Professional Documents
Culture Documents
04 Oksiu
04 Oksiu
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
Tóm tắt : Thực tiễn kinh doanh cho thấy, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay
gắt, yêu cầu của công việc đòi hỏi trình độ ngày càng cao đối với đội ngũ cán bộ công nhân
viên. Điều đó đặt ra bài toán nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ nhân viên ngày càng cấp
thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Bên cạnh đó là việc xây dựng chương trình đào tạo và phát
triển năng lực phù hợp, đảm bảo đội ngũ nhân viên được trang bị những kỹ năng và kiến thức
phù hợp với những yêu cầu nhiệm vụ của doanh nghiệp là trong những quan tâm hàng đầu
của các DNNN (doanh nghiệp nhà nước) và các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
Thông qua các chương trình đào tạo, doanh nghiệp nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ nhân
viên, tạo điều kiện cho nhân viên phát triển, gắn bó hơn với tổ chức và tạo động lực cho nhân
viên cống hiến hết mình cho tổ chức. Mỗi doanh nghiệp hiện nay đều có những chính sách
đào tạo và phát triển nhân lực khác nhau, bài viết này ngoài làm rõ những vấn đề trên, sẽ đưa
ra những phân tích và so sánh chính sách đào tạo giữa DNNN và doanh nghiệp nước ngoài tại
Việt Nam.
Từ khóa: đào tạo và phát triển, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nước ngoài, Việt Nam.
1. Dẫn nhập
Phát triển con người là một trong những mục tiêu quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã
hội và đó là phương tiện tốt nhất để thúc đẩy sự phát triển, không chỉ trong phạm vi một quốc
gia mà còn cả trên toàn thế giới. Trong mỗi tổ chức đều nhận thấy được công tác đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực là rất quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Bên cạnh đó công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không chỉ đem
lại nhiều lợi ích cho tổ chức mà còn giúp cho người lao động cập nhật các kiến thức, kỹ năng
mới, áp dụng thành công các thay đổi về công nghệ, kỹ thuật [12]. Nhờ có đào tạo và phát
triển mà người lao động tránh được sự đào thải trong quá trình phát triển của tổ chức, xã hội.
Và nó còn góp phần làm thoả mãn nhu cầu phát triển cho người lao động.
Vì vậy, để phát triển bền vững, xây dựng được vị thế vững chắc trên thị trường, công
việc được đặt lên vị trí hàng đầu là phải quan tâm đến con người – con người là cốt lõi của
mọi hành động. Nếu tổ chức có nguồn nhân lực trình độ kĩ thuật cao, có ý thức trách nhiệm,
có sáng tạo...thì tổ chức đó sẽ làm chủ được mình trong mọi biến động của thị trường. Và
cũng chính nguồn lực đó là sự đổi mới, sự cải tiến bằng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên
tiến nhằm hiện đại hoá – công nghệ hoá quá trình sản xuất, quản lý. Công tác đào tạo nguồn
nhân lực đảm bảo cả về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế ngày càng
phát triển đòi hỏi phải có sự nổ lực lớn.
Trong quá trình nghiên cứu các tài liệu và đọc sách về tình hình đào tạo và phát triển của
các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, nhận thấy
có rất nhiều ưu điểm các doanh nghiệp đã thấy được tầm quan trọng của công tác đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực, các doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư cho ngừơi lao động được
tham gia các khoá đào tạo để nâng cao nâng lực cũng như có những chính sách phát triển
nhân sự. Tuy nhiên, công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp vẫn còn
những hạn chế: hình thức đào tạo chưa phong phú, công tác đánh giá chưa đạt hiệu quả, chưa
sát với năng lực thực sự của nhân viên.
2. Cơ sở lý luận
Giáo trình quản trị nguồn nhân lực có quan niệm về nhân lực như sau: Nhân lực là nguồn
lực của mỗi con người , bao gồm thể lực và trí lực.Thể lực là sức vóc, tình trạng sức khoẻ,
chiều cao, cân nặng… của cơ thể. Nó phụ thuộc vào mức sống, thu nhập, môi trường sinh
hoạt, chế độ ăn uống, chế độ làm việc, nghỉ ngơi, chế độ chăm sóc y tế…Trí lực là những
hiểu biết, kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm cũngnhư quan điểm, ý chí, niềm tin, đạo
đức, nhân cách,…của mỗi con người [2]. Từ khái niệm về nhân lực còn phân tích rõ khái
niệm về nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực nếu xét trong phạm vi một xã hội thì nó bao gồm
những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao
động nhưng vẫn tham gia lao động. Còn đứng trên góc độ một tổ chức, một doanh nghiệp thì
nguồn nhân lực của một tổ chức, một doanh nghiệp là tất cả những người đang làm việc trong
tổ chức, doanh nghiệp đó.
Một số tài liệu còn có khái niệm: Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực của mỗi con
người gồm có thể lực và trí tuệ. Người có thể lực là người có sức khoẻ bình thường đảm bảo
thực hiện được một công việc nhất định. Người có trí lực là người có khả năng nhận thức đối
với hành vi lao động mà họ thực hiện và với mục đích công việc mà họ làm. Người có đủ thể
lực và trí lực mới được gọi là nhân lực. Như vậy, con người phải trải qua một thời gian phát
triển cơ thể tức là phải đạt tới một độ tuổi nhất định và phải có quá trình tích luỹ kiến thức, kỹ
năng lao động (tức là phải được đào tạo, được rèn luyện… ) mới trở thành nguồn nhân lực
[3].
Để nâng cao và duy trì chất lượng cho nguồn nhân lực trong mỗi tổ chức thì một hoạt
động không thể thiếu đó là công tác đào tạo nguồn nhân lực. Thông qua các hoạt động đó
giúp cho các tổ chức tạo được vị thế của mình trong môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày
càng khốc liệt. Để nguồn nhân lực trong các tổ chức đáp ứng với sự phát triển ngày càng cao
của quá trình sản xuất kinh doanh thì công tác đào tạo nguồn nhân lực phải được thực hiện
một cách có tổ chức và kế hoạch. Theo đó, hoạt động này được hiểu như sau:
Đào tạo là các hoạt động học tập có tổ chức, diễn ra trong những khoảng thời gian xác
định nhằm hướng vào việc giúp cho người lao động nắm rõ hơn chuyên môn, nghiệp vụ của
mình ở công việc hiện tại, bổ sung những kỹ năng, kiến thức còn thiếu để thực hiện công việc
hiện tại một cách tốt hơn. Do đó, hoạt động này chủ yếu hướng vào phục vụ cho sự đòi hỏi
của các công việc trước mắt và cần phải thực hiện ngay, mang tính chất nền tảng.
Đào tạo nguồn nhân lực là việc huấn luyện người lao động tập trung vào những công
việc hiện tại, chú trọng đến các công việc mang tính cá nhân, thời gian thực hiện việc đào tạo
thường ngắn và với mục đích chủ yếu là để khắc phục sự thiếu hụt về kiến thức và kỹ năng
thực hiện công việc hiện tại. Mặc dù sự thành công trong kinh doanh của một doanh nghiệp
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng nguồn nhân lực vẫn là một yếu tố quyết định cho sự
thành công đó. Vì vậy, để phát triển toàn diện tiềm năng chất lượng của đội ngũ lao động,
phục vụ mục tiêu của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp cần phải chú trọng tổ chức tốt công
tác đào tạo nguồn nhân lực
Chính sách đào tạo là hệ thống các quan điểm, mục tiêu về đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực cùng những phương thức hành động được ban lãnh đạo khẳng định và thực hiện
nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại trong một giai đoạn phát triển nhất định của mỗi
doanh nghiệp [1].
Trong các doanh nghiệp hiện nay, với bốn yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh
doanh: vốn, công nghệ, thông tin và nhân lực thì nhân lực hay con người được xem là yếu tố
trung tâm, yếu tố hàng đầu quyết định sự kết hợp và phát huy sức mạnh của các yếu tố khác.
Trong một nền kinh tế đang bước vào nền kinh tế tri thức như hiện nay thìgiá trị tri thức ngày
càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị sản phẩm. Và các doanh nghiệp đang cố gắng đẩy
cao tỷ trọng này của tri thức hơn nữa bằng cách chuyển từ khai thác thể lực con người (theo
chiều rộng) sang khai thác trí lực (theo chiều sâu) và xem đây như một nguồn tài nguyên vô
tận.Tuy nhiên mỗi con người ở một thời điểm nào đó chỉ có một vốn tri thức nhất định. Do đó
các doanh nghiệp muốn biến vốn tri thức nhất định đó thành nguồn tài nguyên vô tận và khai
thác được thì phải đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của mình.
Đào tạo gồm các hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề, kỹ năng người lao động,
giúp người lao động hoàn thành công việc thực tại tốt hơn. Phát triển bao gồm các hoạt động
nhằm chuẩn bị cho người lao động thích ứng và theo kịp với cơ cấu tổ chức khi nó thay đổi
và phát triển [3]. Chức năng đào tạo được gọi một cách phổ biến là phát triển nguồn nhân lực,
phối hợp hoạt động đào tạo và phát triển trong tổ chức. Phát triển nguồn nhân lực hiểu theo
nghĩa rộng là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng
thời gian nhất định để tạo ra sự thay đổi về hành vi nghề nghiệp cho người lao động được
thực hiện bởi doanh nghiệp. Đào tạo và phát triển là tiến trình nỗ lực cung cấp cho nhân viên
những thông tin, kỹ năng và sự thấu hiểu về tổ chức công việc trong tổ chức cũng như mục
tiêu của doanh nghiệp. Đào tạo và phát triển được thiết kế để giúp đỡ, hỗ trợ cá nhân tiếp tục
có những đóng góp tích cực cho tổ chức. Mục đích chung của đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực là sử dụng tối đa nguồn nhân lực [11].
Đào tạo và phát triển là các hoạt động để duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
của tổ chức, là điều kiện quyết định để các tổ chức có thể đứng vững và thắng lợi trong môi
trường cạn tranh. Do đó trong các tổ chức, công tác đào tạo và phát triển cần phải được thực
hiện một cách có tổ chức và có kế hoạch. Phát triển nguồn nhân lực (theo nghĩa rộng) là tổng
thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định
nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động [1].
Trước hết, phát triển nguồn nhân lực chính là toàn bộ những hoạt động học tập được tổ
chức bởi doanh nghiệp, do doanh nghiệp cung cấp cho người lao động. Các hoạt động dó có
thể được cung cấp trong vài giờ, vài ngày hoặc thậm chí tới vài năm, tuỳ vào mục tiêu học
tập; và nhằm tạo sự thay đổi hành vi nghề nghiệp cho người lao động theo hướng đi lên, tức
là nhằm nâng cao khả năng và trình độ nghề nghiệp của họ. Như vậy, xét về nội dung, phát
triển nguồn nhân lực bao gồm ba loại hoạt động là: giáo dục, đào tạo và phát triển.
Giáo dục: được hiểu là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người bước vào một
nghề nghiệp hoặc chuyển sang một nghề nghiệp mới, thích hợp hơn trong tương lai.
Đào tạo (hay còn gọi là đào tạo kỹ năng): được hiểu là các hoạt động học tập nhằm giúp
cho con người lao động có thêr thực hiện hiểu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó
chính là quá trình học tập làm cho người lao đọng nắm vững hơn về công việc của mình, là
những hoạt động học tập để nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện
nhiệm vụ lao động có hiệu quả hơn.
Phát triển: là các hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người
lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên những cơ sở những định hướng
tương lai của tổ chức.
Đào tạo, giáo dục và phát triển đếu có điểm tương đồng dùng để chỉ một quá trình tương
tự như nhau. Đó là quá trình cho phép con người tiếp thu các kiến thức, các kỹ năng mới,
thay dổi các quan điểm hay hành vi và nâng cao khả năng thực hiện công việc của cá nhân.
Đào tạo, giáo dục và phát triển đều sử dụng các phương pháp tương tự nhau nhằm tác động
lên quá trình học tập để nâng cao các kiến thức kỹ năng thực hành. Tuy nhiên, đào tạo và
phát triển được phân biệt căn cứ vào mục đích của các hoạt động đó [6].
Hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có vai trò rất to lớn đối với nền kinh tế xã hội
nói chung cũng như đối với các doanh nghiệp, tổ chức và người lao động nói riêng:
Đối với doanh nghiệp: Đào tạo được xem là một yếu tố cơ bản nhằm đáp ứng các mục tiêu,
chiến lược của tổ chức. Chất lượng nguồn nhân lực trở thành lợi thế cạnh tranh quan trọng
nhất của các doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp giải quyết được các vấn đề về tổ chức,
chuẩn bị đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên môn kế cận, và giúp cho doanh nghiệp thích ứng kịp
thời với sự thay đổi của xã hội. Quá trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực thành công sẽ
mang lại những lợi ích sau:
Cải tiến về năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc.
Giảm bớt được sự giám sát, vì khi người lao động được đào tạo, trang bị đầy đủ
những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết họ có thể tự giám sát được.
Tạo thái độ tán thành và hợp tác trong lao động.
Đạt được yêu cầu trong công tác kế hoạch hoá nguồn nhân lực.
Giảm bớt được tai nạn lao động
Sự ổn định và năng động của tổ chức tăng lên, chúng đảm bảo giữ vững hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp ngay cả khi thiếu những người chủ chốt do có nguồn đào tạo
dự trữ để thay thế.
Đối với người lao động: Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không chỉ đem lại
nhiều lợi ích cho tổ chức mà nó còn giúp chop người lao động cập nhật các kiến thức, kỹ
năng mới, áp dụng thành công các thay đổi về công nghệ, kỹ thuật. Nhờ có đào tạo và phát
triển mà người lao động tránh được sự đào tahỉ trong quá trình phát triển của tổ chức, xã hội.
Và nó còn góp phần làm thoả mãn nhu cầu phát triển cho người lao động.
Đối với nền kinh tế xã hội: Giáo dục, đào tạo và phát triển năng lực của người lao động có
ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Đào tạo là cơ sở
thế mạnh, là nguồn gốc thành công của các nước phát triển mạnh trên thế giới như Anh,
Pháp, Nhật…Sự phát triển nguồn nhân lực của các doanh nghiệp cũng chính là yếu tố tích
cực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.