You are on page 1of 20

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

CƠ SỞ TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN

Môn: KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA


GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ

Mã hồ sơ : LS.DS 07
Lần : Lần 1

Ngày diễn : 20-03-2022

Tên học viên : PHAN THỊ BÉ TƯ


Lớp : LS23VL
Số báo danh : 045

Đồng Tháp, ngày 20 tháng 03 năm 2022

1
MỤC LỤC

I. TÓM TẮT VỤ ÁN
II. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TỐ TỤNG
III. YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN VÀ CHỨNG CỨ
CHỨNG MINH YÊU CẦU KHỞI KIỆN
IV. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH HỎI

V. LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN


ĐƠN BÀ NGUYỄN THỊ HẢO

VI. NHẬN XÉT

1
I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt chung sống với nhau
vào năm 1999. Có đăng ký kết hôn Ngày 26/3/1999 tại UBND xã Thượng Đạt,
huyện Nam Sách (nay là Thành phố Hải Dương), tỉnh Hải Dương. Quá trình
chung sống vợ chồng có mâu thuẫn nên chị Hảo có đơn xin ly hôn anh Nguyệt
và tranh chấp về việc nuôi con, yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung.

+ Về con chung, anh Nguyệt và chị Hảo có 02 con chung là cháu Nguyễn
Thị Nhi (sinh năm 2001) và cháu Nguyễn Đức Anh (sinh năm 2007). Chị Hảo
yêu cầu được nuôi 02 con, anh Nguyệt không đồng ý và yêu cầu chị Hảo nuôi
cháu Nguyễn Thị Nhi còn anh Nguyệt thì nuôi cháu Nguyễn Đức Anh.

+ Về tải sản, anh Nguyệt và chị Hảo có tài sản chung là:

- Quyền sử dụng đất thuộc thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2, địa
chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách nay là Thành phố Hải Dương theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H497, mang tên Nguyễn Văn Nguyệt
và Nguyễn Thị Hảo do UBND huyện Nam Sách cấp ngày 31/12/2005.

- Một căn nhà gắn liền với QSDĐ tại thửa 496, kết cấu nhà cấp 4 và công
trình phụ.

- Trong quá trình chung sống anh Nguyệt có ký hợp đồng Thuê đất của
UBND xã Thượng Đạt đối với 1965m2 đất ruộng, ao khoán có địa chỉ tại KDC
số 02 Thượng Triệt, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương .

+ Về nợ chung: Nợ ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thông số tiền
20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).

Ngày 02/01/2016 chị Hảo làm đơn khởi kiện, yêu cầu ly hôn với anh
Nguyệt. Về con chung, chị Hảo yêu cầu được nuôi hai con, không yêu cầu anh
Nguyệt cấp dưỡng. Về tài sản chung chị Hảo yêu cầu chia đôi tài sản chung là

1
quyền sử dụng đất thuộc thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2. Đối với
diện tích đất 1965m2 đất ruộng, ao khoán thuê theo đồng Thuê đất của UBND
xã Thượng Đạt chị Hảo yêu cầu chia đôi, mỗi người thuê một nửa diện tích đất
nêu trên. Về nợ chung: chị Hảo yêu cầu chia đôi nợ chung, mỗi người trả ½ số
nợ còn thiếu cho ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam là
10.000.000 đồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án đến khi Tòa án nhân dân Thành phố Hải
Dương ra quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 03/8/2017, qua các lần hòa giải
các bên đã có sự thống nhất một số vấn đề cũng như thay đổi các yêu cầu như
sau:

+ Về tình cảm: anh Nguyệt, chị Hảo thống nhất ly hôn.

+ Về con chung: Chị Hảo yêu cầu được nuôi hai cháu Nhi và Đức Anh,
không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng. Anh Nguyệt yêu cầu mỗi người nuôi một
cháu, anh Nguyệt nuôi cháu Đức Anh, chị Hảo nuôi cháu Nhi, không ai phải cấp
dưỡng.

+ Về tài sản chung:

- Chị Hảo yêu cầu chia đôi phần đất thuộc thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện
tích 216m2, yêu cầu nhận hiện vật, đồng ý nhận phần đất bên không có tài sản,
căn nhà và các công trình phụ trên đất không tranh chấp. Phần đất thuê khoán
chị Hảo và anh Nguyệt tự thỏa thuận, nếu có tranh chấp sẽ yêu cầu trong vụ án
khác.

- Anh Nguyệt: không đồng ý chia đôi phần đất thuộc thửa 496 vì anh
Nguyệt cho rằng đây là phần đất của ông Cang, bà Thoa (cha, mẹ của anh
Nguyệt) và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho anh
Nguyệt, chị Hảo để trả lại bà Thoa, ông Cang. Phần đất thuê khoán thống nhất
theo yêu cầu của chị Hảo, hai bên tự thỏa thuận.

+ Về nợ chung: số tiền gốc 20.000.000 đồng và lãi còn nợ của Ngân hàng

2
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn anh Nguyệt và chị Hảo đã trả xong, mỗi
người ½ nên ngân hàng có đơn đề nghị Tòa án không thông báo mời tham dự
phiên tòa ngày 12/7/2016.

Về phần bà Nguyễn Thị Thoa, bà cho rằng đây là phần đất của bà mua
nên không đồng ý chia cho chị Hảo, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của anh Nguyệt, chị Hảo.

II. Những vấn đề về tố tụng:


- Quan hệ tranh chấp: Ly hôn, nuôi con, chia tài sản;

- Thẩm quyền giải quyết của Tòa án

+ Thẩm quyền theo loại việc: tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy
định tại Khoản 1 Điều 28 Bô luật TTDS 2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án;

+ Thẩm quyền theo lãnh thổ: Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 39 Bộ
luật TTDS 2015 thì thẩm quyền giải quyết sơ thẩm vụ án này thuộc về Tòa án
thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương nơi bị đơn cư trú.

+ Thẩm quyền theo cấp tòa án: Căn cứ quy định tại điểm a khoản 1
Điều 35 Bộ luật TTDS 2015 thì thẩm quyền thuộc về Tòa án cấp huyện là Tòa
án nhân dân thành phố Hải Dương.

- Tranh chấp này chưa được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật;

- Điều kiện khác: tranh chấp về hôn nhân gia đình không thuộc trường hợp
bắt buộc phải thông qua hòa giải cơ sở.

- Theo như hồ sơ thể hiện ngày 02/01/2016, chị Hảo có đơn khởi kiện yêu
cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương giải quyết tranh chấp ly hôn giữa
chị và anh Nguyệt. Ngày 03/01/2016 Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương ra
thông báo số 15/TB-TA thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí đối với chị
Hảo, yêu cầu chị trong vòng 7 ngày phải nộp tạm ứng án phí theo qui định pháp
luật. Tuy nhiên, biên lai thu tiền tạm ứng án phí của chị Hảo do Chi cục Thi
3
hành án dân sự Thành phố Hải Dương xuất lại đề ngày 03/03/2017, nhưng thông
báo thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương ngày 10/01/2016
lại thông báo cho các đương sự biết vụ án đã được thụ lý ngày 06/01/2016 trước
ngày lập biên lai 14 tháng - đây là sự bất hợp lý trong hồ sơ bởi theo khoản 3,
điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án đươc thụ lý sau khi người khởi
kiện nộp cho tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí.

Do đó trong vụ án này, tôi giả sử biên lai được nộp hợp lệ trước ngày
06/01/2016 là ngày tòa án thụ lý vụ án. để hồ sơ hợp lệ.

- Tư cách các đương sự trong vụ án căn cứ Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4


Điều 68 Bộ luật TTDS 2015 tư cách đương sự được xác định như sau:

+ Nguyên đơn: Nguyễn Thị Hảo sinh năm: 1978

Địa chỉ: Thôn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương

+ Bị đơn: Nguyễn Văn Nguyệt sinh năm: 1976

Địa chỉ: Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương.

+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Ủy ban Nhân dân thành phố Hải Dương (Đại diện là ông Vũ Tiến
Phụng- chủ tịch UBND thành phố Hải Dương)

Đại diện ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày 08/6/2016:

Ông: Vũ Kim Quang – Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành
phố Hải Dương.

Bà: Hoàng Thị Thu Hà – Chuyên viên phòng Tài nguyên và Môi
trường thành phố Hải Dương.

2/ Nguyễn Thị Thoa Sinh năm: 1944

Địa chỉ: Khu dân cư số 2, Thôn Thượng Triệt, xã Thượng Đạt, thành phố
Hải Dương.

3/Nguyễn Văn Cang Sinh năm: 1944

4
Địa chỉ: Khu dân cư số 2 Thôn Thượng Triệt, xã Thượng Đạt, thành phố
Hải Dương.

Theo đơn khởi kiện ban đầu ngày 02/01/2016 chị Hảo chỉ khởi kiện anh
Nguyệt vói tư cách bị đơn, không có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và
thông báo thụ lý vụ án ngày 10/01/2016 tòa án nhân dân TP Hải Dương cũng chỉ
thụ lý yêu cầu ly hôn, tranh chấp tài sản chung, con chung của anh Nguyệt, chị
Hảo chứ không có yêu cầu gì liên quan Thoa, ông Cang và ủy ban nhân dân TP
Hải Dương. Trong quá trình giải quyết vụ án, tại các biên bản hòa giải ngày
19/5/2016, ngày 17/6/2016 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 03/8/2017
tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương xác định tư cách của bà Thoa, ông Cang,
ủy ban nhân dân Thành phố Hải Dương là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
và xem xét yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh Nguyệt, chị
Hảo nhưng trong hồ sơ vụ án không có Thông báo về việc đưa người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng là chưa đúng theo qui định pháp luật tại
khoản 3, điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Với tư cách là người bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho nguyên đơn tôi sẽ đề nghị Tòa án TP Hải Dương ra
thông báo về việc đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng
để đảm bảo về hình thức tố tụng cho chặt chẽ.

III. YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA NGUYÊN ĐƠN VÀ CHỨNG CỨ


CHỨNG MINH YÊU CẦU KHỞI KIỆN

1. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, các yêu cầu đã được thống nhất, chưa
thống nhất:

1.1 Yêu cầu khởi kiện:

- Yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn Nguyệt

- Yêu cầu được nuôi hai con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi sinh năm 2001
và cháu Nguyễn Đức Anh sinh năm 2007.

- Không yêu cầu chia tài sản trên đất.

5
- Yêu cầu chia đôi thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2, địa
chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách nay là Thành phố Hải Dương và nhận
phần diện tích không có tài sản.

1.2 Các yêu cầu đã được thông nhất và chưa thống nhất:

* Những yêu cầu đã được thống nhất:

- Thống nhất ly hôn.

- Thống nhất không yêu cầu đối với phần diện tích 1965m 2 đang thuê của
UBND xã Thượng Đạt.

- Thống nhất về nợ chung: mỗi bên đồng ý chịu 50% số nợ chung còn lại
cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Thực tế hai bên
đã trả nợ hết cho ngân hàng.

* Những yêu cầu chưa được thống nhất:

- Về tài sản chung: Chị Hảo yêu cầu chia tài sản chung thửa đất số 496, tờ
bản đồ số 01, diện tích 216m 2, địa chỉ tại xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách nay
là Thành phố Hải Dương và yêu cầu nhận diện tích đất không có tài sản. Không
yêu cầu chia tài sản trên đất và không đồng ý hủy giấy chứng nhận QSDĐ tại
thửa 496. Anh Nguyệt đồng ý chia tài sản chung trên đất, không đồng ý yêu cầu
chia thửa đất 496, tờ bản đồ số 01 vì cho rằng đây là thửa đất của ông Cang, bà
Thoa cho riêng anh Nguyệt. Anh Nguyệt yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSDĐ
đã cấp cho anh Nguyệt và chị Hảo.

- Về con chung: chị Hảo yêu cầu được nuôi hai con Nguyễn Thị Nhi sinh
năm 2001 và cháu Nguyễn Đức Anh sinh năm 2007, không yêu cầu anh Nguyệt
cấp dưỡng. Anh Nguyệt yêu cầu được nuôi bé Nguyễn Đức Anh, đồng ý cho chị
Hảo nuôi bé Nguyễn Thị Nhi, mỗi người nuôi một bé không ai cấp dưỡng con.

2. Những việc cần chứng minh cho yêu cầu:

- Về tài sản chung:

+ Chứng minh nguồn gốc đất của vợ chồng được bà Thoa vào ông Cang

6
cho trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ.

+ Chứng minh trình tự cấp đất là đúng với quy định của pháp luật.

+ Chứng minh việc vợ chồng ở trên đất và xây dựng nhà từ năm 1999
không thành viên nào trong gia đình phản đối, tranh chấp.

- Về yêu cầu nuôi hai con:

+ Chứng minh về điều kiện kinh tế nuôi con, điều kiện thời gian chăm sóc
con; hành vi bạo lực gia đình của bị đơn.

+ Chứng minh bị đơn trong thời gian vợ chồng ly thân không cho nguyên
đơn thăm con, còn có hành vi đánh đập con.

+ Chứng minh nguyện vọng được ở cùng với mẹ của cháu Nguyễn Đức
Anh;

3. Chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện:

- Giấy chứng nhận kết hôn;

- Giấy khai sinh Nguyễn Thị Nhi;

- Giấy khai sinh Nguyễn Đức Anh;

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H497 ngày 31/12/2005
mang tên anh Nguyễn Văn Nguyệt và chị Nguyễn Thị Hảo;

- Biên bản xác minh của cán bộ tư pháp 09/03/2016;

- Biên bản xác minh cán bộ địa chính ngày 09/03/2016;

- Biên bản xác minh cán bộ địa chính xã ngày 23/6/2016;

- Danh sách các hộ cá nhân xin cấp giấy chứng nhận QSDĐ;

- Bản tổng hợp danh sách các hộ gia đình được giao đất trái thẩm quyền,
thu tiền đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng năm 1991-1996. Đã được hội đồng xét
duyệt đề nghị hợp thức hóa;

- Biên bản xét duyệt nguồn gốc sử dụng đất của hộ ông Nguyệt và bà
Hảo ;

7
- Công văn ngày 10/6/2016 của thành phố Hải Dương gửi Tòa án nhân
dân TP Hải Dương (BL số 134-135).

IV. KẾ HOẠCH HỎI

1. Hỏi bị đơn Nguyễn Văn Nguyệt

- Anh Nguyệt cho HĐXX biết anh hiện làm công việc gì?

- Anh có thời gian chăm sóc, dạy dỗ cháu Anh không?

- Anh nói có thời gian dành cho cháu Anh nhưng cha, mẹ anh đều thừa
nhận anh thường xuyên nhậu nhẹt, ăn chơi thì thời gian nào dành cho cháu Anh?

- Cháu Anh có ý muốn được sống với anh hay chị Hảo?

- Tại văn bản ý kiến gửi Tòa cháu Anh nói muốn ở với mẹ anh có biết
không?

- Nếu cháu Anh và cháu Nhi hai chị em được sống chung với nhau anh có
nghĩ là tình cảm chị em của hai cháu sẽ tốt hơn không?

- Anh cho biết thửa đất số 496 là cho cha mẹ anh cho vợ chồng anh khi
nào?

- Anh và chị Hảo cất nhà trên đất năm nào? Từ khi ở có ai tranh chấp
không?

- Anh được cấp đất năm nào? Trước hau sau thời điểm đăng ký kết hôn với
chị Hảo?

- Khi anh được cấp giấy chứng nhận QSDĐ có tên chị Hảo anh có phản
đối hay khiếu nại gì không?

- Qua các lần vay tiền tại Ngân hàng, anh đều thế chấp tài sản là giấy
chứng nhận QSD đất mang tên anh và chị Hảo đúng không?

- Anh nói thửa đất được cha mẹ anh cho riêng anh, có văn bản nào thể hiện

8
việc cho riêng anh không?

2. Hỏi UBND thành phố Hải Dương (đại diện theo ủy quyền ông Vũ Kim
Quang – Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Hải Dương).

- Ông cho biết căn cứ chấp giấy chứng nhận QSDĐ cho chị Hảo và anh
Nguyệt dựa vào quy định nào?

- Trình tự cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đúng quy định pháp
luật không?

- Từ khi anh Nguyệt và chị Hảo được cấp giấy chứng nhận QSDĐ có ai
khiếu nại gì về việc cấp đất không?

3. Hỏi bà Nguyễn Thị Thoa

- Bà cho biết trong quá trình chung sống chị Hảo là người như thế nào?
Có lo lắng làm ăn, chăm sóc các con không?

- Bà cho biết bà cho anh Nguyệt và chị Hảo ở trên đất từ thời gian nào?

- Đây có phải là phần đất bà cho anh Nguyệt và chị Hảo ra riêng không?

- Khi vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt cải tạo đất, xây dựng nhà ở bà có
phản đối không?

- Vào những lần anh Nguyệt, chị Hảo vay tiền của ngân hàng, bà biết họ
thế chấp tài sản là QSD đất do họ đứng tên đúng không? Bà có khiếu nại hay ý
kiến gì không?

- Bà cho rằng phần đất này bà chỉ cho vợ chồng anh Nguyệt và chị Hảo ở
trên đất không cho hẳn, vậy có giấy tờ gì chứng minh cho riêng anh Nguyệt
không?

4. Hỏi nguyên đơn Nguyễn Thị Hảo

- Thời gian chị xác lập quan hệ hôn nhân với anh Nguyệt là khi nào?

- Được cấp giấy chứng nhận QSD đất năm nào?

- Khi xây nhà, được đứng tên QSD đất có ai phản đối hay tranh chấp

9
không?

- Cháu Đức Anh có nguyện vọng ở với ai?

V. LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN


ĐƠN BÀ NGUYỄN THỊ HẢO

Kính thưa Hội đồng xét xử!

Thưa đại diện Viện kiểm sát!

Và vị luật sư đồng nghiệp!

Tôi là luật sư Phan Thị Bé Tư, Văn phòng luật sư 23VL, Đoàn luật sư tỉnh
đồng Tháp. Tôi tham gia phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hảo trong vụ án
“Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản” được Tòa án nhân dân thành phố
Hải Dương đưa ra xét xử ngày hôm nay.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, thông qua phần hỏi công khai tại phiên
tòa ngày hôm nay, tôi nêu quan điểm về vụ án để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho
nguyên đơn như sau:

Về tố tụng: Chị Hảo khởi kiện đúng theo qui định pháp luật, Tòa án nhân
dân Thành phố Hải Dương thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền và xác định quan
hệ tranh chấp là ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung theo đúng qui định pháp
luật tại khoản 1, điều 28, khoản 1 điều 39, khoản 1 điều 35 và điều 68 Bộ luật tố
tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

10
1. Đối với những vấn đề đã được các đương sự thống nhất:

Nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất ly hôn xét thấy tình trạng hôn nhân
trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân
không đạt được và thực tế cả hai đã ly thân nhau từ năm 2014 đến nay. Do đó,
căn cứ vào khoản 1 Điều 56 luật hôn nhân gia đình 2014 đề nghị HĐXX cho
nguyên đơn và bị đơn được ly hôn.

Về nợ chung nguyên đơn và bị đơn đã thống thất thỏa thuận về phần nợ


chung và đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng xong, được sự xác nhận
của ngân hàng về việc trả nợ theo đơn đề nghị không thông báo tham gia vụ án
của ngân hàng (BL 154) nên chúng tôi không yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết.

2. Các vấn đề đương sự còn chưa thống nhất:

2.1Về con chung

Trong quá trình chung sống chị Hảo và anh Nguyệt có 02 người con
chung là cháu Nguyễn Thị Nhi sinh năm 2001 và cháu Nguyễn Đức Anh sinh
năm 2007. Hiện nay, thì cháu Nhi đang sống với chị Hảo còn cháu Đức Anh
đang sống với anh Nguyệt. Anh Nguyệt đã thống nhất đồng ý cho chị Hảo được
quyền nuôi cháu Nhi, đồng thời xét theo nguyện vọng cháu Nhi được sống với
mẹ (BL 30) nên đề nghị HĐXX chấp nhận giao cháu Nhi cho chị Hảo tiếp tục
nuôi dưỡng.

Đối với cháu Nguyễn Đức Anh tuy đang sống chung với anh Nguyệt
nhưng vẫn có mong muốn được sống cùng với mẹ theo đơn đề nghị ngày
22/01/2016 (BL 31) và biên bản lấy lời khai (BL 167-168). Tại biên bản xác
minh ngày 09/3/2016 tại UBND xã Thượng Đạt, cán bộ tư pháp của xã cho biết
anh Nguyệt là người có tính vũ phu, chỉ lo ăn chơi. Trong khoảng thời gian vợ
chồng sống ly thân anh Nguyệt không cho chị Hảo được thăm con, nếu chị Hảo
gặp con thì anh Nguyệt sẽ đánh cháu (BL 73- 74).

Về điều kiện kinh tế chị Hảo hiện đang là công nhân tại công ty Trấn An
thu nhập ổn định khoảng 6 triệu đồng/tháng và đang sống chung với mẹ chị Hảo

11
nên chị có đủ điều kiện, thời gian cũng như thuận lợi để nuôi dưỡng 02 con
chung. Đồng thời xét về việc cho cháu Đức Anh được sống cùng với mẹ và chị
(cháu Nhi) sẽ giúp cho cháu có nhiều tình thương yêu hơn, tình cảm chị em
cũng sẽ khắng khít hơn.

Như vậy, nếu như anh Nguyệt được giao quyền nuôi cháu Đức Anh thì
điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đức Anh không được đảm bảo.
Cháu Đức Anh cần được sống với mẹ và chị để đảm bảo các điều kiện để phát
triển tốt về thể chất, tinh thần.

 Do đó tôi yêu cầu HĐXX chấp nhận cho chị Hảo được tiếp tục nuôi
dưỡng cháu Nguyễn Đức Anh đến khi cháu đủ tuổi trưởng thành.

2.2 Về tài sản chung:

Thử0a đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2, địa chỉ tại xã
Thượng Đạt, huyện Nam Sách nay là Thành phố Hải Dương là tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của anh Nguyệt và chị Hảo bởi lẽ:

Thứ nhất: Nguồn gốc thửa 496 trước đây là đất thùng - vũng (đất ao).
Trong giai đoạn 1991- 1996 UBND xã Thượng Đạt có bán đất trái thẩm quyền
lấy tiền xây trụ sở UBND và Trường Mần non cho 30 hộ dân trong đó có gia
đình chị Hảo và anh Nguyệt.

Vào năm 1991 bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang có nộp
tiền mua đất là 1.500.000đ. Sau khi anh Nguyệt, chị Hảo về chung sống vợ
chồng và kết hôn vào năm 1999, bà Thoa đã cho vợ chồng chị Hảo và anh
Nguyệt phần đất và cất nhà ở. Ngày 20/10/2001 chị Hảo và anh Nguyệt làm đơn
đề nghị được cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Sau đó UBND cấp có thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận QSD cho anh Nguyệt, chị Hảo ngày 11/12/2005. Trong
suốt quá trình từ khi sinh sống trên đất (năm 1999) và được cấp đất (năm 2005)
phía bà Thoa, ông Cang, anh Nguyệt đều không có ý kiến phản đối, khiếu nại gì
về quyền sử dụng đất. ồng thời tại Công văn ngày 10/6/2016 của phòng Tài
nguyên và Môi trường Tp Hải Dương (BL 133-134) đã xác định việc cấp đất
cho chị Hảo và anh Nguyệt là đúng theo trình tự thủ tục qui định, không ai khiếu
12
nại tranh chấp và không đồng ý hủy giấy chứng nhận QSDĐ.

Thứ hai: Quá trình quản lý sử dụng liên tục, ổn định lâu dài, không phát
sinh tranh chấp. Tuy bà Thoa và ông Cang là người nộp tiền sử dụng đất, nhưng
chị Hảo và anh Nguyệt là người trực tiếp quản lý sử dụng và cải tạo phần đất
này. Trong quá trình quản lý sử dụng từ năm 1999 cũng không phát sinh tranh
chấp với bất kỳ ai kể cả gia đình bà Thoa và ông Cang. Căn cứ biên bản xác
minh ngày 23/6/2016 (BL 163-164) ông Bích cán bộ địa chính xã Thượng Đạt
xác nhận phần đất này không có tranh chấp. Vào năm 2006 em trai của anh
Nguyệt là Nguyễn Văn Chuyển có nhờ anh Nguyệt và chị Hảo đứng ra vay hộ
Chuyển số tiền 10.000.000đ và thế chấp QSDĐ tại thửa 496, lúc này gia đình đã
biết chị Hảo và anh Nguyệt được cấp giấy chứng nhận QSDĐ nhưng không ai
phản đối hay phát sinh tranh chấp.

Thứ ba: Trong thời gian sống trên thửa đất 496 chị Hảo có góp công tôn
tạo thửa đất cùng anh Nguyệt. Lúc đầu thửa đất này là đất thùng vũng sâu (đất
ao) mới chỉ được san lấp một phần để xây nhà và công trình phụ. Tại biên bản
lấy lời khai ngày 09/3/2016 (BL 71-72) ông Đỗ Văn Tạo là hàng xóm của hai vợ
chồng có thể hiện tại thời điểm năm 2002 chị Hảo và anh Nguyệt đã ở trên thửa
đất được một thời gian và khi đó diện tích thùng vũng chiếm ¾ thửa đất, ông
Tạo đã giúp phun bùn bồi đấp và đến năm 2004 có thấy hai vợ chồng tiếp tục
đắp thêm cho thửa đất này.

Và qua 3 lần vay vốn với ngân hàng, phía anh Nguyệt, chị Hảo đều sử
dụng QSD đất mang tên anh Nguyệt, chị Hảo để thế chấp cho khoản vay. Bà
Thoa, ông Cang thừa nhận cho đất cho anh Nguyệt nhưng cho rằng chỉ cho riêng
anh Nguyệt, không cho chị Hảo nhưng bà Thoa, ông Cang không có chứng cứ
chứng minh chỉ cho riêng anh Nguyệt. Đồng thời bà Thoa biết phần đất đang
tranh chấp là được cấp cho anh Nguyệt, chị Hảo nhưng bà và gia đình không
kiến khiếu nại hay tranh chấp gì cho thấy về ý chí bà Thoa, ông Cang đã thống
nhất cho chung anh Nguyệt và chị Hảo chứ không phải cho riêng như bà Thoa
trình bày.

13
Hơn nữa, căn cứ theo công văn số 146/TANDTC-PC ngày 11/07/2017 về
việc viện dẫn án lệ. Theo đó khi xét xử giải quyết những vụ việc đã có án lệ thì
HĐXX cần áp dụng án lệ vào giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, việc phân
định thửa đất số 496 có thể được dẫn chiếu theo án lệ số 03/2016/AL được
thông qua ngày 06/4/2016 quy định như sau:

“Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ
chồng người con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở,
khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia
đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên
tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho
quyền sử dụng đất.”

Căn cứ vào án lệ số 03/2016/AL thì vợ chồng chị Hảo, anh Nguyệt


được coi là được tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa 496.

Căn cứ theo khoản 1 Điều 33 Luật HNGĐ năm 2014 có quy định

“ 1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được
quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài
sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản
chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”

Theo Khoản 2, Khoản 3 Điều 59 Luật HNGĐ 2014

“2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu
tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

14
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao
động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và
nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia
được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện
vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia
phần chênh lệch.”

Từ các căn cứ trên xác định được phần đất đang tranh chấp là tài sản
chung của vợ chông anh Nguyệt, chị Hảo trong thời kỳ hôn nhân. Nên đối với
yêu cầu khởi kiện của chị Hảo yêu cầu chia đôi thửa đất 496, mỗi người ½ là có
căn cứ chấp nhận.

 Yêu cầu HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị Hảo, chia đôi phần đất
thuộc thửa 496, tờ bản đồ số 01.

3. Kết Luận

Từ các chứng cứ và phân tích nêu trên, chúng tôi đề nghị HĐXX căn cứ
vào các điều 56, 81 và điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Hảo, tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Hảo được ly hôn với anh
Nguyệt.

2. Về con chung chấp nhận cho chị Hảo được nuôi hai con chung là cháu
Nguyễn Thị Nhi sinh năm 2001 và cháu Nguyễn Đức Anh sinh năm 2007.

3. Về tài sản chung, chấp nhận yêu cầu chia đôi tài sản chung, chị Hảo
được quyền sử dụng và đăng ký phần đất diện tích 108m2 thuộc thửa 496, tờ bản
đồ số 01.

15
Trên đây là phần trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho nguyên đơn kính mong HĐXX xem xét. Xin cảm ơn!

  Luật sư Phan Thị Bé Tư

VI. PHẦN NHẬN XÉT VIỆC ĐÓNG VAI DIỄN ÁN

1. Vai Thẩm phán chủ tọa phiên tòa do học viên Nguyễn Minh Thái thực hiện:
- Không cài phông nền đúng quy định.
- Giọng nói rõ nhưng hay ờm, ờm.
- Làm đúng các thủ tục khai mạc phiên tòa
- Bỏ qua việc giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng.
- Khi hỏi không nên nói “bà vui lòng cho biết”, “cảm ơn”
- Hỏi không rõ, hỏi quá dài, không thể hiện sự uy nghiêm.
- Trong phần các đương sự hỏi tại Tòa, phải hỏi nguyên đơn, bị đơn có hỏi gì
không chứ không phải yêu cầu luật sư hỏi.
- Yêu cầu VKS ngồi là không đúng vì VK khi hỏi vẫn ngồi.
- Mời đương sự trình bày tranh luận là không đúng vì trong vụ án có luật sư tham
gia.
- Sau phần tranh luận của luật sư, thẩm phán chủ tọa quay lại hỏi các đương sự
như UBND, người làm chứng và hỏi họ có ý kiến gì trong phần tranh luận và đối đáp
gì không là không phù hợp vì từ đầu phía ủy ban không tham gia tranh luận.

2. Vai Hội thẩm nhân dân 1 do học viên Lê Văn Hoàng thực hiện
- Trang phục lịch sự, chưa cài đặt phông nền theo quy định.
- Hỏi các vấn đề cần thiết trong vụ án.

3. Vai Hội thẩm nhân dân 2 do học viên Lê Thị Xuân Hương thực hiện
- Trang phục lịch sự, cài phông nền theo quy định.
- Giọng nói rõ, hỏi những câu hỏi cần thiết, liên quan đến vụ án.

4. Vai Thư ký do học viên Phan Thị Thảo Quyên thực hiện:
- Tiếng nói rõ ràng.
- Trang phục đúng quy định.
- Phổ biến đúng nội quy phiên tòa.

5. Vai Kiểm sát viên do học viên Trần Hoàng Phú thực hiện:
- Chưa cài đặt phông nền đúng quy định, chưa tìm được trang phục VKS.
- Quan điểm kiểm sát chỉ ra được các sai sót, vi phạm tố tụng của tòa sơ thẩm.
- Có quan điểm giải quyết vụ án rõ ràng, tính luôn phần án phí phải nộp của các
đương sự.

6. Vai nguyên đơn Nguyễn Thị Hảo do học viên Lê Thị Cẩm Tú thực hiện
- Khi giới thiệu tên còn quên vai.
- Nắm được các tình tiết vụ án. Trình bày đúng nội dung vụ án.
16
-
7. Vai Luật sư nguyên đơn do học viên Nguyễn Trường Giang thực hiện
- Cài đặt phông nền, trang phục theo quy định.
- Giọng nói rõ, phong thái điềm tĩnh.
- Bài bảo vệ không trình bày quan điểm về tố tụng, không nên tranh luận theo
cách chứng minh bị đơn có lối sống không lành mạnh vì điều này dễ gây xúc phạm
cho bị đơn, sẽ khiến họ dễ nổi nóng, dễ gây ra các hành vi thiếu kiểm soát, nguy hiểm
cho luật sư.
- Phong thái tự tin.
- Phần đối đáp do các chứng cứ đã được chứng minh trên, luật sư không cần phải
lập luận lại bằng cách đưa ra câu hỏi vì sao phía gia đình bà Thoa không khiếu nại mà
nên khẳng định ý chí của gia đình bà Thoa là đã cho và mặc nhiên đã cho phía anh
Nguyệt, chị Hảo.

8. Vai bị đơn Nguyễn Văn Nguyệt do học viên Trần Hùng Duy Khánh thực hiện
- Cài phông nền đúng qui định.
- Trả lời đúng hồ sơ vụ án.

9. Vai Luật sư của bị đơn do học viên Nguyễn Tuyết Thanh thực hiện
- Cài đặt phông nền, trang phục theo quy định.
- Giọng nói rõ.
- Trình bày luận cứ có sự rõ ràng, mạch lạc.
- Phong thái tự tin.
- Trong phần tranh luận, kết luận về các yêu cầu của bị đơn đối với yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, luật sư yêu cầu chia tài sản trên đất là căn nhà và các công trình
trên đất là không đúng bởi phía nguyên đơn không có yêu cầu chia các tài sản này.
Phải yêu cầu không chấp nhận yêu cầu KK của nguyên đơn đối với việc chia tài sản
chung là thửa đất 496 vì phía bị đơn cho rằng đây không phải tài sản chung.
- Đưa ra quan điểm không tranh chấp chứ không phải cho đất dễ bị luật sư đối
kháng bẻ lại vì ý chí là cho mới không tranh chấp.
- Cả 2 luật sư tranh luận đối đáp dài dòng và lặp lại, không có gì mới.

10. Vai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thoa do học viên
Nguyễn Thị Kiều Oanh thực hiện
- Trang phục lịch sự, cài phông nền đúng qui định.
- Nắm rõ hồ sơ vụ án.
11. Vai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND TP Hải Dương do học viên
Nguyễn Thành Bắc thực hiện
- Trang phục lịch sự, cài phông nền theo qui định.
- Trả lời theo hồ sơ vụ án.
12. Vai người làm chứng Nguyễn Văn Chuyển do học viên Trần Hồng Trinh thực
hiện
- Trang phục lịch sự, cài phông nền theo qui định.
- Trả lời theo hồ sơ vụ án.

17
11. Vai công chức địa chính xã Thượng ạt do học viên Nguyễn Thị Bích Liên thực
hiện
- Trang phục lịch sự, cài phông nền theo qui định.
- Trả lời theo hồ sơ vụ án.

18

You might also like