You are on page 1of 14

Độc Tiểu Thanh Kí

I. Tìm hiểu chung


1. Tác giả
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Là đại thi hào của dân tộc Việt Nam

Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc thời Lê - Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm
từng làm Tể tướng, anh là Nguyễn Khản đỗ Tiến sĩ, làm đại quan trong phủ Chúa, được
Trịnh Sâm trọng vọng. Nguyễn Du chỉ đỗ “Tam trường, nhưng văn chương lỗi lạc”

Liên hệ
“Bao giờ ngàn Hống hết cây,
Sông Rum hết nước, họ này hết quan” (Ca dao)

Cuộc đời ông trải qua rất nhiều phong ba, bão táp, “mười năm gió bụi”

Ông được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh, qua đời

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du vô cùng rạng rỡ, để lại nhiều thơ chữ Hán và chữ
Nôm, đặc sắc nhất là Truyện Kiều

Sáng tác chữ Hán: 3 tập thơ với 249 bài là Thanh Hiên thi tập (78 bài), Nam Trung
tạp ngâm (40 bài) và Bắc hành tạp lục (131 bài)

Sáng tác chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) và Văn chiêu hồn.

Đặc điểm sáng tác: các tác phẩm đều thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhân cách của tác giả.

Thể hiện tư tưởng nhân đạo: đề cao giá trị nhân văn con người. Các tác phẩm đó đều
thể hiện sự cảm thông sấu sắc của Nguyễn Du đối với cuộc sống của con người,
nhất là những người nhỏ bé, bất hạnh, ... đó là kết quả của quá trình quan sát, suy
ngẫm về cuộc đời, về con người của tác giả.

Lên án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp con người.

Nhận định về Nguyễn Du


“Nguyễn Du là một con người suốt đời khắc khoải về con người, về lẽ đời” (Nhà nghiên
cứu văn học Mai Quốc Liên)

Độc Tiểu Thanh Kí 1


“Nguyễn Du - một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn” (Hoài Thanh)

“Du là người Nghệ An, học rộng giỏi thơ, càng giỏi về Quốc ngữ. Nhưng là người nhút
nhát, mỗi khi ra mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì” (Đại Nam thực lục)

Thơ văn viết về Nguyễn Du


Kính gửi cụ Nguyễn Du - Tố Hữu

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn”

Nhớ Tố Như - Huy Cận

“Lòng thơ thức trắng giữa đêm dài


Yêu nước non, yêu vạn cảnh đời;

Đời khổ, mà chưa phương cứu khổ,

Càng đau biết mấy Tố Như ơi!”

Thăm mộ cụ Nguyễn Du - Hoàng Trung Thông

“Đời nay đẹp gấp trăm lần thuở trước

Giở trang Kiều còn rung động ý thơ

Thơ Người mãi sống cùng đất nước

Dù mai sau dù có bao giờ”

Quê hương - Nguyễn Bính

“Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm

Có Nguyễn Du và có một ‘Truyện Kiều’”

2. Tác phẩm
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

Độc Tiểu Thanh Kí 2


Chưa rõ tác giả sáng tác bài thơ này trong hoàn cảnh nào, chỉ biết sau khi đọc xong phần
dư tập thơ nàng Tiểu Thanh mà viết ra.

Rút từ tập Thanh Hiên thi tập.

b. Thể thơ: Thất ngôn bát cú Đường luật chữ Hán.


c. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm.
d. Ý nghĩa nhan đề:
Độc: Đọc

Kí: ở phía sau thường chỉ những tác phẩm văn học bằng văn xuôi.
Đọc Tiểu Thanh Kí là câu chuyện viết về nàng Tiểu Thanh.

Tiểu Thanh ở đây là nhân vật trong tác phẩm, lúc sinh thời cô có làm thơ, khi chết
những bài thơ ấy đã bị vợ cả đốt, còn sót lại một ít trang. Người đời thương tiếc đem
khắc in gọi là “phần dư” gồm 11 bài.

Nhưng Tiểu Thanh trong tác phẩm không phải là nhân vật hoàn toàn trùng khớp với Tiểu
Thanh trong cuộc đời. Tiểu Thanh trong đời thực sinh năm 1594 mất 1612 còn Nguyễn
Du sinh năm 1765 mất năm 1820, dù tính ra sao cũng không thể là “300 năm lẻ”. Ở đây
cần lưu ý Tiểu Thanh trong Tiểu Thanh kí thì mất năm 1492. Nguyễn Du khóc nàng
1813 nên nói 300 năm lẻ là đúng.
⇒ Vì thế có người đã cho rằng đặt tên cho nhân vật Tiểu Thanh tác giả muốn nhắn nhủ
với độc giả rằng con người lụy tình sẽ có số phận thật hẩm hiu đáng thương (chữ TIỂU
hợp với chữ THANH trong tiếng Hán là chữ TÌNH).

e. Bố cục: 4 phần
Hai câu đề: Nguyễn Du đọc phần dư của Tiểu Thanh để lại

Hai câu thực: Số phận tài hoa bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh.

Hai câu luận: Nỗi thương cảm của Nguyễn Du dành cho nàng Tiểu Thanh.

Hai câu kết: Thương xót Tiểu Thanh, Nguyễn Du thương cho số phận mình.

II. Đọc - hiểu văn bản


Phiên âm:

Độc Tiểu Thanh kí


Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Độc Tiểu Thanh Kí 3


Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,


Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

Bất tri tam bách dư niên hậu,


Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch thơ:
Đọc Tiểu Thanh kí
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.


Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương.


Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang.


Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Liên hệ
Chế Lan Viên

“Trang thơ còn đau hơn, trang đá cháy đau hơn,


Những khách sáng nay chưa đọc thơ nàng.

Nghìn trang thơ không nói hết một cuộc đời đã vờ,
Nhỏ một giọt lệ bên mồ đâu phải chuyện văn chương.”

1. Hai câu đề:


Là một cảm nhận trực tiếp về cảnh vật ở Tây Hồ.

Có sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại.

Quá khứ : Đẹp, phát triển, tươi tốt ( hoa uyển) vườn hoa.

Hiện tại : Thành gò hoang, bãi hoang, lụi tàn, buồn vắng, thê lương. → Câu thơ
nhói lên nỗi buồn thương nhân tình thế thái; sự biến đổi của cảnh vật trong dòng

Độc Tiểu Thanh Kí 4


chảy thời gian.

Giống như cảnh đẹp Tây Hồ, cuộc đời của Tiểu Thanh cũng bị huỷ hoại, chỉ còn một vài
bài thơ may mắn sót lại. Nhà thơ nuối tiếc, xót xa cho cảnh đẹp của Tây Hồ nay đã thành
“bãi hoang”nhưng thực chất là sự xót xa, tiếc nuối cho Tiểu Thanh - người con gái tài
sắc mà bạc mệnh.

Phần dịch thơ đã đánh mất hai chữ “nhất” trong “nhất chỉ thư” và chữ “độc” trong
“độc điếu” làm giảm đi ý nghĩa của câu thơ →Thực ra, “nhất” là một mà “độc” cũng là
một, nhưng nếu “nhất” là số từ chỉ số lượng thì “độc” là trạng từ chỉ tâm thế của nhà
thơ. Việc dùng cùng một nghĩa qua hai từ khác nhau, Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh
sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng
thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn, bất hạnh →sự đồng cảm của Nguyễn Du.

→ Hai câu đề đã mở ra ngoại cảnh và tâm cảnh. Đó là cái khoảnh khắc, suy nghĩ, cảm
nhận khi gặp gỡ một con người, một số mệnh.

So sánh liên hệ
Thuý Kiều đến với Đạm Tiên (Truyện Kiều/Nguyễn Du)

“Sè sè nấm đất bên đường


Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

“Trải qua một cuộc bể dâu


Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Thăng Long thành hoài cổ - Bà huyện Thanh Quan

“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”

Chinh phụ ngâm - Đoàn Thị Điểm

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy


Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu


Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”.

2. Hai câu thực

Độc Tiểu Thanh Kí 5


Chi phấn: đồ trang sức của phụ nữ

Thần: là thần thái, thần sắc, ở đây chỉ nhan sắc, tài hoa và trí tuệ của nàng Tiểu Thanh.

Vô mệnh: không có số mệnh

Phần dư: phần thơ, phần còn sót lại không bị đốt của nàng Tiểu Thanh.

Son phấn: sắc đẹp

Văn chương: tài hoa

→Ca ngợi sắc đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh – một con người toàn diện.

Son phấn – chôn / Văn chương – đốt: chôn, đốt là những động từ cụ thể hóa sự ghen
ghét, sự vùi dập phũ phàng của người vợ cả với nàng Tiểu Thanh → thái độ của xã hội
phong kiến không chấp nhận những con người tài sắc.

→Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương
đố, hồng nhan đa truân,...cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập.
→Bên cạnh triết lí đó còn có sự ca ngợi, sự khẳng định trường tồn, bất tử của cái đẹp, tài
năng (vẫn hận, còn vương).

→Giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du, sự xót xa cho những người vì sắc, vì tài mà
bị hủy hoại.

So sánh liên hệ
Truyện Kiều - Nguyễn Du

“Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài liền với chữ tai một vần”

3. Hai câu luận


“ Cổ kim hận sự”: mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp → mối
hận của những người tài hoa bạc mệnh

→Câu thơ mang tính chất khái quát cao. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng
Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà là của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến.

“Thiên nan vấn”: khó mà hỏi trời được → câu thơ thể hiện sự đau đớn, phẫn uất cao độ
trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc (bởi vậy
nên thường có sự đồng cảm trong những cuộc gặp gỡ giữa tài tử giai nhân).

Kì oan: nỗi oan lạ lùng

Độc Tiểu Thanh Kí 6


Ngã: ta (từ chỉ bản thể cá nhân táo bạo so với thời đại Nguyễn Du sống). Nguyễn Du
không đứng bên ngoài mà nhìn vào nữa, mà giờ đây ông chủ động tìm sự tri âm với
nàng, với những người tài hoa bạc mệnh.

So sánh liên hệ
Truyện Kiều - Nguyễn Du

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

“Đau đớn thay phận đàn bà


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

“Lạ gì bỉ sắc thư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”

“Thương thay cũng một kiếp người

Hại thay mang lấy sắc tài làm chi?”

“Rằng: hồng nhan tự thuở xưa

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”

Văn chiêu hồn - Nguyễn Du

“Đau đớn thay phận đàn bà

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”

Huy Cận

“Một câu hỏi lớn không lời đáp

Cho đến bây giờ mặt vẫn chau”

Kính gửi cụ Nguyễn Du - Tố Hữu

“Đau đớn thay phận đàn bà!


Hỡi ơi, thân ấy biết là mấy thân”

Nguyễn Du

“Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã”

“Trăm năm vui khổ bao giờ hết”

Độc Tiểu Thanh Kí 7


4. Hai câu kết
Sử dụng câu hỏi tu từ → Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh và băn khoăn, khóc cho
chính mình. Nguyễn Du như muốn nói với Tiểu Thanh, hôm nay ta khóc nàng cách ta ba
trăm năm. Ba trăm năm sau, ai là người khóc ta? Một câu hỏi da diết, câu hỏi lớn, đậm
chất nhân văn. Nguyễn Du hỏi Tiểu Thanh mà như hỏi người, hỏi chính mình.

Khấp (Khóc): tiếng khóc là dấu hiệu mãnh liệt nhất của tình cảm, cảm xúc thương thân
mình, thân người trào lên mãnh liệt, không kìm nén được.

Chữ “khấp” mà Nguyễn Du sử dụng trong câu thơ cuối rất tinh tế. Nó cụ thể hóa chữ
“điếu” (viếng) ở câu thơ thứ 2. Ông không viết đơn thuần mà khóc cho Tiểu Thanh. Ông
băn khoăn không biết hậu thế ai sẽ khóc cho ông.

→Thể hiện nỗi cô đơn của của người nghệ sĩ. Ông thấy mình lạc lõng ở hiện tại và đã
tìm thấy được một người tri kỉ ở quá khứ nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng trong
tương lai.

→Tấm lòng nhân đạo mênh mông vượt qua mọi không gian và thời gian.

So sánh liên hệ
Hai câu dịch của Xuân Diệu

“Ba trăm năm nữa mơ màng


Có ai thiên hạ khóc chàng Tố Như?”

Bài không tên số 4 - Nhạc sĩ Vũ Thành An

“Triệu người quen có mấy người thân

Khi lìa trần có mấy người đưa”

Truyện Kiều - Nguyễn Du

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,

Giật mình, mình lại thương mình xót xa.”

“Kiều rằng: ‘Những đấng tài hoa,

Thác là thể phách còn là tinh anh’”

III. Tổng kết


1. Nội dung

Độc Tiểu Thanh Kí 8


Mạch vận động của cảm xúc (tứ thơ): Đọc truyện → xót xa, thương tiếc cho nàng Tiểu
Thanh tài sắc mà bạc mệnh → suy nghĩ, tri âm với số phận những người tài hoa, tài tử →
tự thương cho số phận tương lai của mình khao khát tri âm

Giá trị nhân đạo sâu sắc:

Nguyễn Du xót xa, thương cảm cho Tiểu Thanh - một hồng nhan bạc mệnh, một tài
năng thi ca đoản mệnh, cho những kiếp hồng nhan đa truân, tài tử đa cùng nói chung

Với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, ông đã đặt vấn đề: quyền sống của
người nghệ sĩ, sự cần thiết phải tôn vinh, trân trong những người làm nên các giá trị
văn hoá tinh thần

2. Nghệ thuật
Ngôn ngữ: trữ tình đậm chất triết lí

Sử dụng tài tình phép đối và khả năng thống nhất các hình ảnh đối lập trong hình ảnh,
ngôn từ

Bài mẫu
Sê-khốp đã từng nói “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” câu
nói ấy làm ta bỗng nhớ đến một nhà thơ lớn của dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới, một
bậc thầy về ngôn ngữ và hơn cả là một người có quan điểm tư tưởng nhân đạo tiến bộ nhất
trong xã hội phong kiến xưa,… con người vĩ đại ấy không ai khác ngoài đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du. Thơ của ông không chỉ hay mà còn sâu sắc đi vào trái tim người đọc để rồi
những áng văn kì bút ấy sống mãi với thời gian mà chẳng bao giờ mất đi cái giá trị cao cả
vốn có của nó vì vậy chẳng lẽ tự nhiên nhà thơ Tố Hữu sau này có viết:

“Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du


Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày”.

Và giờ đây ta hãy cùng khám phá tài hoa của ông qua thi phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” mà
trong đó chính là cái nhìn đồng cảm đến tinh tế về những con người tài hoa bạc mệnh, bị rẻ
rúng trong xã hội phong kiến đang dần suy thoái cùng với đó là bức thông điệp gửi gắm đến
muôn đời sau để rồi cho ta thấy cái nhân đạo thấm nhuần trong ông đẹp đẽ đến nhường nào!

Bài thơ được sáng tác vào một lần Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc được lấy cảm hứng từ câu
chuyện về cuộc đời bất hạnh của nàng Tiểu Thanh sống vào thời Minh (từ thế kỉ XIV đến thế

Độc Tiểu Thanh Kí 9


kỉ XVII). Nàng vốn là người tài sắc vẹn toàn nhưng rồi cái quy luật phũ phàng của trời đất
đâu có tha riêng cho một ai: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”! Vẫn ở cái tuổi “Xuân xanh
xấp xỉ tới tuần cập kê” nhưng nàng đã phải làm vợ lẽ khi mới là một thiếu nữ và cuộc đời
nàng cũng chìm trong bóng tối từ đây… Bị vợ cả ghen ghét, đày đoạ sống một mình tại đỉnh
núi Côn Sơn không ai quan tâm kể cả bố mẹ hay từ người phu quân của nàng để rồi sự cô
đơn, uất ức đã làm nàng chết dần, chết mòn theo thời gian và cũng để rồi người con gái ấy
sống mãi ở tuổi xuân xanh… Sau khi mất đi, những bức hoạ và những bài thơ chứa đựng tâm
tư của nàng cũng bị người vợ cả đốt sạch chỉ còn vương vấn, sót lại chút ít mà thôi. Và có lẽ
nhan đề bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” cũng bắt đầu từ đây, phải chăng sau khi đọc tập thơ ấy
đã khiến Nguyễn Du rung động rồi tạo thành nguồn cảm hứng tuôn trào trong ông?
Nguyễn Du từng viết trong “Truyện Kiều” rằng:

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Và đó cũng chính là tâm trạng của ông khi bước tới ngọn núi Côn Sơn đã lụi tàn qua năm
tháng:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khuê


Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”.

(Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)


Đó không chỉ là sự thay đổi nghiệt ngã của cảnh vật mà còn là của con người, từ một vườn
hoa đẹp, lộng lẫy, sức sống căng tràn bao nhiêu thì nay lại trở nên tàn tạ, hoang phế, đìu hiu
bấy nhiêu. Con người cũng vậy, thời gian cũng đã cướp đi biết bao nhiêu thứ từ con người,
phải chăng đó là sự mỏng manh, ngắn ngửi của cái đẹp, là sự xuất chúng, hơn người của tài
năng cũng tàn phai theo? Tiểu Thanh chẳng hề ngoại lệ, vâng, nàng có tài, có sắc ai mà chẳng
biết, ai mà chẳng hay nhưng rồi: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” khiến cho bông
hoa như nàng cũng phải lụi tàn trước ngọn lửa ghen tuông bùng cháy dữ dội như muốn thiêu
đốt trọn cái tài, cái sắc của nàng. Làm vợ lẽ đã đành nhưng nàng chẳng có được sự tự do kể
cả trong tình cảm của mình. Mọi thư từ, mọi việc làm, mọi cuộc gặp gỡ đều phải được người
vợ cả đồng ý thì thư mới được gửi đi, việc mới được làm, chồng mới được gặp,… Dường
như nàng có phu quân cũng như không vậy, ước chăng cũng một lần được nói ra tâm tư, cũng
một lần được nhung nhớ như người phụ nữ trong “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy


Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt một màu

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”.

Độc Tiểu Thanh Kí 10


Nguyễn du gợi nên nỗi xót xa, thương cảm cho cái đẹp bị trò đời trêu đùa đến nhẫn tâm, đến
khi bị tàn lụi, bị huỷ hoại thậm tệ là lìa xa trần thế mới thôi…
“Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

Khi tới nơi đây, héo tàn, trơ trụi đã đành nay còn thêm cả ảm đạm, đìu hiu không một bóng
người dù vậy Nguyễn Du vẫn trang trọng kính viếng bởi chăng trong họ là một sợi dây đồng
cảm đang kết nối với nhau, đó là tiếng nói đồng điệu của những con người đa tài nhưng số
phận chẳng được trọn vẹn như cái tài ấy. “Độc điếu”- tâm thế cô đơn không chỉ riêng Tiểu
Thanh mà còn là của Nguyễn Du. Nàng thì cô đơn giữa chốn không người, cảnh vất thê
lương hoang tàn còn ông thì cô đơn giữa dòng đời bởi chẳng ai hiểu được ông, hiểu được cái
nhân đạo cao quý, cái tư tưởng sâu sắc mà con người cao cả hướng tới bấy lâu nay. Đọc di
cảo của nàng lại càng khiến ông không khỏi xót xa bởi cái phũ phàng của cuộc đời đặt ra để
thử thách đời người và có lẽ, chính ông cũng đã sớm chiêm nghiệm điều ấy:

“Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.


Thấm thoát cũng đã hơn ba trăm năm, những gì về người con gái ấy chỉ còn là một tập thơ
với những trang giâý tàn mà Nguyễn Du đọc bên cửa sổ, dù có ít ỏi đi chăng nữa cũng đủ cho
hậu thế xót xa mà nhỏ lệ, nhỏ lệ trước cách mà trò đời đối xử với nàng, cách mà nó làm nàng
nhỏ bé, tàn tạ rồi ra đi mãi mãi đến đau lòng…
Cuộc đời nàng, số phận nàng luôn làm người đời suy tư, thổn thức ngay cả Nguyễn Du cũng
vậy:

“Chi phấn hữu thân liên tử hậu

Văn chương vô mệnh luỵ phần dư”.


(Son phấn có thần chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh đốt còn vương)

Son phấn làm gì có thần? Nhưng với Nguyễn Du thì có đấy. Văn chương thì làm gì có mệnh
(vô mệnh) nhưng trong thơ của Nguyễn Du hoàn toàn ngược lại. Dường như ông đã khéo léo
sử dụng hình ảnh “chi phấn” để ẩn dụ cho nhan sắc của Tiểu Thanh, nhan sắc ấy không chỉ
đẹp mà còn bất tử và trường tồn mãi mãi. Vẻ đẹp ấy có sức sống kì diệu ngay cả khi bị chôn
vùi dưới đất xâu thì nó vẫn làm người đời nhớ đến mà tiếc thương và đây cũng là lần đầu tiên
trong nền văn học trung đại Việt Nam, dưới sự kìm hãm của xã hội phong kiến có một nhà
thơ dám miêu tả vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ, ngay cả khi Nguyễn Dữ miêu tả Vũ
Nương cũng chỉ khiêm tốn hoạ nên vẻ đẹp tâm hồn của nàng. Dường như đó là tiếng nói bất
bình của Nguyễn Du bởi lẽ vẻ đẹp của người phụ nữ bị xã hội rẻ rúng, coi thường và đây
cũng là một bước đi mới trong nền văn học trung đại đương thời. Văn chương vốn “vô
mệnh” nay lại thành hữu mệnh, có lẽ đó là ẩn dụ cho tài năng của nay cũng phải “luỵ” cái bạc

Độc Tiểu Thanh Kí 11


mệnh của con người. Nó cũng biết đau khổ, biết buồn vui, biết vương vấn,… và rồi bỗng
chợt nhận ra cái oan trái, ngang ngược mà ông trời sắp đặt cho nó. Có sắc, có tài rồi cũng để
làm gì:

“Có tài mà cậy chi tài


Chữ tài liền với chữ tai một vần”.

Hai câu thực khép lại là lòng thương cảm sâu sắc về số phận bất hạnh tài hoa nhưng bạc
mệnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời mang niềm tin vào thuyết luân hồi đạo phật cũng như
là nguồn cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du. Ông nhận ra được những giá trị tốt đẹp của con
người qua đó ta thấy một tâm hồn đa cảm đến sâu sắc!

Hai câu luận vẫn là niềm thương cảm ấy nhưng giờ đây còn vang lên tiếng nói của tri âm
nghe mà nhói lòng người:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn


Phong lưu kì oan ngã tự cư”.

(Nỗi hơn kim cổ trời không hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang)


Tài hoa nhưng bạc mệnh có lẽ đã trở thành “Cổ kim hận sự” , xưa thì có số phận của nàng
Tiểu Thanh và những người cùng cảnh ngộ, nay thì là những người như ông. Nhưng rồi khi
ngẩng đầu lên hỏi trời thì trời cũng chỉ biết lặng thinh không nói một lời khiến cái hận càng
thêm hận, thấm thía lại càng thêm thấm thía,.. khi trời không đáp con người cũng chỉ biết bất
lực, bế tắc, nó thể hiện một hiện thực bất công của xã hội phong kiến nhiều hủ tục để rồi
Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” cũng phải thốt lên rằng:
“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Nguyễn Du đau đớn, căm giận trước cái đẹp, cái thiện đang dần bị thế lực hắc ám chà đạp,
những con người như Tú Bà, Mã Giám Sinh hay Sở Khanh được ông miêu tả bằng tất cả sự
căm phẫn. Tú bà thì:

“Thoắt trông nhợt nhạt màu da


Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao”.
Mã Giám Sinh thì:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần


Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.

Sở Khanh lại là kẻ:

Độc Tiểu Thanh Kí 12


“Một chàng vừa trạc thanh xuân

Hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng”.


Tại sao những kẻ như vậy lãi vẫn sống yên bình, ăn chơi trác táng mà khi ấy những người
như Tiểu Thanh hay Thuý Kiều, Đạm tiên lại phải chịu biết bao sóng gió cuộc đời để rồi
người thì ra đi mãi mãi, người thì chẳng bao giờ có được tình yêu của chính mình,… Bản
thân Nguyễn Du tự cho mình là người có tài và cùng hội với những con người tài hoa bạc
mệnh. Cái tài của ông dùng để cảm nhận cái đẹp, để thương con người, để thể hiện vẻ đẹp
sâu sắc của tâm hồn chứa đựng cảm hứng nhân đạo khác hoàn toàn với Nguyễn Công Trứ
mang nét cao ngạo, thể hiện cái tôi một cách ngông cuồng. Cái phong lưu của con người đã
trở thành một cái oán, cái án ấy khiến người ta bị đày đoạ, bị hắt hủi, bị hành họ cho đến sức
cùng lực kiệt thì mới thôi. Phải chăng khi đặt mình cùng vào chiếc thuyền khiến cho tiếng nói
tri âm, tri kỉ lại càng vang thêm sâu sắc thêm nhường nào…
Đau đớn trước cái ngang trái của cuộc đời và giờ đây Nguyễn Du lại tự thương cho chính bản
thân mình và đó vô tình trở thành một nét mới trong văn học trung đại- cảm hứng tự thương:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.

(Chẳng biết ba trăm năm nữa


Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Hai câu kết mở ra là cả một thế giới nội tâm của Nguyễn Du, “tam bách dư liên hậu”-con số
300 năm chỉ mang tính chất ước lệ tượng trưng nhưng đó lại là nỗi niềm cô đơn của ông
trong thời đại. Câu hỏi tu từ ở cuối bài bày tỏ niềm khao khát, mong muốn tìm được sự thấu
hiểu, thương cảm. Tiếng khóc của người đời là thứ mà Nguyễn Du luôn tìm kiếm bởi đó là
tiếng vang của sự tri âm, đồng cảm. Từ xót thương cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh
và rồi ông cũng tự khóc cho chính mình, ông cũng là một trong những số ít nhà thơ đưa tên
chữ của mình vào trong thi phẩm, dường như đó là cái tôi, cái cá nhân mà ông muốn khẳng
định qua đó lại một lần nữa Nguyễn Du thể hiện tấm lòng nhân đạo lớn lao của mình đó là sự
tự thương. Khép lại bài thơ là tiếng nói bất bình lần nữa của ông, bằng 2 câu thơ thất niêm
phá tính quy phạm vốn có của văn học trung đại để lên án mạnh mẽ những kẻ không chân
trọng giá trị của con người đặc biệt là những con người tài hoa.
Bài thơ đã ra đời cách đây mấy trăm năm nhưng giá trị nhân đạo mà nó để lại vẫn là mãi mãi.
“Độc Tiểu Thanh kí” thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người
phụ nữ có tài, có sắc nhưng bị xã hội phong kiến mục nát chà đạp. Khóc cho họ và rồi
Nguyễn Du cũng khóc cho chính mình, cho một tài năng mà xã hội mục nát ấy chẳng thể
nhận ra vì vậy Nguyễn Du cùng với “Độc Tiểu Thanh kí” luôn sống mãi trong lòng hậu thế

Độc Tiểu Thanh Kí 13


với những giá trị nhân đạo cao quý, đúng như Lâm Ngũ Đường từng nói: “văn chương bất hủ
cổ kim đều viết bằng huyết lệ”.

Độc Tiểu Thanh Kí 14

You might also like