng nhiên liệu
và khoáng sản ước tính đạt 2,66 tỷ USD, tăng 9,0% so với cùng kỳ năm trước
và chiếm 1,1% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (giảm 0,1 điểm phần trăm
so với cùng kỳ năm trước). Nhóm hàng công nghiệp chế biến ước tính đạt 214
tỷ USD, tăng 19,5% và chiếm 89% (tăng 0,6 điểm phần trăm). Nhóm hàng
nông sản, lâm sản đạt 17,7 tỷ USD, tăng 17,6% và chiếm 7,4% (giảm 0,1 điểm
29

phần trăm). Nhóm hàng thủy sản đạt 6,17 tỷ USD, tăng 2,4% và chiếm 2,5%
(giảm 0,4 điểm phần trăm).
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2021, Hoa Kỳ là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 69,8 tỷ USD, tăng 27,6% so
với cùng kỳ năm trước. Tiếp đến là Trung Quốc đạt 38,5 tỷ USD, tăng 18,3%. Thị
trường EU đạt 28,8 tỷ USD, tăng 11,6%. Thị trường ASEAN đạt 20,6 tỷ USD, tăng
21,2%. Hàn Quốc đạt 16,1 tỷ USD, tăng 11,4%. Nhật Bản đạt 14,7 tỷ USD, tăng
5,1%.
b) Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa thực hiện tháng 8/2021 đạt 27,34 tỷ USD,
thấp hơn 162 triệu USD so với số ước tính.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 9/2021 ước tính đạt 26,5 tỷ USD,
giảm 3,1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,35 tỷ
USD, giảm 6,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 18,15 tỷ USD, giảm
1,5%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Chín
tăng 9,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 3,3%; khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài tăng 12,7%.
Trong quý III/2021, kim ngạch nhập khẩu đạt 84,55 tỷ USD, tăng 22,6% so
với cùng kỳ năm trước và tăng 2,5% so với quý II năm nay (tăng 11,8% so với quý
I).
Tính chung 9 tháng năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính
đạt 242,65 tỷ USD, tăng 30,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực
kinh tế trong nước đạt 83,72 tỷ USD, tăng 25%; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 158,93 tỷ USD, tăng 33,6%.
Trong 9 tháng năm 2021 có 36 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ
USD, chiếm tỷ trọng 90,4% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Một số mặt hàng nhập khẩu quý III và 9 tháng năm 2021
Triệu USD
Tốc độ tăng/giảm so với
Ước tính Ước tính
cùng kỳ năm trước (%)
quý III 9 tháng
năm 2021 năm 2021 Quý III năm
9 tháng năm 2021
2021
Các mặt hàng đạt giá trị trên 5 tỷ
Điện tử, máy tính và LK 20.959 53.689 16,7 19,1
Máy móc, thiết bị, DC, PT khác 12.156 35.064 24,7 32,7
Điện thoại các loại và linh kiện 5.616 14.488 20,3 36,2
Vải 3.228 10.525 10,9 14,2
Chất dẻo 2.817 8.886 35,7 48,3
Sắt thép 3.092 8.754 52,1 44,6
Kim loại thường khác 2.072 6.543 37,6 52,1
30

Ô tô 1.776 6.213 9,6 50,1


Sản phẩm chất dẻo 1.986 5.951 1,5 14,3
Sản phẩm hoá chất 2.254 5.776 55,1 41,9
Hóa chất 1.761 5.575 46,3 56,2

Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu 9 tháng năm 2021, nhóm hàng tư liệu
sản xuất ước tính đạt 227,65 tỷ USD, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm trước và
chiếm 93,8% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa (tăng 0,4 điểm phần trăm so
với cùng kỳ năm trước), trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ
tùng đạt 111,45 tỷ USD, tăng 25,2% và chiếm 45,9% (giảm 2 điểm phần trăm);
nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu đạt 116,2 tỷ USD, tăng 37,4% và chiếm
47,9% (tăng 2,4 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 15 tỷ
USD, tăng 22,4% và chiếm 6,2% (giảm 0,4 điểm phần trăm).
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2021, Trung Quốc là thị
trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 81,3 tỷ USD, tăng
41,1% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 40,2 tỷ
USD, tăng 21,6%. Thị trường ASEAN đạt 30,7 tỷ USD, tăng 41,2%. Nhật Bản
đạt 16,3 tỷ USD, tăng 11,6%. Thị trường EU đạt 12,6 tỷ USD, tăng 19%. Hoa
Kỳ đạt 11,7 tỷ USD, tăng 12,7%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Tám nhập siêu 110 triệu
USD20; 8 tháng nhập siêu 2,63 tỷ USD; tháng Chín ước tính xuất siêu 0,5 tỷ
USD. Tính chung 9 tháng năm 2021, cán cân thương mại hàng hóa nhập siêu
2,13 tỷ USD21 (cùng kỳ năm trước xuất siêu 16,66 tỷ USD), trong đó khu vực
kinh tế trong nước nhập siêu 21 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể
cả dầu thô) xuất siêu 18,87 tỷ USD.
c) Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Trong quý III/2021, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ đạt 872 triệu USD, giảm
10,8% so với cùng kỳ năm trước (quý II giảm 16,9%; quý I giảm 80,6%). Kim
ngạch nhập khẩu dịch vụ đạt 4,8 tỷ USD, tăng 6,9% (quý II tăng 20,3%; quý I
giảm 3,4%).
Trong 9 tháng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước tính đạt 2,66 tỷ
USD, giảm 59,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ du lịch đạt 107
triệu USD (chiếm 4% tổng kim ngạch), giảm 96,6%; dịch vụ vận tải đạt 266
triệu USD (chiếm 10%), giảm 72,1%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 9 tháng
năm nay ước tính đạt 14,35 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, trong

20
Ước tính tháng Tám nhập siêu 1,3 tỷ USD.
21
Trong đó, 9 tháng năm 2021 xuất siêu sang EU đạt 16,2 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước; nhập siêu từ
Trung Quốc 42,8 tỷ USD, tăng 70,6%; nhập siêu từ Hàn Quốc 24,1 tỷ USD, tăng 29,6%; nhập siêu từ ASEAN
10,1 tỷ USD, tăng 112,3%.
31

đó dịch vụ vận tải đạt 7,4 tỷ USD (chiếm 51,2% tổng kim ngạch), tăng 32,9%;
dịch vụ du lịch đạt 2,7 tỷ USD (chiếm 18,7%), giảm 24,1%. Nhập siêu dịch vụ
trong 9 tháng năm 2021 là 11,69 tỷ USD (trong đó chi phí vận tải và bảo hiểm
được tách từ nhập khẩu hàng hóa là 6,05 tỷ USD).
32

5. Chỉ số giá
a) Chỉ số giá tiêu dùng
Giá thuê nhà giảm trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội; học phí năm
học 2021-2022 được miễn, giảm tại một số địa phương; giá thực phẩm giảm do
nguồn cung bảo đảm; thực hiện Nghị quyết số 83/NQ-CP ngày 31/7/2021 của
Chính phủ về phương án hỗ trợ giảm giá điện, giảm tiền điện đợt 4 cho khách
hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là các nguyên nhân chính làm chỉ số giá
tiêu dùng (CPI) tháng 9/2021 giảm 0,62% so với tháng trước, tăng 1,88% so với
tháng 12/2020. So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng Chín tăng 2,06%; CPI
bình quân quý III/2021 tăng 2,51%. Tính chung 9 tháng năm 2021, CPI tăng
1,82% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016 22. Lạm
phát cơ bản 9 tháng tăng 0,88%.

Tốc độ tăng/giảm CPI của tháng 9, quý III và 9 tháng (%)


4.14
3.79 3.85

3.57 2.50 2.51


3.09 3.18

2.23
1.82
0.59 0.59
0.32
0.12

2017 2018 2019 2020 -0.62


2021

Tháng 9 so với tháng trước Quý III so với cùng kỳ năm trước
9 tháng so với cùng kỳ năm trước

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2021 giảm 0,62% so với tháng trước,
trong đó: 5 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm và 6 nhóm có chỉ số giá
tăng.
(1) Năm nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm:
- Nhóm giáo dục có mức giảm nhiều nhất với 2,89% (làm CPI chung giảm
0,18 điểm phần trăm) do một số địa phương thực hiện miễn, giảm học phí năm
học 2021-202223 trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp làm cho chỉ
số giá nhóm dịch vụ giáo dục giảm 3,35%.
- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 1,99% (làm CPI chung giảm 0,37
điểm phần trăm) chủ yếu do giá tiền thuê nhà giảm 1,99% (làm CPI chung giảm

22
Tốc độ tăng CPI bình quân 9 tháng so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2021 lần lượt là: tăng 2,07%;
tăng 3,79%; tăng 3,57%; tăng 2,5%; tăng 3,85%; tăng 1,82%.
23
Tốc độ giảm chỉ số giá nhóm dịch vụ giáo dục tháng Chín so với tháng trước của một số địa phương: An Giang
giảm 56,03%; Quảng Ninh giảm 17,49%; Đồng Nai giảm 7,29%; Hà Nội giảm 3,62%; Đà Nẵng giảm 2,82%.
33

0,21 điểm phần trăm) để hỗ trợ người dân trong thời gian thực hiện giãn cách xã
hội. Bên cạnh đó, giá điện giảm tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg và thời tiết sang thu nên
nhu cầu tiêu dùng điện, nước giảm làm giá điện sinh hoạt giảm 4,96% (làm CPI
chung giảm 0,16 điểm phần trăm) và giá nước sinh hoạt giảm 1,66%.
- Nhóm giao thông giảm 0,16%, mặc dù giá xăng, dầu được điều chỉnh tăng
vào ngày 10/9/2021 và ngày 25/9/2021 nhưng do ảnh hưởng của đợt điều giảm
vào ngày 26/8/2021 nên chỉ số giá xăng tháng 9/2021 giảm 0,38%, giá dầu
diezen giảm 0,39%. Giá ô tô đã qua sử dụng giảm 0,74% do các đại lý kinh
doanh gặp khó khăn về tài chính nên giảm giá nhiều loại xe.
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,16% do nguồn cung dồi dào,
trong đó: Lương thực tăng 0,12%24; thực phẩm giảm 0,3%25; ăn uống ngoài gia
đình tăng 0,04%.
- Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,06%, tập trung giảm ở giá điện thoại
di động và máy tính bảng.
(2) Sáu nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm:
- Nhóm đồ uống và thuốc lá có mức tăng cao nhất với 0,17%, chủ yếu do
giá thuốc lá tăng 0,48% khi chi phí vận chuyển tăng và nguồn cung hạn chế26.
- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,09% do nhu cầu sử dụng các
thiết bị tủ lạnh; máy vi tính và phụ kiện; máy in, máy chiếu, máy quét tăng cao
trong giai đoạn giãn cách xã hội (lần lượt tăng 0,3%; tăng 0,29% và tăng
0,46%).
- Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03% do dịch Covid-19 diễn biến nhanh
và phức tạp, các địa phương đẩy nhanh tốc độ tiêm vắc-xin phòng chống dịch
nên nhu cầu mua các loại thuốc, dụng cụ y tế tăng làm giá thuốc các loại tăng
0,11%.
- Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,02%.
- Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,01% chủ yếu do giá hoa, cây cảnh
tăng 0,92%.

24
Chủ yếu do trong tháng có Tết Trung thu nên nhu cầu về bột mỳ, ngô, khoai, sắn tăng cao làm giá nhóm bột
mỳ và ngũ cốc khác tăng 2,39%; bên cạnh đó, chỉ số giá lương thực chế biến như bún, phở, bánh đa, mỳ ăn
liền, bánh mỳ cũng tăng 0,52%. Ở chiều ngược lại, giá gạo giảm 0,17% do nguồn cung dồi dào khi các địa
phương đang tập trung thu hoạch vụ hè thu. Cùng với đó, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp ảnh hưởng nhiều
đến việc tiêu thụ lúa gạo; giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đang giảm do nhu cầu nhập khẩu của các nước
giảm, chi phí vận chuyển cao, khả năng giao hàng của doanh nghiệp bị hạn chế.
25
Giá thịt lợn giảm 2,52% (làm CPI chung giảm 0,09 điểm phần trăm) do dịch tả lợn châu Phi ở các địa phương
được kiểm soát tốt, nguồn cung thịt lợn tăng; giá các sản phẩm chế biến từ thịt lợn giảm ( giá thịt quay, giò, chả
giảm 0,59%; mỡ động vật giảm 3%); giá thịt gia cầm tươi sống giảm 0,28%; giá trứng các loại giảm 1,13%.
26
Chỉ số sản xuất sản phẩm thuốc lá điếu tháng 9/2021 ước tính giảm 12,7% so với tháng 9/2020, 9 tháng năm
2021 giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước.
34

- Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,02%.


Tính chung quý III/2021, CPI tăng 0,93% so với quý trước và tăng 2,51%
so với cùng kỳ năm 2020, trong đó giao thông tăng 13,68% so với cùng kỳ
năm trước; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,46%; giáo dục tăng 2,31%; đồ
uống và thuốc lá tăng 1,9%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,99%; may mặc,
mũ nón và giày dép tăng 0,86%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,62%; thuốc
và dịch vụ y tế tăng 0,17%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,3%. Có 2 nhóm có
chỉ số giá giảm so với cùng kỳ năm trước là văn hóa, giải trí và du lịch giảm
0,91%; bưu chính viễn thông giảm 0,86%.
CPI 9 tháng năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước do một số nguyên
nhân chủ yếu sau:
(i) Giá xăng dầu trong nước tăng 24,8% so với cùng kỳ năm trước (làm
CPI chung tăng 0,89 điểm phần trăm), giá gas tăng 21,7% (làm CPI chung tăng
0,32 điểm phần trăm);
(ii) Giá dịch vụ giáo dục tăng 3,76% so với cùng kỳ năm trước (làm CPI
chung tăng 0,2 điểm phần trăm) do ảnh hưởng từ đợt tăng học phí năm học mới
2020-2021 theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015
của Chính phủ;
(iii) Giá gạo tăng 6,47% so với cùng kỳ năm trước (làm CPI chung tăng
0,16 điểm phần trăm) do giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu, nhu
cầu tiêu dùng trong dịp Tết Nguyên đán tăng và nhu cầu tích lũy của người dân
trong thời gian giãn cách xã hội;
(iv) Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước do
giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào (làm CPI
chung tăng 0,13 điểm phần trăm).
Bên cạnh đó, có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI 9 tháng
năm 2021:
(i) Giá các mặt hàng thực phẩm giảm 0,29% so với cùng kỳ năm trước
(làm CPI chung giảm 0,06 điểm phần trăm);
(ii) Chính phủ triển khai các gói hỗ trợ cho người dân và người sản xuất
gặp khó khăn do dịch Covid-19 như gói hỗ trợ của Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) đã giảm giá điện, tiền điện cho khách hàng trong quý II (bắt đầu
giảm từ tháng 5/2020), quý IV năm 2020 (được thực hiện vào tháng 1/2021) và
giảm giá điện, tiền điện cho người dân tại các địa phương thực hiện giãn cách
xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg tại kỳ hóa đơn tháng 8, 9/2021 nên giá điện
sinh hoạt bình quân 9 tháng năm 2021 giảm 0,99% so với cùng kỳ năm 2020
(làm CPI chung giảm 0,03 điểm phần trăm);
35

(iii) Nhu cầu đi lại, du lịch của người dân giảm do ảnh hưởng của dịch
Covid-19 làm giá vé máy bay giảm 20,91% so với cùng kỳ năm trước; giá du
lịch trọn gói giảm 2,69%;
(iv) Các cấp, các ngành tích cực triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng
bộ để ngăn chặn diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 và ổn định giá cả
thị trường.
Lạm phát cơ bản tháng 9/2021 giảm 0,26% so với tháng trước, tăng
0,74% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 9 tháng năm
2021 tăng 0,88% so với bình quân cùng kỳ năm 2020.
b) Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá vàng thế giới tăng do đồng USD suy yếu cùng với việc thị trường
chứng khoán, tài chính rối loạn trong bối cảnh Evergade, tập đoàn bất động sản
lớn nhất Trung Quốc đứng trước nguy cơ vỡ nợ đã thúc đẩy các nhà đầu tư tìm
đến tài sản an toàn như vàng. Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 26/9/2021
tăng 0,14% so với tháng 8/2021. Trong nước, chỉ số giá vàng tháng 9/2021 giữ
ổn định so với tháng trước; giảm 1,64% so với tháng 12/2020 và giảm 2,7% so
với cùng kỳ năm 2020.
Đồng đô la Mỹ trên thị trường thế giới giảm sau khi Bộ Lao động Mỹ
thông báo số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu trong tháng Tám tăng, thêm
vào đó các nước bắt đầu siết chặt chính sách tiền tệ làm cho nội tệ tăng giá đẩy
USD giảm. Trong nước, lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam dồi dào đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu.
Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9/2021 giảm 0,48% so với tháng trước; giảm 1,14%
so với tháng 12/2020 và giảm 1,35% so với cùng kỳ năm 2020 do nhu cầu mua
bán ngoại tệ hạn chế trong điều kiện giãn cách xã hội kéo dài.
c) Chỉ số giá sản xuất
Kinh tế thế giới 9 tháng năm 2021 dần hồi phục khi các quốc gia đẩy
mạnh chương trình tiêm chủng vắc - xin phòng, chống dịch Covid-19 nhằm đạt
miễn dịch cộng đồng, đồng thời triển khai các gói kích thích tăng trưởng kinh
tế và các biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa. Trong nước, sự bùng
phát dịch Covid-19 cùng với các đợt giãn cách xã hội từ đầu năm đến nay
khiến hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng nặng nề. Trong bối cảnh
đó, chỉ số giá sản xuất, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất, chỉ
số giá xuất khẩu và nhập khẩu 9 tháng năm 2021 đều tăng so với cùng kỳ năm
trước. Tỷ giá thương mại hàng hóa 9 tháng năm 2021 giảm 3,75% so với cùng
kỳ năm 2020, phản ánh giá xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài
không thuận lợi so với giá nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài về Việt Nam.
36

Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III/2021
giảm 2,28% so với quý trước và tăng 0,05% so với cùng kỳ năm trước, trong đó
chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp giảm 2,45% và giảm 0,57%; lâm
nghiệp tăng 0,07% và tăng 0,77%; thủy sản giảm 2,02% và tăng 1,88%.
Tính chung 9 tháng năm 2021, chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm
nghiệp và thủy sản tăng 2,82% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó chỉ số giá sản
xuất sản phẩm nông nghiệp tăng 3,52%; lâm nghiệp tăng 0,46%; thủy sản tăng
0,94%.
Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp quý III/2021 tăng 1,12% so với quý
trước và tăng 3,71% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất sản
phẩm khai khoáng tăng 3,33% và tăng 18,35%; sản phẩm công nghiệp chế biến,
chế tạo tăng 0,95% và tăng 3,26%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng,
hơi nước và điều hòa không khí tăng 2,06% và tăng 2,93%; cung cấp nước, hoạt
động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,52% và tăng 1,77%.
Tính chung 9 tháng năm 2021, chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp tăng
2,44% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai
khoáng tăng 12,7%; sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,18%; sản xuất
và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,32%;
cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,62%.
Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý III/2021 giảm 0,07% so với quý trước và
tăng 0,46% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất dịch vụ của
một số ngành như sau: Dịch vụ vận tải, kho bãi giảm 2,15% và giảm 1,78%;
dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 0,05% và tăng 0,98%; thông tin và truyền thông
tăng 0,08% và tăng 0,17%; giáo dục và đào tạo tăng 0,07% và tăng 2,58%; y tế
và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 0,44% và tăng 0,81%; nghệ thuật vui chơi, giải
trí giảm 0,03% và tăng 0,43%.
Tính chung 9 tháng năm 2021, chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 0,68% so
với cùng kỳ năm 2020, trong đó dịch vụ vận tải, kho bãi giảm 0,46%; dịch vụ
lưu trú và ăn uống tăng 0,76%; thông tin và truyền thông giảm 0,33%; giáo dục
và đào tạo tăng 3,02%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 0,49%; nghệ thuật
vui chơi, giải trí tăng 0,47%.
d) Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất
Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý III/2021 tăng
1,36% so với quý trước và tăng 5,36% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số
giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
37

2,27% và tăng 6,3%; dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng
1,27% và tăng 5,6%; dùng cho xây dựng tăng 2,4% và tăng 5,35%.
Tính chung 9 tháng năm 2021, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản
xuất tăng 4,87% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên nhiên vật
liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 6,66%; dùng cho sản
xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,18%; dùng cho xây dựng tăng 3,59%.
e) Chỉ số giá xuất, nhập khẩu hàng hóa
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý III/2021 tăng 1,1% so với quý trước và
tăng 3,72% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản,
thực phẩm tăng 0,96% và tăng 5,69%; nhóm nhiên liệu tăng 7,74% và tăng
25,67%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 0,87% và tăng 2,68%.
Tính chung 9 tháng năm nay, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa tăng 2,05% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm tăng
3,28%; nhóm nhiên liệu tăng 8,86%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng
1,62%.
Chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý III/2021 tăng 4,17% so với quý trước và
tăng 9,46% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chỉ số giá nhập khẩu của nhóm
nông sản, thực phẩm tăng 2,08% và tăng 6,24%; nhóm nhiên liệu tăng 2,01% và
tăng 38,93%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 4,39% và tăng 8,38%.
Tính chung 9 tháng năm nay, chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá tăng 6,03% so
với cùng kỳ năm 2020, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm tăng
4,36%; nhóm nhiên liệu tăng 34,13%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng
4,92%.
Tỷ giá thương mại hàng hóa27 quý III/2021 giảm 2,95% so với quý trước và
giảm 5,24% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2021, tỷ giá
thương mại hàng hoá giảm 3,75% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tỷ giá
thương mại hàng hóa của mặt hàng xăng dầu các loại giảm 16,9%; cao su giảm
5,93%; hàng rau quả giảm 2,65%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
giảm 1,25%; hàng thủy sản giảm 0,02%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 7,19%; sắt,
thép tăng 5,47%.
III. ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI
1. Lao động, việc làm
Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình lao
động, việc làm quý III/2021, lao động đang làm việc trong nền kinh tế giảm

27
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
38

mạnh so với quý trước và so với cùng kỳ năm trước 28, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu
việc làm trong độ tuổi lao động tăng cao nhất kể từ quý I/202029.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động 9 tháng năm 2021 ước tính đạt 67,7%,
giảm 1,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Lực lượng lao động quý III và 9 tháng năm 2021
Triệu người
Tăng/giảm so với
Quý II Quý III Ước tính cùng kỳ năm trước
năm năm 9 tháng
2021 2021 năm 2021 Quý III 9 tháng
năm 2021 năm 2021
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên 51,1 49,2 50,4 -2,1 -0,2
Phân theo giới tính
Nam 27,1 26,3 26,8 -1,1 -0,5
Nữ 24,0 22,9 23,6 -1,0 0,3
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị 18,6 17,8 18,2 -0,1 0,4
Nông thôn 32,5 31,4 32,2 -2,0 -0,6
Lực lượng lao động trong độ tuổi 45,1 43,2 44,5 -3,0 -1,1
Phân theo giới tính
Nam 24,9 24,0 24,6 -1,5 -0,7
Nữ 20,2 19,2 19,9 -1,6 -0,4
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị 17,0 16,2 16,6 -0,2 0,3
Nông thôn 28,1 27,0 27,9 -2,8 -1,4

Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý III/2021 ước tính là 47,5 triệu
người, bao gồm 14,5 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản, chiếm 30,6% tổng số; khu vực công nghiệp và xây dựng 15,8 triệu
người, chiếm 33,3%; khu vực dịch vụ 17,2 triệu người, chiếm 36,1%. Tính chung
9 tháng năm nay, lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc là 49,1 triệu người,
bao gồm 14,1 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản,
tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng là 16,2
triệu người, giảm 1,4%; khu vực dịch vụ là 18,8 triệu người, giảm 2,3%.
Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm 9 tháng năm 2021
%
Chia ra:
Chung
Thành thị Nông thôn
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động

28
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc quý III/2021 giảm 2,4 triệu người so với quý trước và giảm 2,5
triệu người so với cùng kỳ năm trước.
29
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý I/2020 là 2,34%; quý II/2020 là 2,85%; quý III/2020 là 2,73%;
quý IV/2020 là 2,63%; quý I/2021 là 2,42%; quý II/2021 là 2,62% và quý III/2021 là 3,72%.
Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động quý I/2020 là 1,98%; quý II/2020 là 2,98%; quý III/2020 là 2,72%;
quý IV/2020 là 1,82%; quý I/2021 là 2,20%; quý II/2021 là 2,60% và quý III/2021 là 4,39%.
39

Quý I năm 2021 2,42 3,19 1,98


Quý II năm 2021 2,62 3,36 2,17
Quý III năm 2021 3,72 4,84 3,05
Ước tính 9 tháng năm 2021 2,91 3,78 2,39
Tỷ lệ thất nghiệp thanh niên (từ 15-24 tuổi)
Quý I năm 2021 7,44 10,34 5,99
Quý II năm 2021 7,47 9,57 6,46
Quý III năm 2021 8,73 12,19 7,22
Ước tính 9 tháng năm 2021 7,85 10,62 6,54
Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động
Quý I năm 2021 2,20 1,52 2,60
Quý II năm 2021 2,60 2,80 2,49
Quý III năm 2021 4,39 4,76 4,17
Ước tính 9 tháng năm 2021 3,04 3,00 3,07
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy
sản quý I/2021 là 57,1%; quý II là 57,4%; quý III ước tính là 54%, trong đó
30

khu vực thành thị là 45,5%; khu vực nông thôn là 61,4%. Tính chung 9 tháng
năm 2021 tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp,
thủy sản ước tính là 55,9%, trong đó khu vực thành thị là 47,2%; khu vực nông
thôn là 63,3% (9 tháng năm 2020 tương ứng là 56%; 48%; 62,4%).
Thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương quý
III/2021 là 6 triệu đồng/tháng, giảm 780 nghìn đồng so với quý trước và giảm
510 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu nhập của lao động nam
là 6,4 triệu đồng/tháng, lao động nữ là 5,5 triệu đồng/tháng. Tính chung 9 tháng
năm 2021, thu nhập bình quân tháng của lao động làm công hưởng lương ước
tính là 6,7 triệu đồng/tháng, giảm 11 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước.
2. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
Trong 9 tháng năm nay, tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và kéo
dài đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống dân cư và phát triển kinh tế, đặc biệt tại
một số địa phương phía Nam. Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương ưu tiên cho công tác phòng chống,
kiểm soát dịch bệnh với nhiệm vụ trọng tâm là bảo đảm công tác an sinh xã hội
và đời sống của người dân, nhất là người dân ở các địa phương thực hiện giãn
cách xã hội, bảo đảm người dân có đủ ăn, đủ mặc.
Thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 và Nghị
quyết số 86/NQ-CP ngày 06/8/2021 của Chính phủ; Quyết định số 23/2021/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ, tính đến ngày 21/9/2021 tổng kinh phí từ nguồn
30
Lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp bao gồm những người không làm việc trong khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản và thuộc một trong ba nhóm sau: (i) người làm công ăn lương thuộc khu vực
chính thức không được ký hợp đồng lao động hoặc có hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển
dụng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực chính thức và thành viên hợp
tác xã không có bảo hiểm xã hội bắt buộc; (ii) chủ cơ sở, lao động tự làm, lao động làm công ăn lương và lao
động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực phi chính thức; (iii) lao động tự làm phục vụ nhu cầu tự tiêu dùng của
hộ gia đình và lao động làm thuê trong các hộ gia đình.
40

ngân sách Trung ương đã hỗ trợ là gần 13,8 nghìn tỷ đồng cho gần 17,6 triệu đối
tượng, trong đó có 11,4 nghìn tỷ đồng được chi cho 23 tỉnh, thành phố 31 chịu
ảnh hưởng nhiều do dịch bệnh; xuất cấp 136.349,6 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc
gia cho hơn 2,4 triệu hộ gia đình với gần 9,1 triệu nhân khẩu gặp khó khăn do
dịch trên địa bàn 30 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, riêng
Thành phố Hồ Chí Minh đã chi trên 5.446 tỷ đồng (chiếm 40% toàn quốc) hỗ
trợ trên 4,8 triệu đối tượng (chiếm 27,3% toàn quốc) và trao 1,8 triệu túi an sinh
xã hội cho người dân.
Công tác an sinh xã hội định kỳ và công tác giảm nghèo bền vững tiếp tục
được quan tâm, chỉ đạo và triển khai thực hiện ngay cả trong điều kiện dịch bệnh,
các địa phương đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, chăm lo cho hộ nghèo như
hỗ trợ các hộ vay vốn sản xuất, kinh doanh… Trong 9 tháng năm 2021, tổng trị
giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là 10.434,1 tỷ đồng, trong đó, hỗ trợ cho
các đối tượng người có công, thân nhân người có công là 4.014,9 tỷ đồng, hỗ trợ
cho hộ nghèo, hộ cận nghèo là 1.624 tỷ đồng; hỗ trợ cứu đói các đối tượng bảo trợ
xã hội và đối tượng khác là 2.349,1 tỷ đồng; hỗ trợ người dân do tình hình bão lũ,
hạn hán, xâm nhập mặn… là 2.446,1 tỷ đồng. Có hơn 29,3 triệu thẻ bảo hiểm xã
hội/sổ/thẻ khám chữa bệnh miễn phí được phát, tặng cho các đối tượng thụ
hưởng.
Bên cạnh đó, công tác đền ơn, đáp nghĩa được quan tâm sâu sát: Ngày
30/6/2021, Chủ tịch nước đã ban hành Quyết định số 1142/QĐ-CTN về việc
tặng quà nhân dịp kỷ niệm 74 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ với mức quà tặng
là 600.000 đồng và 300.000 đồng; tại các địa phương đã tổ chức thăm, tặng quà
cho các đối tượng người có công và thân nhân người có công nhân dịp lễ, tết, từ
nguồn ngân sách trung ương đến địa phương và nguồn xã hội hóa.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến tháng 8/2021, cả nước
có 5.338 xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 396 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng
cao và đã có 43 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu theo quy định của Thủ
tướng Chính phủ; có 196 huyện thuộc 52 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông
thôn mới; 12 tỉnh đã có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; 04 tỉnh (Nam
Định, Đồng Nai, Hưng Yên và Hà Nam) đã được Thủ tướng Chính phủ công
nhận tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
3. Giáo dục, đào tạo
Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến ngành giáo dục của cả nước, đặc
biệt là Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Để thích ứng với tình hình
thực tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kịp thời đưa ra các phương án ứng phó; chỉ
đạo, hướng dẫn phù hợp để vừa đảm bảo an toàn cho học sinh, giáo viên, vừa
thực hiện kế hoạch năm học. Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia năm
31
Hà Nội, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Phú Yên và 19 tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu
Long.
41

2021 được tổ chức thành 2 đợt để đảm bảo an toàn cho các thí sinh tham gia kỳ
thi, đợt 1 tổ chức vào ngày 07-08/7/2021 và đợt 2 tổ chức vào ngày 06-07/8/2021.
Tính đến tháng 8 năm 2021, cả nước có 1.909 cơ sở giáo dục nghề nghiệp,
trong đó 409 trường cao đẳng (312 trường công lập); 442 trường trung cấp (211
trường công lập); 1.058 trung tâm giáo dục nghề nghiệp (698 trung tâm công
lập). Tổng số cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục là 688 cơ sở (chiếm 36%).
Tính chung 8 tháng năm 2021, đào tạo nghề đã tuyển mới được 995 nghìn
người, đạt 41,9% so với kế hoạch năm, trong đó trình độ cao đẳng, trung cấp
tuyển sinh được 95 nghìn người; trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề
nghiệp khác tuyển sinh được 900 nghìn người (trong đó số lao động nông thôn
được đào tạo 450 nghìn người).
4. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng (19/8-18/9/2021), cả nước có 3.474 trường hợp mắc bệnh sốt
xuất huyết (3 trường hợp tử vong); 90 trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 33
trường hợp mắc bệnh viêm màng não do vi rút (1 trường hợp tử vong) và 14
trường hợp sốt phát ban nghi sởi. Tính chung 9 tháng năm 2021, cả nước có
47.426 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (16 trường hợp tử vong); 37.733
trường hợp mắc bệnh tay chân miệng (11 trường hợp tử vong); 445 trường hợp
mắc bệnh viêm màng não do vi rút (6 trường hợp tử vong); 14 trường hợp mắc
bệnh viêm màng não do não mô cầu (2 trường hợp tử vong) và 392 trường hợp
sốt phát ban nghi sởi, trong đó có 39 trường hợp dương tính.
Dịch Covid-19 trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp 32. Tại Việt Nam,
dịch Covid-19 đang dần được kiểm soát và có những chuyển biến tích cực, số ca
mắc trong cộng đồng và tử vong có chiều hướng giảm. Tính đến 17 giờ ngày
27/9/2021 Việt Nam có 766.051 trường hợp mắc, 538.454 trường hợp đã được
chữa khỏi (18.758 trường hợp tử vong). Có 16 tỉnh, thành phố đã qua 14 ngày
không ghi nhận trường hợp nhiễm mới trong nước: Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lai
Châu, Hòa Bình, Yên Bái, Hà Giang, Thái Nguyên, Điện Biên, Vĩnh Phúc, Hải
Phòng, Phú Thọ, Ninh Bình, Nam Định, Bắc Giang, Thái Bình, Lạng Sơn.
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm
18/9/2021 là 212.526 người; số người đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 89.710
người và số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là
108.061 người.
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng Chín xảy ra 3 vụ với 15 người bị ngộ
độc. Tính chung 9 tháng năm 2021, cả nước xảy ra 52 vụ với 1.481 người bị ngộ
độc (5 người tử vong).
5. Hoạt động văn hóa, thể thao

32
Tính đến 17 giờ ngày 27/9/2021 trên thế giới có 232.652 nghìn trường hợp mắc Covid-19 (4.763,3 nghìn
trường hợp tử vong).
42

Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được các địa phương rất
quan tâm và thực hiện. Những chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng về
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, cũng như các quy định của pháp luật
về di sản văn hóa được tuyên truyền sâu rộng tới toàn thể nhân dân. Tiếp tục
hoàn thiện và xây dựng các đề án nhằm bảo tồn phát huy văn hóa truyền thống,
xây dựng văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và xây dựng đời
sống văn hóa cơ sở tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh, giúp mỗi người
dân có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống. Hoạt động thư viện hướng tới
ứng dụng công nghệ thông tin, nhất là công nghệ số nhằm nâng cao năng lực
hoạt động và hình thành mạng lưới thư viện hiện đại, cung ứng dịch vụ đáp ứng
nhu cầu của người sử dụng, thu hút đông đảo người dân quan tâm, sử dụng dịch
vụ thư viện, góp phần nâng cao dân trí, xây dựng xã hội học tập.
Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng tiếp tục được đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng. Công tác truyền thông hướng dẫn toàn dân tập luyện thể dục thể thao,
nâng cao sức khỏe, phát triển tầm vóc, thể lực phòng chống dịch bệnh được triển
khai rộng khắp trên cả nước, tạo ra sự gắn kết xã hội giữa các cá nhân, cá nhân
với cộng đồng và xã hội, phát triển môi trường sống lành mạnh, đẩy lùi tệ nạn xã
hội, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước.
Thể thao thành tích cao của Việt Nam đạt được một số kết quả nổi bật: Vận
động viên Lê Văn Công xuất sắc giành Huy chương bạc môn cử tạ hạng 49kg
tại giải Paralympic Tokyo 2020 (diễn ra từ ngày 24/8/2021-05/9/2021); tại giải
Futsal World Cup 2021 (diễn ra từ ngày 12/9/2021), tuyển Futsal Việt Nam đã
tạo được những chiến tích vượt qua mong đợi khi ghi bàn trong tất cả các trận
đấu của mình. Với màn thể hiện tuyệt vời ở giải đấu này hứa hẹn sẽ là bàn đạp,
là động lực để tuyển Futsal Việt Nam tiếp tục tiến lên chinh phục những đỉnh
cao, chạm tới những cột mốc đáng tự hào mới trong tương lai.
Công tác chuẩn bị cho 2 Đại hội thể thao lớn là Đại hội Thể thao Đông Nam
Á lần thứ 31 (SEA Games 31) và Đại hội Thể thao Người khuyết tật lần thứ 11
(ASEAN Para Games 11) dự kiến diễn ra vào tháng 12/2021 tại Việt Nam đang
tích cực được triển khai trên tinh thần quyết liệt, khẩn trương để mọi khâu tổ chức
hoàn thành đúng hạn, đồng thời bảo đảm an toàn tuyệt đối về phòng, chống dịch
bệnh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng cháy chữa cháy, đảm bảo cảnh quan
môi trường.
6. Tai nạn giao thông33
Trong tháng Chín và 9 tháng năm 2021, số vụ tai nạn giao thông, số người
chết và số người bị thương do tai nạn giao thông giảm mạnh so với tháng trước
và so với cùng kỳ năm trước do nhiều địa phương tiếp tục thực hiện phòng

33
Theo báo cáo nhanh từ Văn phòng Bộ Công an và Cục Hàng hải (Bộ Giao thông vận tải).
43

chống dịch Covid-19 theo Chỉ thị số 15/CT-TTg và Chỉ thị số 16/CT-TTg của
Thủ tướng Chính phủ.
Trong tháng Chín (từ 15/8-14/9/2021), trên địa bàn cả nước xảy ra 488 vụ
tai nạn giao thông, bao gồm 326 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên
và 162 vụ va chạm giao thông, làm 254 người chết, 152 người bị thương và 149
người bị thương nhẹ. So với tháng trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 4,3% (số
vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 5% và số vụ va chạm giao
thông giảm 3%); số người chết giảm 1,2% và số người bị thương giảm 16% và
số người bị thương nhẹ giảm 7,5%. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao
thông tháng Chín giảm 58,8% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở
lên giảm 54% và số vụ va chạm giao thông giảm 66%); số người chết giảm
52,4%; số người bị thương giảm 59,7% và số người bị thương nhẹ giảm 70,5%.
Tính chung 9 tháng năm 2021, trên địa bàn cả nước xảy ra 8.135 vụ tai nạn
giao thông, bao gồm 5.237 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và
2.898 vụ va chạm giao thông, làm 4.146 người chết, 2.695 người bị thương và
2.932 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông
trong 9 tháng năm nay giảm 21,4% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng
trở lên giảm 12,4%; số vụ va chạm giao thông giảm 33,7%); số người chết giảm
15%; số người bị thương giảm 13,8% và số người bị thương nhẹ giảm 34,6%.
Bình quân 1 ngày trong 9 tháng năm 2021, trên địa bàn cả nước xảy ra 30 vụ tai
nạn giao thông, gồm 19 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 11 vụ
va chạm giao thông, làm 15 người chết, 10 người bị thương và 11 người bị
thương nhẹ.
7. Thiệt hại do thiên tai34
Thiên tai xảy ra trong tháng (từ ngày 19/8-18/9/2021) chủ yếu do ảnh
hưởng của mưa lớn, bão, hạn hán làm 21 người chết; 26 người bị thương; 17,2
nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; 10,4 nghìn ha lúa và 7,5 nghìn ha hoa màu
bị hư hỏng; 78 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và gần 1,7 nghìn ngôi nhà bị ngập
hư hại, thiệt hại ước tính 442 tỷ đồng, tăng 117% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 9 tháng năm nay, thiên tai làm 77 người chết và mất tích, 121 người
bị thương; 25,2 nghìn con gia súc và gia cầm bị chết; 86,1 nghìn ha lúa và 44,9
nghìn ha hoa màu bị hư hỏng; 579 ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 12,8 nghìn
ngôi nhà bị ngập hư hại; tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính 1.355,2 tỷ đồng,
giảm 81,1% so với cùng kỳ năm trước.
8. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Trong tháng 9/2021, cơ quan chức năng đã phát hiện 781 vụ vi phạm môi
trường, trong đó xử lý 735 vụ với tổng số tiền phạt 11 tỷ đồng. Tính chung 9

34
Tổng hợp Báo cáo từ 63 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kỳ báo cáo từ ngày 19/8-18/9/2021.
44

tháng năm nay đã phát hiện 12.365 vụ vi phạm môi trường, trong đó xử lý
10.943 vụ với tổng số tiền phạt 191,1 tỷ đồng.
Trong tháng35, cả nước xảy ra 162 vụ cháy, nổ, làm 8 người chết và 6 người
bị thương, thiệt hại ước tính gần 9 tỷ đồng. Tính chung 9 tháng năm 2021, trên
địa bàn cả nước xảy ra 1.770 vụ cháy, nổ, làm 82 người chết và 120 người bị
thương, thiệt hại ước tính 343,9 tỷ đồng.
Khái quát lại, trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp,
tuy nhiên bức tranh kinh tế - xã hội Việt Nam 9 tháng năm 2021 vẫn duy trì
được mức tăng trưởng dương và đạt được một số kết quả tích cực trên các lĩnh
vực là do sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo, điều hành kịp thời,
quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các cấp,
các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước. Các cơ
quan ở Trung ương và địa phương đã thực hiện tốt, có hiệu quả công tác phòng,
chống dịch, triển khai hiệu quả Quỹ Vắc-xin phòng chống Covid-19 để tiếp
nhận, quản lý, sử dụng các nguồn viện trợ, hỗ trợ mua và tự nghiên cứu, sản
xuất vắc-xin, tiêm phòng miễn phí cho người dân nhằm quyết tâm đạt mục tiêu
kinh tế - xã hội năm 2021 cao nhất có thể. Nền kinh tế duy trì được mức tăng
trưởng dương 1,42% tuy không phải là mức tăng trưởng cao nhưng an sinh xã
hội được đảm bảo, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát.
Bước sang quý IV, kinh tế - xã hội nước ta còn phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức, nhất là nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn nên chịu tác động
đan xen nhiều mặt bởi tình hình kinh tế quốc tế ngày càng phức tạp, khó lường.
Mặc dù tiêm chủng vắc-xin Covid-19 được nhiều nước trên thế giới triển khai
mạnh mẽ nhưng nguy cơ phục hồi của kinh tế thế giới vẫn mong manh, việc gián
đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu còn hiện hữu, ảnh hưởng tới các ngành thương
mại, du lịch, vận tải, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm gia tăng sẽ ảnh hưởng đến
an sinh xã hội.
Để đạt mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2021 ở mức cao nhất có thể, cần sự
chung sức, đồng lòng của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Để khắc phục
những khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong những tháng còn lại năm
2021, cần tập trung vào những giải pháp sau:
Một là, trước hết, cần thực hiện kiểm soát tốt dịch Covid-19, tiếp tục triển
khai mạnh mẽ, hiệu quả tiến độ tiêm vắc xin phòng Covid-19 gắn với mở rộng
cơ sở tiêm, đối tượng tiêm. Xây dựng và hướng dẫn thực hiện Khung Y tế
phòng chống dịch để sống chung an toàn với dịch Covid-19, sớm ổn định đời
sống nhân dân và thực hiện mục tiêu kép vừa phòng chống dịch bệnh, vừa khôi
phục và phát triển kinh tế.
Chăm lo sức khỏe, đời sống của người dân, đảm bảo an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội. Trong đó, thực hiện đảm bảo lương thực, thực phẩm và các dịch vụ
thiết yếu, dịch vụ y tế, an sinh xã hội cho người dân, có giải pháp hỗ trợ phù hợp
35
Theo báo cáo nhanh từ Bộ Công an ngày 23/9/2021.
45

với các nhóm đối tượng cụ thể. Phát huy, lan tỏa tinh thần đoàn kết, hỗ trợ lẫn
nhau vượt qua khó khăn, sớm ổn định cuộc sống.
Hai là, tiếp tục triển khai hiệu quả cơ chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ
người dân, người lao động, doanh nghiệp chống chịu, vượt qua khó khăn, ổn
định và phục hồi sản xuất trong những tháng cuối năm. Đặc biệt, hỗ trợ cho
người lao động bị mất việc làm, mất thu nhập, lao động phi chính thức cần được
triển khai hiệu quả với phương châm: “không để ai bị bỏ lại”, từ đó tạo tâm lý
yên tâm, không di dời khỏi địa phương nơi làm việc, dẫn tới xáo trộn, thiếu hụt
nguồn lực lao động tại các địa phương có tình hình dịch bệnh diễn biến phức
tạp, kéo dài.
Ba là, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát giá cả, thị trường, bảo đảm
cung ứng hàng hóa và các cân đối lớn của nền kinh tế; thực hiện chính sách tài
khóa, chính sách tiền tệ linh hoạt vừa đảm bảo kiềm chế lạm phát, vừa đảm bảo
thúc đẩy tăng trưởng.
Từng bước mở cửa nền kinh tế, tập trung nguồn lực khôi phục lại hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Đây là yêu cầu cấp thiết để tránh tác động dài hạn
đến động lực tăng trưởng của nền kinh tế, làm suy giảm, cạn kiệt sức chống chịu
của doanh nghiệp, người dân trong bối cảnh nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề
bởi dịch bệnh, giãn cách xã hội kéo dài.
Bốn là, tăng cường các biện pháp siết chặt kỷ luật tài chính - ngân sách.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, rà soát, hoàn thiện các
quy trình thủ tục, bảo đảm đơn giản, thuận tiện cho triển khai dự án đầu tư công và
thực hiện giải ngân, mở rộng hợp tác công tư. Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa
phương tập trung cao độ hoàn thiện các thủ tục về đầu tư công. Chú trọng công tác
đối thoại chính sách, xúc tiến đầu tư tại chỗ, nắm bắt tình hình, có biện pháp kịp
thời, phù hợp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam. Hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng, thực hiện kế
hoạch phục hồi sản xuất kinh doanh phù hợp với diễn biến của dịch Covid-19 tại các
địa phương.
Năm là, theo dõi sát thị trường trong nước và quốc tế, kịp thời tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc đối với hoạt động xuất, nhập khẩu. Để khắc phục tình trạng
nhập siêu, cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu sử dụng nguyên liệu đầu vào trong nước. Tăng cường công tác
quản lý xuất khẩu, nhập khẩu; hạn chế nhập khẩu các mặt hàng có nguồn cung
trong nước dồi dào để vừa hỗ trợ sản xuất trong nước, vừa cải thiện tình hình nhập
siêu. Tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ miễn, giảm các loại phí cho các doanh nghiệp chịu
chi phí tăng cao trong quá trình vận chuyển, lưu thông hàng hóa.
Sáu là, theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, chủ động phương án phòng
chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ, sạt lở, tác động của hạn hán, xâm nhập mặn
nhằm hạn chế tối đa thiệt hại tới sản xuất và cuộc sống của người dân. Thực
46

hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm. Thực hiện tốt
công tác trợ giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ
trợ kịp thời, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống. Tăng cường công tác bảo
đảm trật tự an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ./.

TỔNG CỤC TRƯỞNG


Nơi nhận:
- Tổng Bí thư;
- Chủ tịch nước;
- Chủ tịch Quốc hội;
- Thủ tướng Chính phủ;
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- Các cơ quan thuộc Trung ương Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước; Nguyễn Thị Hương
- Các cơ quan thuộc Quốc hội;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ;
- Toà án Nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao;
- Các đoàn thể Trung ương;
- Các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Phòng Thương mại và Công nghiệp VN;
- Các đơn vị thuộc Bộ KHĐT;
- Cơ quan Thông tấn, báo chí;
- Các đơn vị thuộc TCTK;
- Lưu: VT, TKTH.

You might also like