You are on page 1of 34

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH


š

BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


ĐỀ TÀI:
VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LỚP L04--- NHÓM 04 --- HK212


NGÀY NỘP 25/2/2022

Giảng viên hướng dẫn: THS. ĐOÀN VĂN RE


Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số
Huỳnh Ngọc Dũng 2012861
Nguyễn Nam Duy 1910955
Văn Bá Duy 2010189
Hoàng Hồng Hải 1913240
Trịnh Thị Mỹ Hạnh 2013098

Thành phố Hồ Chí Minh – 2021

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH
KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)
Nhóm/Lớp: L04 Tên nhóm: 4 HK ..212.....Năm học ...........................
Đề tài:
VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
%
ST Mã số Điểm
Họ Tên Nhiệm vụ được phân công Điểm Ký tên
T SV BTL
BTL
2012861 2.3. Giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam
1 Huỳnh Ngọc Dũng 20%
thời gian tới + Phần mở đầu

Duy 2.2. Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam
2 1910955 Nguyễn Nam 20%
thời gian qua.

2010189 1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ
3 Văn Bá Duy nghĩa xã hội, 2.1. Bạo lực gia đình và những vấn đề liên 20%
quan đến bạo lực gia đình
1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình. + mục
4 1913240 Hoàng Hồng Hải 20%
lục + điều chỉnh file word bìa BTL + Tóm tắt chương I
5 2013098 Trịnh Thị Mỹ Hạnh Kết luận + tổng hợp Tài liệu tham khảo, Điều chỉnh nội 20%
2
dung, tổng hợp, kết luận, sửa lỗi chính tả, báo cáo.

Họ và tên nhóm trưởng:.......Trịnh Thị Mỹ Hạnh....., Số ĐT: ..0908771703.... Email: hanh.trinhsinobk20@hcmut.edu.vn


Nhận xét của GV: .......................................................................................................................................................................
GIẢNG VIÊN NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên) (Ký và ghi rõ họ, tên)

3
MỤC LỤC
Trang

I. PHẦN MỞ ĐẦU 6

II. PHẦN NỘI DUNG 9

Chương 1.GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
9

1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình 9
1.1.1. Khái niệm gia đình 9
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội 9
1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình 10
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 12
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội 12
1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội 13
1.2.3. Cơ sở văn hoá 13
1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ 14
Tóm tắt chương 1 16

Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA
ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 17

2.1. Bạo lực gia đình và những vấn đề liên quan đến bạo lực gia đình 17

2.1.1. Quan niệm về bạo lực gia đình 17

2.1.2. Những vấn đề liên quan đến bạo lực gia đình 18

2.1.2.1 Các hình thức của bạo lực gia đình 18

2.1.2.2 Nguyên nhân của bạo lực gia đình 19

2.1.2.3. Tác động bạo lực gia đình đối với xây dựng gia đình việt nam tiến bộ,
hạnh phúc, bền vững. 20

2.2. Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam thời gian qua 21

2.2.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân 21

4
2.2.1.1. Mặt đạt được 21

2.2.1.2. Nguyên nhân đạt được 23

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân 23

2.2.2.1. Mặt đạt được 23

2.2.2.2. Nguyên nhân hạn chế 26

2.3. Giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam thời gian tới 27

2.3.1. Đối với Nhà nước và các tổ chức xã hội 27

2.3.2. Đối với các người trong gia đình (phụ nữ/trẻ em), nạn nhân bị bạo hành

30

Tóm tắt chương 2 30

III. KẾT LUẬN 31

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

5
I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Như chúng ta đã được biết, gia đình là một phần của xã hội và cũng là một phần
trong cuộc sống của mỗi chúng ta, cụ thể hơn, gia đình là một hình thức cộng đồng xã
hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên hôn nhân, quan hệ
huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Gia đình đóng vai trò cốt lõi của xã hội đồng thời
là tổ ấm mang lại niềm vui, sự hạnh phúc cho mỗi chúng ta. Tầm quan trọng của gia
đình là vô cùng lớn, gia đình là tạo ra, nuôi dưỡng và giáo dục con người, cung cấp lực
lượng lao động cho xã hội. Bên cạnh đó, gia đình còn là thành phần tham gia vào quá
trình sản xuất và tiêu dùng của xã hội, còn là nơi tạo ra các giá trị về tinh thần, tình
cảm cảm xúc cho con người.

Hiểu được tầm quan trọng của gia đình, vậy chúng ta cần phải xây dựng gia đình
như thế nào trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Hiện nay gia đình
đang có sự biến đổi theo nhiều hướng cả về quy mô, kết cấu, chức năng kinh tế, chức
năng giáo dục, thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lí… Điển hình như từ kinh tế tự cấp tự túc
thành kinh tế hàng hóa; từ đơn vị kinh tế sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của thị
trường, sự gia tăng của các hiện tượng tiêu cực trên mạng xã hội và nhà trường, hiện
tượng trẻ em bỏ học học sớm, lang thang, nghiện ma túy,... Qua đó cần tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống người dân, phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc…

Chính sự biến đổi đó đã gây ra nhiều vấn đề đối với xã hội, trong đó một vấn đề
quan trọng trong công cuộc xây dựng gia đình là vấn đề bạo lực gia đình. Trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nạn bạo lực gia đình vẫn còn tồn tại và gây ảnh hưởng
nghiêm trọng về nhiều mặt đối với xã hội. Công tác phòng, chống bạo lực gia đình đã
được triển khai và đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh đã mang lại nhiều dấu hiệu tích
cực. Cụ thể trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2017, tổng số vụ bạo hành
gia đình được thống kê là 292.268 vụ. Trung bình mỗi năm xảy ra 36.534 vụ bạo lực
gia đình, chưa tính những vụ việc không được phát hiện và thống kê 1. Số lượng đã

1
Thư Lê. (02/12/2021). Số liệu thống kê về bạo hành gia đình đáng báo động ở Việt Nam. Truy cập
từ: https://benhvienvuquang.vn/so-lieu-thong-ke-ve-bao-hanh-gia-dinh/
6
được cải thiện qua nhiều năm cho thấy mức độ hiệu quả của công tác phòng, chống
bạo lực gia đình. Tuy nhiên, mức độ xảy ra bạo lực gia đình cần phải được hạn chế
hơn nữa. Việc tiếp cận tới người dân còn nhiều hạn chế, chính sách, luật pháp còn
chưa được hoàn thiện và nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu hơn nữa…

Xuất phát từ tình hình thực tế trên, nhóm chọn đề tài: “Vấn đề ggia đình trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực trạng và giải pháp trong công tác phòng,
chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.

2. Đối tượng nghiên cứu

Thứ nhất, gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, thực trạng và giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện
nay.

3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt
Nam hiện nay.

4. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:

Thứ nhất, làm rõ lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; bạo lực gia đình.

Thứ hai, đánh giá thực trạng công tác phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam
thời gian qua.

Thứ ba, đề xuất giải pháp trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt
Nam thời gian tới.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu nhất là
các phương pháp: phương pháp thu thập số liệu; phương pháp phân tích và tổng hợp;
phương pháp lịch sử - logic;…

6. Kết cấu của đề tài

7
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương:

Chương 1: Gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Chương 2: Thực trạng và giải pháp trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình
ở Việt Nam hiện nay.

8
II. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình

1.1.1. Khái niệm gia đình

“Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì
và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi
dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia
đình”2

1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội

1.1.2.1 Gia đình là tế bào của xã hội

Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã
hội. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định
đang sống là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển lao động
và mặt khác là trình độ phát triển của gia đình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
rằng:”Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình”.Chính vì vậy, quan tâm
xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc là hết sức quan trọng
trong cách mạng XHCN (xã hội chủ nghĩa).

1.1.2.2 Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời
sống cá nhân của mỗi thành viên

Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được yêu thương, nuôi dưỡng,
chăm sóc, trưởng thành và phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền
đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, thể lực, trí lực để trở
thành công dân tốt cho xã hội. Chỉ trong môi trường yên ấm của gia đình, cá nhân mới
cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực phấn đấu trở thành con người xã hội tốt.

2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị
quốc gia Sự thật, tr.241.

9
1.1.2.3 Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội

Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của xã
hội. Quan hệ của các thành viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ của các
thành viên trong xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan
hệ xã hội của mỗi cá nhân và cũng là môi trường đầu tiên để mỗi cá nhân học được và
thực hiện quan hệ xã hội.

Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến
cá nhân. Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về mỗi cá nhân khi xem xét họ
trong các quan hệ xã hội và quan hệ với gia đình. Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi cá
nhân được thực hiện với sự hợp tác của các thành viên trong gia đình.

Đặc điểm của gia đình ở mỗi chế độ xã hội có khác nhau. Trong chế độ phong
kiến, để củng cố, duy trì chế độ bóc lột, với quan hệ gia trưởng, độc đoán, chuyên
quyền đã có những quy định rất khắt khe đối với phụ nữ, đòi hỏi người phụ nữ phải
tuyệt đối trung thành với người chồng, người cha – những người đàn ông trong gia
đình. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự bình
đẳng, con người được giải phóng, giai cấp công nhân chủ trương bảo vệ chế độ hôn
nhân một vợ, một chồng, thực hiện sự bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: ”Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ
nghĩa xã hội chỉ một nửa”3. Vì vậy, quan hệ gia đình trong chủ nghĩa xã hội có đặc
điểm khác về chất so với các chế độ xã hội trước đó.

1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình

1.1.3.1 Chức năng tái sản xuất ra con người

Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể thay thế.
Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp

3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị
quốc gia Sự thật, tr.245.

10
ứng nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu về sức
lao động và duy trì sự trường tồn của xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt
chẽ đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.

1.1.3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục

Nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng và xã
hội là chức năng, trách nhiệm của gia đình, thể hiện tình cảm thiêng liêng đối với con
cái và với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với
sự hình thành nhân cách, đạo đức của mỗi người.

1.1.3.3 Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng

Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất và tư liệu tiêu dùng. Gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất
và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội. Gia đình còn là một đơn vị tiêu dùng trong
xã hội. Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống
của gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. Thực hiện tốt
chức năng này không những tạo cho gia đình cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy
con cái, mà còn đóng góp to lớn đối với sự phát triển xã hội.

1.1.3.4 Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình

Là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầm tình
cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lí, bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành
viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội

1.1.3.5 Chức năng văn hóa, chính trị:

Gia đình là nơi lưu truyền truyền thống văn hóa dân tộc cũng như tộc người. Là
nơi sáng tạo cũng như thụ hưởng những giá trị văn hóa xã hội. Gia đình cũng là một tổ
chức chính trị xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước và
quy chế làng xã, hưởng lợi từ hệ thống pháp luật.

1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

11
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội

“Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng trình độ của lực lượng sản
xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa. Cốt lõi của quan hệ sản xuất mới ấy là
chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất từng bước hình thành và củng
cố thay thế chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nguồn gốc của sự áp bức bóc lột
và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình dần dần bị xóa bỏ, tạo cơ sở kinh tế cho việc
xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong trong xã hội.

Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc gây nên tình trạng
thống trị của người đàn ông trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ
và chồng, sự nô dịch đối với phụ nữ. Bởi vì sự thống trị của người đàn ông trong gia
đình là kết quả sự thống trị của họ về kinh tế, sự thống trị đó tự nó sẽ tiêu tan khi sự
thống trị về kinh tế của đàn ông không còn. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
đồng thời cũng là cơ sở để biến lao động tư nhân trong gia đình thành lao động xã hội
trực tiếp, người phụ nữ dù tham gia lao động xã hội hay tham gia lao động gia đình thì
lao động của họ đóng góp cho sự vận động và phát triển, tiến bộ của xã hội. Như
Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: “Tư liệu sản xuất chuyển thành tài sản chung, thì gia đình
cá thể sẽ không còn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa. Nền kinh tế tư nhân biến thành
một ngành lao động xã hội. Việc nuôi dạy con cái trở thành công việc của xã hội”. Do
vậy, phụ nữ có địa vị bình đẳng với đàn ông trong xã hội. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất cũng là cơ sở làm cho hôn nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu
chứ không phải vì lý do kinh tế, địa vị xã hội hay một sự tính toán nào khác.”4

1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội

Cơ sở chính trị để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động được
thực hiện quyền lực của mình không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Nhà nước cũng
chính là công cụ xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu, đè nặng lên vai người phụ nữ
đồng thời thực hiện việc giải phóng phụ nữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Như
4
Cơ sở xây dựng gia đình trong thời quá độ. truy cập từ: https://vndoc.com/co-so-xay-dung-gia-dinh-
trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi.
12
V.I.Lênin đã khẳng định: “Chính quyền xô viết là chính quyền đầu tiên và duy nhất
trên thế giới đã hoàn toàn thủ tiêu tất cả pháp luật cũ kỹ, tư sản, đê tiện, những pháp
luật đó đặt người phụ nữ vào tình trạng không bình đẳng với nam giới, đã dành đặc
quyền cho nam giới… Chính quyền xô viết, một chính quyền của nhân dân lao động,
chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giới đã hủy bỏ tất cả những đặc quyền gắn
liền với chế độ tư hữu, những đặc quyền của người đàn ông trong gia đình…”.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tính cách là cơ sở của việc xây dựng gia đình
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của hệ thống
pháp luật, trong đó có Luật Hôn nhân và Gia đình cùng với hệ thống chính sách xã hội
đảm bảo lợi ích của công dân, các thành viên trong gia đình, đảm bảo sự bình đẳng
giới, chính sách dân số, việc làm, y tế, bảo hiểm xã hội… Hệ thống pháp luật và chính
sách xã hội đó vừa định hướng vừa thúc đẩy quá trình hình thành gia đình mới trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào và ở đâu, hệ thống chính sách, pháp
luật chưa hoàn thiện thì việc xây dựng gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình còn
hạn chế.

1.2.3. Cơ sở văn hoá

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với những biến đổi căn bản
trong đời sống chính trị, kinh tế, thì đời sống văn hóa, tinh thần cũng không ngừng
biến đổi. Những giá trị văn hóa được xây dựng trên nền tảng hệ tư tưởng chính trị của
giai cấp công nhân từng bước hình thành và dần dần giữ vai trò chi phối nền tảng văn
hóa, tinh thần của xã hội, đồng thời những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, lối
sống lạc hậu do xã hội cũ để lại từng bước bị loại bỏ.

Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ góp phần nâng
cao trình độ dân trí, kiến thức khoa học và công nghệ của xã hội, đồng thời cũng cung
cấp cho các thành viên trong gia đình kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng cho sự
hình thành những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa không đi liền với cơ sở kinh tế, chính
trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao.

13
1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ

“Hôn nhân tự nguyện (hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu giữa nam và nữ).
Tình yêu chân chính là cơ sở cho hôn nhân tự do. Hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu
chân chính có nghĩa là tình yêu là lí do, là động cơ duy nhất của việc kết hôn. Sự chi
phối của yếu tố kinh tế, sự tính toán về lợi ích kinh tế, về địa vị danh vọng trong hôn
nhân sẻ mất đi. Theo Ph. Ăngghen tình yêu chân chính có đặc điểm là: “một là, nó giả
định phải có tình yêu đáp lại của người mình yêu; và về mặt này người đàn bà là người
ngang hàng với người đàn ông; hai là, tình yêu nam nữ có một sức mạnh và sự bền bĩ
đến mức khiến cho hai bên thấy không lấy được nhau và phải xa nhau là một đau khổ
lớn nhất”; ba là “ không thể chia sẻ”. Hôn nhân một vợ, một chồng, vợ chồng bình
đẳng. Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ được, nên hôn nhân một vợ một
chồng là kết quả tất yếu của hôn nhân xuất phát từ tình yêu. Thực hiện hôn nhân một
vợ một chồng là điều kiện đảm bảo hạnh phúc gia đình, đồng thời cũng phù hợp với
quy luật tự nhiên, phù hợp với tâm lý, tình cảm, đạo đức con người.
Hôn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội loài người,
khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy nhiên,
trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chồng thực chất chỉ đối với người phụ
nữ. Vì vậy trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một
vợ một chồng là thực hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau giữa vợ và chồng. Trong đó vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ
ngang nhau về mọi vấn đề của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn
những vấn đề riêng, chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số
nhu cầu khác v.v.. Đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề
chung của gia đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc.
Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng trong quan hệ giữa cha mẹ với
con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu thương
con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời dạy bảo của
cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có những mâu
thuẫn không thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích, sắc riêng của
mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được quan tâm
của mọi người.

14
Cách mạng XHCN với việc xóa bỏ QHSX chiếm hữu tư nhân TBCN tất yếu sẽ
làm cho chế độ cộng thê do QHSX đó đẻ ra, tức chế độ mãi dâm chính thức và không
chính thức biến mất. Nhờ đó, chế độ hôn nhân một vợ một chồng được thực hiện trọn
vẹn. Hôn nhân được đảm bảo về mặt pháp lý. Quan hệ hôn nhân, gia đình thực chất
không phải là vấn đề riêng tư của mỗi gia đình mà là quan hệ xã hội. Tình yêu giữa
nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi người, xã hội không can thiệp, nhưng khi hai người
đã thỏa thuận để đi đến kết hôn, tức là đã đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội,
thì phải có sự thừa nhận của xã hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong
hôn nhân. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân, là thể hiện sự tôn trọng trong tình
tình yêu, trách nhiệm giữa nam và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội
và ngược lại. Đây cũng là biện pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do
kết hôn, tự do ly hôn để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng, để bảo vệ hạnh
phúc của cá nhân và gia đình. Thực hiện thủ tục pháp lý trong hôn nhân không ngăn
cản quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực
hiện các quyền đó một cách đầy đủ nhất. Đảm bảo quyền tự do kết hôn và li hôn. Bảo
đảm quyền tự do ly hôn không có nghĩa là khuyến khích ly hôn. Vấn đề ly hôn chỉ
được đặt ra khi một cuộc hôn nhân trong đó tình yêu không còn nữa hoặc bị một tình
yêu say đắm mới lấn át.”5

Tóm tắt chương 1

Tóm lại, gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người
hình thành và phát triển trên các mối quan hệ như hôn nhân, huyết thống,.. giữa các
thành viên. Gia đình đem lại nhiều giá trị cho cá nhân mỗi người, mang lại nhiều giá
trị đối với đời sống. Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển xã
hội, có thể coi là một “phiên bản nhỏ” của xã hội. Gia đình có tốt thì xã hội mới tốt, xã
hội tốt thì gia đình càng tốt hơn. Gia đình giữ một vị trí quan trọng giữa mỗi cá nhân
đối với xã hội, gia đình, giúp cho mỗi cá nhân và xã hội có mối quan hệ tác động lẫn
nhau. Ngoài ra gia đình có nhiều chức năng, có khả năng tái sản xuất nguồn lao động
phục vụ cho xã hội, nuôi dưỡng và phát triển mỗi cá nhân một cách tốt nhất về cả thể
chất lẫn tinh thần, và cũng có thể đóng góp vào kinh tế xã hội, có thể gìn giữ và tuyên

5
Cơ sở xây dựng gia đình trong thời quá độ. truy cập từ: https://vndoc.com/co-so-xay-dung-gia-dinh-
trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi.
15
truyền các giá trị văn hóa xã hội, cũng như đáp ứng vấn đề chính trị qua việc thực hiện
và chấp hành các chính sách pháp luật. Vậy nên việc xây dựng gia đình là rất quan
trọng. Gia đình mới trong xã hội chủ nghĩa hoàn toàn dựa vào tình yêu và hôn nhân tự
nguyện và cơ sở để xây dựng gia đình là cần phải loại bỏ chế độ áp bức bóc lột, xóa bỏ
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, thiết lập lên chính quyền nhà nước của giai cấp công
nhân và giai cấp lao động, đi liền với việc gìn giữ truyền thống, loại bỏ hủ tục, phát
triển giáo dục, nâng cao dân trí và đảm bảo một chế độ hôn nhân tiến bộ. Đó là cơ sở
và cũng là nền tảng để xây dựng gia đình một vợ, một chồng hạnh phúc, bền vững.

16
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG
BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Bạo lực gia đình và những vấn đề liên quan đến bạo lực gia đình

2.1.1. Quan niệm về bạo lực gia đình

“Bạo lực giữa người chồng đối với người vợ trong gia đình có thể thấy là dạng
bạo lực phổ biến nhất trong gia đình. Hành vi người chồng gây ra chủ yếu và lớn nhất
là bạo lực về thể chất, đây là dạng dễ nhận thấy và bị lên án mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên,
không phải tất cả hành vi bạo lực của người chồng đều là bạo lực về thể chất mà có
những lúc, họ dùng tới nhiều cách khác để gây ra những tổn thương về tâm lý cho
người vợ: mắng mỏ, chửi bới, xúc phạm danh dự…; hoặc có những hành vi cưỡng bức
về tình dục, kiểm soát về kinh tế…Nhưng trong xã hội ngày nay, hiện tượng người vợ
sử dụng bạo lực đối với chồng cũng không phải là hiếm. Không chỉ dừng lại ở những
lời lẽ chửi bới, những cách ứng xử thô bạo mà họ còn trực tiếp gây ra những tổn
thương về thể chất hoặc tính mạng của người chồng.

Ngoài ra hiện nay còn có tình trạng bạo lực giữa cha mẹ và con cái. Với tâm lý,
truyền thống, thói quen của người Việt, thì vấn đề bạo lực giữa cha mẹ với con cái
được xã hội chấp nhận và khá phổ biến. Có thể dễ dàng nhận thấy đó là những hành
động “dạy bảo” con cái xuất phát từ cái quan niệm gọi là “Yêu cho roi cho vọt – Ghét
cho ngọt cho bùi” và giáo dục thì cần phải nghiêm khắc. Rất nhiều ông bố bà mẹ coi
việc đánh đập, chửi mắng con cái khi chúng mắc lỗi là cần thiết để chúng nhận ra sai
lầm và sửa chữa; hay coi việc mạt sát, trách móc là động lực để chúng phấn đấu. Trên
thực tế chúng ta đều có thể nhận thấy, cách làm này phần nào phù hợp với tâm lý của
người Việt và đạt được những kết quả nhất định.

    Bên cạnh những hành vi từ phía cha mẹ đối với con cái, thì bạo lực gia đình
xuất phát từ người con đối với cha mẹ mình cũng đang ngày càng gia tăng. Một số
trường hợp người trẻ tuổi gây ra những tổn thương về cả vật chất, tinh thần cho cha mẹ
do sự thiếu kiềm chế, do đua đòi hư hỏng hoặc một vài lý do khác. Tuy nhiên, không
thể bào chữa, biện hộ cho những người con đã khôn lớn trưởng thành dưới bàn tay yêu

17
thương, nuôi dạy của cha mẹ nhưng lại bỏ bê, không chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ,
thậm chí hơn là đánh đập, chửi mắng, sỉ nhục những người đã có công sinh thành, nuôi
dưỡng mình.

      Bạo lực gia đình giữa các thành viên khác trong gia đình với nhau cũng đã
tồn tại từ lâu nhưng chiến tỷ lệ không lớn, vì mức độ phụ thuộc giữa các thành viên
này không cao như giữa vợ chồng hay cha mẹ với con. Nạn nhân chủ yếu của loại bạo
lực này là phụ nữ và trẻ em khi mà các thành viên này muốn tham gia vào sự “giáo
dục” những người làm dâu, làm con trong gia đình. Ngoài ra, những mâu thuẫn trong
gia đình không tìm được cách giải quyết cũng dẫn tới nạn bạo lực giữa các thành viên
khác: anh em, chú cháu đánh nhau vì xích mích, mâu thuẫn trong cuộc sống, vì tranh
chấp tài sản, chị em mắng chửi, nói xấu nhau,v.vv.. ”

2.1.2. Những vấn đề liên quan đến bạo lực gia đình

2.1.2.1. Các hình thức bạo lực gia đình

Hình 1: Các hình thức bạo lực gia đình6

“Bạo hành thể chất: Bạo lực về thể chất là những hành vi cố ý xâm hại tính mạng
hoặc gây ra thương tích trên cơ thể cho nạn nhân. Loại hành vi này thường dễ nhận
biết nhất bởi nó thường để lại dấu vết trên cơ thể nạn nhân.

6
Nguyễn Quốc Sử. (20/8/2020). Tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam – thực trạng và nguyên nhân.
Truy cập từ https://trangtinphapluat.com/blog/bai-viet-hay/hon-nhan-va-gia-dinh/tinh-hinh-bao-luc-
gia-dinh-o-viet-nam/
18
Bạo hành tình dục: Bạo lực tinh thần là những hành vi đối xử tồi tệ gây áp lực về
mặt tâm lý, tạo tổn thương tức thời hay tiềm ẩn về mặt tâm lý, sức khỏe tâm thần cho
người bị bạo lực. Loại bạo lực này rất phổ biến nhưng lại khó nhận dạng so với bạo
lực thể xác.

Bạo hành tinh thần: Bạo lực tình dục là hành vi sử dụng vũ lực hay dùng lời nói
đe dọa để ép buộc người kia có quan hệ tình dục (dù hành vi đó có thực hiện được hay
không) hoặc hành vi cố lôi kéo hoạt động tình dục ngay cả khi người kia không có khả
năng từ chối bởi các lý do như: sức khoẻ, bị ảnh hưởng của chất kích thích, chưa đủ
năng lực hiểu biết về hậu quả của quan hệ tình dục hoặc bị hăm dọa, quấy rối tình dục.

Bạo hành tài chính: Bạo lực kinh tế là hành vi kiểm soát về tài chính, bắt người
khác trong gia đình phụ thuộc tài chính hoặc chiếm đoạt thu nhập hợp pháp; ngăn cấm
tiếp cận, sử dụng các nguồn thu nhập của gia đình hoặc bắt ép thành viên gia đình làm
việc quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; huỷ hoại tài sản riêng của thành
viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình. Loại bạo lực
này thường xảy ra với nạn nhân là phụ nữ/người vợ trong gia đình.”7

2.1.2.2. Nguyên nhân của bạo lực gia đình

“Bạo lực gia đình xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng nhìn chung có
một số nguyên nhân cơ bản như sau:

Thứ nhất, bất bình đẳng giới là nguyên nhân gốc rễ gây ra bạo lực nam/chồng đối
với nữ/người vợ trong gia đình. Trong gia đình, người phụ nữ có vị thế và quyền lực
không ngang bằng với nam giới, không có quyền tham gia vào các quyết định trong
gia đình, khiến họ dễ bị bạo lực do nam giới gây ra. Ngoài vấn đề trên còn phải kể đến
vấn đề đạo đức, kiến thức giải quyết mâu thuẫn gia đình của họ còn kém.

Thứ hai, khó khăn về kinh tế vì nó thường tạo ra các áp lực, căng thẳng, bế tắc
đối với thành viên gia đình và do đó dễ dẫn tới các mâu thuẫn, tranh chấp nếu không

7
Nguyễn Quốc Sử. (20/8/2020). Tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam – thực trạng và nguyên nhân.
Truy cập từ https://trangtinphapluat.com/blog/bai-viet-hay/hon-nhan-va-gia-dinh/tinh-hinh-bao-luc-
gia-dinh-o-viet-nam/

19
biết cách xử lý phù hợp có thể gây nên bạo lực gia đình. Tuy nhiên không phải cứ có
khó khăn về kinh tế là nhất thiết phải có bạo lực gia đình. Thực tế cho thấy nhiều gia
đình có mức sống, thu nhập thấp nhưng gia đình vẫn hòa thuận và ngược lại có những
gia đình khá giả nhưng bạo lực vẫn xảy ra.

Thứ ba, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình còn hạn chế. Trình độ nhận thức và sự hiểu biết về pháp luật trong một bộ phận
người dân còn thấp. Nhiều người do thiếu hiểu biết về pháp luật nên cho rằng cha mẹ
có quyền đánh đập, chửi mắng con cái, chồng có quyền đánh vợ, v.v… Nhiều phụ nữ,
người già cũng không nhận thức được đầy đủ quyền của mình nên không dám đấu
tranh mà cam chịu bạo lực. Tuy nhiên, cũng giống như nguyên nhân về kinh tế, bạo
lực gia đình cũng vẫn xảy ra ở cả những gia đình mà thành viên có trình độ học vấn
cao, am hiểu về pháp luật.

Thứ ba, các nguyên nhân về tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, nghiện hút, mại
dâm,v.v…và các nguyên nhân khác như ngoại tình, ghen tuông…cũng là những nguồn
gốc trực tiếp dẫn tới bạo lực gia đình.

Thứ tư, sự vô tâm và thờ ơ của cộng đồng tới phòng, chống bạo lực gia đình. Vì
họ coi đây là vấn đề riêng tư trong mỗi gia đình không nên can thiệp. Ngoài ra Việc
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi bạo lực gia đình còn chưa kịp thời,
nghiêm minh, vì thế bạo lực vẫn tiếp tục xảy ra mà không bị ngăn chặn.”8

2.1.2.3. Tác động bạo lực gia đình đối với xây dựng gia đình việt nam tiến bộ,
hạnh phúc, bền vững.

Bạo lực gia đình không chỉ có ảnh hưởng rất tiêu cực đối với việc xây dựng gia
đình văn hóa, hạnh phúc, tiến bộ mà còn gây hậu quả nặng nề với từng cá nhân thành
viên trong gia đình, người bị bạo lực lẫn người gây ra bạo lực. Điều này càng đặc biệt
nghiêm trọng đối với việc hình thành nhân cách của trẻ em, là thế hệ tương lai của đất
nước. Vòng tuần hoàn về bạo lực sẽ tiếp tục diễn ra. Nếu lúc nhỏ, trẻ chứng kiến cảnh
cha mẹ, người lớn trong gia đình có hành vi bạo lực hay bản thân trẻ bị bạo lực thì khi
lớn sẽ hình thành lối sống thích dùng bạo lực để giải quyết vấn đề. Nếu lúc nhỏ, bị cha

8
Những nguyên nhân nào dẫn tới bạo lực gia đình. Truy cập từ:
https://vinhphuc.gov.vn/ct/cms/Convert/phongchongblgd/Lists/hoidap/View_Detail.aspx?ItemID=4
20
mẹ bạo lực thì đến khi lớn, trẻ cũng sẽ dùng bạo lực để đối xử lại với cha mẹ. Và thực
tế xã hội ngày nay, trường hợp này đang xảy ra.

2.2. Thực trạng phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam thời gian qua

2.2.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân

2.2.1.1. Những mặt đạt được

a/ Đối với Nhà nước và các tổ chức xã hội

Những bất cập trong văn bản Luật phòng, chống bạo lực gia đình tiếp tục được
đem ra thảo luận và hoàn thiện trong hội thảo Tham vấn dự thảo Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình tại Đồ Sơn, Hải Phòng từ 9/12 đến 11/12/2021.  Đặc biệt là các quy
định về bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân BLGĐ, xử lý người gây ra bạo lực cũng như các biện
pháp đảm bảo trong PCBLGĐ. 

Nội dung sửa đổi: Tại hội thảo, đại diện Ủy ban Pháp luật Quốc hội, Bộ Tư pháp,
Tòa án nhân dân tối cao, Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), một số chuyên gia về
lĩnh vực gia đình đã tập trung thảo luận, trao đổi rất sôi nổi, nhất là với những nội
dung quy định mới như: Luật này áp dụng với các trường hợp: vợ chồng kết hôn hợp
pháp; vợ chồng đã ly hôn; sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn;
Khẳng định rõ hòa giải không phải là biện pháp xử lý và đưa ra 3 cấp độ hòa giải, cơ
quan soạn thảo xin ý kiến về nội dung này; Việc quy định tính nêu gương đối với đảng
viên và công chức, viên chức…; Người có hành vi bạo lực gia đình phải học một số
quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; người nghiện rượu, bia gây
bạo lực gia đình phải thực hiện cai nghiện rượu, bia tự nguyện hoặc bắt buộc; Xử lý
người dung túng, bao che hành vi BLGĐ, quy định trách nhiệm của người đứng đầu
trong PCBLGĐ là giải pháp được đưa ra nhằm khắc phục bất cập từ sự thờ ơ, thiếu
trách nhiệm của một bộ phận trong đó có người đứng đầu đối với công tác PCBLGĐ,
xin ý kiến đại biểu về nội dung này; để bảo vệ phụ nữ sau ly hôn và bảo vệ quyền
được chăm sóc của trẻ em, dự thảo đề xuất việc cưỡng chế thực hiện cấp dưỡng.

- Đẩy mạnh thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn minh;
xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá trong đó đưa tiêu chí không có bạo lực gia

21
đình, không lạm dụng rượu bia, không có tệ nạn cờ bạc, ma tuý để công nhận gia đình
văn hóa.

- Thực hiện việc lồng ghép chương trình phòng chống bạo lực gia đình, bình
đẳng giới trong chương trình kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của các cấp, các ngành.

- Xây dựng các thiết chế gia đình bền vững để phòng tránh bạo lực gia đình,
đồng thời tăng cường vai trò Lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương,
phối hợp với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trong thực hiện phòng, chống bạo lực
gia đình và bình đẳng giới.

b/ Đối với các người trong gia đình (phụ nữ/trẻ em), nạn nhân bị bạo hành

- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền Luật Phòng, chống bạo lực gia
đình, Luật Bình đẳng giới nhằm nâng cao nhận thức tiến tới chuyển đổi hành vi của
các tầng lớp nhân dân về bạo lực gia đình.

- Giáo dục bình đẳng giới phải được thực hiện ngay từ trong gia đình đến nhà
trường và xã hội. Phải nâng cao nhận thức của cả hai giới về quyền và nghĩa vụ của họ
trong mối quan hệ với các thành viên trong gia đình.

- Phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình; vai trò của họ hàng. Duy trì sự ổn
định, đoàn kết và êm ấm trong gia đình; làm tốt công tác hòa giải mâu thuẫn, tranh
chấp giữa các thành viên gia đình.

- Ngăn chặn kịp thời và bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình; trang bị
cho nạn nhân sự hiểu biết để tự bảo vệ như: có nghề nghiệp, sự độc lập về tài chính,
trình độ học vấn, ý thức vươn lên làm chủ bản thân và gia đình, kiến thức giữ gìn hạnh
phúc gia đình, nuôi dạy con cái...

- Những mô hình PCBLGĐ như phong trào thi đua Gia đình hạnh phúc, Gia đình
không có bạo lực, Câu lạc bộ Xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững xuất hiện ngày
càng nhiều khắp cả nước và đạt được những thành công nhất định trong công tác gìn
giữ hạnh phúc gia đình, góp phần PCBLGĐ.

2.2.1.2. Nguyên nhân đạt được

22
a/ Đối với Nhà nước và các tổ chức xã hội

- Nhờ sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự tham gia
hỗ trợ của tích cực của các ngành, các cấp có liên quan và sự hưởng ứng tích cực của
đông đảo quần chúng nhân dân.

- Nhận thức của cộng đồng, chính quyền và các tổ chức, đoàn thể ngày một nâng
cao, những biện pháp phòng, chống, phê phán, lên án hành vi bạo lực gia đình đã và
đang triển khai ở cộng đồng ngày càng phát huy hiệu quả.

- Các tỉnh, thành phố, địa phương hưởng ứng tích cực kế hoạch tuyên truyền, tập
huấn công tác gia đình. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên Đài truyền thanh, tuyên
truyền gương người tốt, việc tốt; kinh nghiệm, mô hình hay về xây dựng gia đình hạnh
phúc, cộng đồng hạnh phúc.

b/ Đối với các người trong gia đình (phụ nữ/trẻ em), nạn nhân bị bạo hành

- Những địa chỉ tin cậy đã được xây dựng để tư vấn, giúp đỡ các nạn nhân khi bị
bạo lực gia đình vẫn duy trì hoạt động và được phát huy, nhất là những địa chỉ tin cậy
của Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp.

- Nhận thức của người trong mỗi gia đình đang dần thay đổi theo hướng tích cực
và xuất hiện những tấm gương điển hình, tiên tiến. Mọi người có một cái nhìn hiểu
biết hơn về hậu quả của bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em.

2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.2.2.1. Mặt hạn chế

a/ Đối với Nhà nước và các tổ chức xã hội

- Luật PCBLGĐ chưa nhận diện được đúng, đầy đủ các hành vi BLGĐ

Luật Phòng chống bạo lực gia đình hiện nay nêu khái niệm BLGĐ rất rộng. Điều
này khiến cho việc xác định hành vi BLGĐ khó chính xác, đầy đủ và dẫn đến những
cách hiểu khác nhau về PCBLGĐ. Mặt khác, Luật PCBLGĐ sử dụng khái niệm “mâu
thuẫn, tranh chấp” song không giải thích nội hàm khái niệm dẫn đến những cách hiểu
khác nhau khi xử lý vụ việc BLGĐ bởi khó phân biệt sự giống và khác nhau giữa
BLGĐ với mâu thuẫn, tranh chấp trong gia đình.

23
- Chưa quy định rõ nguyên tắc và chưa đa dạng nội dung, đối tượng, loại hình
thông tin, tuyên truyền về PCBLGĐ

Luật PCBLGĐ hiện nay chỉ quy định mục đích, yêu cầu, nội dung và hình thức
thông tin, tuyên truyền về PCBLGĐ mà chưa có quy định về nguyên tắc của công tác
này. Do đó, một số phương tiện truyền thông khi đưa tin về BLGĐ đã vi phạm quyền
riêng tư, bí mật của nạn nhân và người gây BLGĐ.

- Bất cập của công tác hòa giải trong PCBLGĐ

Luật PCBLGĐ chưa có các quy định cụ thể các tiêu chuẩn về đạo đức, chuyên
môn, kỹ năng của tổ hòa giải cũng như các điều kiện chính sách cho người thực hiện
công việc này. Người dân và cán bộ chính quyền không nắm được và không rõ khi nào
thì phải xử lý một tình huống bằng hòa giải và khi nào cần áp dụng các biện pháp
khác.

- Các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân BLGĐ chưa phù hợp với thực tiễn

Những quy định khá rắc rối, yêu cầu nhiều thủ tục gây ra trở ngại lớn cho việc áp
dụng cấm tiếp xúc đối với thủ phạm gây BLGĐ và bảo vệ nạn nhân bị bạo lực.

- Các cơ sở trợ giúp nạn nhân BLGĐ hoạt động chưa hiệu quả

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn hoạt động trợ giúp nạn nhân của các cơ
sở trợ giúp nạn nhân BLGĐ theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Luật PCBLGĐ và được
quy định tại chương 5 Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2009 trong
đó, điểm đáng chú ý là để thành lập cơ sở nói trên thì phải đáp ứng điều kiện như có
diện tích tối thiểu 30m2, có các cơ sở vật chất tối thiểu, nhân viên phải có chứng nhận
về PCBLGĐ. Những quy định trên là nguyên nhân chính của việc các cơ sở trợ giúp
nạn nhân BLGĐ chưa phát huy được hiệu quả hoặc không được thành lập vì vướng
mắc từ những quy định của Luật PCBLGĐ.

- Chưa xác định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước và trách nhiệm phối hợp trong
triển khai nhiệm vụ PCBLGĐ.

Luật PCBLGĐ cần quy định rõ trách nhiệm và biện pháp xử lý đối với người
đứng đầu trong PCBLGĐ và làm rõ cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong triển khai
nhiệm vụ PCBLGĐ.
24
- Luật PCBLGĐ chưa quy định rõ các điều kiện đảm bảo cho công tác PCBLGĐ

Hiện nay, kinh phí chi cho công tác PCBLGĐ thuộc Bộ VHTTDL hằng năm
được bố trí trong kinh phí chi cho sự nghiệp gia đình. Các hoạt động về PCBLGĐ
được bố trí đan xen, tương hỗ lẫn nhau trong lĩnh vực gia đình. Về phía địa phương
không chỉ khó khăn về tài chính mà cả nhân sự làm công tác này.

- Chưa khuyến khích xã hội hóa công tác PCBLGĐ

Các quy định của Luật PCBLGĐ cũng như các văn bản dưới Luật 28 đều chưa có
quy định rõ ràng những hoạt động cụ thể được hỗ trợ và mức hỗ trợ nên không thu hút
sự tham gia của tổ chức, cá nhân đối với hoạt động PCBLGĐ. Việc khen thưởng, chi
trả chế độ cho những người tham gia công tác PCBLGĐ cũng chưa có quy định thời
gian cụ thể.

- Chưa có quy định về xây dựng cơ sở dữ liệu về gia đình và PCBLGĐ

Việt Nam chưa có cơ sở dữ liệu tin cậy, chưa thống nhất được chỉ tiêu, chỉ số thu
thập, báo cáo thống kê về BLGĐ, chưa tạo được cơ chế chia sẻ thông tin về PCBLGĐ.
Trong khi đó, cơ sở dữ liệu về PCBLGĐ là căn cứ quan trọng để làm cơ sở xây dựng
và triển khai chính sách về PCBLGĐ. Dữ liệu được tổng hợp chính thống từ các địa
phương bị sai số ngay từ bước đầu thu thập thì những công đoạn tiếp theo có thực hiện
chính xác cũng không có giá trị sử dụng.

- Một số Điều khoản khác trong Luật PCBLGĐ chưa thống nhất hoặc có những
hạn chế nhất định làm ảnh hưởng đến tính thực thi.

b/ Đối với các người trong gia đình (phụ nữ/trẻ em), nạn nhân bị bạo hành

- Sự thiếu kiến thức về pháp luật của các thành viên trong gia đình đặc biệt là nạn
nhân BLGĐ. Quan niệm về BLGĐ của người dân hiện vẫn còn khá mơ hồ và dường
như chỉ có hành vi bạo lực về mặt thể chất mới được chú ý tới.

- Sự im lặng đến từ phía nạn nhân do tâm lý cam chịu hình thành từ thuở xưa và
sự tác động không cần thiết từ phía cộng đồng dư luận.

2.2.2.2. Nguyên nhân hạn chế

a/ Đối với Nhà nước và các tổ chức xã hội

25
- Kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật còn hạn hẹp chưa
đáp ứng được nhu cầu phổ biến giáo dục pháp luật của người dân; nguồn nhân lực
thực hiện công tác phổ biến giáo dục pháp luật còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ
chuyên môn; đặc biệt ở những vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có
điều kiện kinh tế khó khăn; hiệu quả phối hợp giữa các Bộ, ngành, cơ quan có liên
quan, trong đó có phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông trong công tác phổ biến
giáo dục pháp luật còn hạn chế. 

- Sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị trong việc trợ giúp pháp lý cho phụ nữ là
nạn nhân bạo lực gia đình có lúc, có nơi còn chưa hiệu quả. Việc thực hiện chuyển, gửi
vụ việc từ các cơ quan liên quan đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và ngược lại
chưa được thường xuyên, nội dung truyền thông về bình đẳng giới và phòng, chống
bạo lực gia đình chưa phong phú.

- Một số người thực hiện trợ giúp pháp lý ở một số địa phương chưa được đào
tạo bài bản về kỹ năng làm việc với nạn nhân bạo lực gia đình. Một số Trung tâm trợ
giúp pháp lý nhà nước chưa bố trí được địa điểm tiếp riêng cho những nạn nhân của
bạo lực gia đình, nạn nhân bị mua bán, nạn nhân bị xâm hại tình dục.

- Hiện nay hình phạt còn quá nhẹ, không tương xứng với hậu quả mà nó gây ra,
tính phòng ngừa răn đe còn hết sức hạn chế.

- Từ lâu, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm và ban hành hệ thống văn bản pháp
luật liên quan đến phòng, chống BLGĐ. Song, khách quan cho thấy, những quy định
này vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa đi sâu vào nhận thức của đại bộ phận
người dân.

b/ Đối với các người trong gia đình (phụ nữ/trẻ em), nạn nhân bị bạo hành

- Các tệ nạn xã hội mà người chồng hoặc vợ mắc phải dẫn đến bạo lực gia đình
như nghiện rượu, ma túy, cờ bạc, ... chưa được giải quyết triệt để. Những trường hợp
như gia đình kinh tế khó khăn, người chồng có tính gia trưởng, mất vị trí trụ cột trong
gia đình, con cái vi phạm pháp luật khó có thể can thiệp để phòng chống được.

26
- Sự thiếu hiểu biết về pháp luật của cả gia đình, do trình độ học vấn thấp, thiếu
hiểu biết về bình đẳng giới, mang nặng tư tưởng về định kiến giới, tất yếu dẫn đến bạo
lực gia đình (đây là nguyên nhân gốc rễ sâu xa của vấn đề ).

- Đời sống vợ chồng không được thoả mãn về tình dục dẫn đến sự phản bội trong
tình yêu và hôn nhân, ngoại tình, dẫn đến gia đình tan vỡ. Đụng chạm đến những vấn
đề nhạy cảm, riêng tư, ảnh hưởng đến tương lai sau này của gia đình nạn nhân thường
sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho công tác xử lý.

- Việc thực thi pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình hiệu quả chưa cao.
Những nạn nhân của bạo lực gia đình (chủ yếu là người phụ nữ - người vợ) có thái độ
cam chịu, không muốn tố cáo, không muốn “vạch áo cho người xem lưng”. Xem đây
là chuyện của riêng gia đình chứ không phải chuyện của xã hội.

2.3. Giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam thời gian tới

2.3.1. Đối với Nhà nước và các tổ chức xã hội

Thứ nhất, hoàn thiện văn bản pháp luật - đặc biệt là Luật phòng, chống bạo lực
gia đình. Với tình hình bạo lực gia đình ngày càng tăng trong thời gian gần đây, Nhà
nước cùng các tổ chức xã hội càng phải gay gắt hơn nữa trong công tác phòng, chống
bạo lực gia đình ở Việt Nam trong thời gian tới. Thông qua việc siết chặt và hoàn thiện
các văn bản pháp luật, nhất là Luật phòng, chống bạo lực gia đình hơn nữa cũng là một
trong những yếu tố quan trọng giúp giảm thiểu tình trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam
hiện nay và trong thời gian tới. Cụ thể hơn, vấn đề bạo lực gia đình là một vấn đề khá
tế nhị, ít công khai cùng với việc nạn nhân của bạo lực gia đình chủ yếu là phụ nữ và
trẻ em nên việc tiếp cận với các trường hợp bị bạo hành gia đình có phần khó khăn. Do
đó Nhà nước phải tiếp cận đến người dân hơn nữa nhằm phát hiện kịp thời cũng như
hoàn thiện các trường hợp vi phạm Luật phòng, chống bạo lực gia đình còn thiếu sót.
Hơn nữa, hiện nay bạo lực gia đình ngày càng tăng cả về số lượng lẫn mức độ bạo
hành một phần là do các quy định về Luật phòng, chống bạo lực gia đình còn nhiều bất
cập. Ví dụ như quy định về các hành vi bạo lực gia đình tại Điều 2 Luật Phòng, chống
bạo lực gia đình năm 2007 còn khá chung chung và chưa đầy đủ; quy định về trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong phòng, chống bạo lực gia đình
còn chưa cụ thể và không đề ra cơ chế cho việc thực thi trên thực tế; thiếu quy định về

27
biện pháp xử lý cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền không thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình… Để thấy rõ hơn tầm
quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, chúng ta
có thể nhắc đến Quyết định số 215/QĐ-TTg được Thủ tướng chính phủ ban hành vào
ngày 06/02/2014 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực
gia đình đến năm 2020 với mục tiêu: “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và
nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội trong
công tác phòng, chống bạo lực gia đình; từng bước ngăn chặn và giảm dần số vụ bạo
lực gia đình trên phạm vi toàn quốc”. Một trong những giải pháp để thực hiện mục tiêu
là: “Nâng cao năng lực quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình”.

Thứ hai, công tác giáo dục, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình. Nhà nước cùng các tổ chức xã hội phải tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Tận dụng tối đa các
phương tiện truyền thông để tuyên truyền và giáo dục về phòng chống bạo lực gia
đình, cụ thể như phổ biến về các hiện tượng cũng như giải pháp của bạo lực gia đình
qua báo, đài, tivi, loa truyền thanh… Thống kê và phổ biến các số liệu về bạo lực gia
đình nhằm ý thức người dân về tính nghiệm trọng của bạo lực gia đình. Ngoài ra, một
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bạo lực gia đình là tư tưởng trọng nam khinh nữ, phân
biệt địa vị vẫn còn tồn tại, do đó nam giới nói riêng và toàn xã hội nói chung cần được
nâng cao kiến thức về quyền lợi của phụ nữ đồng thời nằm tăng sự hiểu biết cho phụ
nữ về quyền lợi của mình, có thể nâng cao địa vị, tiếng nói của mình hơn trong xã hội.
Ta có thể thấy giáo dục và tuyên truyền có vai trò vô cùng quan trọng trong công tác
phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, để phát huy tối đa hiệu quả của công tác
tuyên truyền và giáo dục, Nhà nước nên kết hợp cùng với truyền thống văn hóa, phong
tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Đặc biệt, đối với những quan niệm “phép vua thua lệ
làng”, trình độ dân trí thấp thì việc giáo dục người dân thông qua phát huy truyền
thống tốt đẹp của gia đình sẽ mang lại hiệu quả cao hơn; vai trò của họ hàng, dòng họ
sẽ giúp làm tốt công tác hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình.
Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa.
28
Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác phòng chống bạo lực gia đình.
Nhà nước cần tổ chức huấn luyện, đào tạo đội ngũ lực lượng về công tác phòng chống
bạo lực gia đình. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về phòng chống bạo lực gia đình nhằm
nâng cao sự hiểu biết của đội ngũ phòng chống, từ đó tiếp cận dễ dàng hơn đến người
dân, giúp giảm thiểu nạn bạo lực gia đình ở Việt Nam trong thời gian tới. Xây dựng
chế độ khen thưởng, khuyến khích tham gia đào tạo, bồi dưỡng cũng như cải thiện
chất lượng đào tạo hơn nữa để mang lại những hiệu quả tích cực hơn.

Thứ tư, công tác hòa giải và phổ biến kỹ năng xử lý tình huống cho các nạn nhân
bị bạo lực gia đình. Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu, tiếp cận dễ dàng đến người
dân. Nâng cao hiểu biết và cách xử lý khi gặp trường hợp bạo lực gia đình, tổ chức các
buổi tập huấn phòng chống bạo lực gia đình… Chủ động và kịp thời hòa giải các mâu
thuẫn trong gia đình, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước…

Thứ năm, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, kinh
tế hộ gia đình. Phần lớn các cuộc bạo lực gia đình diễn ra chủ yếu liên quan đến vấn đề
kinh tế, kinh tế khó khăn cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến nạn bạo lực
gia đình. Bên cạnh các biện pháp trên, Nhà nước cần đầu tư phát triển kinh tế hơn nữa,
cải thiện đời sống người dân, mang lại một cuộc sống thoải mái. Nhất là trong tình
hình dịch

Thứ sáu, xây dựng và thúc đẩy các tổ chức chống bạo lực gia đình, các tổ chức,
điển hình là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cần hoạt động tích cực hơn nữa, mang lại
tiếng nói cho người phụ nữ trong cộng đồng, qua đó giúp giảm bớt tình trạng bạo lực
gia đình.

2.3.2. Đối với các người trong gia đình (phụ nữ/trẻ em), nạn nhân bị bạo hành

Chủ động tìm hiểu, nâng cao hiểu biết của bản thân về Luật phòng chống bạo lực
gia đình cũng như các cách xử lý khi gặp bạo lực gia đình. Ngoài ra, cần phải tuyên
truyền, phổ biến rộng rãi những kiến thức về bạo lực gia đình nhằm nâng cao nhận

29
thức của xã hội về sự nghiêm trọng của nạn bạo lực gia đình. Các người trong gia đình
cần xây dựng gia đình bình đẳng cả về kinh tế, địa vị, tiếp thu và phát huy các truyền
thống văn hóa tốt đẹp của gia đình, hướng tới xây dựng một xã hội văn mình và không
có bạo lực gia đình. Đối với những nạn nhân bị bạo hành, khi xảy ra tình trạng bị bạo
hành cần báo cáo với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu được bảo vệ về sức
khỏe, tính mạng, nhân phẩm của bản thân. Bên cạnh đó cần phối hợp, cung cấp thông
tin cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khi có yêu cầu.

Tóm tắt chương 2

Tóm lại, bạo lực gia đình là một tình trạng phổ biến hiện nay, nó xảy ra với nhiều
hình thức, điển hình như bạo lực giữa vợ chồng với nhau, giữa bố mẹ với con cái, các
thành viên khác… Nguyên nhân dẫn đến các vụ việc bạo lực gia đình bắt nguồn từ các
vấn đề về kinh tế, các tệ nạn xã hội, công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được đảm
bảo, đặc biệt là nạn bất bình đẳng giới, trọng nam khinh nữ. Bạo lực gia đình ảnh
hưởng tiêu cực đối với việc xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc. Hiện nay tình trạng
bạo lực gia đình xảy ra thường xuyên với mức độ vô cùng nghiêm trọng, ảnh hưởng
đến tính mạng và quyền lợi của con người. Công tác phòng chống bạo lực gia đình đã
đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề hạn chế và cần phải khắc
phục. Bạo lực gia đình có xu hướng giảm qua các năm gần đây, tuy nhiên việc hạn chế
bạo lực gia đình cần thực hiện triệt để hơn nữa, do đó Nhà nước cùng tất cả mọi người
phải có trách nhiệm phòng, chống bạo lực gia đình. Cụ thể như thực hiện các công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bạo lực gia đình, nghiêm khắc trong những trường
hợp vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình…

30
III. KẾT LUẬN

Gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình mang nhiều chức năng hình thành một
hệ thống xã hội thống nhất. Chính vì thế gia đình hạnh phúc, ổn định là tiền đề tạo
dựng một xã hội vững mạnh đặc biệt trong quá trình quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.

Việc xây dựng một gia đình đạt chuẩn thì phải xây dựng trên nhiều cơ sở, cơ sở
kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa và hôn nhân tiến bộ. Đây chính là tiêu chí để có được
một gia đình giúp các thành viên phát triển, từ đó mà thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

Tuy nhiên, với những bất cập, chưa ổn định vì tình trạng bạo lực gia đình còn
diễn ra khá thường xuyên hiện nay, với những mức độ khác nhau từ nghiêm trọng đến
rất nghiêm trọng ảnh hưởng vô cùng lớn tới xã hội, một phần cản trở quá trình xây
dựng xã hội nghĩa ở nước ta. Do đó sự can thiệp của nhà nước và các tổ chức với các
biện pháp khác nhau đóng vai trò rất lớn trong việc ngăn chặn tình trạng này xảy ra.
Qua thời gian ta cũng thấy được những thành quả và những hạn chế của nhà nước
trong phòng, chống bạo lực gia đình của chính phủ, tổ chức xã hội đối với việc bảo vệ
phụ nữ, trẻ em và nạn nhân và bạo hành. Nhưng cũng đã có rất nhiều mặt hạn chế
trong đó.

Vì vậy, việc tăng cường trong phòng, chống bạo lực gia đình trong công tác
tuyên truyền, giáo dục và ban hành các đạo luật liên tục là vô cùng cần thiết để tệ nạn
này không còn xảy ra thường xuyên, từ đó góp phần gia tăng tiến trình xây dựng xã
hội chủ nghĩa, kiến tạo một xã hội văn minh, hạnh phúc.

31
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà
Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

[2] NVA. (12/12/2021). Chỉ thị số 49-CT/TW về xây dựng gia đình thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Truy cập từ https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Van-hoa-Xa-hoi/Chi-thi-49-CT-TW-xay-dung-gia-dinh-thoi-ky-cong-nghiep-
hien-dai-hoa-130938.aspx.

[3] Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, các bộ môn khoa
học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. (2008). Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa
học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia.

[4] Vũ Hào Quang. (2006). Gia đình Việt Nam – Quan hệ quyền lực và xu hướng
biến đổi. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia.

[5] Trường Đại học Luật Hà Nội. (2009). Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình
Việt Nam. Hà Nội: NXB Công an nhân dân.

[6] Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 được Quốc hội ban hành ngày
21/11/2007. Trích nguồn từ:
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?
class_id=1&_page=3&mode=detail&document_id=51256

[7] Phòng Văn hóa và Thông tin quận Tân Bình. (30/06/2021). Bài tuyên truyền về
vấn đề Phòng, chống bạo lực gia đình: Thực trạng bạo lực gia đình và một số quy
định pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Truy cập từ
https://tanbinh.hochiminhcity.gov.vn/web/neoportal/van-hoa-thong-tin/-/
asset_publisher/VN5j2Vj9DHkT/content/bai-tuyen-truyen-ve-van-e-phong-chong-
bao-luc-gia-inh-thuc-trang-bao-luc-gia-inh-va-mot-so-quy-inh-phap-luat-ve-phong-
chong-bao-luc-gia-inh

32
[8] Giang Long. (22/07/2020). Để hạn chế vấn nạn bạo lực gia đình. Truy cập từ
https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/de-han-che-van-nan-bao-luc-gia-dinh-
627655

[9] Huỳnh Thị Phúc. (04/01/2020). Luận văn: Pháp luật về phòng chống bạo lực
gia đình tại Đà Nẵng. Truy cập từ https://www.slideshare.net/trongthuy1/luan-van-
phap-luat-ve-phong-chong-bao-luc-gia-dinh-tai-da-nang

[10] Nguyễn Quốc Sử. (20/08/2020). Những hạn chế, bất cập của Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình. Truy cập từ https://trangtinphapluat.com/blog/bai-viet-
hay/hon-nhan-va-gia-dinh/nhung-han-che-bat-cap-cua-luat-phong-chong-bao-luc-
gia-dinh/

[11] Nguyễn Mạnh Thân. (16/04/2020). Bạo lực gia đình và một số giải pháp
phòng tránh bạo lực gia đình. Truy cập từ
https://phunu.khanhhoa.gov.vn/article/goc-tu-van/bao-luc-gia-dinh-va-mot-so-giai-
phap-phong-tranh-bao-luc-gia-dinh.html

[12] Những trở ngại/ khó khăn trong các hoạt động trợ giúp đối với nạn nhân bị
bạo lực gia đình. Truy cập từ http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/nhung-tro-ngai-kho-
khan-trong-cac-hoat-dong-tro-giup-doi-voi-nan-nhan-bi-bao-luc-gia-dinh/

[13] Hội thảo chuyên gia góp ý xây dựng Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa
đổi). Truy cập từ http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/hoi-thao-chuyen-gia-gop-y-xay-
dung-luat-phong-chong-bao-luc-gia-dinh-sua-doi/

[14] Quyết định số 215/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Chương trình
hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020 được ban
hành ngày 06/02/2014. Truy cập từ https://luatminhkhue.vn/quyet-dinh-215-qd-ttg-
nam-2014-phe-duyet-chuong-trinh-hanh-dong-quoc-gia-ve-phong--chong-bao-luc-
gia-dinh-den-2020-do-thu-tuong-chinh-phu-ban-hanh.aspx#:~:text=Gi%E1%BB
%9Bi%20thi%E1%BB%87u-,Quy%E1%BA%BFt%20%C4%91%E1%BB%8Bnh
%20215%2FQ%C4%90%2DTTg%20n%C4%83m%202014%20ph%C3%AA
%20duy%E1%BB%87t%20Ch%C6%B0%C6%A1ng,t%C6%B0%E1%BB%9Bng
%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20ban%20h%C3%A0nh

33
[15] Trung Kiên. (25/11/2016). Giải pháp phòng chống bạo lực gia đình. Truy cập
từ http://www.hoinongdan.org.vn/sitepages/news/1145/48384/giai-phap-phong-
chong-bao-luc-gia-dinh

[16] TS. Trần Tuyết Ánh, Vụ trưởng Vụ Gia đình. Bộ Tư pháp: Đề xuất các giải
pháp Hoàn thiện luật pháp và chính sách liên quan đến bạo lực gia đình. Truy cập
từ http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/bo-tu-phap-de-xuat-cac-giai-phap-hoan-thien-luat-
phap-va-chinh-sach-lien-quan-den-bao-luc-gia-dinh/

[17] Cơ sở xây dựng gia đình trong thời quá độ. truy cập từ: https://vndoc.com/co-
so-xay-dung-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-
253691#:~:text=C%C6%A1%20s%E1%BB%9F%20ch%C3%ADnh%20tr
%E1%BB%8B%20%C4%91%E1%BB%83,bi%E1%BB%87t%20gi%E1%BB
%AFa%20nam%20v%C3%A0%20n%E1%BB%AF.

[18] Phòng văn hóa và thông tin, Bài tuyên truyền về vấn đề phòng, chống bạo lực
gia đình. truy cập từ:https://vndoc.com/co-so-xay-dung-gia-dinh-trong-thoi-ky-
qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-253691#:~:text=C%C6%A1%20s%E1%BB%9F
%20ch%C3%ADnh%20tr%E1%BB%8B%20%C4%91%E1%BB%83,bi%E1%BB
%87t%20gi%E1%BB%AFa%20nam%20v%C3%A0%20n%E1%BB%AF.

[19] Đặng Hồng Thủy, Bài tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình, truy cập
từ:http://ledaihanh.haibatrung.hanoi.gov.vn/an-ninh-quoc-phong/-/asset_publisher/
UByp2W88WPKe/content/bai-tuyen-truyen-ve-van-e-phong-chong-bao-luc-gia-
inh?_101_INSTANCE_UByp2W88WPKe_viewMode=view#:~:text=Theo%20quy
%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20t%E1%BA%A1i%20Kho%E1%BA%A3n,h
%E1%BB%A3p%20v%E1%BB%9Bi%20truy%E1%BB%81n%20th%E1%BB
%91ng%20v%C4%83n

34

You might also like