You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI (SỐ 5): Cơ hội và thách thức của cách mạng công nghiệp 4.0 đối
với các quốc gia đang phát triển.
Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay.

Giảng viên hướng dẫn : Vũ Mai Phương


Sinh viên thực hiện : Phạm Hữu Truyền
Lớp : CNTT 14-04
Mã sinh viên : 1451020247

Hà nội, ngày tháng năm 2021

1
Lời mở đầu:

Hiện nay trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang bùng nổ 1 cuộc
cách mạng mang tên 4.0. Đây được nhận dịnh vừa là thách thức vừa là cơ hội
cho các nước đang phát triển trên thế giới trong đó cả Việt Nam có thể tham
gia hội nhập thời đại công nghệ số hóa cùng các nước đã phát triển mạnh về
khoa học và kĩ thuật. Là 1 sinh viên ngành Công Nghệ Thông tin em quyết
định chọn đề tài số 5 với đề tài “Cơ hội và thách thức của cách mạng công
nghiệp 4.0 đối với các quốc gia đang phát triển. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
hiện nay”.

Tất cả những quan điểm, ý kiến, nhận xét của em sẽ được nêu ra trong các
đoạn sau đây.

2
Chương 1: khái quát về cách mạng công nghệ 4.0.

Cách mạng công nghệ 4.0 là gì? Và những thách thức, cơ hội mà nó
đem đến cho Việt nam và các nước đang phát triển.

Khái niệm “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (hay công nghiệp 4.0) lần đầu
tiên được đưa ra ở Cộng hòa liên bang Đức năm 2011 tại cuộc Hội chợ công
nghệ ở Han-nô-vơ. Năm 2012, khái niệm này được sử dụng để đặt tên cho
một chương trình hỗ trợ phát triển công nghệ cao của Chính phủ Đức. Năm
2016, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được lựa chọn làm chủ đề của Diễn
đàn Kinh tế thế giới tại Đa-vốt, Thụy Sĩ. Sau đó, khái niệm này được sử dụng
phổ biến để chỉ cuộc cách mạng công nghiệp mới, dù mới bắt đầu nhưng đã
có những bước tiến mạnh mẽ, những thành tựu to lớn, có những ảnh hưởng
sâu rộng tới mọi lĩnh vực trên toàn cầu.

Tổng hợp những kết quả nghiên cứu có thể thấy rằng: Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư được hình thành trên nền tảng những thành tựu của cách
mạng công nghiệp lần thứ ba và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công
nghệ; là sự tích hợp của nhiều loại hình công nghệ và những thành tựu mới
của nhiều lĩnh vực nghiên cứu vật lý, hóa học, sinh học, xóa nhòa ranh giới
giữa các lĩnh vực khoa học này. Trong đó, công nghệ nền tảng, đặc trưng của
cách mạng công nghiệp lần thứ tư là công nghệ số; các lĩnh vực mũi nhọn,
đặc trưng của công nghiệp 4.0 là trí tuệ nhân tạo; công nghệ thông tin, in-tơ-
nét kết nối vạn vật, điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu lớn, Blockchain; công
nghệ na-nô, công nghệ gien, công nghệ vật liệu, công nghệ in 3D trong lĩnh
vực chế tạo...

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa đến những hệ thống sản xuất với các
máy móc, thiết bị thông minh, dây chuyền sản xuất thông minh, hệ thống
quản trị thông minh; tạo ra nền công nghiệp thông minh, nền nông nghiệp
thông minh, dịch vụ thông minh, hệ thống kết cấu hạ tầng điện, giao thông,
cấp, thoát nước thông minh, các phương tiện vận tải thông minh, hệ thống
thương mại, dịch vụ thông minh, tiêu dùng thông minh. Nền kinh tế thật sự là

3
nền kinh tế tri thức - thông minh. Tri thức, thành tựu khoa học - công nghệ,
các ý tưởng đổi mới, sáng tạo trở thành động lực chính cho sự tăng trưởng,
phát triển kinh tế.

Mặc dù cách mạng công nghiệp lần thứ tư mới ở giai đoạn đầu tiên, chưa thể
hiện hết những khả năng phát triển; tuy nhiên, những đánh giá, dự báo trên
thế giới hiện nay đều cho rằng, cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ phát triển
với tốc độ nhanh hơn nhiều lần so với các cuộc cách mạng công nghiệp trước
đây, xóa nhòa ranh giới giữa khoa học và công nghệ; sẽ có những tác động
mạnh mẽ, sâu sắc, làm thay đổi căn bản từ phương thức sản xuất, kinh doanh,
tiêu dùng, đến chính trị và an ninh thế giới, tổ chức và sinh hoạt xã hội của
con người trong từng gia đình, từng quốc gia, tới toàn cầu.

Trí tuệ nhân tạo, công nghệ na-nô, công nghệ vật liệu mới sẽ tạo ra những vật
liệu mới với các thuộc tính vượt trội so với các vật liệu hiện nay, làm thay đổi
công nghệ chế tạo và nâng cao chất lượng các sản phẩm. Trí tuệ nhân tạo,
những phần mềm thiết kế theo thuật toán, kết hợp với in 3D đã tạo ra cuộc các
mạng trong thiết kế sản phẩm; có khả năng thiết kế những sản phẩm phức tạp
một cách chính xác trong thời gian ngắn. Người máy thông minh, công nghệ
in 3D làm cho việc chế tạo, lắp ráp sản phẩm được thực hiện hoàn toàn tự
động, cực kỳ chính xác, tiết kiệm tối đa nguyên liệu, hầu như không có sản
phẩm hỏng. Toàn bộ quy trình sản xuất được theo dõi, kiểm soát chặt chẽ, tất
cả các vật tư, linh kiện được cung ứng chính xác, hoàn toàn tự động nhờ hệ
thống mạng kết nối vạn vật.

Các công nghệ mới này làm thay đổi căn bản phương thức phân phối, tiêu
dùng, cách thức tổ chức làm việc của con người. Công nghệ mới cho phép có
thể cung cấp mọi hàng hóa, dịch vụ cần thiết cho những người cần đến chúng
vào đúng thời gian, địa điểm cần thiết. Thương mại điện tử sẽ dần thay thế
cho thương mại truyền thống. Quan niệm về văn phòng làm việc cũng sẽ thay
đổi. Rô-bốt gắn trí tuệ nhân tạo sẽ thay thế con người trong nhiều công việc ở
cơ quan, bệnh viện, trong gia đình, có thể phục vụ cho con người ở mọi lúc,

4
mọi nơi; thay thế con người ở những nơi độc hại, những nơi con người không
thể tới được, làm được.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa tới nền kinh tế thông minh, tất yếu
cũng sẽ đưa tới sự ra đời những ngôi nhà thông minh, quốc gia thông minh,
xã hội thông minh. Điều này tất yếu đòi hỏi phải xây dựng chính phủ thông
minh, quản trị quốc gia thông minh. Đây sẽ là bước ngoặt, bước tiến lớn trong
lịch sử phát triển của nhân loại.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đồng thời tạo ra những thách thức lớn đối
với nhiều quốc gia, nhiều đối tượng xã hội, trên nhiều lĩnh vực. Các thành tựu
khoa học - công nghệ trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm cho tài
nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông giá rẻ ngày càng mất lợi thế. Sự
chênh lệch về trình độ phát triển, khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia
trên thế giới có xu hướng mở rộng thêm. Nguy cơ thất nghiệp đối với những
lao động phổ thông, không được đào tạo làm cho sự phân hóa giàu nghèo, sự
chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp xã hội trong một nước
cũng có xu hướng ngày càng tăng, làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức
tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định xã hội.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm xuất hiện nhiều vấn đề mới, tác động
tới từng cá nhân, tới chính trị, an ninh của các quốc gia và trên quy mô toàn
cầu. Một khối lượng thông tin khổng lồ, đa dạng, đa chiều, nhiều quan điểm,
khuynh hướng tư tưởng khác nhau được đưa tới từng cá nhân ở mọi lúc, mọi
nơi. Đồng thời, bối cảnh mới cũng làm xuất hiện nhiều hình thức tội phạm
mới, sử dụng công nghệ cao để trốn, lậu thuế, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của
người khác, những hình thức trước kia chưa từng có, gây hậu quả nghiêm
trọng, nhưng khó phát hiện, kiểm soát, ngăn chặn. Những tiến bộ khoa học -
công nghệ được ứng dụng trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tạo ra
những vũ khí, khí tài, phương tiện chiến tranh mới hiện đại hơn, chính xác
hơn, sức công phá mạnh hơn, sức hủy diệt lớn hơn, nguy hiểm hơn; đưa chiến
tranh lên vũ trụ, lên không gian mạng; đánh sập, làm rối loạn mạng quản lý,
điều hành hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ, hệ thống điện, thông tin

5
của một quốc gia; chiếm quyền chỉ huy các loại vũ khí, làm tê liệt khả năng
tấn công, phòng thủ của lực lượng vũ trang của một đất nước... gây ra những
hậu quả to lớn không thể lường hết.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo cơ hội phát triển cho mọi quốc gia,
nhất là các nước đang phát triển, khi biết tận dụng và tận dụng được những
thành tựu khoa học - công nghệ mới, có thể “đi tắt, đón đầu”; đồng thời cũng
có thể làm cho các nước đang và kém phát triển sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn
nếu không tận dụng được cơ hội này. Sự cạnh tranh giữa các nước trên thế
giới gay gắt, quyết liệt hơn; tương quan sức mạnh giữa các nước, các khu vực
sẽ có những thay đổi, đảo lộn. Bởi vậy, hiện nay, các nước đều xem xét lại,
điều chỉnh chiến lược phát triển của mình. Một số nước đã xây dựng các
chiến lược phát triển mới.

Chương 2: Các thực trạng và vấn đề liên quan đến cách mạng công nghệ
4.0 hiện nay tại Việt Nam.
1. Vấn đề bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cách
mạng khoa học công nghệ.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là những người lao động đã qua đào tạo, có
bằng cấp và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Là bộ phận ưu tú nhất của nguồn
nhân lực đất nước, bao gồm những người tiêu biểu về phẩm chất chính trị,
đạo đức và lối sống; có trình độ học vấn, chuyên môn cao; có sức khỏe tốt;
luôn đi đầu trong lao động, sáng tạo khoa học, đóng góp tích cực, hiệu quả
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là những “cán bộ lãnh đạo,
quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành
nghề và cán bộ khoa học công nghệ đầu đàn”( Đảng Cộng sản Việt
Nam,2011).
Nhận rõ tầm quan trọng của lực lượng cán bộ KHCN trong công cuộc đổi mới
và phát triển đất nước, Việt Nam đã đưa ra các chủ trương và chính sách
nhằm thúc đẩy sự lớn mạnh cả về lượng và chất của đội ngũ này. Kết quả là
hiện nay, đội ngũ cán bộ KHCN nước ta đã được tăng cường về số lượng,
nâng cao về chất lượng và hoạt động năng động, sáng tạo hơn trong cơ chế
mới. Theo số liệu thống kê, số cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng trở lên

6
hiện có khoảng 1,5 triệu người, trong đó số giáo sư, phó giáo sư khoảng 2.000
người, hơn 14.000 tiến sĩ, hơn 11.000 thạc sĩ. Số cán bộ hoạt động trong lĩnh
vực KHCN hơn 34.000 người, hơn 42.000 cán bộ giảng dạy trong các trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và hàng vạn cán bộ KHCN làm
việc trong các ngành, lĩnh vực kinh tế khác.

Trong điều kiện quy mô và tiềm lực của nền kinh tế còn thấp, Việt Nam đã có
những tiến bộ đáng khích lệ so với các quốc gia có thu nhập trung bình thấp,
xét về trình độ và năng lực khoa học và công nghệ. Khoảng cách giữa Việt
Nam và các nước trong khu vực được rút ngắn đáng kể trong xếp hạng năng
lực cạnh tranh, năng lực đổi mới sáng tạo toàn cầu và ở một số lĩnh vực khoa
học và công nghệ có thế mạnh.

Tuy nhiên, so với những yêu cầu của công cuộc CNH,HĐH đất nước, nhất là
trong xu thế Việt Nam đang tiến hành hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới
đòi hỏi các cán bộ KHCN phải có trình độ trí tuệ ngang tầm với khu vực và
quốc tế, nguồn nhân lực KHCN của Việt Nam vẫn còn có nhiều điểm hạn
chế. Thứ nhất, lực lượng này còn quá nhỏ bé so với yêu cầu (mới chỉ chiếm
17,5% lao động xã hội), trong khi đó vẫn còn 2,2% trong tổng số lao động có
trình độ chưa có việc làm. Tại Hội chợ Nhân lực phần mềm Việt Nam năm
2015, có tới 63,4% công ty phần mềm khẳng định thiếu nhân lực trình độ cao.
Thứ hai, chất lượng đội ngũ cán bộ KHCN nước ta hiện nay còn nhiều bất
cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH, HĐH, nhất là yêu cầu đi tắt đón
đầu về công nghệ. Hiện nay, Việt Nam rất thiếu nguồn nhân lực KHCN ở các
ngành mũi nhọn, có tính chất quyết định như công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu mới,… Ví dụ rõ ràng nhất được thể hiện trong việc đăng ký và cấp
bằng độc quyền sáng chế rất thấp của các cán bộ KHCN Việt Nam. Thứ ba,
đội ngũ cán bộ KHCN nước ta hiện còn phân tán, thiếu tập trung với một bộ
phận không nhỏ còn chưa tận tâm với nghiên cứu khoa học. Thứ tư, cơ chế thị
trường chưa thực sự vận hành trong lĩnh vực nhân lực KHCN. Một yếu tố
quan trọng của thị trường lao động là tiền lương chưa được xác định trên cơ
sở thị trường. Cơ chế trả lương đang còn bị chi phối bởi quy định của Nhà
nước về lương tối thiểu, thang, bảng lương.

7
2. Cuộc cách mạng 4.0 và những tác động, ảnh hưởng đối với tình hình
trật tự, an toàn xã hội nói chung và tình hình tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia nói riêng.

Trong tương lai, tình trạng thất nghiệp do việc thay thế người lao động bằng
người máy sẽ diễn ra ở nhiều lĩnh vực kinh tế như dệt may, dịch vụ, giải trí, y
tế, giao thông, giáo dục… Theo báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO),
ở Việt Nam có khoảng 86% lao động trong ngành may mặc, da giày sẽ chịu
chung tác động từ làn sóng tự động hóa, công nghiệp hóa của ngành. Do đó,
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra cho Việt Nam những vấn đề
phức tạp về TTATXH, trong đó có vấn đề ninh mạng, an ninh thông tin, các
loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm xâm phạm sở hữu trí tuệ, đặc
biệt là khi các loại tội phạm này hoạt động theo phương thức có tổ chức
xuyên quốc gia.

Tội phạm sử dụng công nghệ cao được xếp vào nhóm có nguy cơ đe dọa an
ninh lớn nhất đối với các quốc gia, gây ra những tổn thất nặng nề trên phạm vi
đặc biệt rộng nếu không được kịp thời phát hiện, ngăn chặn. Theo thống kê từ
Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính Việt Nam (VNCERT), hơn 134.000 sự
cố an ninh mạng đã xảy ra trong năm 2020 (bao gồm sự cố Phishing, Malware
và Deface), tăng gấp bốn lần so với năm 2019. Trước đó, cùng nhận định với
VNCERT, trong báo cáo tình hình an ninh mạng mới đây, Tập đoàn Công
nghệ Bkav cũng ghi nhận rằng, năm 2020 vừa qua là năm bùng nổ của
Ransomware (một loại mã độc) khi mà trung bình 100 email nhận được thì
1,6 email có chứa Ransomware. Cũng theo báo cáo này, người dùng Việt
Nam đã chịu thiệt hại lên đến 10.400 tỷ đồng, tăng gần 9.000 tỷ đồng so với
mức thiệt hại năm 2020. Thông qua các diễn đàn trên mạng Internet (còn gọi
là underground hay thế giới ngầm), tội phạm sử dụng công nghệ cao thường
tìm kiếm, tập hợp, liên kết với nhau để chia sẻ công cụ, cách thức, thủ đoạn
phạm tội. Vì vậy, thủ đoạn của chúng ngày càng tinh vi, kín đáo và có sự thay
đổi phương thức liên tục nhằm lẩn tránh sự phát hiện của các cơ quan bảo vệ
pháp luật. Đặc biệt, tội phạm sử dụng công nghệ cao hoạt động có tổ chức
“luôn tìm cách tạo dựng lên vỏ bọc hợp pháp của một công ty, một doanh
nghiệp, một tổ chức” hoạt động trong lĩnh vực này để dễ dàng tạo dựng mối
quan hệ, đi sâu vào thu thập thông tin hoạt động của những doanh nghiệp làm
ăn chân chính nhằm chiếm đoạt tài sản.

Ngoài các loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, các loại tội phạm có tổ chức,
xuyên quốc gia khác cũng thường lợi dụng triệt để các thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại của cuộc cách mạng 4.0 như thành tựu về giao thông liên
lạc, công nghệ thông tin, công nghệ sao chụp, làm giả các giấy tờ chứng minh
nhân thân, nguồn gốc, thay đổi nhận dạng… để dễ dàng đi lại, tìm kiếm thông
tin, liên lạc, trao đổi với nhau về phương thức, thủ đoạn nhằm thực hiện các

8
hoạt động phạm tội hoặc trốn tránh sự truy bắt của các cơ quan luật pháp.
Trong 10 năm qua, các lực lượng chức năng của Bộ Công an đã phát hiện,
khởi tố, điều tra 1.260 vụ án có yếu tố nước ngoài. Trong tổng số 2.041 đối
tượng bị bắt giữ có 692 đối tượng là người nước ngoài. Ở Việt Nam, tội phạm
có tổ chức, xuyên quốc gia hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực, bao gồm:
Tội phạm mua bán người, tội phạm về ma túy, tội phạm sản xuất, buôn bán
tiền giả, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội phạm đánh bạc, gá bạc, tổ
chức mại dâm… Nổi lên là:

– Tội phạm sử dụng công nghệ cao: Gia tăng nhanh chóng nhất là trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng. Thủ đoạn chủ yếu của loại tội phạm này là sử dụng
các thành tựu khoa học công nghệ mới để tấn công vào trang điện tử của các
doanh nghiệp hoặc xâm nhập vào các cơ sở dữ liệu của các ngân hàng để lấy
cắp thông tin thẻ tín dụng rồi làm thẻ tín dụng giả và rút tiền tại các máy
ATM tại Việt Nam. Chúng hoạt động rất phức tạp và thường xuyên thay đổi
phương thức, thủ đoạn để đối phó với các cơ quan chức năng.

– Tội phạm mua bán người và đưa người ra nước ngoài trái phép: Đây cũng là
loại tội phạm có diễn biến phức tạp, theo chiều hướng gia tăng với nhiều thủ
đoạn mới tinh vi, xảo quyệt hơn như kết hôn giả, lợi dụng miễn thị thực nhập
cảnh (visa), sử dụng hộ chiếu giả để đưa phụ nữ và trẻ em Việt Nam ra nước
ngoài hoạt động mại dâm, bán làm vợ người nước ngoài, bóc lột sức lao
động… Một số đối tượng lợi dụng các loại máy móc, phương tiện, chương
trình phần mềm công nghệ cao để làm giả các loại giấy tờ tùy thân như hộ
chiếu, thị thực để dễ dàng qua lại các cửa khẩu.

– Tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản: Tội phạm sử dụng công nghệ cao để
lừa đảo chiếm đoạt tài sản gia tăng một cách đáng báo động trong thời gian
gần đây. Các đối tượng lừa đảo bằng hình thức tặng quà, thông báo trúng
thưởng qua facebook, zalo và các mạng xã hội khác có tài khoản hoặc địa chỉ
tại nước ngoài, cấu kết với những người trong nước để giả danh cán bộ bưu
điện, cán bộ các công ty vận chuyển hàng hóa, bưu phẩm để chiếm đoạt tiền
của người dân. Khi người bị hại tin tưởng, chúng sẽ đưa ra tình huống khác để
dụ người bị hại chuyển tiền vào tài khoản cho chúng để có thể lấy được món
quà.

– Tội phạm sản xuất, buôn bán tiền giả, hàng giả, gian lận thương mại, buôn
lậu, trốn thuế xuất nhập khẩu, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Lợi dụng các thành tựu khoa học công nghệ, tội phạm hoạt động sản xuất, vận
chuyển, tiêu thụ các loại tiền giả (tiền Việt Nam giả, ngoại tệ giả) diễn biến
phức tạp và có chiều hướng tăng. Ngoài ra, còn xuất hiện một số đối tượng
người nước ngoài sử dụng séc giả, thẻ tín dụng giả, phát hành và đưa các loại
tiền ảo như bitcoin vào phương tiện thanh toán đối với các loại hàng hóa buôn

9
lậu, để trốn thuế hoặc huy động vốn rồi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt
tài sản. Nhìn chung, các đối tượng phạm tội chủ yếu lợi dụng những “kẽ hở”
của pháp luật, những hạn chế trong công tác quản lý, kiểm soát để trốn thuế,
cùng với “những khó khăn trong quản lý và kiểm soát các dòng chu chuyển
vốn quốc tế dễ dẫn đến mất cân đối về cung – cầu tiền tệ”.

Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia lợi dụng các thành tựu khoa học công
nghệ của cuộc cách mạng 4.0 để phạm tội rất đa dạng về thành phần trong xã
hội, bao gồm cả những người có trình độ về khoa học, công nghệ trong và
ngoài nước, có cả những băng nhóm tội phạm do người Việt Nam ở nước
ngoài thực hiện rồi trốn về Việt Nam hoặc người nước ngoài đến gây án ở
Việt Nam. Nhiều đối tượng người nước ngoài vào Việt Nam thực hiện hoạt
động lừa đảo bằng thẻ tín dụng, lừa đảo thông qua việc thực hiện hợp đồng
kinh tế qua mạng Internet, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Các đối tượng
phạm tội thường tập trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam còn thiếu nhiều kinh
nghiệm trong quản lý cũng như trong đấu tranh phòng, chống tội phạm như
lĩnh vực tài chính ngân hàng, lĩnh vực đầu tư giáo dục, chứng khoán… với
những thủ đoạn hết sức tinh vi.

3. Những vấn đề đặt ra đối với hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong
cách mạng công nghiệp 4.0
Cách mạng công nghệ 4.0 là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên
những đột phá công nghệ mới. Vì thế mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có hệ thống giáo dục, đào tạo sẽ chịu tác động mạnh mẽ và toàn diện của
nó. Triết lý giáo dục của các quốc gia sẽ có nhiều biến chuyển. Quản trị
trường học, mô hình tổ chức lớp học, vai trò của thầy và trò sẽ thay đổi bởi sự
xuất hiện của nhiều khái niệm mới như phòng học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị
ảo. Bối cảnh đó đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở nước ta phải có
tầm nhìn chiến lược để chuẩn bị cho những thay đổi lớn, đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới.

CMCN 4.0 sẽ tác động đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trên các
phương diện như: mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; phương thức quản trị
nhà trường; mô hình tổ chức hoạt động dạy - học trong đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; vai trò và phương pháp giảng dạy của người thầy; nội dung chương trình
dạy học; cụ thể là:

Thứ nhất, về mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, chính là tạo ra được những người cán bộ có năng
lực làm việc trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh. Mọi sự thay đổi của
nhà trường phải nhằm đào tạo được những cán bộ, người học có được những
năng lực, kỹ năng mới như năng lực tổng kết thực tiễn; tổ chức thực hiện
nhiệm vụ, tư duy phân tích và tổng hợp; xử lý thông tin đa chiều v.v..

10
Thứ hai, CMCN 4.0 đòi hỏi phải thay đổi phương thức đào tạo, bồi dưỡng,
nhất là phương pháp đào tạo ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Tuy
nhiên, điều kiện cho sự thay đổi này ở các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
hiện nay vẫn rất hạn chế, việc đổi mới phương pháp dạy – học còn chậm; hạ
tầng CNTT lạc hậu. Hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã
ban hành và triển khai thực hiện Quy định về xây dựng trường chính trị
chuẩn, tạo cơ sở cho các trường chính trị được quan tâm đầu tư nhiều hơn về
cơ sở hạ tầng, phù hợp với xu hướng tác động của CMCN 4.0.

Thứ ba, sự thay đổi trong quản trị nhà trường... Trong tương lai không xa,
việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT, công nghệ thực tế ảo trong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ sẽ là xu hướng nổi bật. Thí dụ, học viên sẽ được giáo viên
hướng dẫn đeo kính VR để trải nghiệm một trận đánh giả lập trong bài học về
lịch sử, hay có thể nhập các thông tin quản lý của lĩnh vực mình phụ trách vào
hệ thống máy tính của nhà trường để thực hành phân tích thông tin, từ đó đề
xuất giải pháp tham mưu v.v.. Sự tác động này đòi hỏi phải thay đổi phương
thức quản trị nhà trường, qua đó trực tiếp tác động đến việc bố trí cán bộ quản
lý, phục vụ và đội ngũ giáo viên của nhà trường. Đội ngũ này cần được
chuyên nghiệp hóa và có khả năng sáng tạo cao, có phương pháp đào tạo hiện
đại với sự ứng dụng mạnh mẽ CNTT. Trong các nhà trường, sẽ có sự thay đổi
về quy mô và cơ cấu giáo viên (cả về trình độ chuyên môn và kỹ năng); các
môn học có tính hàn lâm, lý thuyết sẽ giảm dần thời lượng, thay vào đó sẽ
hình thành những môn học về phát triển năng lực, kỹ năng tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ chính trị.

Thứ tư, CMCN 4.0 đòi hỏi phải nâng cao chất lượng của đội ngũ giảng viên.
Cho dù khoa học công nghệ có phát triển hiện đại đến đâu thì cũng không thể
thay thế được hoàn toàn vai trò của người thầy giáo. Trong những năm gần
đây, đội ngũ giáo viên trong các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được
chuẩn hóa về bằng cấp chuyên môn, đa số có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ. Tuy
nhiên, kiến thức thực tiễn và năng lực nghiên cứu khoa học của một bộ phận
giảng viên còn hạn chế. Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển như
hiện nay, học viên có thể tự tìm kiếm tri thức, kỹ năng thông qua mạng
Internet. Do đó, nếu giảng viên không thường xuyên trau dồi, nâng cao trình
độ thì sự tác động này sẽ làm mất dần vai trò chủ đạo của thầy giáo. Đây
chính là áp lực không nhỏ đối với đội ngũ giảng viên trong các trường đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ.

4. Vấn đề đổi mới, hoàn thiện thể chế


Việc đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong những năm tới đòi hỏi tập trung vào tạo khung pháp luật đầy đủ,
đồng bộ cho những ngành, lĩnh vực mới, những tổ chức, phương thức sản

11
xuất, kinh doanh mới, những thị trường sản phẩm mới; đưa vào sử dụng
những loại vật liệu mới, những sản phẩm mới.

Cần phải có những cơ chế, chính sách ưu tiên, hỗ trợ, khuyến khích các nhà
đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, các sản phẩm công
nghệ cao, đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển nền
công nghiệp thông minh, nông nghiệp thông minh, dịch vụ thông minh; thúc
đẩy việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Việc đổi mới,
hoàn thiện thể chế phải thúc đẩy hình thành, phát triển hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới, sáng tạo, để tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp khởi nghiệp, chuyển những ý tưởng sáng tạo mới thành sản phẩm
cung cấp cho thị trường; thúc đẩy, hỗ trợ đổi mới doanh nghiệp nhà nước,
phát triển kinh tế tư nhân, hình thành những tập đoàn kinh tế lớn tham gia, có
vị trí vững chắc trong chuỗi giá trị toàn cầu; thu hút có chọn lọc FDI, ưu tiên
thu hút những dự án đầu tư có công nghệ cao ở những lĩnh vực mũi nhọn của
cách mạng công nghiệp lần thứ tư, liên kết, chuyển giao công nghệ cho doanh
nghiệp trong nước, tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong nước tiếp cận, tiếp thu
những thành tựu mới của khoa học - công nghệ, tham gia các chuỗi giá trị
toàn cầu.

Việc đổi mới, hoàn thiện thể chế phải tạo ra và hoàn thiện khuôn khổ pháp
luật cho việc đổi mới cơ chế quản lý phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục
- đào tạo; đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút các nguồn lực xã hội vào phát triển
khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo; thực hiện cơ chế tự chủ của các tổ
chức khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo; hoạt động của thị trường sản
phẩm khoa học - công nghệ, nhất là đối với những sản phẩm mới do cách
mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ với các sản
phẩm nghiên cứu, sáng tạo. Việc đổi mới, hoàn thiện thể chế cần phải có
những cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích, định hướng nghiên cứu,
chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào những lĩnh vực khoa
học, những công nghệ mũi nhọn, đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần
thứ tư; định hướng đào tạo vào đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất
lượng cao cho những ngành, lĩnh vực này; cần phải có cơ chế khuyến khích,
đãi ngộ thỏa đáng đối với các chuyên gia, cán bộ khoa học - công nghệ có
trình độ cao, những người có kết quả nghiên cứu, sáng tạo có giá trị cao; có
cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học - công nghệ trẻ, có
tiềm năng ở trong và ngoài nước, thu hút chuyên gia khoa học - công nghệ là
người Việt Nam ở nước ngoài về cống hiến cho đất nước...

12
Chương 3: Các giải pháp cho thực trạng và vấn đề liên quan đến cách
mạng công nghệ 4.0 hiện nay được nêu trên.

1. Giải pháp cho Vấn đề bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ cách mạng khoa học công nghệ.
Cách mạng công nghiệp 4.0 với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích
hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa và sự phát triển của trí tuệ nhân tạo...
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những lĩnh vực chịu sự tác động
mạnh mẽ và trực tiếp nhất từ cuộc cách mạng này.Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa XII nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực
chất lượng cao, tranh thủ những cơ hội và thành tựu của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ 4”(BanTuyêngiáoTrungương,2017). Đây là một chủ trương
đúng đắn, thể hiện sự nhạy bén, sáng tạo và tư duy đột phá của Đảng ta. Để
thực hiện tốt nội dung này đòi hỏi phải có một chiến lược tổng thể và lâu dài,
với hệ thống các giải pháp mang tính đồng bộ, thiết thực và khả thi. Đối với
tỉnh Việt Nam , để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, em kiến nghị
một số giải pháp sau:
- Sớm xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của tỉnh trong thời kỳ mới.
- Mạnh dạn tìm ra khâu đột phá trong đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đào tạo.
2. Giải pháp nhằm tăng cường công tác phòng, chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0
- Cần chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước những vấn đề chiến lược
nhằm hoàn thiện các cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và chủ trương, chính sách, giải pháp đồng bộ, có hiệu quả
nhằm khắc phục sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế xã hội, tránh để
các đối tượng phạm tội lợi dụng.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các ứng dụng khoa học công nghệ
trong công tác Công an, kết hợp với đầu tư kinh phí mua sắm, trang bị
các phương tiện hiện đại vào công tác phòng ngừa tội phạm, phát hiện,
thu thập các loại tài liệu, chứng cứ điện tử phục vụ công tác đấu tranh,
xử lý tội phạm.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia, đặc biệt là cần chủ động và tích cực tham gia các
khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương, các tổ chức, hiệp hội
thực thi pháp luật quốc tế như Interpol, Aseanapol, Cơ quan về phòng
chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc (UNODC)…
- ếp tục nghiên cứu phát triển, bổ sung lý luận về cuộc cách mạng 4.0,
chiến tranh mạng, tội phạm mạng và đẩy mạnh đổi mới chương trình,
nội dung đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, chiến

13
sỹ trong việc nhận thức, nắm bắt xu thế phát triển của cuộc cách mạng
4.0, trong đó nhấn mạnh việc trang bị các kiến thức, kỹ năng thực tiễn
để giúp cán bộ, chiến sỹ có khả năng làm chủ các thành tựu khoa học
công nghệ, đặc biệt là khoa học về máy tính, mạng Internet, các công
nghệ thông tin liên lạc, công nghệ sản xuất tiền giả, các loại giấy tờ giả,
công nghệ điều chế, sản xuất các loại ma túy tổng hợp, các kiến thức về
nghiệp vụ tài chính, ngân hàng
3. Giải pháp đối với hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong cách mạng
công nghiệp 4.0
- các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải được đổi mới căn bản.
Chương trình đào tạo cần thiết kế linh hoạt theo hướng định hình chuẩn
đầu ra. Đồng thời, phải thường xuyên đánh giá tổng kết sau quá trình
đào tạo, bồi dưỡng; thực hiện tốt công tác phối hợp giữa các trường đào
tạo bồi dưỡng cán bộ với các cơ quan, đơn vị sử dụng cán bộ.
- phải thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ
sư phạm, phương pháp nghiên cứu khoa học, kỹ năng mềm cho đội ngũ
giảng viên. Giảng viên phải tự nghiên cứu trau dồi tri thức, hình thành
phông kiến thức đủ rộng và sâu, không chỉ đáp ứng lĩnh vực chuyên
môn mình đảm trách mà còn có khả năng liên hệ, vận dụng cho các đối
tượng học viên có kiến thức chuyên môn khác nhau. Điều này không có
nghĩa là giảng viên “biết hết”, “cái gì cũng biết” mà chỉ là nền tảng, cơ
sở kiến thức qua đó định hướng cho học viên biết cách liên hệ, vận
dụng lý luận vào thực tiễn công tác của mình.
- tăng cường gắn kết giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học, tổng kết
thực tiễn. Cần xây dựng cơ chế hợp tác giữa các Viện nghiên cứu, Học
viện, các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong cả nước về nghiên cứu
khoa học để chia sẻ kinh nghiệm, phương pháp nghiên cứu, ứng dụng
kết quả nghiên cứu vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Kết luận:

Nói tóm lại, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến các
vấn đề của một quốc gia , hay nói một cách gần hơn đó là nó sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của chúng ta. Nó mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội
nhưng cũng vô vàn thách thức và khó khăn.
Nhưng với tâm thế đón đầu và chuẩn bị tốt của Đảng, nhà nước, em tin Việt
Nam sẽ tận dụng được những cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
mang lại, xây dựng đội ngũ phát triển đất nước ngày càng lớn mạnh về số
lượng và nâng cao về chất lượng, là lực lượng chủ lực đóng góp vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, và đưa nước ta sánh vai cùng
các cường quốc năm châu như lời Bác Hồ đã căn dặn.

14

You might also like