Professional Documents
Culture Documents
C Tiu Thanh K
C Tiu Thanh K
Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc thời Lê - Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm
từng làm Tể tướng, anh là Nguyễn Khản đỗ Tiến sĩ, làm đại quan trong phủ Chúa, được
Trịnh Sâm trọng vọng. Nguyễn Du chỉ đỗ “Tam trường, nhưng văn chương lỗi lạc”
Liên hệ
“Bao giờ ngàn Hống hết cây,
Sông Rum hết nước, họ này hết quan” (Ca dao)
Cuộc đời ông trải qua rất nhiều phong ba, bão táp, “mười năm gió bụi”
Ông được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh, qua đời
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du vô cùng rạng rỡ, để lại nhiều thơ chữ Hán và chữ
Nôm, đặc sắc nhất là Truyện Kiều
Sáng tác chữ Hán: 3 tập thơ với 249 bài là Thanh Hiên thi tập (78 bài), Nam Trung
tạp ngâm (40 bài) và Bắc hành tạp lục (131 bài)
Sáng tác chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) và Văn chiêu hồn.
Đặc điểm sáng tác: các tác phẩm đều thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của tác giả.
Thể hiện tư tưởng nhân đạo: đề cao giá trị nhân văn con người. Các tác phẩm đó đều
thể hiện sự cảm thông sấu sắc của Nguyễn Du đối với cuộc sống của con người,
nhất là những người nhỏ bé, bất hạnh, ... đó là kết quả của quá trình quan sát, suy
ngẫm về cuộc đời, về con người của tác giả.
Lên án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp con người.
“Du là người Nghệ An, học rộng giỏi thơ, càng giỏi về Quốc ngữ. Nhưng là người nhút
nhát, mỗi khi ra mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì” (Đại Nam thực lục)
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
Kí: ở phía sau thường chỉ những tác phẩm văn học bằng văn xuôi.
Đọc Tiểu Thanh Kí là câu chuyện viết về nàng Tiểu Thanh.
Tiểu Thanh ở đây là nhân vật trong tác phẩm, lúc sinh thời cô có làm thơ, khi chết
những bài thơ ấy đã bị vợ cả đốt, còn sót lại một ít trang. Người đời thương tiếc đem
khắc in gọi là “phần dư” gồm 11 bài.
Nhưng Tiểu Thanh trong tác phẩm không phải là nhân vật hoàn toàn trùng khớp với Tiểu
Thanh trong cuộc đời. Tiểu Thanh trong đời thực sinh năm 1594 mất 1612 còn Nguyễn
Du sinh năm 1765 mất năm 1820, dù tính ra sao cũng không thể là “300 năm lẻ”. Ở đây
cần lưu ý Tiểu Thanh trong Tiểu Thanh kí thì mất năm 1492. Nguyễn Du khóc nàng
1813 nên nói 300 năm lẻ là đúng.
⇒ Vì thế có người đã cho rằng đặt tên cho nhân vật Tiểu Thanh tác giả muốn nhắn nhủ
với độc giả rằng con người lụy tình sẽ có số phận thật hẩm hiu đáng thương (chữ TIỂU
hợp với chữ THANH trong tiếng Hán là chữ TÌNH).
e. Bố cục: 4 phần
Hai câu đề: Nguyễn Du đọc phần dư của Tiểu Thanh để lại
Hai câu thực: Số phận tài hoa bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh.
Hai câu luận: Nỗi thương cảm của Nguyễn Du dành cho nàng Tiểu Thanh.
Hai câu kết: Thương xót Tiểu Thanh, Nguyễn Du thương cho số phận mình.
Dịch thơ:
Đọc Tiểu Thanh kí
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Liên hệ
Chế Lan Viên
Nghìn trang thơ không nói hết một cuộc đời đã vờ,
Nhỏ một giọt lệ bên mồ đâu phải chuyện văn chương.”
Quá khứ : Đẹp, phát triển, tươi tốt ( hoa uyển) vườn hoa.
Hiện tại : Thành gò hoang, bãi hoang, lụi tàn, buồn vắng, thê lương. → Câu thơ
nhói lên nỗi buồn thương nhân tình thế thái; sự biến đổi của cảnh vật trong dòng
Giống như cảnh đẹp Tây Hồ, cuộc đời của Tiểu Thanh cũng bị huỷ hoại, chỉ còn một vài
bài thơ may mắn sót lại. Nhà thơ nuối tiếc, xót xa cho cảnh đẹp của Tây Hồ nay đã thành
“bãi hoang”nhưng thực chất là sự xót xa, tiếc nuối cho Tiểu Thanh - người con gái tài
sắc mà bạc mệnh.
Phần dịch thơ đã đánh mất hai chữ “nhất” trong “nhất chỉ thư” và chữ “độc” trong
“độc điếu” làm giảm đi ý nghĩa của câu thơ →Thực ra, “nhất” là một mà “độc” cũng là
một, nhưng nếu “nhất” là số từ chỉ số lượng thì “độc” là trạng từ chỉ tâm thế của nhà
thơ. Việc dùng cùng một nghĩa qua hai từ khác nhau, Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh
sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng
thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn, bất hạnh →sự đồng cảm của Nguyễn Du.
→ Hai câu đề đã mở ra ngoại cảnh và tâm cảnh. Đó là cái khoảnh khắc, suy nghĩ, cảm
nhận khi gặp gỡ một con người, một số mệnh.
So sánh liên hệ
Thuý Kiều đến với Đạm Tiên (Truyện Kiều/Nguyễn Du)
Thần: là thần thái, thần sắc, ở đây chỉ nhan sắc, tài hoa và trí tuệ của nàng Tiểu Thanh.
Phần dư: phần thơ, phần còn sót lại không bị đốt của nàng Tiểu Thanh.
→Ca ngợi sắc đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh – một con người toàn diện.
Son phấn – chôn / Văn chương – đốt: chôn, đốt là những động từ cụ thể hóa sự ghen
ghét, sự vùi dập phũ phàng của người vợ cả với nàng Tiểu Thanh → thái độ của xã hội
phong kiến không chấp nhận những con người tài sắc.
→Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương
đố, hồng nhan đa truân,...cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập.
→Bên cạnh triết lí đó còn có sự ca ngợi, sự khẳng định trường tồn, bất tử của cái đẹp, tài
năng (vẫn hận, còn vương).
→Giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du, sự xót xa cho những người vì sắc, vì tài mà
bị hủy hoại.
So sánh liên hệ
Truyện Kiều - Nguyễn Du
→Câu thơ mang tính chất khái quát cao. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng
Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà là của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến.
“Thiên nan vấn”: khó mà hỏi trời được → câu thơ thể hiện sự đau đớn, phẫn uất cao độ
trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc (bởi vậy
nên thường có sự đồng cảm trong những cuộc gặp gỡ giữa tài tử giai nhân).
So sánh liên hệ
Truyện Kiều - Nguyễn Du
Huy Cận
Nguyễn Du
“Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã”
Khấp (Khóc): tiếng khóc là dấu hiệu mãnh liệt nhất của tình cảm, cảm xúc thương thân
mình, thân người trào lên mãnh liệt, không kìm nén được.
Chữ “khấp” mà Nguyễn Du sử dụng trong câu thơ cuối rất tinh tế. Nó cụ thể hóa chữ
“điếu” (viếng) ở câu thơ thứ 2. Ông không viết đơn thuần mà khóc cho Tiểu Thanh. Ông
băn khoăn không biết hậu thế ai sẽ khóc cho ông.
→Thể hiện nỗi cô đơn của của người nghệ sĩ. Ông thấy mình lạc lõng ở hiện tại và đã
tìm thấy được một người tri kỉ ở quá khứ nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng trong
tương lai.
→Tấm lòng nhân đạo mênh mông vượt qua mọi không gian và thời gian.
So sánh liên hệ
Hai câu dịch của Xuân Diệu
Nguyễn Du xót xa, thương cảm cho Tiểu Thanh - một hồng nhan bạc mệnh, một tài
năng thi ca đoản mệnh, cho những kiếp hồng nhan đa truân, tài tử đa cùng nói chung
Với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, ông đã đặt vấn đề: quyền sống của
người nghệ sĩ, sự cần thiết phải tôn vinh, trân trong những người làm nên các giá trị
văn hoá tinh thần
2. Nghệ thuật
Ngôn ngữ: trữ tình đậm chất triết lí
Sử dụng tài tình phép đối và khả năng thống nhất các hình ảnh đối lập trong hình ảnh,
ngôn từ
Bài mẫu
Sê-khốp đã từng nói “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” câu
nói ấy làm ta bỗng nhớ đến một nhà thơ lớn của dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới, một
bậc thầy về ngôn ngữ và hơn cả là một người có quan điểm tư tưởng nhân đạo tiến bộ nhất
trong xã hội phong kiến xưa,… con người vĩ đại ấy không ai khác ngoài đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du. Thơ của ông không chỉ hay mà còn sâu sắc đi vào trái tim người đọc để rồi
những áng văn kì bút ấy sống mãi với thời gian mà chẳng bao giờ mất đi cái giá trị cao cả
vốn có của nó vì vậy chẳng lẽ tự nhiên nhà thơ Tố Hữu sau này có viết:
Và giờ đây ta hãy cùng khám phá tài hoa của ông qua thi phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” mà
trong đó chính là cái nhìn đồng cảm đến tinh tế về những con người tài hoa bạc mệnh, bị rẻ
rúng trong xã hội phong kiến đang dần suy thoái cùng với đó là bức thông điệp gửi gắm đến
muôn đời sau để rồi cho ta thấy cái nhân đạo thấm nhuần trong ông đẹp đẽ đến nhường nào!
Bài thơ được sáng tác vào một lần Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc được lấy cảm hứng từ câu
chuyện về cuộc đời bất hạnh của nàng Tiểu Thanh sống vào thời Minh (từ thế kỉ XIV đến thế
Và đó cũng chính là tâm trạng của ông khi bước tới ngọn núi Côn Sơn đã lụi tàn qua năm
tháng:
Khi tới nơi đây, héo tàn, trơ trụi đã đành nay còn thêm cả ảm đạm, đìu hiu không một bóng
người dù vậy Nguyễn Du vẫn trang trọng kính viếng bởi chăng trong họ là một sợi dây đồng
cảm đang kết nối với nhau, đó là tiếng nói đồng điệu của những con người đa tài nhưng số
phận chẳng được trọn vẹn như cái tài ấy. “Độc điếu”- tâm thế cô đơn không chỉ riêng Tiểu
Thanh mà còn là của Nguyễn Du. Nàng thì cô đơn giữa chốn không người, cảnh vất thê
lương hoang tàn còn ông thì cô đơn giữa dòng đời bởi chẳng ai hiểu được ông, hiểu được cái
nhân đạo cao quý, cái tư tưởng sâu sắc mà con người cao cả hướng tới bấy lâu nay. Đọc di
cảo của nàng lại càng khiến ông không khỏi xót xa bởi cái phũ phàng của cuộc đời đặt ra để
thử thách đời người và có lẽ, chính ông cũng đã sớm chiêm nghiệm điều ấy:
Son phấn làm gì có thần? Nhưng với Nguyễn Du thì có đấy. Văn chương thì làm gì có mệnh
(vô mệnh) nhưng trong thơ của Nguyễn Du hoàn toàn ngược lại. Dường như ông đã khéo léo
sử dụng hình ảnh “chi phấn” để ẩn dụ cho nhan sắc của Tiểu Thanh, nhan sắc ấy không chỉ
đẹp mà còn bất tử và trường tồn mãi mãi. Vẻ đẹp ấy có sức sống kì diệu ngay cả khi bị chôn
vùi dưới đất xâu thì nó vẫn làm người đời nhớ đến mà tiếc thương và đây cũng là lần đầu tiên
trong nền văn học trung đại Việt Nam, dưới sự kìm hãm của xã hội phong kiến có một nhà
thơ dám miêu tả vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ, ngay cả khi Nguyễn Dữ miêu tả Vũ
Nương cũng chỉ khiêm tốn hoạ nên vẻ đẹp tâm hồn của nàng. Dường như đó là tiếng nói bất
bình của Nguyễn Du bởi lẽ vẻ đẹp của người phụ nữ bị xã hội rẻ rúng, coi thường và đây
cũng là một bước đi mới trong nền văn học trung đại đương thời. Văn chương vốn “vô
mệnh” nay lại thành hữu mệnh, có lẽ đó là ẩn dụ cho tài năng của nay cũng phải “luỵ” cái bạc
Hai câu thực khép lại là lòng thương cảm sâu sắc về số phận bất hạnh tài hoa nhưng bạc
mệnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời mang niềm tin vào thuyết luân hồi đạo phật cũng như
là nguồn cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du. Ông nhận ra được những giá trị tốt đẹp của con
người qua đó ta thấy một tâm hồn đa cảm đến sâu sắc!
Hai câu luận vẫn là niềm thương cảm ấy nhưng giờ đây còn vang lên tiếng nói của tri âm
nghe mà nhói lòng người:
Nguyễn Du đau đớn, căm giận trước cái đẹp, cái thiện đang dần bị thế lực hắc ám chà đạp,
những con người như Tú Bà, Mã Giám Sinh hay Sở Khanh được ông miêu tả bằng tất cả sự
căm phẫn. Tú bà thì: