You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

1
MỤC LỤC
Contents
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH..................................1
Phần 1. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự.................................................4
Câu 1. Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự?....4
Câu 2. Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và
BLDS 2015 không? Vì sao?.....................................................................................4
Phần 2. Tuyên bố cá nhân đã chết:............................................................................4
 Tóm tắt Quyết định số 272/2018/QĐST - DS......................................................4
 Tóm tắt Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS........................................................5
 Tóm tắt quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án nhân
dân huyện C, tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An)..............................................6
Câu 1. Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và
tuyên bố một người là đã chết..................................................................................6
Câu 2. Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời
hạn bao lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?.............................................9
Câu 3. Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên
bố chết biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao?..............................................................9
Câu 4. Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân?
Nêu cơ sở pháp lý và ví dụ minh hoạ.....................................................................10
Câu 5. Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào?
Đoạn nào của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả
lời?........................................................................................................................... 10
Câu 6. Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định năm 2018 và
2019), pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào ?............................10
Câu 7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết
định trên (quyết định năm 2018 và 2019)..............................................................11
Câu 8. Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và tòa
án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 có
phù hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.................................11
Câu 9. Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H
có còn được coi là vợ chồng nữa không? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời...............12
Câu 10. Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý
như thế nào sau khi có quyết định năm 2020? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời.......12
Phần 3: Tổ hợp tác....................................................................................................12

2
 Tóm tắt : Bản án số 02/2021/DS-PT ngày 11/1/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Nông................................................................................................................. 12
Câu 1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy
nghĩ của anh/chị về những điểm mới này..............................................................13
Câu 2. Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác?...............15
Câu 3. Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà
H)? Hướng xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời..........................................................................................15
Câu 4. Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có
thuyết phục không ? Vì sao....................................................................................16

Quy ước mục viết tắt:


 BLDS 2015: Bộ luật Dân sự năm 2015
 BLDS 2005: Bộ luật Dân sự năm 2005

Tài liệu tham khảo


 BLDS 2015
 BLDS 2005
 Giáo trình Những quy định chung về Luật dân sự của ĐH Luật TP. HCM

3
Phần 1. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự.
Câu 1. Những quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự?
* Những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự:
1. Quan hệ tài sản:
- Quan hệ sở hữu tài sản.
- Quan hệ về về dịch chuyển lợi ích vật chất từ chủ thể này sang chủ đề khác.
- Quan hệ bồi thường thiệt hại.
- Quan hệ dịch chuyển tài sản sản của người chết cho người khác còn sống.
2. Quan hệ nhân thân:
- Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản: danh dự, nhân phẩm, uy tín; bí mật đời tư;
quyền hiến xác; quyền xác định giới tính.
- Quan hệ nhân thân gắn với tài sản: quyền tác giả; quyền sở hữu công nghiệp; quyền
đối với giống cây trồng.
Câu 2. Quan hệ giữa A và B trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và
BLDS 2015 không? Vì sao?
- Theo Điều 1 BLDS 2005 và Điều 1 BLDS 2015 quy định, ta thấy giao dịch dân sự
được xác lập giữa A và B không dựa trên nguyên tắc bình đẳng tự nguyện nên quan hệ
dân sự giữa A và B không thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 2005 và BLDS 2015.

Phần 2. Tuyên bố cá nhân đã chết:


Tóm tắt Quyết định số 272/2018/QĐST - DS
Bà T và ông C là vợ chồng, bà T và ông C có 01 con chung là Trần Minh T;
cha mẹ ông C là Trần Văn N (chết năm 1987) và bà Nguyễn Thị B (chết ngày
04/12/2017). Cuối năm 1985, ông C bỏ nhà đi biệt tích, không có tin tức, gia đình bà
T đã tổ chức tìm kiếm, nhưng vẫn không có tin tức gì của ông C. Vì thế, bà T đã làm
đơn yêu cầu tòa án tuyên bố ông C đã chết.
Tại đơn xác nhận ngày 23/8/2017, Công an phường Phước Bình, Quận 9 xác
nhận ông C có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường Phước Bình, quận Thủ Đức
(nay là phường Phước Bình, Quận 9), Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1976 đến năm
1985. Đã xóa khẩu không còn quản lý tại địa phương.
Ngày 26/10/2017, Tòa án nhân dân Quận 9 ban hành Thông báo tìm kiếm
thông tin về người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết số 490/TB-TA trên Báo Công lý số
95 ngày 29/11/2017, số 96 ngày 01/12/2017, số 97 ngày 06/12/2017 và nhắn tin trên
Đài tiếng nói Việt Nam ngày 23, 24, 25/11/2017 nhưng đến nay vẫn không có tin tức
gì của ông C.
Căn cứ quy định của pháp luật, Tòa án quyết định:
4
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Bùi Thị T.
Tuyên bố ông Trần Văn C, nơi cư trú cuối cùng: phường Phước Bình, Quận 9, Thành
phố Hồ Chí Minh là đã chết. Ngày chết của ông C là ngày 01/01/1986.
Quan hệ hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của ông Trần Văn C được
giải quyết như đối với người đã chết.
Quan hệ tài sản của ông Trần Văn C được giải quyết theo quy định của pháp luật về
thừa kế.
2. Lệ phí giải quyết vụ việc dân sự: Bà Bùi Thị T đã nộp đủ lệ phí.
Bà Bùi Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết
định; ông Trần Minh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định hoặc được tổng đạt hợp lệ.
Tóm tắt Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội mở
phiên họp sơ thẩm công khai giải quyết việc dân sự thụ lý số 78/2019/TLST-DS ngày
28 tháng 8 năm 2019 về việc “yêu cầu tuyên bố ông Phạm Văn C đã chết” theo Quyết
định mở phiên họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 104/QĐST-VDS ngày 01 tháng
11 năm 2019. 

Người yêu cầu giải quyết việc dân sự: Bà Phạm Thị K.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Ngọc C, bà Phạm Thị P,
bà Phạm Thị M, ông Phạm Ngọc L, ông Phạm Ngọc L1, ông Phạm Đức S, bà Phạm
Thị Mai H. 

Theo trình bày của bà K trong nội dung vụ việc như sau: Bố của bà là ông
Phạm Văn C, sinh năm 1927, Hộ khẩu thường trú tại phường Bạch Mai, quận Hai Bà
Trưng, Hà Nội đã bỏ nhà đi từ tháng 01 năm 1977 từ đó đến nay không trở về nhà. Từ
khi cụ C bỏ nhà đi, gia đình bà K đã tổ chức tìm kiếm nhiều lần nhưng không có kết
quả. Năm 2008 gia đình đã đăng tin tìm kiếm trên Báo Hà Nội mới, Đài Truyền hình
Trung Ương nhưng cũng không có tin tức gì. Cụ C đã nghỉ hưu từ năm 1975, lương
hưu của cụ C do Bảo hiểm xã hội Quận Hai Bà Trưng chi trả đến tháng 3 năm 1997.
Nay bà K yêu cầu Tòa án tuyên bố cụ Phạm Văn C là đã chết. Những người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan cũng nhất trí với bà K, yêu cầu Tòa án tuyên bố cụ Phạm Văn
C là đã chết, đồng thời ủy quyền cho bà K quyết định những vấn đề có liên quan trong
việc giải quyết yêu cầu tuyên bố cụ C là đã chết và nhận thay các văn bản tố tụng của
Tòa án trong quá trình giải quyết.

5
Tóm tắt quyết định số 02/2020/QĐST-DS ngày 13/01/2020 của Tòa án
nhân dân huyện C, tỉnh A (huyện Cần Đước, tỉnh Long An)
Ông H và Bà T là vợ chồng , từ nằm 2008 2 người có mâu thuẫn với nhau nên ông
H đã đến tỉnh lâm đồng sinh sống không còn liên lạc với gia đình . Tại quyết định
số: 01/2011/QĐ-MPH ngày 02/3/2011Tòa án nhân dân huyện C đã tuyên bố mất
tích. Tại quyết định số: 01/2015/QĐVDS-ST ngày 20/5/2015 Tòa án nhân dân
huyện C đã tuyên bố H đã chết và tại bản án số: 28/2011/HNST ngày 14/6/2011
Tòa án nhân dân huyện C đã cho ly hôn giữa Bà T và Ông H. Ngày 20/11/2019
Ông Đ H đã trở về sinh sống tại A, xã L, huyện C và có đơn yêu cầu hủy quyết
định tuyên bố một người là đã chết . Bà T thừa nhận việc ông H vẫn còn sống và
đồng ý yêu cầu hủy quyết định tuyên bố 1 người là đã chết. Và sau khi nghiên cứu
các tài liệu , chứng cứ thì toà án nhân dân huyện c nhận định ông H còn sống và
hủy bỏ quyết định tuyên bố 1 người đã chết theo điều 395 Bộ luật tố tụng Dân sự
và ông H phải chịu 300.000 lệ phí việc dân sự sơ thẩm .

Câu hỏi và trả lời:


Câu 1. Những điểm giống và khác nhau giữa tuyên bố một người mất tích và tuyên
bố một người là đã chết
Tuyên bố mất tích Tuyên bố chết

Cơ sở Điều 68, 69, 70 BLDS 2015 Điều 71,72,73 BLDS 2015


pháp lý

Khái Mất tích là sự thừa nhận của Tòa Tuyên bố chết là sự thừa nhận của
niệm án về tình trạng biệt tích của một Tòa án về cái chết đối với một cá
cá nhân. Dựa trên cơ sở có đơn yêu nhân. Khi cá nhân đó đã biệt tích
cầu của người có quyền và lợi ích trong thời hạn theo luật định trên cơ
liên quan. sở đơn yêu cầu của người có quyền
và lợi ích liên quan.

Điều Điều kiện tuyên bố mất tích Điều kiện tuyên bố chết:
kiện  Cơ sở pháp lý: Điều 68  Cơ sở pháp lý: Điều 71
tuyên BLDS 2015 BLDS 2015
bố  Nội dung:  Nội dung:
 Theo yêu cầu của người có  Theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan đến quyền, lợi ích liên quan.
Tòa án.  Đáp ứng đủ điều kiện tại 1
 Một người biệt tích 02 năm trong 04 trường hợp sau:
liền trở lên.  Sau 03 năm, kể từ ngày
 Đã áp dụng đầy đủ các biện quyết định tuyên bố mất
pháp thông báo, tìm kiếm tích của Tòa án có hiệu lực
theo quy định của pháp luật pháp luật mà vẫn không có
về tố tụng dân sự nhưng vẫn tin tức xác thực là còn

6
không có tin tức xác thực về sống.
việc người đó còn sống hay  Biệt tích trong chiến tranh
đã chết. sau 05 năm, kể từ ngày
 Lưu ý: Thời hạn 02 năm chiến tranh kết thúc mà
được hiểu là vẫn không có tin tức xác
 Ngày biết được tin tức cuối thực là còn sống.
cùng về người đó.  Bị tai nạn hoặc thảm họa,
 Không xác định được ngày thiên tai mà sau 02 năm, kể
thì thời hạn này được tính từ từ ngày tai nạn hoặc thảm
ngày đầu tiên của tháng tiếp họa, thiên tai đó chấm dứt
theo tháng có tin tức cuối vẫn không có tin tức xác
cùng. thực là còn sống, trừ
 Không xác định được ngày, trường hợp pháp luật có
tháng thì thời hạn được tính quy định khác.
từ ngày đầu tiên của năm  Biệt tích 05 năm liền trở
tiếp theo năm có tin tức cuối lên và không có tin tức xác
cùng. thực là còn sống; thời hạn
này được tính theo quy
định tuyên bố mất tích.

Hậu Hậu quả pháp lý khi tuyên bố mất Hậu quả pháp lý khi tuyên bố chết:
quả tích:  Chấm dứt tư cách chủ thể của
pháp lý  Tạm đình chỉ tư cách chủ người chết đối với mọi quan
thể của người bị tuyên bố hệ pháp luật mà người đó
mất tích (không làm chấm tham gia với tư cách chủ thể.
dứt tư cách chủ thể của họ).  Tài sản của người tuyên bố
 Tài sản người bị tuyên bố chết được giải quyết theo pháp
mất tích sẽ được chuyển luật về thừa kế (Điều 72
sang người quản lý tài sản BLDS 2015).
của người bị tuyên bố mất
tích (Điều 65, 66, 67 và 69
BLDS 2015).
 Vợ/chồng của người bị mất
tích yêu cầu ly hôn thì Tòa
án cho phép họ ly hôn
(Khoản 2 Điều 8 BLDS
2015).

Hủy bỏ Hủy bỏ quyết định tuyên bố mất Hủy bỏ quyết định tuyên bố chết:
quyết tích:
định và  Cơ sở pháp lý: Điều 73 BLDS
hậu  Cơ sở pháp lý: Điều 70 2015
quả BLDS 2015  Nội dung:
 Nội dung:  Khi một người bị tuyên bố
 Khi người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có

7
mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người
tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu
đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của
cầu của người đó hoặc người có quyền, lợi ích
của người có quyền, lợi liên quan, Tòa án ra quyết
ích liên quan, Tòa án ra định hủy bỏ quyết định
quyết định hủy bỏ quyết tuyên bố người đó là đã
định tuyên bố mất tích chết.
đối với người đó  Quan hệ nhân thân của
 Người bị tuyên bố mất người bị tuyên bố là đã
tích trở về được nhận lại chết được khôi phục khi
tài sản do người quản lý Tòa án ra quyết định hủy
tài sản chuyển giao sau bỏ quyết định tuyên bố
khi đã thanh toán chi phí người đó là đã chết, trừ
quản lý trường hợp sau đây:
 Trường hợp vợ hoặc  Vợ hoặc chồng của
chồng của người bị người bị tuyên bố là đã
tuyên bố mất tích đã chết đã được Tòa án
được ly hôn thì dù người cho ly hôn theo quy
bị tuyên bố mất tích trở định tại khoản 2 Điều
về hoặc có tin tức xác 68 của Bộ luật này thì
thực là người đó còn quyết định cho ly hôn
sống, quyết định cho ly vẫn có hiệu lực pháp
hôn vẫn có hiệu lực pháp luật.
luật.  Vợ hoặc chồng của
 Quyết định của Tòa án người bị tuyên bố là đã
hủy bỏ quyết định tuyên chết đã kết hôn với
bố một người mất tích người khác thì việc kết
phải được gửi cho Ủy hôn đó vẫn có hiệu lực
ban nhân dân cấp xã nơi pháp luật.
cư trú của người bị tuyên  Người bị tuyên bố là đã
bố mất tích để ghi chú chết mà còn sống có
theo quy định của pháp quyền yêu cầu những
luật về hộ tịch. người đã nhận tài sản
thừa kế trả lại tài sản,
giá trị tài sản hiện còn.
Trường hợp người thừa kế của người
bị tuyên bố là đã chết biết người này
còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm
hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn
trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa
lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải

8
bồi thường.
 Quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng được giải quyết theo
quy định của Bộ luật này, Luật
hôn nhân và gia đình.
 Quyết định của Tòa án hủy bỏ
quyết định tuyên bố một người
là đã chết phải được gửi cho
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
cư trú của người bị tuyên bố là
đã chết để ghi chú theo quy
định của pháp luật về hộ tịch.

Câu 2. Một người biệt tích và không có tin tức xác thực là còn sống trong thời hạn
bao lâu thì có thể bị Tòa án tuyên bố là đã chết?
 Theo khoản 1 Điều 71 BLDS 2015 quy định:
Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố
một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
- Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực
pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.
- Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn
không có tin tức xác thực là còn sống.
- Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc
thảm họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn
này được tính theo quy định tuyên bố mất tích.
Câu 3. Trong các vụ việc trên (quyết định năm 2018 và 2019), cá nhân bị tuyên bố
chết biệt tích từ thời điểm nào? Vì sao?
 Thứ nhất: Theo quyết định số 272/2018/QĐST-DS
- Ông Trần Văn C bỏ nhà đi biệt tích từ 1985.
- Vì cuối năm 1985 vẫn không có tin tức gì nên gia đình và vợ ông C là bà T đã
tổ chức tìm kiếm tung tích, nhưng vẫn không có tin tức gì của ông C.
 Thứ hai: Theo quyết định số 94/2019/QĐST-VDS:
- Cụ Phạm Văn C biệt tích từ tháng 1/1997.

9
- Vì cụ bỏ nhà đi từ tháng 1/1997 đến nay không trở về nhà. Gia đình bà K
nhiều lần nhưng không có kết quả. Năm 2008, gia đình bà đã đăng tin tìm Nội
mới, Đài Truyền hình Trung Ương nhưng không có tin tức gì.
Câu 4. Cho biết tầm quan trọng của việc xác định ngày chết của một cá nhân? Nêu
cơ sở pháp lý và ví dụ minh hoạ.
- Việc xác định ngày chết của một cá nhân sẽ là căn cứ pháp lý cho việc xác
định quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người đó như: tranh chấp tài sản
minh bạch và rõ ràng, không thể không xác định ngày chết.
- Căn cứ điều 72 của BLDS 2015 về việc xác định quan hệ nhân thân sản của
người bị Tòa án tuyên bố là đã chết:
+ Khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực
pháp lý về hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người
đó được giải quyết như đối với người đã chết.
+ Quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết được giải
quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết
theo quy định của pháp luật về thừa kế.
- Ví dụ: Quyết định số 272/2018/QĐST-DS về việc tuyên bố ông Trần Văn C
chết là ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng. Như vậy ngày
chết của ông C là ngày 01/01/1986.
Câu 5. Tòa án xác định ngày chết của các cá nhân bị tuyên bố chết là ngày nào?
Đoạn nào của các Quyết định trên (quyết định năm 2018 và 2019) cho câu trả lời?
- Quyết định số 272/2018/QĐST-DS: ngày chết của ông C là ngày 01/01/1986
qua đoạn: “Về việc xác định ngày chết của ông C; bà T và ông T xác định ông
c bỏ đi cuối năm 1985, Công an phường Phước Bình không xác định được
ngày, tháng ông C vắng mặt tại địa phương. Đây thuộc trường hợp không xác
định được ngày, tháng có tin tức có tin tức cuối cùng của ông C. Do đó ngày
chết của ông C được tính là ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối
cùng. Như vậy ngày chết của ông C là ngày 01/01/1986.”
- Quyết định số 94/2019/QĐST-VDS: ngày chết của cụ C là ngày 01/05/1997
qua đoạn: “ Tuyên bố cụ Phạm Văn C, sinh năm 1927; hộ khẩu thường trú:
phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, đã chết từ ngày
01/5/1997.”
Câu 6. Đối với hoàn cảnh như trong các quyết định trên (quyết định năm 2018 và
2019), pháp luật nước ngoài xác định ngày chết là ngày nào ?
- Mỗi quốc gia có một quy định khác nhau về việc xác định ngày chết của cá
nhân khi bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
- Do một hay nhiều nguyên nhân dẫn đến một người bị mất tích hoặc chết, nên
việc xác định một người mất tích hoặc chết là một vấn đề quan trọng đối với

10
việc giải quyết quyền lợi và nghĩa vụ của những người còn sống liên quan đến
quan hệ hôn nhân, quan hệ thừa kế. Theo thông lệ chung thì Tòa án là nơi có
thẩm quyền tuyên bố một người nước ngoài là mất tích hoặc chết đều liên quan
đến pháp luật của nước họ mang quốc tịch nhưng cần phải có cơ sở pháp lý để
Tòa án giải quyết các vụ việc một cách cụ thể.
- Nhằm để tạo ra cơ sở pháp lý cho việc chọn pháp luật áp dụng khi xác định
một người mất hoặc chết thì ta căn cứ tại Điều 764 BLDS 2015 quy định rằng:
“1. Việc xác định một người mất tích hoặc chết phải tuân theo pháp luật của nước mà
người đó có quốc tịch vào thời điểm trước khi có tin tức cuối cùng về việc mất tích
hoặc chết.
2. Trong trường hợp người nước ngoài cư trú tại Việt Nam thì việc xác định người đó
mất tích hoặc chết phải tuân theo pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Câu 7. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định ngày chết trong các Quyết
định trên (quyết định năm 2018 và 2019).
- Quyết định của Tòa án là chính xác và hợp lý. Đã vận dụng tốt điểm d khoản
1 Điều 71 BLDS năm 2015: “Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức
xác th thì bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
- Ông C biệt tích từ cuối năm 1985, đến nay đã đăng thông tin tìm kiếm tin tức.
Vì vậy, ngày chết của ông là ngày 1/1/1986.
- Cụ C bỏ nhà ra đi vào tháng 1/1997 đến nay không có tin tức mặc dù đã đăng
báo và thông tin trên Đài Truyền hình để tìm kiếm. Vì vậy, Tòa án xác định
ngày chết của ông là ngày 01/05/1997.
Câu 8. Cho biết căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết và tòa
án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm 2020 có phù
hợp với quy định không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời
- Theo khoản 1 Điều 73 BLDS 2015, căn cứ để hủy bỏ quyết định tuyên bố một
người là đã chết: “Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức
xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có
quyền, lợi ích liêu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố
người đó là đã chết”.
 Tòa án tuyên hủy quyết định tuyên bố ông H đã chết trong quyết định năm
2020 là phù hợp. Vì:
+ Ngày 20/11/2019, ông Đ H đã trở về sinh sống tại A, xã L, huyện C và có
đơn yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là đã chết.
+ Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà N T cũng thừa nhận ông Đ H
vẫn còn sống và đồng ý yêu cầu hủy quyết định tuyên bố một người là đã chết.

11
Câu 9. Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H
có còn được coi là vợ chồng nữa không? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Đối với vụ việc được giải quyết trong quyết định năm 2020, bà T và ông H
không còn được coi là vợ chồng. Vì theo khoản 2 điều 73 BLDS 2015 quy định: “Vợ
hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định
tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp
luật”.
Câu 10. Nếu ông H có tài sản, quan hệ về tài sản trước đây của ông H được xử lý
như thế nào sau khi có quyết định năm 2020? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời.
“Trong quyết định năm 2020 vì ông H xác định không có tài sản nên không yêu cầu
giải quyết hậu quả pháp lý có liên quan đến quyết định tuyên bố một người đã chết”.
Câu hỏi ở đây là nếu ông H có tài sản thì tài sản của ông sẽ được xử lí theo quy định
của khoản 3 và khoản 4 Điều 743 BLDS 2015 như sau:
Khoản 3: Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã
nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống
mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản
đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Khoản 4: Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật
này, Luật hôn nhân và gia đình.

Phần 3: Tổ hợp tác


Tóm tắt : Bản án số 02/2021/DS-PT ngày 11/1/2021 của Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Nông
- Nguyên đơn : Ông Th
- Bị đơn : Tổ trưởng Tổ hợp tác X, xã N: Ông L
- Nội dung vụ án :Tổ hợp tác X xã N (sau đây viết tắt là THT ) ký hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất của ông Th.Sau khi ký kết hợp đồng và chứng thực tại Ủy
ban nhân dân xã N, ông Th đã tiến hành phá bỏ một số cây trồng và tài sản
khác trên đất. Tuy nhiên sau đó, ông nhận được thông báo hợp đồng thuê đất
được chấm dứt. Ông Th không đồng ý với thông báo này của THT.
- Yêu cầu của nguyên đơn : Yêu cầu THT phải bồi thường thiệt hại về cây cối
trước và sau khi giải phóng mặt bằng với số tiền 50.400.000 đồng.
- Hướng xử lý của Tòa án : Tòa sơ thẩm Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của ông Th.Tòa án cấp phúc thẩm Chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn
Thế Th, hủy Bản án dân sự sơ thẩm.

12
Câu hỏi và trả lời
Câu 1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy
nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.
 Thứ nhất, về chủ thể :
- BLDS 2005 thì tổ hợp tác được xem là có tư cách pháp nhân nếu có đủ điều
kiện và đăng ký pháp lý theo quy định của pháp luật.
- BLDS 2015 không quy định tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự,
chỉ cá nhân và pháp nhân mới là chủ thể, vì không là chủ thể nên cũng không
có tư cách pháp nhân. Do đó, việc xác lập giao dịch dân sự phải do người đại
diện theo ủy quyền thực hiện. Trường hợp thành viên của tổ hợp tác không có
tư cách pháp nhân tham gia giao dịch dân sự không được các thành viên khác
ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể tham gia giao dịch,
xác lập.
 Nhìn chung, quy định này phù hợp với tinh thần chung của BLDS năm 2015,
đó là chỉ có cá nhân hoặc pháp nhân mới là chủ thể của quan hệ pháp luật dân
sự. Đây là một bước tiến mới của BLDS năm 2015 nhằm phân định rõ trách
nhiệm dân sự của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ dân sự.
 Thứ 2, về người đại diện:
- BLDS 2005 người đại diện là tổ trưởng do các tổ viên cử ra, tổ trưởng có thể
ủy quyền cho tổ viên thực hiện một số công việc nhất định cần thiết cho tổ.
- BLDS 2015, người đại diện là người được các thành viên khác ủy quyền, người
đại diện chỉ có quyền thực hiện giao dịch khi được các thành viên khác ủy
quyền. Việc ủy quyền phải lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác Khoản 1 Điều 101. Quy định này đòi hỏi phải có sự uỷ quyền của các
thành viên khác thì thành viên được uỷ quyền mới có thể trở thành chủ thể
quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư cách pháp
nhân.
 Quy định này vô hình trung đã tạo nên sự mâu thuẫn và làm vô hiệu hoá quy
định tại đoạn thứ nhất. Vậy câu hỏi đặt ra là có hay không cho phép thành viên
là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân khi không có sự uỷ quyền từ các
thành viên khác.

 Thứ 3, về trách nhiệm dân sự :


- BLDS 2015 xác định quan hệ dân sự của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân giúp làm rõ trách nhiệm dân sự của các thành viên
hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ
dân sự đó. Cụ thể là nghĩa vụ dân sự phát sinh từ việc tham gia quan hệ dân sự
của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân được bảo
đảm thực hiện bằng tài sản chung của các thành viên. Trường hợp các thành

13
viên không có hoặc không đủ tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ chung thì
người có quyền có thể yêu cầu các thành viên thực hiện nghĩa vụ liên đới theo
quy định tại Điều 288 BLDS 2015. Hoặc nếu các bên không có thỏa thuận, hợp
đồng hợp tác hoặc luật không có quy định khác thì các thành viên sẽ chịu trách
nhiệm dân sự theo phần tương ứng với phần đóng góp tài sản của mình; trường
hợp không xác định được theo phần tương ứng thì xác định theo phần bằng
nhau. Nói cách khác, các thành viên không còn phải chịu trách nhiệm liên đới
vô hạn bằng tài sản riêng của mình, thay vào đó là trách nhiệm liên đới theo
phần.
- BLDS 2005 quy định tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự nhưng
không làm rõ trách nhiệm pháp lý của các thành viên liên quan đã làm phát
sinh nhiều bất cập, vướng mắc trong hội nhập quốc tế, trong đó có việc gây khó
khăn cho chính các chủ thể là cá nhân, pháp nhân Việt Nam trong việc bảo vệ
quyền dân sự của mình liên quan đến các hoạt động đầu tư, xác lập, chấm dứt
quyền sở hữu, thừa kế... có yếu tố nước ngoài.
 Ở đây BLDS 2015 đã bổ sung quy định về hậu quả pháp lý đối với giao dịch
dân sự do thành viên không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện
xác lập. Điều 104 quy định: Nếu thành viên không có quyền đại diện mà xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự nhân danh các thành viên khác của hộ gia đình,
tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân hoặc người đại diện xác
lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện thì giao dịch dân sự đó vô hiệu đối với
phần nội dung không có quyền đại diện. Nói cách khác, phần nội dung giao
dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.
 Thứ 4, về thành viên tham gia :
- Điều 110 BLDS 2005 quy định tổ viên của tổ hợp tác là những người cùng góp
công sức trong việc tham gia sản xuất, kinh doanh, cùng hưởng lợi và cùng
chịu trách nhiệm. Thực tiễn tìm hiểu cho thấy, các tổ viên tham gia tổ hợp tác
không đảm bảo tiêu chí này. Các tổ viên tham gia tổ hợp tác rất đa dạng. Đối
với những người không có quan hệ huyết thống, họ hàng thì các thành viên
tham gia tổ hợp tác với danh nghĩa là nơi sinh hoạt, trao đổi kinh nghiệm, cùng
tìm các giải pháp để nâng cao sản xuất, đầu ra cho sản phẩm hoặc các tổ viên
chỉ là “lao động” làm thuê cho tổ trưởng mà không có hoạt động sản xuất, kinh
doanh chung.
- BLDS 2015 không nêu những quy định về nhận tổ viên mới, ra khỏi tổ hợp tác
hay chấm dứt tổ hợp tác như ở Bộ luật 2005,dừng lại quy định việc bầu, thay
đổi tổ trưởng phải thông báo với UBND cấp xã/phường nơi chứng thực hợp
đồng hợp tác. Đối với việc kết nạp mới, thay đổi, chấm dứt tổ viên thì vấn đề
thông báo không đặt ra.
 Điều này cho thấy sự chưa công khai tư cách thành viên gây khó khăn trong
việc xác định một cá nhân có phải là tổ viên của tổ hợp tác trên thực tế. Nhìn
chung, những điểm mới về tổ hợp tác trong BLDS 2015 đã thể hiện được sự
tiến bộ và khắc phục được phần nào những hạn chế, tiêu cực ở BLDS 2005:

14
+ Thứ nhất, loại bỏ tư cách chủ thể của tổ hợp tác, điều này đã giảm được nhiều
bất cập trong thực tiễn xét xử vì tổ hợp tác là một tập hợp các cá nhân có quan hệ với
nhau về tài sản, số lượng cá thể không phải dừng lại mà là bất biến, có thể xảy ra thêm
bớt thành viên, ý chí có thể không đồng nhất.
+ Thứ hai, khi tham gia giao dịch dân sự nếu coi tổ hợp tác là chủ thể có tư cách
pháp nhân thì sẽ gây khó khăn cho việc chủ thể tham gia giao dịch với tư cách cá
nhân, như vậy vấn đề tài sản chung hay riêng cũng dễ xảy ra tranh chấp.
+ Thứ ba, trên thực tế xét xử chưa có vụ kiện nào có nguyên đơn hoặc bị đơn là tổ
hợp tác. Hơn nữa, Khoản 1 Điều 56 BLTTDS chỉ quy định, đương sự trong vụ án dân
sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan (tổ hợp tác không được xác định là đương sự trong vụ án dân sự). Vì vậy
việc loại bỏ tư cách là chủ thể của tổ hợp tác là hợp lý.

Câu 2. Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác?
- Trong bản án, đoạn cho thấy giao dịch được xác lập giữa ông Th và bà H với
THT là : “Tại Điều 2 của Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất thể hiện thời hạn thuê
quyền sử dụng đất là 20 năm kể từ ngày 13/9/2018. Ngày 09/01/2019, Tổ hợp tác
ban hành Thông báo số: 01/TB-THT về việc chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử
dụng đất giữa Tổ hợp tác với ông Nguyễn Thế Th với các lý do quy định tại Điều
420 của BLDS 2015 (BL 06, 07). Ngày 11/01/2019, ông Th nhận được Thông báo
số : 01/TB-THT củ a Tổ hợp tác về việc chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng
đất với ông Th, bà H. Ngày 14/01/2019, ông Th làm văn bản thông báo cho Tổ hợp
tác biết gia đình ông không đồng ý chấm dứt hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ký
ngày 13/9/2018 (BL 92). Như vậy, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất giữa ông Th,
bà H với Tổ hợp tác vẫn còn tồn tại trên thực tế”
Câu 3. Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà
H)? Hướng xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
- Theo Tòa án, Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 13/9/2018 được ký kết
giữa ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H với Tổ trưởng Tổ hợp tác là ông Bùi
Vĩnh H. Việc Tòa án xác định như vậy là chưa hợp lý.
- Cơ sở pháp lý: Căn cứ quy định tại Điều 101 BLDS 2015 thì chủ thể xác lập,
thực hiện giao dịch của Tổ hợp tác là tất cả các thành viên của Tổ hợp tác hoặc
các thành viên ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao
dịch và việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Trường hợp thành viên của
Tổ hợp tác không được các thành viên khác ủy quyền làm người đại diện thì
thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập, thực hiện.
- Ở đây, chưa rõ việc ông H ký kết hợp đồng thuê đất với ông Th và bà H có
được các thành viên của Tổ hợp tác ủy quyền hay không và trong hồ sơ cũng

15
không có văn bản uỷ quyền của các thành viên Tổ hợp tác. Do đó không thể
xác định rằng ông H là người bên trong của giao dịch này được.
Câu 4. Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có thuyết
phục không ? Vì sao.
- Theo Tòa án, bị đơn là ông Bùi Vĩnh H.
- Theo nhóm em, hướng xác định của Tòa án như trên là thuyết phục. Vì:
+ Thứ nhất, người trực tiếp đứng ra thực hiện việc ký kết hợp đồng giao dịch ở đây
là ông H, còn các thành viên trong tổ hợp tác tại thời điểm ký hợp đồng chỉ là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
+Thứ hai, Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân nên không thể nói rằng ông H là
người đại diện cho Tổ hợp tác để ký kết hợp đồng. Vì vậy ở đây ông H là người ký kết
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, nên ông H là bị đơn trong vụ án.

16

You might also like