You are on page 1of 17

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

~~~~~*****~~~~~

BÀI TIỂU LUẬN

Kết thúc môn: Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học

GV hướng dẫn: Dương Thị Nhẫn

SV thực hiện: Phạm Hữu Truyền

Mã sinh viên: 1451020247

Lớp: CNTT 14-04

Hà Nội, ngày 10 tháng 9 năm 2021


1
MỤC LỤC:

Mục lục
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................................3

NỘI DUNG ....................................................................................................................................................4

I. Khái niệm dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ...................................4

1. KHÁI NIỆM DÂN CHỦ ..................................................................................................................4

2. Đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc tập trung dân chủ. .......................5

3. Nền dân chủ ở Việt nam ra đời gắn liền với thành công của cách mạng tháng Tám.................6

4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ kiểu mới ..............................................................................7

5. Nội dung chủ yếu và tính ổn định của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. ..............................8

6. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của Cách mạng Việt Nam. .........11

II. Sinh viên và những điều cần thực hiện để thúc đẩy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay. ......................................................................................................................................................13

KẾT LUẬN .................................................................................................................................................16

2
Đề tài: Dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Sinh
viên cần làm gì để thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?

MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng Sản Việt nam, Chủ tịch Hồ chí
Minh và giai cấp Công nhân Việt Nam lãnh đạo đã thành công vĩ đại. Đó là một
cuộc tổng khởi nghĩa thần tốc và thần kỳ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta. Thần kỳ vì chỉ trong hơn một tuần Cách mạng đã thành công trong cả
nước, Chính quyền Việt minh đã được xây dựng từ nông thôn đến thành thị để quản
lý đất nước. Thần kỳ vì thành công của cuộc cách mạng này nhân dân ta đã đánh đổ
cùng một lúc hai ách thống trị Pháp và Nhật cùng bè lũ tay sai của chúng đối với
nước ta. Đưa nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến hàng trăm năm trở
thành một quôc gia độc lập, tự do và có chủ quyền lãnh thổ toàn diện, đưa dân tộc
ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ của đất nước độc lập tự do. Cách mạng
tháng Tám khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, (trước đây nước ta không
có tên trong bản đồ thế giới) mà chỉ là một phần thuộc địa và phụ thuộc của đế
quốc Pháp. Cách mạng tháng Tám đã thiết lập nền dân chủ cộng hòa đầu tiên ở
nước ta. Mục tiêu “độc lập dân tộc”,”người cày có ruộng” và quyền phổ thông đầu
phiếu trong lĩnh vực chính trị được thực hiện trọn vẹn. Nền dân chủ cộng hòa Việt
Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó và trở thành tiền đề để tiến lên nền dân
chủ XHCN khi cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Với cái nhìn đa chiều tôi đã được tiếp cận về nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện
nay.

Đề tài này tập trung nghiên cứu về về nền dân chủ XHCN ở Việt Nam từ thời gian
đầu được thiết lập đến nay.
3
NỘI DUNG
I. Khái niệm dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay
1. KHÁI NIỆM DÂN CHỦ

Dân chủ là cách nói tắt về chế độ dân chủ hoặc quyền dân chủ. Chế độ dân chủ là
chế độ chính trị, trong đó, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân
dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do nhân dân bầu ra.

Dân chủ tư sản ra đời cùng với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản ở các nước
châu Âu. Dân chủ tư sản đã đưa lại sự tiến bộ lớn lao so với chế độ chuyên chế
phong kiến trước đó. Lênin khẳng định: "Cộng hoà tư sản, nghị viện, phổ thông đầu
phiếu đó là sự tiến bộ lớn lao xét từ quan điểm phát triển xã hội trên phạm vi toàn
cầu”, "Nếu không có chế độ nghị viện, không có chế độ bầu cử... Chắc sự phát triển
của giai cấp công nhân không thể Có được”.

Tuy có vai trò lớn như vậy nhưng dân chủ tư sản vẫn là hình thức thống trị chính trị
của giai cấp tư sản, là chế độ dân chủ hình thức, bị cắt xén, chế độ dân chủ dành
cho thiểu số. Còn đa số nhân dân lao động nghèo khổ thì bị hạn chế trong thực thi
các quyền dân chủ đã được tuyên bố trong các hiến pháp tư sản. Nhiều chế định
của dân chủ tư sản, trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đã bị hạn chế và bị xoá bỏ.
Chế độ đế quốc chủ nghĩa, chế độ độc tài phát xít chuyên chế đã tạo lập đường lối
chính trị gây chiến, nô dịch các nước kém phát triển và đàn áp phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc của các nước trên thế giới cũng như phong trào của quần chúng
lao động và giai cấp công nhân trong nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập
ở các nước đã hoàn thành cảch mạng dân tộc dân chủ và bắt đầu tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ
4
của công dân không ngừng được được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực hoạt động
của Nhà nước, xã hội thông qua hệ thống cơ quan nhà nước và các tổ chức chính
trị, chính trị - xã hội và tổ chức xã hội với sự tham gia tích cực vào hoạt động chính
trị hàng ngày của đông đảo quần chúng nhận dân lao động. Mục tiêu của dân chủ
xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ chế độ người bóc lột người, tạo ra ngày càng nhiều hơn
các điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để công bằng xã hội, dân chủ, văn minh,
công lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nam và nữ, giữa các dân tộc, tạo cơ
hội cho mọi người dân hạnh phúc thông qua việc thừa nhận và khẳng định các
quyền dân chủ đó một cách chính thức trong hiến pháp và các văn bản quy phạm
pháp luật, đặt ra các bảo đảm vật chất và tinh thần để thực hiện các quyền đó và
không ngừng mở rộng các quyền dân chủ; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với Nhà
nước và xã hội, phát huy không ngừng quyền làm chủ của nhân dân lao động.

2. Đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc tập trung
dân chủ.

Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công dân sẽ không
ngừng được được mở rộng trong tất cả lĩnh vực hoạt động của xã hội, nhà nước.
Thông qua hệ thống cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội và tổ chức chính trị,
chính trị - xã hội với sự tham gia tích cực của đông đảo quần chúng nhận dân lao
động vào các hoạt động chính trị hàng ngày

Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là xoá bỏ chế độ người bóc lột người,
tạo các điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để dân chủ, công bằng xã hội, công lí
cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nữ và nam, văn minh, giữa các dân tộc.

Từ đó, tạo ra cơ hội cho mọi người dân hạnh phúc thông qua việc khẳng định và
thừa kế những quyền dân chủ đó một cách chính thức trong hiến pháp và các văn
5
bản quy phạm pháp luật. Từ đó đặt ra những bảo đảm vật chất và tinh thần để thực
hiện các quyền đó và không ngừng mở rộng các quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, luôn đề cao trách nhiệm cá nhân đối với Nhà nước và xã hội cũng như
phát huy không ngừng quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Nguyên tắc tập trung dân chủ có thể hiểu đơn giản là nguyên tắc quy định tất cả
công việc của Đảng đều phải được toàn thể đảng viên cùng bàn bạc hoàn toàn dân
chủ. Sau đó, tập trung mọi hành động và ý chí của từng đảng bộ cho tới đảng viên
trong toàn Đảng vào các trung tâm lãnh đạo của từng cấp.

Dân chủ là tất cả đảng viên đều được quyền tự do bày tỏ chính kiến của mình về
những vấn đề trong sinh hoạt đảng để góp phần thống nhất về chủ trương, quan
điểm trong chỉ đạo, lãnh đạo; để xây dựng và đưa được nghị quyết vào trong cuộc
sống.

Tập trung thống nhất về tư tưởng, hành động và tổ chức. Biểu hiện của tập trung
dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên.

Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể cá nhân, lãnh
đạo phụ trách tức là dân chủ tập trung.

3. Nền dân chủ ở Việt nam ra đời gắn liền với thành công của cách mạng
tháng Tám

Từ sau cách mạng tháng Tám, chế độ của ta là chế độ dân chủ; dân chủ trăm, ngàn
lần với nhân dân, nhưng đồng thời cũng nghiêm trị những kẻ phá hoại thành qủa
của cách mạng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Tất cả mọi người dân Việt Nam
không phân biệt tầng lớp, chủng tộc, tôn giáo, trẻ già, trai gái đều là người chủ đất
nước, đều được hưởng thụ những quyền lợi chính đáng về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Chỉ sau hơn 4 tháng từ khi cách mạng tháng Tám thành công lần đầu
tiên nhân dân ta được thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, bầu gia Quốc Hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - cơ quan quyền lực cao
6
nhất để lãnh đạo đất nước. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân
bầu ra; đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức. Dân bầu ra người đại diện và
có quyền kiểm sát, giám sát và bãi miễn khi không làm tròn sự ủy thác của nhân
dân. Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội hiệu lực, hiệu quả phải dựa vào dân
và lấy dân làm gốc.

Tuy nhiên, nhân dân có quyền làm chủ đất nước thì cũng phải có nghĩa vụ làm tròn
bổn phận công dân. Chế độ ta là chế độ dân chủ, nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy
tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Mọi việc
Chính phủ làm đều nhằm phục vụ lợi ích của dân. Vì vậy, nhân dân có nhiệm vụ
giúp Chính phủ và làm đúng chính sách để Chính phủ làm tròn phận sự do nhân
dân giao phó.

4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ kiểu mới

Dân chủ là thành tựu văn minh của nhân loại. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ
kiểu mới. Trong nghiên cứu nền văn minh nhân loại, Mác và Ăngghen đã đưa ra
những phân tích khoa học mang tính duy vật lịch sử. Hai ông cho rằng, cùng với sự
phát triển của sức sản xuất và văn hóa, loài người từ ngu muội, dã man đã dần
hướng tới văn minh. Mọi thành quả văn minh do con người sáng tạo ra đều thuộc
về toàn thể nhân loại. Dân chủ, pháp chế, tự do, bác ái, nhân quyền… không phải là
sở hữu riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành quả văn minh của toàn thế giới được
hình thành trong quá trình lịch sử lâu đời, cũng là quan niệm giá trị mà loài người
theo đuổi.

C.Mác chỉ rõ: Thực tiễn và lý luận dân chủ, chế độ cộng hòa, tự do, bình đẳng xuất
hiện trong lĩnh vực chính trị đều là thành quả văn minh chung do nhân loại sáng tạo
nên, là quan niệm giá trị tiến bộ chung của cộng đồng nhân loại. Mác không chỉ ca
7
ngợi chế độ dân chủ trong xã hội nguyên thủy, ca ngợi chế độ dân chủ Hy Lạp
trong xã hội nô lệ, mà còn ca ngợi chế độ dân chủ của giai cấp tư sản, bởi vì dân
chủ tư sản đã loại bỏ chuyên chế phong kiến. Người nói: "Chế độ dân chủ là sự phủ
định của chế độ quân chủ" là "sản vật tự do của con người". Đối với nước cộng hòa
dân chủ do giai cấp tư sản sáng lập, Ăngghen chỉ rõ: Nước cộng hòa dân chủ là
"hình thức đặc biệt của chuyên chính tư sản". So với quan niệm về dân chủ, cộng
hòa thì quan niệm về tự do, bình đẳng của con người sâu sắc hơn nhiều. Quan niệm
của chủ nghĩa Mác về tự do, bình đẳng được bắt nguồn từ tầng sâu lịch sử, đạt tới
mức lý tưởng và điều đó hình thành tư tưởng "Liên hợp những người tự do" trong
"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", ra đời cách đây 173 năm, ở đó sự phát triển tự
do của mỗi con người là điều kiện phát triển của mọi người. Chân lý ấy vẫn đang
có giá trị thời đại. Ở nước ta khi tiến lên giai đoạn cách mạng XHCN, nền dân chủ
do nhân dân ta xây dựng nên dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh
sau cách mạng tháng Tám, nay được chuyển lên nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế để tiến nhanh tiến mạnh
lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta chủ trương thừa kế những tinh hoa và học tập mọi
thành quả văn minh, tiên tiến của nhân loại để xây dựng và phát triển nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta tốt đẹp nhất. Dân chủ vốn có giá trị rộng khắp, dân chủ
xã hội chủ nghĩa được coi là nền dân chủ kiểu mới - dân chủ gấp trăm lần dân chủ
tư sản - như Lênin đã từng nói. Dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ tiếp nhận và kế
thừa truyền thống dân chủ tiến bộ trong lịch sử mà còn sáng tạo thêm nội dung và
hình thức mới.

5. Nội dung chủ yếu và tính ổn định của dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.

8
Từ đầu thế kỷ XX đến nay, với làn sóng dân chủ hóa toàn cầu, ngày càng có nhiều
quốc gia đi theo con đường phát triển dân chủ, nhưng không phải nước nào cũng đi
theo con đường dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, ngay từ khi Đảng ra
đời(1930) để lãnh đạo cách mạng; trong cương lĩnh chính trị đầu tiên, đã nhất quán
chủ trương, đường lối trong giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân phải xây dựng
và phát triển chế độ dân chủ nhân dân mà mục tiêu cốt lõi của nó là "Độc lập dân
tộc, người cày có ruộng" và thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu trong lĩnh vực
chính trị. Khi chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở kế
thừa nền dân chủ nhân dân đã có phải tiến hành ngay việc xây dựng, phát triển nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu xuyên suốt là:”Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ lâu dài
và trọng yếu, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn vậy, vấn đề trung
tâm là phải xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước pháp quyền không phải cái
riêng có của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội cũng cần thực hiện nhà nước pháp
quyền. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khác về bản chất với nhà nước pháp
quyền tư sản ở chỗ: pháp quyền dưới chủ nghĩa tư bản thực chất là công cụ của giai
cấp tư sản để thống trị và bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động; pháp
quyền dưới chủ nghĩa xã hội là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật và các công cụ khác,
nhưng việc sử dụng bất cứ công cụ nào cũng phải trong khuôn khổ pháp luật.
Thông qua thực thi pháp luật, nhà nước thể hiện nhân dân là chủ thể của quyền lực
chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc
và nhân dân.
9
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là
thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp.

Sau gần 35 năm đổi mới, về cơ bản nước ta đã chuyển đổi thành công từ mô hình
kinh tế quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và tiến từ dân chủ nhân dân lên dân chủ xã hội chủ nghĩa. Hiện nay đang
từng bước phát triển và hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
để tiến lên kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và xây dựng, phát triển nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa hướng tới tương lai tốt đẹp.

So với các nước đi theo con đường dân chủ đầy sóng gió, sự phát triển dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta rất ổn định, có hiệu quả. Nguyên nhân chính là do Đảng và
Nhà nước ta luôn tuân thủ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Điều đó được thể
hiện ở những mặt sau đây:

Một là, tư tưởng chiến lược chỉ đạo toàn cục phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là dựa trên lý luận dân chủ của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nguyên tắc cơ bản.

Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò độc tôn lãnh đạo công cuộc phát triển
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
10
Ba là, cơ sở kinh tế cho việc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và từng bước hoàn thiện tiến lên kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,
trong đó kinh tế nhà nước với chế độ công hữu về TLSX chủ yếu giữ vai trò chủ
đạo.

Bốn là, phương thức thúc đẩy công cuộc phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là thực hiện theo mô hình từ dưới lên, bắt đầu từ cơ sở tiến lên từng cấp,
từng bước chứ không làm theo kiểu áp đặt từ trên xuống, gây bất bình trong nhân
dân.

Năm là, trọng điểm công cuộc phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa là thường xuyên
củng cố, phát triển dân chủ trong Đảng, coi dân chủ trong đảng là”hạt nhân” của
dân chủ XHCN và lấy dân chủ trong Đảng thúc đẩy dân chủ trong toàn xã hội. Từ
đó, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngày càng cao dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, quán triệt sâu sắc quan điểm dân biết, dân bàn, dân thực hiện, dân
kiểm tra.

6. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của Cách
mạng Việt Nam.

Cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, bất kỳ ở giai đoạn lịch sử nào, dân
chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Nước ta đi theo con đường xã
hội chủ nghĩa cần xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì đây là một
mục tiêu quan trọng của cách mạng. Không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã
hội. Chủ nghĩa xã hội mà không thực hiện quyền dân chủ rộng rãi trên tất cả các

11
lĩnh vực của đời sống với quảng đại quần chúng thì chỉ là chủ nghĩa xã hội hình
thức, "hữu danh vô thực".

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những nguyên tắc
cơ bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa để phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội không ngừng tiến lên.Trong cương lĩnh xây
dựng đất nước, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 dân chủ xã hội chủ nghĩa là bảo đảm mọi
quyền lực thuộc về nhân dân. Hiến pháp năm 1992 cũng khảng định tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân và thể chế hóa quyền lực đó của nhân dân trên tất
cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế , văn hóa, xã hội; chú trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân. Dân chủ gắn liền với cồng bằng xã hội phải được thực hiện
trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực đời sông xã hội. Trải qua gần 25
năm đổi mới và 20 năm thực hiện cương lĩnh 1991 nền dân chủ XHCN ở Việt Nam
đã có những bước tiến quan trọng và được thế giới thừa nhận.

Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,
mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện thành công mục tiêu “tối
thượng” của cách mạng: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh của Đảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa vì nó là một mục tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến
lượt nó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát triển và hoàn thiện thì nó lại trở
thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển. Chủ nghĩa xã hội
ở nước ta từ chỗ chưa chín muồi đến chín muồi, từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát triển. Quá trình này cần có thời gian dài. Nếu

12
không có môi trường ổn định đặc biệt là ổn định chính trị thì không thể làm được
việc gì. Muốn duy trì ổn định xã hội để tiến lên phải phát triển dân chủ xã hội chủ
nghĩa và lấy đó làm động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện xã hội từ thấp đến
cao.

Chính trị của giai cấp công nhân đòi hỏi phải dùng phương pháp dân chủ để quản
lý nhà nước, cải tạo xã hội. Nhà nước XHCN là nhà nước mới trong lịch sử, dân
chủ là thực hiện quyền nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đây là bản chất
tốt đẹp của Nhà nước XHCN đã và đang tồn tại ở một số nước trên thế giới, trong
đó có nước ta. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta cần tự giác tuân thủ quy tắc dân chủ, xây
dựng và kiện toàn thể chế dân làm chủ, hình thành trật tự dân chủ ổn định, bền
vững.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi dân chủ là mục tiêu cơ bản
và không ngừng phát triển, hoàn thiện mục tiêu đó. Trong gần 25 năm đổi mới, nền
dân chủ XHCN ở nước ta không ngừng phát triển, góp phần ổn định chính trị xã
hội, thúc đẩy kinh tế phát triển với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, góp phần
bảo đảm trật tự, an ninh, an toàn xã hội, đưa nước ta từng bước vững chắc tiến lên
theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa.

II. Sinh viên và những điều cần thực hiện để thúc đẩy nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Trong thời kì đổi mới, sinh viên Việt Nam nói riêng với hầu hết là Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh nói chung trong cả nước hăng hái thi đua học tập, lao động
sáng tạo, chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức, khoa học và công nghệ, vươn lên thoát
nghèo, làm giàu chính đáng, xung kích, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
và không ngừng thúc đẩy nền dân chủ XHCN ở Việt Nam.
13
Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tăng cường tính chủ động nâng cao hiệu quả
trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái, thù địch trong thời gian tới nhằm đảm bảo giữ vững ổn định chính trị,
xây dựng sự đồng thuận trong xã hội và niềm tin trong nhân dân. Lực lượng đảng
viên trẻ, đoàn viên ưu tú trong cần tập trung thực hiện có hiệu quả các vấn đề sau:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống, khơi dậy tinh thần yêu
nước, giáo dục và nâng cao nhận thức của đoàn viên thanh niên và thế hệ trẻ về
những thành quả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được trong qua từng
giai đoạn lịch sử. Nâng cao nhận thức, lý tưởng cách mạng cho đảng viên trẻ, đoàn
viên ưu tú, từ đó nâng cao khả năng lý luận góp phần thực hiện việc phản bác các
luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái của các thế lực phản động. Đề cao nhận
thức và vai trò của người thủ lĩnh thanh niên trong việc định hướng và tổ chức các
nội dung hoạt động tại đơn vị.

Thứ hai, tiếp tục tăng cường hiệu quả việc sử dụng mạng xã hội, truyền thông,
có sự liên kết chặt chẽ đối với các đồng chí cán bộ Đoàn. Kịp thời triển khai tuyên
truyền các thông tin chính thống, thông tin tích cực, định hướng đấu tranh, phản
bác các quan điểm sai trái, thù địch trên các lĩnh vực, trên không gian mạng. Phát
động các phong trào thi đua tích cực trên các trang mạng xã hội nhằm định hướng
thông tin tích cực đến với đoàn viên thanh niên và giới trẻ. Tiếp tục thực hiện hiệu
quả cuộc vận động “mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”, thực hiện
phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu” góp phần nâng cao sức đề kháng cho đoàn
viên, thanh niên trong nhận diện và xử lý các vấn đề tiêu cực trên các trang mạng
xã hội và trong dư luận quần chúng.

14
Thứ ba, nâng cao chất lượng đoàn viên ưu tú giới thiệu cho Đảng xem xét kết
nạp; đồng thời định kỳ hàng quý, 6 tháng có đánh giá chất lượng, có đánh giá đảng
viên dự bị, đảng viên trẻ về ý thức, trách nhiệm và nhận thức trong quá trình rèn
luyện, học tập và công tác. Đánh giá đúng năng lực, đạo đức, tác phong của đảng
viên trẻ, đoàn viên ưu tú khi bổ nhiệm vị trí công tác và phân công nhiệm vụ.

Thứ tư, duy trì và nâng chất hiệu quả hoạt động của câu lạc bộ Lý luận trẻ, xây
dựng chuyên đề thực tiễn công tác đối với nâng cao khả năng lý luận chính trị, kỹ
năng, nghiệp vụ phản bác bằng những vụ việc cụ thể. Thể hiện vai trò, trách nhiệm
trong đề ra các giải pháp có hiệu quả thực hiện cuộc vận động “Người cộng sản
trẻ”; thể hiện tiếng nói, ý chí và hành động cụ thể trong các diễn đàn “Đảng với
thanh niên, thanh niên với Đảng”.

Thứ năm, thông qua các phong trào hành động cách mạng của Đoàn như “Tuổi
trẻ xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào “Thanh niên tình nguyện”,
phong trào “Tuổi trẻ sáng tạo”, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ
trong đề ra các hoạt động, mô hình, giải pháp để giải quyết các vấn đề mà người
dân quan tâm, đồng thời hỗ trợ giải quyết các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của
đông đảo đoàn viên, thanh niên như: vệ sinh môi trường, cải cách hành chính,
phòng chống tội phạm, truyền thông trên mạng xã hội…. để qua đó tuyên truyền
các công trình, phần việc của Đoàn, công tác vận động nhân dân, nâng cao uy tín
của từng đồng chí đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú trong việc tham gia thực hiện
nhiệm vụ kinh tế, chính trị tại địa phương.

Tiếp nối truyền thống đảng viên trẻ, đoàn viên ưu tú nói riêng, tuổi trẻ hôm nay
bằng tất cả trách nhiệm và nhiệt huyết của mình sẽ phát huy cao nhất tinh thần tiên
15
phong, tình nguyện qua những hành động cụ thể, việc làm sáng tạo đóng góp chung
vào kết quả phát triển kinh tế – xã hội của thành phố; cụ thể hóa sự quyết tâm của
tuổi trẻ bằng kết quả trong học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh, bằng các phong
trào tình nguyện thiết thực, hiệu quả góp phần cùng Đảng bộ và Chính quyền cả
nước phát triển kinh tế; xây dựng và phát triển đô thị hiện đại; chăm lo cải thiện đời
sống nhân dân, thực hiện an sinh xã hội; xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh để
luôn là người bạn đồng hành với thanh niên và tất cả vì đàn em thân yêu.

KẾT LUẬN
Có thể khẳng định, việc thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm
quyền ở Việt Nam là phù hợp với điều kiện ở nước ta nên đã đưa tới những thành
công tốt đẹp. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững chủ trương và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho việc phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội, mọi vấn đề từ
cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược đến chủ trương, chính sách cụ thể của
Đảng đều được tổ chức thảo luận rộng rãi trong Đảng và lấy ý kiến của nhân dân.
Tất cả những phương thức và giải pháp thực hành dân chủ ở Việt Nam đã đưa tới
kết quả tốt đẹp, khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là biểu tượng về dân chủ và
vấn đề cốt tử để xây dựng bảo vệ Tổ quốc chính là phải bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân

Trải qua 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn dựa vào dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, coi đó là mục tiêu và động lực của cách mạng. Đó cũng
chính là bài học quý báu để Đảng ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, để
giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Bài học đó giữ nguyên giá trị trong quá
trình lãnh đạo công cuộc đổi mới và hội nhập toàn cầu hiện nay.

16
17

You might also like