Professional Documents
Culture Documents
Hồi 24 Phong Thần Diễn Nghĩa
Hồi 24 Phong Thần Diễn Nghĩa
Võ Kiết nói:
Võ Kiết nói:
- Lão gia quả thật thánh thần, có con mắt nhìn thấu đáo.
Tử Nha hỏi:
- Chẳng giấu gì lão gia, hôm đó tôi xuống Tây Kỳ bán củi, gặp lúc quân lính dọn
đường cho xa giá vua đi, tôi lính quýnh quay gánh củi, rủi trúng nhằm một tên lính
chết tươi. Vua bắt tôi đền mạng, tôi than khóc vì còn chút mẹ già không ai nuôi
dưỡng. Lúc ấy có quan Ðại Phu là Nghi Sanh thấy thương tình tâu với vua cho tôi
trở về lo tiền bạc, gạo thóc để dành cho mẹ tôi sinh sống rồi sẽ đến nạp mình. Tôi
thiết tưởng mẹ tôi đã già, không làm gì được chỉ nhờ tôi nuôi dưỡng, nếu tôi chết
đi, mẹ tôi cũng chẳng sống được bao lâu nữa, lòng tôi đau xót quá. Xin lão gia ra
ân cứu mạng tôi với, ơn ấy mẹ con tôi ngàn thuở không quên.
Tử Nha nói:
- Người có số mạng. Ngươi làm chết người phải đền tội. Ta làm sao cải số trời
cho được?
- Lão gia đã có lòng nhân xin tìm cách cứu mẹ con tôi trong cơn tai nạn, dẫu đến
đầu bạc răng long tôi vẫn không quên được.
Tử Nha thấy Võ Kiết lắm lời năn nỉ, lại thương người có hiếu nên bảo:
- Nếu muốn ta cứu mạng, ngươi phải gọi ta bằng sư phụ mới được.
Võ Kiết mừng rỡ lật đật sụp lạy thưa:
Tử Nha nói:
- Ngươi đã dốc lòng làm đệ tử tất nhiên ta phải ra sức cứu ngươi. Vậy ngươi về
nhà đào một cái hầm dưới gầm giường, bề sâu bốn thước, tối đến ngươi nằm
dưới hầm ấy ngủ, dặn bà lão thắp một ngọn đèn chong dưới chân, một ngọn chong
trên đầu, hốt ba nắm gạo trắng rắc lên mình, ủ một mớ cỏ xanh trên miệng huyệt.
Ta ở nơi đây sẽ làm phép để ngươi nằm dưới huyệt mà ngủ. Sáng ngày ngươi
leo lên, cứ việc vác rìu vào núi đốn củi như thường, và ngươi sẽ bình yên vô sự,
không cần phải nạp mạng.
Võ Kiết thuật lại cách dạy bảo của Tử Nha rồi lo đi cắt cỏ thấp đèn, đào huyệt.
Còn Tử Nha đêm ấy cũng thức đợi đến canh ba, xõa tóc cầm gươm đốt bùa niệm
chú, làm phép ếm đối xong xuôi.
Tử Nha nói:
- Việc ấy như vậy là xong, không còn lo sợ gì nữa. Nay ngươi đã làm đệ tử thì
phải nghe lời ta, cứ buổi sáng vào núi đốn củi kiếm ăn, còn buổi chiều phải đến
đây tập luyện võ nghệ để chờ ngày giúp nước. Vì nay Trụ Vương lỗi đạo, bốn Trấn
chư hầu đều nổi lên diệt bạo cứu nguy.
Võ Kiết hỏi:
Tử Nha nói:
- Ðông Bá Hầu Khương Văn Hoán cầm đầu hai trăm trấn chư hầu đánh ải Du Hồn,
Nam Bá Hầu Ngạt Thuận cầm đầu hai trăm trấn chư hầu đánh ải Tam Sơn. Ta
xem thiên văn thấy chẳng bao lâu nữa thiên hạ sẽ loạn. Vậy thì ngươi cũng nên
tập luyện võ nghệ cho thông, đặng mai sau kiếm cơ lập nghiệp, nếu cứ đốn củi
mãi thì già đời cũng chỉ làm một gã tiều phu mà thôi.
Võ Kiết theo lời Tử Nha dạy bảo, buổi mai vào núi đốn củi, buổi chiều đến Bàn
Khê học nghệ.
Bấy giờ Táng Nghi Sanh tính lại đã nửa năm rồi mà không thấy Võ Kiết đến nạp
mình. liền vào tâu với Văn Vương:
- Tôi thấy Võ Kiết còn mẹ già nên tâu xin cho nó về lo việc cấp duỡng một thời
gian. Nay đã nửa năm, đúng hẹn mà không thấy nó đến trình diện, khi luật triều
đình, xin Chúa công liệu cách trị tội.
Văn Vương liền lấy tiền ra gieo một quẻ để đoán việc ngay gian, chẳng ngờ vì có
phép yếm của Tử Nha, khiến quẻ ứng rằng Võ Kiết đã gieo mình xuống sông tự
vận rồi.
- Võ Kiết không phải trốn đâu. Bởi nó sợ hành hình nên trầm mình xuống sông tự
vận. Nghĩ lại nó rủi ro phạm tội, không có ý giết người, nay nó đã tự tử thì bỏ qua
cũng được.
Văn Vương than thở một hồi rồi vào trướng nghỉ ngơi.
Ngày tháng cứ thoi đưa, thu đông qua rất chóng, mới đó mà đã vào tiết xuân rồi,
đào lý đã nở hoa bướm ong tấp nập.
Văn Vương thấy muôn hoa rực rỡ, trăm họ vui vầy, truyền hết thảy triều thần cho
phép được vui xuân mở hội.
Văn Vương khen phải, liền truyền Nam Cung Hoát và Tân Giáp dẫn binh rồng theo
hộ giá.
Nam Cung Hoát và Tân Giáp tuân lệnh dẫn năm trăm quân, tôi chúa đồng kéo
nhau đến Gò Nam xem hoa thưởng ngoạn.
- Ngày nay Chúa công muốn vui chung với bá tánh nên họ bày cuộc săn bắn để
Chúa công giải khuây.
- Xưa quan đại thần là Phong Hậu đem dâng thịt sống cho vua Phục Hy, vua Phục
Hy nói: Trời sanh loài cầm thú cũng biết đau đớn, sống chết như loài người, tại
sao loài người lại giết chúng mà ăn thịt. Lòng ta chỉ muốn sống mà thôi, không
đành làm chết một sinh vật nào cả. Như loài thảo mộc, không biết đau đớn, không
có tri giác, ta có thể dùng nó nuôi sống loài người được, ấy là vua Phục Hy sanh
nhằm thời thượng cổ, không có lúa gạo như bây giờ mà không đành ăn thịt cầm
thú thay, cho nên đời sau mới gọi là Thánh đế. Chúng ta ngày nay lúa gạo đầy đủ,
ngũ cốc ê hề, đã no lòng còn đòi hỏi việc ngon miệng. Ðang lúc mùa xuân ấm áp,
mọi sinh vật phơi phới như vầy, chúng ta nỡ nào phá phách cho muôn thú vỡ ổ
lạc bầy, bất nhân thất đức.
Bấy giờ khắp chốn Tây Kỳ trai gái đều điểm trang rực rỡ, kẻ ngâm thơ, người uống
rượu, già đi trước trẽ theo sau, muôn vật như tăng phần linh động.
- Cõi Tây Kỳ thái bình lắm chẳng khác trời Nghiêu, đá Thuấn thuở xưa.
Ðoàn triều thần hộ giá Văn Vương đi từ chỗ nầy sang chỗ kia đến đâu cũng thấy
dân chúng như vậy.
Xảy thấy có mấy người câu cá, vác cần câu trên vai nghêu ngao hát:
- Người hiền ca lời lẽ uyên thâm lắm, chắc trong đám người đó có người hiền.
Nói rồi truyền Tân Giáp đến hỏi đoàn người câu cá xem ai đã đặt ra bài ca ấy?
Tân Giáp tuân lệnh giục ngựa đến đón đoàn người câu cá lại hỏi:
- Chúa công có lệnh cho đòi người hiền sĩ nào đã đặt ra bài ca ấy.
- Nếu không phải bậc hiền sĩ sao lại có lời ca như vậy?
- Bài ca ấy không phải do chúng tôi đặt. Cách đây ba mươi dặm tại đất Bàn Khê,
có một ông già ngồi câu cá thường ca bài ấy, chúng tôi thường nghe nên thuộc
lòng ca nghêu ngao lúc hứng chí.
Mấy người câu cá lạy tạ vua, dời gót. Văn Vương ngồi trên ngựa ngẫm nghĩ:
- Kẻ sĩ nào lại dùng tiếng rửa tai, chắc là người khí phách lắm.
Táng Nghi Sanh thấy Văn Vương trầm tư, liền hỏi:
- Trong bài ca vừa rồi có hai tiếng rửa tai, đó là tích của người xưa hay lắm.
- Nay Thiên tử ưa nghe tiếng dấm là tiếng nhạc mất nước, nên người đặt bài ca
đó là tích Hứa Do rửa tai đời trước mà sánh mình.
Hứa Do nói:
- Tôi ngán cuộc nơi ô trọc nên lánh mình một cõi, tìm thú thanh nhàn, không màng
lợi danh, đói ăn trái cây, khát uống nước suối giữ mình trong sạch cho mãn kiếp
thời thôi.
Vua Nghiêu nghe mừng thầm nghĩ rằng người không ham phú quí, không ưa lợi
danh chính thật người hiền, nếu truyền ngôi cho thế nào thiên hạ cũng được thái
bình, Nghĩ như vậy vua Nghiêu nói:
- Trẫm thật là vua Nghiêu, giả thường dân đi tìm người hiền đức để nhường ngôi.
Vậy ngươi là bậc hiền đức, hãy theo trẫm về triều thay Trẫm trị thiên hạ.
Hứa Do vốn không màng danh lợi, lại không thích công danh, nghe vua Nghiêu
nói như vậy tuy làm thinh không đám cãi, nhưng lòng giận lắm, đập nát cái bầu,
rồi bịt chặt hai tai, cong lưng chạy riết đến bến sông, vốc nước rửa tai mãi. Giữa
lúc đó có Sào Phủ cho trâu đến bến sông cho uống nước, thấy Hứa Do rửa tai
mãi, không hiểu vì cớ gì, hỏi:
Hứa Do đáp:
- Vừa rồi tôi gặp vua Nghiêu bảo tôi về triều để truyền ngôi. Tôi nghe tiếng danh
lợi dơ tai quá nên chạy đến đây mà rửa. Nhưng rửa đã lâu mà tiếng ấy vẫn còn
văng vẳng, chưa hết.
Sào Phủ nghe nói liền dắt trâu lên trên dòng nước cho uống.
Hứa Do hỏi:
- Sao anh không cho trâu uống nước tại bến như thường lệ.
Sào Phủ nói: - Tai anh dơ lắm sợ trâu tôi uống dơ miệng.
Ấy là tích Hứa Do, Sào Phủ thời xưa. Nay người nầy lấy tích ấy ví mình là kẻ thanh
bạch.
Vua tôi vừa đi vừa nói chuyện với nhau. Bỗng thấy mấy người gánh củi đi tới, cao
giọng hát:
- Trong đám người ấy có ai là hiền tài xin mời ra đây cho Ðại vương dạy việc.
Mấy người gánh củi liền để gánh xuống chắp tay thưa:
- Chúng tôi chỉ có tài đốn củi chớ không có tài gì khác cả.
- Họ cũng không phải, là hiền tài đâu, xin Chúa Công chớ nhọc lòng nghĩ đến họ.
- Nếu không phải hiền tài sao lại đặt được bài hát có ý nghĩa sâu xa như vậy?
- Chúng tôi đốn củi thường đi ngang qua chốn Bàn Khê nghe ông già câu cá hát
bài nầy, chúng tôi thuộc lòng và ca hát làm vui lúc mệt nhọc.
- Nếu không phải các ngươi đặt ra bài hát ấy thì hãy lui về mà nghỉ.
Mấy gã tiều phu lạy tạ rồi gánh củi lên đường.
Văn Vương ngồi trên ngựa ngẫm nghĩ mãi hai bài ca vừa rồi.
Trong lúc đó triều thần ai nấy uống rượu thưởng hoa. Bỗng có một người gánh
củi đến, miệng hát nghêu ngao mấy câu:
- Người ấy sao giống Võ Kiết, kẻ tội nhơn giết người ngày trước vậy.
- Quan Ðại Phu nhìn lầm rồi. Võ Kiết đã sợ tội nhảy xuống sông trầm mình, lẽ nào
còn sống trên thế gian!
Táng Nghi Sanh ngồi trên ngựa ngắm kỹ một hồi, thấy quả là Võ Kiết, không còn
nghi ngờ gì nữa, liền sai Tân Giáp đến bắt.
Tân Giáp vâng lời giục ngựa đến trước. Võ Kiết trông thấy xe giá không biết trốn
vào đâu, phải để gánh củi xuống bên đường quì mọp xuống đất. Tân Giáp thấy
quả Võ Kiết, liền đến trước ngựa Văn Vương tâu:
- Người đâu xảo trá như vậy phải làm tội bằng hai, xử theo án sát nhân để răn
chúng.
- Nếu quẻ Tiên thiên ta bói không thiệt thì còn truyền lại cho dân chúng làm gì!
Táng Nghi Sanh nói:
- Thần tử Tây Kỳ nầy thuở nay chưa hề có ai ngang ngạnh như vậy, chẳng biết
Võ Kiết có điều gì uẩn khúc không, xin Chúa công để tôi hỏi lại nó thử.
- Ngươi hứa với Chúa công trở về lo việc cấp dưỡng mẹ già xong trở lại đền tội,
tại sao lỗi hẹn?
Võ Kiết nói:
- Tôi không dám bỏ phép. Bởi có một ông già câu cá tại Bàn Khê họ Khương tên
Thượng, tên chữ là Tử Nha, biệt hiệu Phi Hùng, bảo tôi làm học trò thì cứu toàn
tánh mạng. Người ấy dạy tôi về đào huyệt, chong đèn trên đầu một ngọn, dưới
chân một ngọn, hốt gạo vãi lên mình, lấy cỏ ủ lại, qua một đêm thì khỏi chết luôn.
Tôi còn mẹ già không nỡ chết bỏ mẹ tôi nên nghe lời trốn pháp luật xin quan trên
nghĩ lại.
Táng Nghi Sanh nghe nói mừng rỡ, quỳ tâu với Văn Vương:
- Võ Kiết nói có ông già câu cá hiệu Phi Hùng thì quả là người Chúa công ứng
mộng. Xưa vua Thương Cao thấy gấu bay mà được ông Phú Duyệt ra phò, nay
Ðại Vương thấy cọp có cánh chắc là Khương Tử Nha, người câu cá nơi Bàn Khê
đấy. Xin Chúa công tha tội cho Võ Kiết, khiến nó dẫn đến Bàn Khê tìm Khương
Tử Nha về dùng.
Văn Vương y tấu, truyền bá quan văn võ theo Võ Kiết đến Bàn Khê.
Võ Kiết được tha tội chết mừng rỡ bỏ gánh củi, dẫn Văn Vương và đoàn tùy tùng
trở lại rừng xanh.
Bấy giờ Văn Vương và các quan không dám cỡi ngựa, sợ người hiền giật mình
ẩn mặt, nên xuống yên dắt ngựa theo sau Võ Kiết.
Còn Võ Kiết trở về đến Bàn Khê không thấy Khương Thượng đâu mất, lòng thất
kinh dáo dác tìm kiếm quanh.
Võ Kiết nói:
- Sư phụ tôi mới vừa ngồi đây, không biết vì sao vắng mặt.
Văn Vương hỏi:
- Túp lều tranh nhỏ trước mặt kia là chỗ sư phụ tôi nương náu..
Võ Kiết dắt Văn Vương đến đó, thấy túp lều xiêu vẹo, xung quanh che màn trúc
đan.
Văn Vương gõ nhẹ vào tấm phên lẫm cửa thì thấy một thằng bé nhắc tấm phên
bước ra, Văn Vương hỏi:
Thằng bé nói:
Thằng bé nói:
- Không biết chừng. Có khi một ngày có khi đôi ba bữa. Có lúc gặp bè gặp bạn
dạo nước dạo non nên không biết chừng nào mà dám chắc.
- Phép cầu người hiền phải có lòng thành. Hôm nay chúa công đi dạo xuân tình
cờ đến đây nên người hiền không ra mặt. Xưa vua Thần Nông tìm Trường Tang
vua Thành Thang tìm Y Doãn đều phải ăn chay tắm gội, coi ngày lành đem lễ vật
đến rước, như thế mới tỏ ra kính hiền đãi sĩ. Xin Chúa công noi gương ấy, trở về
sắm sửa vài ngày nữa sẽ đến rước.
Liền truyền Võ Kiết theo xa giá về trào. Chúa tôi trở lại trông thấy bên khe cảnh
vật tốt tươi, Văn Vương đẹp ý ngâm lên:
- Ông già câu cá nơi Bàn Khê chưa chắc đã thực tài, Chúa công ăn chay tắm gội,
đem lễ vật đến cầu, nếu lầm người vô dụng có phải thất công, nhẹ thì đi không.
Vậy để ngày mai tôi vâng lệnh Chúa công đến đó thỉnh lão về triều như quả thật
hiền sĩ thì phong chức lớn, dùng vào việc nước, còn nếu lão chỉ là một gã ngư
phủ già cả thì đuổi về câu cá cho xong!
- Tướng quân không nên có ý nghĩ như vậy. Nay thiên hạ loạn ly nhân tài ẩn mặt
trong núi non, nếu không biết trọng họ thì làm sao họ chịu đem tim óc ra giúp đời.
Chúa công phải noi theo dấu xưa, trọng hiền mến sĩ mới được.
- Người hiền không phải dễ kiếm, không phải nghe người ta có tài liền tin theo, ít
ra cũng phải thử thách tài năng trước khi trọng dụng. Nay Chúa Công ăn chay tắm
gội, đem trọng lễ đến rước ông già câu cá, nếu ông ấy không phải người tài thì
sao?
- Không hại gì cả. Chúa công sẽ được tiếng trọng hiền. Kẻ bất tài mà Chúa công
còn trọng như vậy thì kẻ có tài sẽ ao ước được ra phò Chúa công. Vả lại, người
nầy biệt hiệu Phi Hùng thì đúng với điều mộng của Chúa công rồi, không còn nghi
ngờ gì nữa
- Quan Ðại Phu nói phải lắm, Nam Tướng quân chớ tị hiềm mà hỏng việc lớn.
Bấy giờ cả triều thần đều theo lệnh Văn Vương, ăn chay tắm gội ba ngày, để đến
Bàn Khê rước Tử Nha.
Văn Vương dẫn các quan đến gần Bàn Khê đều xuống ngựa đi bộ xa thấy dạng
Khương tử Nha đang ngồi câu trên thạch bàn.
Văn Vương liền rón rén bước đến sau lưng, không dám động.
Còn Tử Nha đã đoán trước, biết có vua nước Châu đến rước liền ngồi làm tĩnh,
vừa câu cá, vừa ca lên mấy câu:
Tử Nha ngó ngoái lại thấy Văn Vương liền bỏ cần câu cúi đầu thi lễ, tâu:
- Tôi không biết Ðại vương đến nên trễ việc tiếp nghinh xin Ðại vương tha tội.
- Trẫm ái mộ tiên sinh đã lâu, đến đây một lần không gặp mặt. Trẫm xét mình có
lỗi không biết người hiền, nên ăn chay ba bữa, tắm gội sạch sẽ đến đây cầu ra
mắt.
Tử Nha lật đật quỳ mọp dưới đất tạ tội và đắt Văn Vương về nơi túp lều tranh.
- Trẫm nghe tiếng cao minh, nhưng chưa gặp mặt hôm nay hân hạnh được tương
phùng, xin tiên sanh làm ơn chỉ giáo Trẫm đôi điều về dân nước.
- Chúa công tôi đã hết lòng chiếu cố tiên sinh chớ khiêm nhượng làm gì. Nay thiên
hạ loạn ly, Trụ Vương lỗi đạo, đam mê tửu sắc, giết hại trung thần, gần nịnh xa
trung khiến chư hầu làm phản. Chúa công tôi ngày đêm lo lắng không an, nghĩ
đến trăm họ khổ sở, trông người hiền như khát nước, tiên sinh là bậc nhân tài, lẽ
nào ẩn dật mãi không ra cứu dân độ thế.
Nói rồi dâng lễ vật lên. Tử Nha thấy vua tôi Văn Vương trọng mình như vậy không
còn lời lẽ nào từ chối nữa liền nhận lễ vật, đồng tử đem cất vào nhà trong.
Văn Vương mời Tử Nha lên xe rồng rước về triều. Tử Nha lật đật quì thưa:
- Phận tôi tài hèn sức yếu, được Ðại vương thương tưởng đến, nguyện đem tim
óc đền ơn lẽ đâu dám ngồi xe Ðại vương mà lỗi đạo tôi chúa.
- Ấy là lòng trẫm kính người hiền, xin tiên sinh chớ ngại.
Tử Nha một mực chối từ, nhất thiết không chịu ngồi chung xe với Văn Vương.
- Hiền sĩ đã giữ lễ như vậy thì xin mời hiền sĩ lên ngựa vậy.
Tử Nha thuận lòng lên ngựa theo hầu, cùng đi về triều với các quan văn võ. Lúc
bấy giờ Tử Nha đã tám mươi tuổi.
Từ đấy, Tử Nha lãnh chức trị nước rất yên, trị dân phải phép thiên hạ đều tùng
phục, quân tướng kính vì.