You are on page 1of 26

Câu 1: phân tích nội dung và cách giải quyết vấn đề cơ

bản của triết học trong lịch sử của triết học


I/ ĐN về vấn đề cơ bản của triết học:
- ĐN của Ăngghen: “vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là triết học hiện
đại là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất,
giữa tinh thần và giới tự nhiên”
II/ Nội dung và cách giải quyết vấn đề cơ bản
- Khi giải quyết vấn đề cơ bản, mỗi triết gia không chỉ xác định nền tảng
và điểm xuất phát của mình để giải quyết các vấn đề khác mà thông qua
đó, lập trường, thế giới quan của các học thuyết và của các triết gia
cũng được xác định.
- Vấn đề cơ bản của triết học
+ Mặt thứ nhất: giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có
sau?
+ Mặt thứ hai: con người có thể nhận thức được thế giới hay không?
- Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các
nhà triết học thành hai trường phái lớn
+ Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và
quyết định ý thức của con người được gọi là các nhà duy vật
+ Những người cho rằng ý thức tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái
có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà duy tâm
- Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
+ Chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới 3 hình thức cơ bản: chất
phác, siêu hình và biện chứng
● Chủ nghĩa duy vật chất phác: Đặc trưng của triết học thời cổ
đại, lý giải sự tồn tại của thế giới từ một số dạng vật chất
cảm tính. về cơ bản là đúng nhưng còn mang tính trực
quan, ngây thơ, chất phác.
● Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Phát triển TK XVII-XVIII.
Ảnh hưởng bởi lối tư duy cơ học khi coi thế giới như một
cỗ máy cơ học. Tuy không phản ánh đúng hiện thực trong
toàn cục nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã góp
phần không nhỏ trong việc đẩy lùi thế giới quan duy tâm và
tôn giáo
● Chủ nghĩa duy vật biện chứng: do Mác và Angghen sáng lập
vào những năm 40 TK XIX. Trình độ cao nhất, đã khắc phục
được những thiếu sót. Nó không chỉ phản ánh đúng như
chính bản thân nó tồn tại mà còn giúp những lực lượng tiến
bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.
+ Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái
● Chủ nghĩa duy tâm khách quan (Platôn, Hêghen) :thừa nhận
tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là thứ tinh thần khác
quan có trước và tồn tại độc lập với con người
● Chủ nghĩa duy tâm chủ quan:(Béccơly, Makhơ): thừa nhận
tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự
tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ
quan khẳng định mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp của
những cảm giác
Câu 2: phân tích nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất
của Lênin
1. ĐN vật chất của Lênin: “vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”
2. Nội dung cơ bản:
- Vật chất là một phạm trù triết học: Vật chất là một phạm trù triết học
để phân biệt nó với khái niệm vật chất trong các nhà khoa học cụ thể,
vật chất thông thường hàng ngày – có giới hạn có sinh ra và mất đi
còn vật chất trong triết học không tự nó sinh ra,không mất đi vô tận vô
hạn mà luôn vận động, chuyển hóa không ngừng từ dạng này sang
dạng khác.
- Vật chất là thực tại khách quan: Vật chất tồn tại khách quan trong hiện
thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con
người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu
chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.Dù
con người đã nhận thức được hay chưa, dù con người có mong muốn
hay không thì vật chất luôn tồn tại vĩnh viễn trong vũ trụ.
- Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác: Điều đó khẳng
định vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái có sau,vật chất
đóng vai trò quyết định nguồn gốc và nội dung khách quan của ý
thức. Bởi vì, thực tại khách quan (vật chất là thực tại khách quan) đưa lại
cảm giác cho con người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra
thực tại khách quan.
- Vật chất được giác quan của con người chép lại, chụp lại, phản ánh
+ Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một
cách hiện thực, được biểu hiện dưới dạng các sự vật, hiện tượng
cụ thể mà giác quan của chúng ta có thể nhận biết một cách trực
tiếp hay gián tiếp.
+ Giác quan của con người, với những năng lực vốn có, có thể chép
lại, chụp lại, phản ánh sự tồn tại của vật chất, tức là nhận thức
được vật chất. Sự chép lại, chụp lại, phản ánh của giác quan đối
với vật chất càng rõ ràng, sắc nét thì nhận thức của con người về
vật chất càng sâu sắc, toàn diện.

Câu 3: Có 3 hình thức tồn tại của vật chất:

* Vận động

- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là sự
thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất)
mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi. Ph. Ăngghen viết “Vận
động hiểu theo nghĩa chung nhất (…) bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi
quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”1.

Với tính cách “là thuộc tính cố hữu của vật chất“, theo quan điểm của triết học
Mác – Lênin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự
tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. Quan
điểm về sự tự thân vận động của vật chất đã được chứng minh bởi những thành
tựu của khoa học tự nhiên và càng ngày những phát kiến mới của khoa học tự
nhiên hiện đại càng khẳng định quan điểm đó.

Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân
chia vận động thành 5 hình thức cơ bản. Đó là:

– Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
– Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử,
các quá trình nhiệt điện, v.v.).

– Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và
phân giải các chất).

– Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường).

– Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái
kinh tế – xã hội).

- Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời.

+ Đứng im là tương đối, vì trước hết hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một
mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. Thứ
hai, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ
không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Thứ ba, đứng im
chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng,
trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định khi nó còn là
nó chưa bị phân hóa thành cái khác.

+ Đứng im là tạm thời vì vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện
tượng ổn định nào đó, còn vận động nói chung, tức là sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa sự vật và hiện tượng làm cho tất cả không ngừng biến đổi.

* Không gian, thời gian

- Trong lịch sử triết học, xung quanh các phạm trù không gian và thời gian đã có
nhiều quan điểm khác nhau. Những người theo chủ nghĩa duy tâm phủ nhận
tính khách quan của không gian và thời gian.
Trên cơ sở các thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng cho rằng:
Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng chiếm một vị trí nhất định, có một kích
thước nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan với những
khách thể khác. Các hình thức tồn tại như vậy của khách thể vật chất được gọi
là không gian.
Mặt khác, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu hiện ở mức độ lâu
dài hay mau chóng, ở sự kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động. Các
hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
- Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất, là
phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó có nghĩa là không có một dạng vật
chất nào tồn tại ở bên ngoài không gian và thời gian. Ngược lại, cũng không thể
có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất. Ph.Ăngghen viết: “Các hình
thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian
thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian“3.
# Không gian và thời gian có những tính chất cơ bản sau đây:
– Tính khách quan, nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất
tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan,
do đó không gian và thời gian là thuộc tính của nó nên cũng tồn tại khách
quan.
– Tính vĩnh cửu và vô tận, nghĩa là không gian và thời gian không có tận cùng
về một phía nào, xét cả về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước lẫn đằng sau,
cả về bên phải lẫn bên trái, cả về phía trên lẫn phía dưới.
– Không gian luôn có ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao), còn thời gian
chỉ có một chiều (từ quá khứ tới tương lai).

*Câu 4: Phân tích nguồn gốc của ý thức


a. Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh,
chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người.
Bộ óc con người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh
vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh.
Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và
điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài
thông qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện.
Hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của
bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt động của bộ óc thể hiện ở chỗ
khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn. Ý thức là chức năng
của bộ óc người, là hình ảnh tinh thần phản ánh thế giới khách quan; nhưng ý
thức không diễn ra ở đâu khác ngoài hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc
người.
Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc, thần
bí hoá hiện tượng tâm lý, ý thức. Còn chủ nghĩa duy vật tầm thường lại đồng
nhất vật chất với ý thức.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên
ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là
năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ
thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của
vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao với nhiều hình thức khác nhau.
- Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể hiện
qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
- Phản ánh sinh học trong giới hữu sinh cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng
với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật:
+ Tính kích thích: Thể hiện ở thực vật, động vật bậc thấp, đã có sự chọn lọc
trước những tác động của môi trường.
+ Tính cảm ứng: Thể hiện ở động vật bậc cao có hệ thần kinh, xuất hiện do
những tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật và cơ thể phản ứng lại. Nó
hoàn thiện hơn tính kích thích, được thực hiện trên cơ sở các quá trình thần kinh
điều khiển mối liên hệ giữa cơ thể với môi trường thông qua cơ chế phản xạ
không điều kiện.
+ Tâm lý động vật: Là hình thức cao nhất trong giới động vật gắn liền với các
quá trình hình thành các phản xạ có điều kiện, thông qua các cảm giác, tri giác,
biểu tượng ở động vật có hệ thần kinh trung ương.
- Phản ánh ý thức: Gắn liền với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người. Đó
là hình thức phản ánh mới, đặc trưng của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất
là bộ óc con người.
Như vậy, sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.

b. Nguồn gốc xã hội

Để ý thức có thể ra đời, những nguồn gốc tự nhiên là rất cần thiết nhưng chưa
đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện
ở vai trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.

- Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải phóng 2 tay. Điều
này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa quyết định đối với quá
trình chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức. Việc
chế tạo ra công cụ lao động có ý nghĩa to lớn là con người đã có ý thức về mục
đích của hoạt động biến đổi thế giới.
- Trong quá trình lao động, con người tác động vào các đối tượng hiện thực, làm
chúng bộc lộ những đặc tính và quy luật vận động của mình qua những hiện
tượng nhất định. Những hiện tượng đó tác động vào bộ óc con người gây nên
những cảm giác, tri giác, biểu tượng. Nhưng quá trình hình thành ý thức không
phải là do tác động thuần túy tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc con
người, mà chủ yếu là do hoạt động lao động chủ động của con người cải tạo thế
giới khách quan nên ý thức bao giờ cũng là ý thức của con người hoạt động xã
hội. Quá trình lao động của con người tác động vào thế giới đã làm cho ý thức
không ngừng phát triển, mở rộng hiểu biết của con người về những thuộc tính
mới của sự vật. Từ đó, năng lực tư duy trừu tượng của con người dần dần hình
thành và phát triển.

- Lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên hệ tất
yếu, khách quan. Mối liên hệ đó không ngừng được củng cố và phát triển đến
mức làm nảy sinh ở họ một nhu cầu "cần thiết phải nói với nhau một cái gì đó",
tức là phương tiện vật chất để biểu đạt sự vật và các quan hệ của chúng. Đó là
ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Theo
Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng;
không có ngôn ngữ thì con người không thể có ý thức.

Câu 5: Nguyên lý về sự phát triển. Phát triển và tăng


trưởng
I) Nguyên lý về sự phát triển

1. Khái niệm phát triển:


Dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

- Tồn tại 2 quan điểm đối lập nhau khi xem xét về sự phát triển. Quan điểm siêu
hình và quan điểm biện chứng.

ü Những người theo quan điểm siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng như là cái
sinh ra một lần rồi mãi mãi là như vậy, không có sự biến đổi từ sự vật này qua
sự vật khác, như vậy họ phủ nhận sự phát triển.

ü Những người theo quan điểm biện chứng: coi sự vận động và phát triển là một
tất yếu khách quan

2. Tính chất của sự phát triển:

ü Tính khách quan: sự phát triển mang tính khách quan bởi nguyên nhân của
sự phát triển nằm trong chính bản thân sự vật, do giải quyết những mâu thuẫn
nội tại của nó, vì vậy sự phát triển của sự vật là tự thân vận động và phát triển,
dù con người có muốn hay không thì sự vật vẫn luôn phát triển theo khuynh
hướng chung của thế giới vật chất.

ü Tính phổ biến: Phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ngay cả trong tư duy, các khái niệm cũng nằm trong sự vận động và phát triển,
trên cơ sở đó mới phản ánh đúng đắn hiện thực đang vận động và phát triển.

ü Tính đa dạng: Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của sự vật,
song mỗi sự vật lại có quá trình phát triển không giống nhau, tồn tại ở không
gian khác nhau, thời gian khác nhau dẫn tới sự phát triển khác nhau. Trong quá
trình phát triển sự vật còn chịu sự tác động của sự vật khác, những điều kiện
khác nhau, các điều kiện này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển, đôi
khi làm thay đổi chiều hướng của sự phát triển của sự vật.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

v Sự vật đều nằm trong quá trình vận động phát triển, bản chất khách quan đó
đòi hỏi chúng ta muốn phản ánh đúng hiện thực phải có quan điểm phát triển.
Điều đó có nghĩa là khi nghiên cứu sự vật phải xem xét nó trong trạng thái vận
động, biến đổi chứ không phải cố định, bất biến, vạch ra được xu hướng biến
đổi, chuyển hóa chúng.

v Quan điểm phát triển đối lập với quan điểm bảo thủ, định kiến khi tuyệt đối
hoá một nhận thức nào đó về sự vật có trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, ứng
với một giai đoạn phát triển nhất định của nó và xem xét như là nhận thức duy
nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình tiếp theo của nó. Điều đó dẫn tới sai
lầm.
v Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt sự vật ở hiện tại mà cần phải
thấy rõ khuynh hướng phát triển tương lai của chúng, phải thấy hết cả những
biến đổi thụt lùi, cũng như đi lên. Cần nhận thức tính quanh co phức tạp của
phát triển như là một hiện tượng phổ biến, thiếu quan điểm như vậy, người ta rất
dễ bi quan, dao động khi tiến trình phát triển của xã hội cũng như cá nhân có
những bước khó khăn tạm thời

II) Mối quan hệ giữa phát triển và tăng trưởng

-Về căn bản, khái niệm tăng trưởng dùng để chỉ quá trình biến đổi theo chiều
hướng tăng lên đơn thuần về lượng của sự vật; nó không phản ánh quá trình
biến đổi theo chiều hướng nâng cao về chất của sự vật. Đây là điểm khác nhau
căn bản giữa khái niệm phát triển và khái niệm tăng trưởng.

- Mặc dù có sự khác nhau nhưng giữa chúng lại có mối liên hệ tất yếu với nhau:
tăng trưởng là điều kiện của phát triển và ngược lại, phát triển lại là điều kiện
tạo ra những sự tăng trưởng mới, thường là với tốc độ và quy mô lớn hơn. Đó là
mối quan hệ có tính quy luật của sự phát triển.

Ví dụ: mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế: tăng
trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế và ngược lại, sự phát
triển kinh tế lại tạo ra điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế có thể đạt được sự
tăng trưởng bền vững và với một quy mô, tốc độ mới lớn hơn.

*Câu 6: Khái niệm, mối quan hệ biện chứng và ý nghĩa


cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả. Nêu ví dụ minh họa.

Khái niệm nguyên nhân và kết quả


– Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn một sự biến đổi nhất định.
– Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Ví dụ: Sự tác động qua lại giữa chiếc dùi và mặt trống là nguyên nhân của tiếng
trống kêu. Tiếng trống kêu là kết quả của sự tác động giữa chiếc dùi và mặt
trống.
– Cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ.
Nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết quả nhưng không sinh ra kết
quả. Nguyên cớ có liên hệ nhất định với kết quả nhưng đó là mối liên hệ bên
ngoài, không bản chất.
Ví dụ: Việc một phần tử Xéc-bi ám sát thái tử đế quốc Áo – Hung chỉ là nguyên
cớ của chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Còn nguyên nhân thực sự của cuộc
chiến tranh này là mâu thuẫn từ lâu giữa các quốc gia tham chiến.
– Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân
nhưng có tác dụng đối với việc sinh ra kết quả. Ví dụ như áp suất, nhiệt độ, chất
xúc tác…
Các điều kiện này cùng với những hiện tượng khác có mặt khi nguyên nhân gây
ra kết quả được gọi là hoàn cảnh.
II. Một số tính chất của mối liên hệ nhân quả
1. Tính khách quan
Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan của bản thân các sự vật. Nó tồn
tại ngoài ý muốn của con người, không phụ thuộc vào việc ta có nhận thức được
nó hay không.
Vì mối quan hệ nhân quả là vốn có trong bản thân sự vật nên không thể đồng
nhất nó với khả năng tiên đoán.
2. Tính phổ biến
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều được gây ra bởi
những nguyên nhân nhất định.
Không có sự vật, hiện tượng nào không có nguyên nhân của nó. Vấn cđề là
chúng ta đã phát hiện, tìm ra được nguyên nhân hay chưa.
3. Tính tất yếu
– Tính tất yếu ở đây không có nghĩa là cứ có nguyên nhân thì sẽ có kết quả. Mà
phải đặt nguyên nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
Một nguyên nhân nhất định trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định chỉ có
thể gây ra một kết quả nhất định. Đó là tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả
trong những điều kiện nhất định.
– Nếu những sự vật, hiện tượng về cơ bản là giống nhau, tác động trong những
hoàn cảnh tương đối giống nhau thì sẽ gây nên những kết quả giống nhau về cơ
bản.
Nếu các nguyên nhân và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả
do chúng gây nên càng ít khác nhau bấy nhiêu.
III. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nguyên nhân và kết quả có
mối quan hệ qua lại như sau
1. Nguyên nhân sản sinh ra kết quả.
– Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả.
Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt đầu tác động.
Tuy nhiên, không phải sự nối tiếp nào trong thời gian của các hiện tượng cũng
đều biểu hiện mối liên hệ nhân quả. Ví dụ: Ngày không phải là nguyên nhân của
đêm và ngược lại.
– Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào
hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, cùng một kết quả có thể được gây nên bởi những
nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hoặc cùng một lúc.
– Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì sẽ
gây nên ảnh hưởng cùng chiều, đẩy nhanh sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu
các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì sẽ
làm suy yếu, thậm chí triệt tiêu các tác dụng của nhau.
– Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả,
có thể phân loại nguyên nhân thành:
+ Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu.
+ Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài.
+ Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
2. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.
Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ
vai trò thụ động đối với nguyên nhân, mà sẽ có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại
đối với nguyên nhân.
Ví dụ: Nhúng một thanh sắt vừa mới nung đỏ vào chậu nước nguội, thì nhiệt độ
của nước trong chậu sẽ tăng lên. Sau đó, nước trong chậu do tăng nhiệt độ sẽ
kìm hãm tốc độ tỏa nhiệt của thanh sắt.
3. Sự thay đổi vị trí giữa nguyên nhân và kết quả
Điều này xảy ra khi ta xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối quan hệ khác
nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong
mối quan hệ khác là kết quả và ngược lại.
Một hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt
mình sẽ trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba… Và quá trình này
tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận.
Trong chuỗi đó không có khâu nào là bắt đầu hay cuối cùng.
IV. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa
nguyên nhân và kết quả
Từ việc phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù nguyên nhân và
kết quả, ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn như sau:
1. Trong nhận thức
– Vì mối liên hệ nhân quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí con
người nên chỉ có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng trong chính thế giới của
hiện tượng chứ không thể ở bên ngoài.
– Do nguyên nhân luôn có trước kết quả nên khi tìm nguyên nhân của một hiện
tượng, ta cần tìm trong những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra
trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
– Bởi dấu hiệu đặc trưng của mối liên hệ nhân quả là nguyên nhân sinh ra kết
quả, nên khi xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý dấu hiệu
đặc trưng này.
– Vì một hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra nên trong quá trình
tìm nguyên nhân của một hiện tượng, ta cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng, vạch ra
được kết quả tác động của từng mặt, từng sự kiện, từng mối liên hệ cũng như
từng tổ hợp khác nhau của chúng. Từ đó ta mới có thể xác định đúng về nguyên
nhân sinh ra hiện tượng.
– Vì một hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả, trong mối quan hệ khác
có thể là nguyên nhân, nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy, cần xem xét
nó trong những mối quan hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân cũng như trong
những quan hệ nó là kết quả.
2. Trong hoạt động thực tiễn
Vì mối liên hệ nhân quả mang tính tất yêu nên ta có thể dựa vào mối liên hệ
nhân quả để hành động thực tiễn. Khi hành động, ta cần chú ý:
– Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó, cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra
nó.
– Muốn cho hiện tượng xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều kiện
cần thiết. Vì hiện tượng này có thể do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hoặc
đồng thời nên cần tùy hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương pháp thích hợp.
– Trong hoạt động thực tiễn cần dựa trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu và
nguyên nhân bên trong. Vì chúng giữ vai trò quyết định trong sự xuất hiện, vận
động và tiêu vong của hiện tượng.
– Để đẩy nhanh hay kìm hãm, loại trừ sự biến đổi của một hiện tượng xã hội
nào đó, ta cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều, hay lệch
hoặc ngược chiều với chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.

*Câu 7: Khái niệm, mối quan hệ biện chứng Nội dung-


hình thức và ý nghĩa. Nêu ví dụ.
I. Khái niệm 
– Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên
sự vật.
Ví dụ: Nội dung của chiếc xe hơi là có 04 bánh cao su, chứa được 4-6 người, sử
dụng nhiên liệu là xăng hoặc dầu, tốc độ chạy từ 30 – 200 km/h.
– Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối
liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
Cần phân biệt giữa phạm trù “hình thức” trong triết học với hình thức bên
ngoài của sự vật. Phạm trù “hình thức” chủ yếu để chỉ hình thức bên trong của
sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội dung.
Ví dụ: Hình thức của chiếc xe hơi là các bộ phận được làm từ thép, nhựa, cao
su…, động cơ được bố trí ở phần trước của xe, có nút đề khởi động động cơ, có
ghế lái xe và ghế ngồi đệm mút…
II. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nội dung và hình thức có
mối quan hệ biện chứng như sau:
1. Nội dung và hình thức thống nhất và gắn bó khăng khít với nhau.
 – Bất kỳ sự vật nào cũng phải có đồng thời nội dung và hình thức. Không có sự
vật nào chỉ có nội dung mà không có hình thức, hoặc chỉ có hình thức mà không
có nội dung. Do vậy, nội dung và hình thức phải thống nhất với nhau thì sự vật
mới tồn tại.
– Sự vật được cấu tạo nên từ những mặt, những yếu tố… Nhưng những mặt,
những yếu tố này không tách rời nhau, mà thống nhất, gắn kết với nhau.
Như thế, những mặt, những yếu tố… vừa là chất liệu làm nên nội dung, vừa
tham gia vào các mối liên hệ tạo nên hình thức. Do đó, nội dung và hình thức
không tách rời nhau mà gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
Không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung, và cũng không có nội
dung nào lại không tồn tại trong hình thức.
– Cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều hình
thức. Ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau.
Ví dụ:
Nội dung của ngôi nhà là để ở, ở trong có nhiều đồ gia dụng. Hình thức ban đầu
của ngôi nhà là có 02 phòng ngủ, 01 phòng khách… Chủ nhà thu hẹp diện tích
phòng khách để có 03 phòng ngủ. Như vậy, hình thức ngôi là đã thay đổi.
Một thời gian sau, chủ nhà bán nhà, người khác sử dụng chính căn nhà đó làm
văn phòng. Khi đó, nội dung căn nhà đã thay đổi.
2. Nội dung quyết định hình thức.
Trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, nội dung có vai trò quyết định
đến hình thức.
Nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất; nó có khuynh hướng chủ đạo là biến
đổi. Còn hình thức là mặt tương đối bền vững; khuynh hướng chủ đạo của nó
là ổn định.
Sự biến đổi, phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi, phát triển
của nội dung. Còn hình thức cũng biến đổi, nhưng chậm hơn, ít hơn so với nội
dung.
Khi nội dung biến đổi thì hình thức buộc phải biến đổi theo cho phù hợp với nội
dung mới.
Ví dụ: Nội dung quan hệ giữa anh A và chị B là quan hệ bạn bè, khi đó hình
thức quan hệ giữa hai người không có “giấy chứng nhận”. Khi anh A và chị B
kết hôn, nội dung quan hệ đã thay đổi, thì hình thức quan hệ buộc phải thay đổi
khi hai người buộc phải có “giấy chứng nhận kết hôn”.
3. Hình thức không thụ động mà tác động trở lại nội dung.
– Tuy nội dung giữ vai trò quyết định so với hình thức nhưng điều đó không có
nghĩa là hình thức chỉ “ngoan ngoãn” đi theo nội dung. Trái lại, hình thức luôn
độc lập nhất định và tác động tích cực trở lại nội dung.
Khi phù hợp với nội dung, hình thức sẽ thúc đẩy sự phát triển của nội dung.
Ngược lại, nếu không phù hợp, hình thức sẽ kìm hãm nội dung phát triển tích
cực.
– Sự tác động qua lại giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt quá trình
phát triển của sự vật. Lúc đầu, những biến đổi trong nội dung chưa ảnh hưởng
đến hệ thống mối liên hệ tương đối bền vững của hình thức. Nhưng khi những
biến đổi đó tiếp tục diễn ra thì tới một lúc nào đó, hệ thống mối liên hệ tương
đối cứng nhắc đó trở nên chật hẹp và kìm hãm sự phát triển của nội dung. Lúc
này, hình thức không phù hợp với nội dung nữa.
Tới một lúc nào đó, nội dung và hình thức xung đột sâu sắc. Nội dung mới sẽ
phá bỏ hình thức cũ, hình thức mới sẽ hình thành. Trên cơ sở hình thức mới, nội
dung mới tiếp tục biến đổi, phát triển và chuyển sang trạng thái mới về chất.
III. Ý nghĩa phương pháp luận
1. Không tách rời nội dung và hình thức.
Do nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau nên trong hoạt động
thực tiễn, ta cần chống lại mọi khuynh hướng tách rời nội dung với hình thức. Ở
đây cần chống lại hai thái cực sai lầm:
+ Hoặc là tuyệt đối hóa hình thức, xem thường nội dung.
Ví dụ: Trong cuộc sống chỉ coi trọng vật chất xa hoa mà coi nhẹ tâm hồn con
người.
+ Hoặc là tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức.
Ví dụ: Trong cuộc sống, chỉ biết đến rèn luyện nhân cách, tâm hồn mà không
chú ý đến phương tiện vật chất tối thiểu.
2. Cần căn cứ trước hết vào nội dung để xét đoán sự vật.
Vì nội dung quyết định hình thức nên để xét đoán sự vật nào đấy, cần căn cứ
trước hết vào nội dung của nó. Và nếu muốn làm biến đổi sự vật thì cần tác
động để thay đổi trước hết nội dung của nó.
3. Phải theo dõi sát mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Vì hình thức có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của dung, nên trong
hoạt động thực tiễn cần luôn theo dõi mối quan hệ giữa hình thức và nội dung
của sự vật để có thể  kịp thời phát hiện, can thiệp vào tiến trình phát triển của sự
vật theo hướng có lợi nhất.
Nếu muốn sự vật phát triển tiếp, cần tạo điều kiện để hình thức phù hợp với nội
dung. Ngược lại, nếu thấy sự vật phát triển lên sẽ có hại, cần tìm cách để hình
thức không phù hợp với nội dung.
4. Cần sáng tạo lựa chọn các hình thức của sự vật.
– Vì cùng một nội dung, trong tình hình phát triển khác nhau, có thể có nhiều
hình thức, ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác
nhau, nên cần sử dụng một cách sáng tạo mọi loại hình thức có thể có (mới và
cũ), kể cả phải cải biến những hình thức cũ vốn có, để phục vụ hiệu quả cho
việc thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn.
Ở đất cũng cần tránh hai thái cực sai lầm:
+ Hoặc chỉ bám lấy hình thức cũ, bảo thủ, trì trệ mà không áp dụng cái mới.
+ Hoặc phủ nhận, bỏ qua hoàn toàn cái cũ trong hoàn cảnh mới. Chủ quan, nóng
vội, thay đổi hình thức một cách tùy tiện, không có căn cứ.

*Câu 8: Nội dung quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến
thay đổi về chất và ngược lại. lấy ví dụ vận dụng
I. Khái niệm lượng, chất

1. Chất: là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách
quan vốn có của sự vật , là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc
tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là của cái khác
2. Lượng: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của
sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận
động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật
II. Nội dung quy luật

1. Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
♦ Mọi sự vật hiện tượng luôn là một thể thống nhất biện chứng
giữa 2 mặt chất và lượng
♦ Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự
vận động và phát triển của sự vật. những sự thay đổi đó có quan
hệ chặt chẽ với nhau chứ không tách rời nhau
♦ Sự thay đổi về lượng có thể làm thay đổi ngay lập tức về chất
của sự vật. mặt khác, có thể trong một giới hạn nhất định,
♦ Khi lượng của sự vật được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định
gọi và độ, thì chất cũ mất đi, chất mới sẽ thay thế chất cũ
♦ Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng thời gian trong
đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi về chất
của sự vật. Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm
mà tại đó sự thay đổi về lượng đã làm thay đổi về chất của sự
vật.
♦ Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới ra
đời Chất của sự vật thay đổi đo lượng của nó thay đổi trước đó
gây ra gọi là bước nhảy.
♦ bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về
bản chất của sv do sự thay đổi về lượng của sv đó gây nên
♦ VD: nước <0 là rắn, (0,100)-lỏng và >100 là khí
♦ VD (0,100) là độ; 0,100 là điểm nút và từ rắn sang lỏng là bước
nhảy
2. Những thay đổi về chất dẫn đến thay đổi về lượng
♦ Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật
bằng cách thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự
vận động và phát triển.VD: khi nước ở trạng thái lỏng sang hơi
thì vận tốc của các phần tử nước từ nước tăng hơn, thể tích lớn
hơn,,,
� Mối liên hệ giữa lượng và chất, cụ thể hơn là quá trình thay đổi dần
dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là mỗi qua
hệ căn bản, phổ biến quy định sự tồn tại, phát triển của sự vật và nó
vạch ra cách thức chung tất yếu của mọi quá trình phát triển
III. Ví dụ vận dụng

Quy luật lượng chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật. Nó chỉ là cách thức chung nhất của sự phát triển trong
tự nhiên, xã hội và tư duy. Đảng , nhà nước và nhân dân đã nhận thức
đúng đắn con đường đi lên xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí
Minh , đồng thời vận dụng những quan niệm cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mác lê-Nin.

Việt Nam từ một nước nghèo khổ , lạc hậu , từ một nước thuộc dân
nửa phong kiến đã vươn lên thành một nước độc lập, tự do phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi và vị thế
ngày càng được củng cố trong khu vực và thế giới.

Trước cách mạng tháng 8 1945, nước ta là nước thuộc địa nửa phong
kiến với sự thống trị của thực dân Pháp. Dân nghèo đói cơ cực, kinh tế
Việt Nam chìm đắm trong sự lạc hậu và bị chi phối bởi nông nghiệp,
công nghiệp của thực dân Pháp. Sau cách mạng tháng 8, khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mặc dù vẫn gặp rất nhiều khó khăn
nhưng vẫn có sự khởi sắc rõ rệt nên  sản xuất nông nghiệp so với trước
1945. Đặc biệt từ những ngày đầu chập chững khai sinh ra một chính
phủ đến nay, Việt Nam thực sự đã phát triển rất mạnh mẽ, cơ sở hạ
tầng tốt , nhân dân ấm no hạnh phúc, có nhiều sự hợp tác tốt đẹp với
các đất nước khác. Mặc dù vẫn là một nước đang phát triển, so sánh
với các nước lớn thì kinh tế Việt Nam vẫn nghèo, nhưng trong tương
lai và tại thời điểm giờ Việt Nam vẫn sẽ luôn cố gắng và có những chủ
trương đúng đắn để kinh tế phát triển lớn mạnh, vươn xa để sánh vai
với cường quốc năm châu.

Câu 9. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mỗi quan
hệ giữa chúng, vận dụng mối quan hệ trong sự đổi mới của
nước ta hiện nay
Trả lời

I. Khái niệm

1. Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất kỹ thuật của hình thái kinh
tế xã hội; là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong
quá trình sản xuất vật chất, thể hiện năng lực thực tế chinh phục
giới tự nhiên bằng sức mạnh con người trong quá trình đó. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất quy định sự hình thành, tồn tại và
chuyển hóa giữa các hình thái kinh tế-xã hội, từ hình thái thấp, ít
tiến bộ lên hình thái cao, tiến bộ hơn
2. Quan hệ sản xuất: thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất (sản xuất và sản xuất xã hội); là quan hệ cơ bản
quy định mọi quan hệ xã hội khác; phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất
II. Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX

1. Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất
♦ Trong LLSX, công cụ lao động là yếu tố thay đổi đổi nhanh
nhất. sự thay đổi của công cụ lao động sẽ làm thay đổi tư liệu
lao động, tự liệu sản xuất, thay đổi lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất
VD: thời phong kiến, lao động chủ yếu bằng chân tay, sức người ( chủ
yếu là nông dân)-> cuộc sống khó khăn, kinh tế đói kémNhưng
ngày nay máy móc là công cụ chính thay thế cho sức người->
năng suất lao động cải thiện-> cuộc sống con người tốt hơn->
kinh tế phát triển
♦ Sự thay đổi của LLSX và QHSX sẽ dẫn đến sự thay đổi của
phương thức sản xuất, của các chế độ xã hội
♦ LLSX được coi là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn
QHSX là hình thức xã hội của quá trình đó
2. QHSX tác động trở lại LLSX
♦ QHSX quy định mục đích của nền sản xuất xã hội, tác động đến
thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức,
phân công lao động xã hội, đến sự phát triển và ứng dụng
KHKT… và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản
xuất
♦ QHSX phù hợp với LLSX sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển
♦ Quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất
phát triển. quan hệ sản xuất lạc hậu, thiếu đồng bộ, không tạo
địa bàn cho sự kết hợp tối ưu giữa người lao động với tư liệu
sản xuất
� Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
III. Vận dụng

♦ Nước ta chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, từ 1 nước công nghiệp lạc hậu với lực lượng sản xuất
đậm chất nông nghiệp với quan hệ làm chung, chia đều nên gặp
phải khó khăn lớn trong những năm trước 1986; sau năm 1986
lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, quan hệ sản xuất cũng
đa dạng hơn nên sau hơn 15 năm, nước ta đã từ một nước công
nghiệp lạc hậu chuyển lên thành một nước công hóa. Có thể nói,
công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn và
phức tạp, được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hóa
và luôn gắn với quá trình hiện đại hóa. Hơn thế nữa, sự công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải lấy sự phát triển giáo dục-đào tạo,
khoa học công nghệ làm động lực , nền tảng nhằm mục đích bồi
dưỡng nhân tài, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về nguồn nhân lực của
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện
mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh”

Câu 10. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Mối quan hệ biện
chứng của chúng. Vận dụng vào thực tiễn.
I. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội

1. Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội
bao gồm
● Điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý : các điều kiện khí hậu, đất đai,
sông hồ.. -> đặc điểm riêng của không gian sinh tồn của cộng đồng xã
hội
VD : Việt Nam có điều kiện tự nhiên nhiệt đới gió mùa, nhiều sông ngòi..->
hình thành nên nền văn minh lúa nước -> tiêu biểu trong nền kinh tế
của Việt Nam
● Điều kiện dân số : cách thức tổ chức dân cư, mô hình tổ chức dân
cư…
● Phương thức sản xuất ra của cải vật chất
� Nhân tố quyết định đối với tồn tại xã hội
VD: phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước -> nhân tố cơ bản trong
nền nông nghiệp Việt Nam -> góp phần vào sự phát triển kinh tế
đất nước -> nhân dân ấm no hạnh phúc, đất nước hòa bình
2. Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những
tư tưởng, quan điểm, lý luận, tình cảm, tập quán… -> phản ánh tồn tại
xã hội trong những giai đoạn lịch khác nhau của lịch sử
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý và hệ tư tưởng. Đó là 2 trình độ, 2 phương
thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội. Nó có chung một nguồn
gốc là phản ánh tồn tại xã hội và giữa chúng có quan hệ tác động lẫn
nhau.
II. Mối quan hệ biện chứng tồn tại xã hội và quan hệ xã hội

1. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội
♦ Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ 2. Tồn tại
xã hội quy định nội dung, bản chất, xu hướng vận động của ý
thức xã hội; ý thức xã hội phản ánh cái logic khách quan của tồn
tại xã hội. Tồn tại xã hội là cơ sở điều kiện hình thành ý thức
xã hội)
VD: người Việt tận dụng ưu thế điều kiện tự nhiên nóng ẩm mưa
nhiều, nhiều ao hồ , sông ngòi 🡺 hình thành ý thức trông lúa
nước phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
VD; phú quý sinh lễ nghĩa, đói nghèo sinh ra cướp bóc
♦ Tồn tại xã hội quyết định sự vận động biến đổi của ý thức xã
hội : tồn tại xã hội không ngừng vận động và phát triển, nên nội
dung phản ánh tồn tại ấy là ý thức xã hội cũng không ngừng vận
động và biến đổi theo
VD: tư tưởng trọng nam khinh nữ ( do thời xã hội cũ chỉ có nam giới
sản xuất ra của cải-> được tôn trọng; nhưng ngày nay do sự phát
triển của khoa học kĩ thuật, sản xuất vật chất có máy móc -> có
sự bình đẳng, đa phần không còn hủ tục trọng nam khinh nữ
♦ Tồn tại xã hội là nguồn ngốc để giải thích về sự phát triển của
đời sống xã hội
VD: nguồn gốc hình thành tôn giáo là do yếu tố : sự bất lực của con
người với tự nhiên, sự sợ hãi bế tắc về cách giải quyết các vấn
đề trong cuộc sống
2. Tính độc lập tương đối và sự tác động ngược trở lại của ý thức
♦ Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do không
phản ánh kịp những thay đổi của tồn tại xã hội , do sức ì của
thói quen, phong tục tập quán.
VD: lễ nghi hủ tục bắt vợ
VD: khi dịch bệnh COVID 19 bùng phát, con người mới bắt đầu tìm
vac-xin
♦ Ý thức có thể vượt trước tồn tại xã hội do tính năng động của ý
thức, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng đặc biệt là
những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát
triển của tồn tại xã hội VD: dự báo thời tiết
♦ Ý thức có tính kế thừa: lý luận của mỗi thời đại được tạo ra trên
cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của thời đại trước

III. Vận dụng trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam

Trong giai đoạn đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư tưởng
cũ vẫn còn, mặt tích cực và mặt tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong
Đảng và trong nhân dân vẫn đan xen nhau. Tích cực là sự năng động
sáng tạo của các tầng lớp nhân dân trên các lĩnh vực xã hội , được phát
huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lòng yêu nước, tự hào và
tự tôn dân tộc. Tuy nhiên, sự suy thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị
và đạo đức trong một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, quan
liêu tham nhũng làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của nhà nước.
Những mặt tiêu cực này có nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến sự mất còn
của Đảng, của chế độ. Từ tình hình đó , Đảng ta chủ trương toàn Đảng
phải nghiêm túc học theo chủ nghĩa mác lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng thời bên cạnh đó phải kế thừa những văn minh tiến bộ các công
nghệ khoa học của nhân loại. Để từ đó làm tăng trưởng kinh tế, dẫn
đến tăng hiệu quả kinh tế, mà hiệu quả kinh tế gắn với hiệu quả xã hội,
tiến bộ xã hội,nâng cao mức sống, ấm no hạnh phúc. Tóm lại, vận
dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
Đảng đã xác định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với
công bằng xã hội và phát triển mạnh mẽ bản sắc văn hóa, đó là điều
kiện đảm bảo sự thành công và bền vững cho tiến trình đi lên xã hội
chủ nghĩa của chúng ta.

Câu 11. Phân tích quan điểm của Mác “ sự phát triển của
các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên”. Đảng đã vận dụng luận điểm này vào thực tiễn của
Việt Nam như thế nào?
I. Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội

Hình thái kinh tế- xã hội dùng để chỉ xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất
định được đặc trưng bởi một kiểu quan hệ xã sản xuất, phù hợp với
một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến
trúc thượng tầng tương đương được xây dựng trên những quan hệ sản
xuất ấy
II. Sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên

1. Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ
quan của con người mà tuân theo các quy luật khách quan: quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. suy
cho cùng nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển đều có
nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng
sản xuất
2. Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội, tức quá trình
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội ở trình độ cao
hơn trong lịch sử nhân loại. quá trình thay thế tuần tự của các hình
thái kinh tế-xã hội từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn
3. Quá trình lịch sử-tự nhiên , không những diễn ra bằng con đường
phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự rút ngắn, bỏ qua một vài
một vài hình thái kinh tế-xã hội trong những điều kiện nhất định
VD: Việt Nam bỏ qua giai đoạn tư nghĩa lên luôn giai đoạn xã hội chủ
nghĩa
� Lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng
người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu của quy luật sản xuất,
vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân tố khác nhau. Từ đó
thấy được sự đa dạng trong tính thống nhất của nó
III. Đảng ta đã vận dụng luận điểm này vào thực tiễn của Việt Nam

Một số nước đi sau trong những điều kiện nhất định , có thể rút ngắn tiến
trình lịch sử mà không phải lặp lại các tuần tự các quá trình mà nhân
loại đã trải qua. Như vậy, bỏ qua là xu hướng tất yếu, tự nhiên hợp
quy luật, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người thì
cũng là một quá trình lịch sử-tự nhiên. Thực chất bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam là “ bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa; nhưng tiếp thu
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học kỹ thuật, công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hiện đại. Như vậy, việc
Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự vận dụng triệt để quá
trình lịch sử tự nhiên, hợp với quy luật phát triển khách quan của nhân
loại. chính bước nhảy này giúp VN ngày càng hoàn thiện, và phát triển
đất nước, sánh vai với thế giới.

Câu 12. Nguồn gốc của giai cấp theo quan niệm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử
I. Khái niệm

Giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị
của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử. khác
nhau về quan hệ của họ ( thương thì những quan hệ này được pháp luật
quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ
chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và
về phần của cải xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng.
Giai cấp phân chia bởi sự khác biệt về kinh tế, còn tầng lớp là phân nhóm
các nhóm người khác nhau ( giai cấp # tầng lớp)
II. Nguồn gốc xuất hiện của giai cấp.

● LLSX phát triển -> năng suất lao động cao -> xuất hiện chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất ( nguyên nhân trực tiếp)-> mâu thuẫn giữa
các tập đoàn người -> xã hội có giai cấp
● Có sự xuất hiện của giai cấp vì do vấn đề kinh tế. xã hội con người
hình thành từ yếu tố vật chất -> giai cấp ra đời
● Nguyên nhân sâu xa là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao.VD: trình độ sản xuất chưa
phát triển để tạo ra sự dồi dào dư thừa của cải đáp ứng với tất cả
mọi người -> vẫn còn tư tưởng chiếm hữu . nếu đến thời điểm nào
đó nếu của cải, sản phẩm đủ cho tất cả mọi người thì giai cấp tự
giác mất đi, không phân biệt tầng lớp, xóa nhòa tầng lớp, không
còn ai phải lo ăn lo mặc, lo ở.
● Con đường hình thành giai cấp còn do các nhân tố bạo lực. do của
cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị
giết như trước nữa. thay vào đó họ bị sử dụng làm nô lệ cho những
người giàu địa vị trong xã hội. chế độ có giai cấp hình thành từ đó.
● Nguồn gốc của giai cấp và đấu tranh giai cấp khác nhau
+ nguồn gốc giai cấp là do sự phân hóa giàu nghèo, phân hóa lợi ích kinh
tế
+ đấu tranh giai cấp là do lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lỗi thời.

Câu 13. Tại sao nói đấu tranh giai cấp là động lực phát
triển của xã hội có giai cấp
I. Khái niệm

Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp
bức và lao động chống bọn có đặc quyền , đặc lợi, bọn áp bức và bọn
ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản

II. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp

● Đấu tranh giai cấp là một trong những phương thức động lực của
sự tiến bộ , phát triển xã hội trong điều kiện xã hội có sự phân hóa
thành đối kháng giai cấp
● Trong xã hội có giai cấp, cuộc đấu tranh giai cấp không những góp
phần xóa bỏ giai cấp thống trị lỗ thời, phản động mà còn cải tạo
bản thân giai cấp cách mạng
● Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản là cuộc
đấu tranh khác hẳn về chất so với cuộc đấu tranh giai cấp trước đó
vì mục đích của nó là thay đổi căn bản sở hữu tư nhân thành sở hữu
xã hội
VD: cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam : là cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức giữa một bên
là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng đi theo con đường
giữ vững độc lập dân tộc, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản VN
với một bên là các thế lực chống phá nhà nước
Mục đích của cuộc đấu tranh này là
♦ Tăng cường xây dựng đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo của đảng và nhà nước. chống quan liêu tham
nhũng
♦ Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy đại đoàn kết
dân tộc
♦ Đẩy mạnh toàn diện cuộc sống đổi mới, đời sống nhân dân hạnh
phúc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ dân tộc

You might also like