You are on page 1of 9

Họ và tên: Vũ Minh An

Lớp: 64KTE
Mã sinh viên: 1500364
Môn học: Lịch sử Đảng Việt Nam

Câu 2:
Đại hội nêu lên những bài học quan trọng. Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải
quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh
của thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của
một Đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. 

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm,
đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi
mới. 

- Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông
nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng;
cơ cấu kinh tế huyện). 

- Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm; chương
trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu. 

- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế. 

Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất
thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước
ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ
sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và
chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa. 

Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành phần kinh tế phi xã
hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, chính sách xã hội, kế hoạch hoá dân số và giải quyết việc làm cho người lao động.
Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân
dân. Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là ra sức kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực
giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc
tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội. 

Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm
chủ, Nhà nước quản lý đã được Đại hội lần thứ VI xác định là “cơ chế chung trong quản lý toàn
bộ xã hội”. Phương thức vận động quần chúng phải được đổi mới theo khẩu hiệu: Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân
dân lao động tự quản lý nhà nước của mình. 

Báo cáo Chính trị chỉ rõ 6 nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy Nhà nước và nhiệm vụ công tác xây
dựng Đảng. 

- Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể. 

- Xây dựng chiến lược kinh tế- xã hội và cụ thể hoá chiến lược đó thành những kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội. 

- Quản lý hành chính – xã hội và hành chính kinh tế, điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội
trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà nước và trật tự xã hội, giữ
vững quốc phòng, an ninh. 

- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước, phát hiện những mất cân đối và đề ra những
biện pháp để khắc phục. 

- Thực hiện quy chế làm việc khoa học có hiệu suất cao. 

- Xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao, với đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, có
năng lực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. 

Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Đảng phải đổi
mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ
cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. 

Nâng cao chất lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn
kết nhất trí trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây
dựng Đảng. 

Để lãnh đạo sự nghiệp đổi mới Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI gồm
124 uỷ viên chính thức và 49 uỷ viên dự khuyết.

Câu 3:
1. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Trên cơ sở những thành tựu đổi mới từ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm
1991). Đây là văn kiện quan trọng mang tầm định hướng chiến lược.
1.1. Quá trình cách mạng và những đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội
Cương lĩnh đã tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, phân tích hoàn cảnh quốc tế có những
biến đổi to lớn: cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn
hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau, nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong
quá trình quốc tế hoá sâu sắc; bên cạnh đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Ở một số nước, đảng cộng sản và công nhân không còn
nắm vai trò lãnh đạo. Bối cảnh quốc tế đó, vừa tạo cơ hội; vừa có nhiều thách thức đã ảnh
hưởng đến Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng
đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thuận lợi, cơ
hội phát triển và nhiều khó khăn, thách thức, cản trở.
Kế thừa và phát triển những quan điểm của Đảng qua các kỳ đại hội, đặc biệt là Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh năm 1991 đã nêu ra một số dấu hiệu đặc trưng, cơ bản
của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội:
        - Do nhân dân lao động làm chủ.
        - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
       - Có nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
       - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
      - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
      - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân với tất cả các nước trên thế giới.
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng
nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực
lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.2. Cương lĩnh năm 1991 đã đề ra mục tiêu tổng quát và những phương hướng chủ yếu
trong thời kỳ quá độ
- Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những
cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá
phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục
tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định
vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
- Một số phương hướng phát triển:
Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát
triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và
cải thiện đời sống nhân dân.
Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, với sự đa dạng về hình thức sở hữu.
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho thế giới quan
Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất,
tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối
ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao
cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc
và các thành quả cách mạng.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ,
bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 bước đầu đã vẽ ra toàn bộ bức tranh
của xã hội tương lai, mặc dù chưa hoàn chỉnh, nhưng Đảng ta đã vạch ra những nguyên tắc,
phương hướng lớn cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quá độ là một thời kỳ
lâu dài, đầy khó khăn, gian khổ và thách thức to lớn, những quan điểm, định hướng phát triển
cần được tiếp tục hoàn thiện từ thực tiễn. Cương lĩnh sẽ không ngừng được bổ sung và hoàn
chỉnh từng bước phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Một số điểm mới của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
Từ thực tiễn có nhiều thay đổi về bối cảnh thế giới và trình độ phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tháng 01/2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011). Sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011.
2.1. Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm
- Về quá trình cách mạng Việt Nam
Cương lĩnh năm 2011 nêu khái quát những thắng lợi vĩ đại đã đạt được trong hơn 80 năm qua
(1930 – 2010), khẳng định những thắng lợi vĩ đại và những thành quả từ thắng lợi vĩ đại đó
mang lại.
- Về những bài học kinh nghiệm lớn
Cương lĩnh năm 2011 cơ bản giữ nguyên 5 bài học như Cương lĩnh năm 1991, có một số bổ
sung, phát triển:
Bổ sung vấn đề “tham nhũng” vào nội dung bài học thứ hai “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân
dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội
chủ nghĩa và của Đảng”. (Nghị quyết Trung ương 3 khoá XI đã xác định đây là một nội dung
trong ba vấn đề cấp bách hiện nay).
Bổ sung từ “quyết định” cho đúng với thực tế ở bài học thứ năm: “sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam” chứ không chỉ là
“nhân tố hàng đầu bảo đảm” như trong Cương lĩnh năm 1991.
2.2. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
- Về bối cảnh quốc tế: Đây là nội dung có nhiều điểm bổ sung, phát triển mới, do bối cảnh thế
giới đã thay đổi so với thời điểm Đảng ta ban hành Cương lĩnh năm 1991. Kế thừa những dự
báo về tình hình thế giới từ Đại hội Đảng khóa X đã được thực tế khẳng định tính đúng đắn của
các dự báo đó, Cương lĩnh năm 2011 viết gọn hơn theo hướng không đi sâu vào những vấn đề
thế giới không liên quan trực tiếp đến nước ta, nhất là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Với tinh thần đó, Cương lĩnh năm 2011đã đưa ra 6 nhận định tình hình thế giới và dự báo trong
vài thập kỷ tới:
Một, về đặc điểm, xu thế chung: Cương lĩnh năm 2011 nhận định: Cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến
sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình
thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp
tác và phát triển là xu thế lớn, nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ,
khủng bố, tranh chấp lãnh thổ biển đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế
tiếp tục diễn ra phức tạp.
Hai, nhận định, đánh giá về chủ nghĩa xã hội: Cương lĩnh năm 2011 đưa ra ba nhận định rất cơ
bản: Trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt
những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng
thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là một tổn thất lớn đối với phong trào
cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt
Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành
tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi
phục.
Các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó
khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
Ba, nhận định, đánh giá về chủ nghĩa tư bản: Cương lĩnh năm 1991 nhận định “Trước mắt, chủ
nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển kinh tế”. Thực tế 2 thập kỷ qua và dự báo tới đây chủ
nghĩa tư bản không chỉ còn tiềm năng phát triển kinh tế, mà đang phát triển và phát triển không
chỉ về kinh tế, mà còn phát triển các lĩnh vực khác, như giáo dục, đào tạo, khoa học, công
nghệ, quốc phòng, an ninh và có những điều chỉnh cả về xã hội, nhưng bản chất của chủ nghĩa
tư bản không thay đổi. Do đó, Cương lĩnh năm 2011 đã nhận định, đánh giá đúng mức hơn về
chủ nghĩa tư bản: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn
là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”. Cương lĩnh năm 2011 bổ sung nhận định “khủng
hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội
tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”.
Bốn, nhận định về các nước đang phát triển, kém phát triển: Cương lĩnh năm 2011 viết theo
hướng chặt chẽ hơn, chính xác hơn với tình hình thực tế: “Các nước đang phát triển, kém phát
triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống
mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc”.
Năm, nhận định về những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh loài người: Kế
thừa Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung hai vấn đề toàn cầu cấp bách có
liên quan đến vận mệnh loài người là “chống khủng bố” và “ứng phó với biến đổi khí hậu toàn
cầu”, thay đổi từ “bệnh tật” thành từ “dịch bệnh”.
Sáu, nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại: Cương lĩnh năm 2011
xác định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội
và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì
lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những
bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội”. (Cương lĩnh năm 1991 xác định: Loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử).
- Về mục tiêu tổng quát. Cương lĩnh năm 2011 đã nêu khái khát hơn các đặc trưng của xã hội
XHCN. Cụ thể: Bổ sung thêm 2 đặc trưng “dân chủ, công bằng” vào mục tiêu tổng quát là “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điểm mới của Cương lĩnh năm 2011 so với
văn kiện Đại hội Đảng khóa X là chuyển từ “dân chủ" lên trước từ “công bằng” trong mục tiêu
tổng quát. Bởi vì, cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ dân chủ là điều kiện, tiền đề của công bằng,
văn minh; đồng thời, để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo đúng tư
tưởng Hồ Chí Minh. 
Điều chỉnh một số cụm từ trong đặc trưng của xã hội XHCN cho đúng thực tế như “do nhân dân
làm chủ” thay thế cho “do nhân dân lao động làm chủ”; bổ sung cụm từ “quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp” thay thế cho “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”; bổ sung từ “pháp
quyền” vào sau từ “nhà nước”, thêm nội dung “do Đảng Cộng sản lãnh đạo” vào sau cụm từ
“nhà nước pháp quyền”.
Như vậy, Cương lĩnh năm 2011 đã nêu: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với các nước trên thế giới."
Tóm lại, hiện nay, khi đánh giá thành tựu 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực
hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm1991, đặc
biệt, trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, tháng 01 năm 2021 đã tiếp tục khẳng định: “đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo.”
Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cơ tư tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.

Câu 4:
Nhìn lại 44 năm, sau ngày đất nước thống nhất (1975-2019), từ thực tiễn lịch sử, nhất là trong lãnh
đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng càng thấm nhuần sâu sắc và vận
dụng sáng tạo các bài học, kinh nghiệm rút ra từ công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.Ngoài ra
dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và rất
quan trọng, đã làm biến đổi và phát triển đất nước cả về chính trị, kinh tế, xã hội, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nâng cao và khẳng định vị thế của đất nước trong
đời sống chính trị, kinh tế của thế giới.
-Trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội, kinh tế tăng trưởng tương đối
nhanh và ổn định, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời sống của nhân dân không ngừng
được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm đạt gần 7%. Tái cơ cấu nền kinh tế đạt kết
quả bước đầu. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD năm 1990 lên 2.200 USD năm
2015[3] và 2.587 USD năm 2018. Hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn: dầu khí, dệt may, da
giày, thủy hải sản, lương thực, cây công nghiệp, lắp ráp linh kiện điện tử... Giải quyết vững chắc vấn
đề lương thực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành.
Kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ thương
mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại song phương với hơn 100
nước, trong đó có 20 hiệp định thế hệ mới.
-Về văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân được cải thiện
một bước. Chú trọng xây dựng văn hóa và phát triển con người Việt Nam phát triển toàn diện. Công
tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tốt: tỷ lệ nghèo đói giảm từ
53 % năm 1993 xuống còn 6% năm 2015[4]. Đến nay, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu
Thiên niên kỷ do Liên Hợp quốc đề ra.
-Về xây dựng hệ thống chính trị, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân đã đạt được những kết quả bước đầu. Quốc hội đẩy mạnh xây
dựng luật pháp. Nền hành chính quốc gia được cải cách một bước. Quốc hội đã từng bước hoàn
thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động theo hình thức nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Bộ máy Chính phủ và chính quyền địa phương được kiện toàn một bước. Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức thành viên từng bước đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp
với tình hình mới.
 -Về đối ngoại, Việt Nam đã phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa
phương hóa, đa dạng hóa; giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia. Bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc (năm 1991), Hoa Kỳ (năm 1995); gia nhập ASEAN (năm 1995); gia nhập WTO (năm
2006); mở rộng quan hệ hợp tác với hầu hết các nước lớn như: Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và các
nước tư bản phát triển: Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý…; ký kết Hiệp ước chiến lược và Hiệp ước
toàn diện với nhiều nước trên thế giới. Từng bước giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ
biển, đảo với các nước liên quan. Đồng thời, tăng cường đàm phán, ký kết các Hiệp ước Thương
mại tự do với ASEAN, EU, Mỹ…Tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ
động hội nhập quốc tế.
-Về quốc phòng - an ninh, thành tựu cơ bản, bao trùm là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, cơ bản
giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an
ninh, quốc phòng với chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ; vô hiệu hóa hoạt động của các đối
tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, để gây
mất ổn định. Chú trọng xây dựng, phát triển tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; xây dựng
lực lượng vũ trang, đặc biệt là quân đội và công an theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại; xây dựng được thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
-Về công tác xây dựng Đảng, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, các thế
lực thù địch tấn công toàn diện vào Đảng và chế độ chính trị của đất nước, Đảng vẫn vững vàng,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từng bước nâng cao nhận thức, đổi mới tư
duy, thống nhất tư tưởng trên những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới; đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối
đúng đắn; phê phán các quan điểm sai trái đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ cực
đoan, phủ nhận thành tựu của quá khứ... Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và tầm trí tuệ
của Đảng. Đảng lãnh đạo, cầm quyền thông qua Nhà nước và hệ thống chính trị. Hệ thống tổ chức
của Đảng và Nhà nước từng bước được kiện toàn theo hướng tinh gọn, giảm bớt đầu mối trung
gian. Đến năm 2015, đội ngũ của Đảng đã lên tới 4 triệu đảng viên trong tổng số hơn 90 triệu dân.
[5] Tiến hành đổi mới công tác cán bộ trên cơ sở lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm
thước đo phẩm chất, năng lực của cán bộ; bước đầu đổi mới phương thức lãnh đạo trên cơ sở coi
trọng lãnh đạo thể chế hóa nghị quyết, lãnh đạo xây dựng luật và pháp lệnh, khắc phục tình trạng áp
đặt, bao biện, làm thay.
Từ thành tựu của công cuộc đổi mới mà nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu và mô hình của xã hội xã
hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng. Những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, con
người và chặng đường bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng được thực tiễn làm rõ
để nhận thức đúng đắn hơn.
Câu 1:
 Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Nam được hoàn toàn
giải phóng, đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong niềm vui chiến thắng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước bắt tay vào hàn
gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, từng bước xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
- Từ thời chiến chuyển sang thời bình, đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy, thay đổi nội
dung và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới. Nghị quyết Đại hội IV
và Đại hội V của Đảng đã đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh, từng bước xây dựng nước ta thành một nước xã hội
chủ nghĩa phồn vinh.
- Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, đất nước vừa trải qua nhiều năm chiến
tranh, cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính mệnh lệnh đã ăn sâu vào tiềm thức
của mọi người, việc đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với
điều kiện mới chưa được đặt ra một cách đúng mức. Hoạt động của Nhà nước và
các đoàn thể quần chúng nhiều khi chỉ mang tính hình thức.
- Do những sai lầm trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và quản lý kinh tế,
tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế
thấp, lạm phát phi mã, hiệu quả đầu tư hạn chế, đời sống Nhân dân không được cải
thiện, thậm chí nhiều mặt còn sa sút hơn... Đất nước dần lâm vào một cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
- Trước tình hình đó, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp từng bước tháo gỡ
khó khăn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV về
phương hướng phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương, tháo gỡ các
rào cản, làm cho sản xuất “bung ra”; Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 31-1-1981 của Ban
Bí thư khóa V về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao
động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp... đã tạo ra những bước đột
phá nhất định, song vẫn không làm thay đổi được đáng kể tình hình kinh tế - xã hội
đất nước.
- Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã được triệu tập. Sau
những ngày họp nội bộ (từ ngày 5 đến ngày 14-12-1986), từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, Đại
hội họp công khai. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn
Đảng, trong số đó có 925 đại biểu thuộc đảng bộ của 40 tỉnh, thành phố, đặc khu, 172 đại biểu
thuộc các đảng bộ trực thuộc Trung ương, 153 đại biểu nữ, 115 đại biểu thuộc các dân tộc
thiểu số, 50 đại biểu là anh hùng lực lượng vũ trang và anh hùng lao động, 72 đại biểu là công
nhân trực tiếp sản xuất... Đến dự Đại hội có 35 đoàn đại biểu quốc tế

You might also like