You are on page 1of 15

Chương 2.

CẤU TẠO NGUYÊN TỬ - HỆ THỐNG


TUẦN HOÀN CÁC NGUYÊN TỐ HÓA HỌC

2.1. Khái niệm nguyên tử


Quan niệm cho rằng toàn bộ thế giới vật chất được hình thành do sự kết hợp của một số hữu hạn
các nguyên tố là một quan niệm duy vật. Một quan niệm như vậy đã được các nhà triết học cổ Hy Lạp đề
xuất từ thế kỷ 6 - 7 trước công nguyên. Thales cho rằng nguyên tố duy nhất của vật chất là nước, trái lại
Heraclit thì cho rằng nguyên tố đó là lửa. Sang thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, Empedocle đưa ra thuyết
4 nguyên tố. Theo ông thì cơ sở vật chất không phải là một, mà là sự tổ hợp của 4 nguyên tố đầu tiên là
nước, lửa, không khí và đất. Thuyết này được Aristole (thế kỷ 4 trước công nguyên) phát triển thêm. Theo
Aristole thì đất, nước, lửa và không khí xuất hiện do sự tổ hợp của 4 tính chất cơ bản: nóng, lạnh, khô và
ẩm. Cũng trong thời đại đó, ở phương Đông có quan niệm cho rằng thế giới vật chất được cấu tạo từ các
nguyên tố: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
Khái niệm nguyên tử lần đầu tiên được Leucippe và Democrite đưa ra từ thế kỷ 4 - 5 trước công
nguyên: Nguyên tử là phần tử nhỏ nhất không thể phân chia được của vật chất. Các nguyên tử phân biệt
với nhau bởi độ lớn và hình dạng của chúng. Học thuyết nguyên tử của Leucippe và Democrite được các
nhà triết học khác như Epicure và Lucrece hưởng ứng. Tuy nhiên, trong suốt thời gian dài quan niệm này
bị các quan niệm duy tâm của Platon chống đối và trấn áp.
Năm 1807, nhà bác học người Anh Dalton đã làm sống lại khái niệm nguyên tử. Theo ông, nguyên
tử là những quả cầu rắn, nhỏ, không thể xuyên qua được. Các định luật tỉ lệ bội (Dalton), định luật tỉ số
đơn giản thể tích các chất khí (Gay- Lussac) và định luật Avogadro là kết quả sự tìm kiếm các bằng
chứng (gián tiếp) cho sự tồn tại của nguyên tử.
Ngày nay, chúng ta biết rằng nguyên tử không phải là những phần tử nhỏ bé nhất của vật chất.
Bằng các phương pháp vật lý (ví dụ sự bắn phá hạt nhân) có thể phân chia nguyên tử thành các phần tử
nhỏ bé hơn, các hạt cơ bản. Có thể chính xác hóa khái niệm nguyên tử như sau: Nguyên tử là phần tử nhỏ
bé nhất của vật chất không thể phân chia được bằng các phản ứng hóa học.
2.2. Cấu trúc nguyên tử
2.2.1. Nguyên tử
2.2.1.1. Sự phát minh ra tia âm cực
Cuối thế kỷ 19, hai nhà vật lý học là Crookes và Lenard đi sâu nghiên cứu hiện tượng phóng điện
trong khí loãng. Trong nghiên cứu này, người ta dùng ống thủy tinh kín trong chứa một chất khí, hai đầu
có hai điện cực bằng kim loại. Giữa 2 điện cực người ta đặt một hiệu điện thế tương đối lớn (khoảng vài
nghìn vôn). Bằng một máy bơm, người ta có thể làm giảm dần áp suất bên trong ống.
- Khi p = 6mmHg: xuất hiện dải sáng chạy từ âm cực đến dương cực
- Khi p = 1mmHg: xuất hiện miền sáng tối khác nhau
- Khi p < 0,01mmHg: miền sáng trông thấy biến mất. Tuy nhiên lúc này trên thành ống thủy tinh
đối diện với âm cực có vạch sáng. Điều này chứng tỏ âm cực vẫn còn phát ra một thứ tia đặc biệt không
trông thấy có khả năng gây ra hiện tượng huỳnh quang ở thành ống đối diện. Lenard gọi là tia âm cực
(1894).
- Tia âm cực là thông lượng những hạt vật chất phát ra từ âm cực và chuyển động với vận tốc lớn,
có khả năng làm chuyển động một bánh xe đặt trên đường đi của nó. Vận tốc những hạt vật chất này phụ
thuộc vào thế hiệu giữa 2 điện cực.
- Tia âm cực bị lệch hướng dưới tác động của từ trường  Năm 1895, Perrin chứng minh rằng tia
âm cực mang điện tích âm.
- Thomson gọi tia âm cực là electron (điện tử).
- Các phương pháp xác định điện tích và khối lượng của electron cho kết quả:
qe = -1,602.10-19 Culong
me = 9,1094.10-31 Kg
2.2.1.2. Sự khám phá ra hạt nhân nguyên tử
Sự phát minh ra tia dương cực: Cũng trong thí nghiệm về sự khám phá ra tia âm cực, người ta còn
khám phá ra tia dương cực do Goldstein (Đức- 1886).
Từ sự khám phá ra tia dương cực và tính chất trung hòa điện của nguyên tử, người ta khẳng định
rằng: ngoài những điện tử mang điện tích âm, trong nguyên tử còn có hạt mang điện tích dương.
Lúc đầu người ta cho rằng, những hạt điện tích dương và những hạt điện tử chiếm toàn bộ thể tích
nguyên tử. Nhưng khi nghiên cứu về đường đi của tia anpha xuyên qua tấm kim loại, Thomson cho rằng
các điện tử cũng như các hạt tích điện dương phân tán đều trong một khối cầu trên các lớp đồng tâm khác
nhau.
Rutherford đưa ra các mô hình nguyên tử có nhân (1911).
2.2.2. Thành phần cấu trúc hạt nhân
2.2.2.1. Thành phần của hạt nhân
- Proton: Rutherford phát hiện năm 1911
4 14 17 1
2 He+ 7 N → 8 O+ 1 p
mp = 1,6726.10-24 g = 1,00724 u = 1836,1me
qp = +1,602.10-19 C
- Nơtron: Chadwick phát hiện năm 1932
4 9 12 1
2 He+ 4 Be→ 6 C+ 0 n
mn = 1,6748.10-24 g = 1,00865u = 1836,6me
qn =0
2.2.2.2. Số điện tích và số khối hạt nhân - Nguyên tố hóa học - Đồng vị
- Số điện tích hạt nhân Z:
Z = số điện tích hạt nhân = số proton = số electron
- Số khối hạt nhân: A = P + N
Vì proton và notron đều có khối lượng xấp xỉ 1u và electron có khối lượng rất nhỏ nên số khối có
giá trị gần đúng của nguyên tử khối
A
Ký hiệu nguyên tử: Z X

2.2.2.3. Cấu trúc hạt nhân


- Mô hình cấu trúc giọt: Theo mô hình này hạt nhân nguyên tử được hình dung như một giọt chất
lỏng hình cầu tạo bởi các hạt nucleon
- Mô hình cấu trúc lớp: Tương tự như lớp vỏ e, trong hạt nhân các nucleon cũng được sắp xếp trên
các lớp ứng với các mức năng lượng đã được lượng tử hóa.
2.2.2.4. Khối lượng và kích thước hạt nhân
R = k.(A)1/3
k = 1,414.10-15m
A: số khối của hạt nhân
Mỗi cm3 hạt nhân có khối lượng khoảng 140 triệu tấn
2.3. Một số mô hình nguyên tử trước cơ học lượng tử
2.3.1. Mô hình nguyên tử của Rutherford
Dựa vào kết quả nghiên cứu sự tán xạ hạt α (hạt nhân nguyên tử He) trên màng mỏng nhiều
nguyên tố khác nhau, Rutherford (1911) đưa ra mô hình nguyên tử: giống như trong một hệ hành tinh, e
trong nguyên tử quay xung quanh hạt nhân như những hành tinh quay xung quanh mặt trời (mô hình hành
tinh). Các e chuyển động sao cho lực li tâm của chúng cân bằng với lực hút Coulomb giữa hạt nhân và
electron. Trong mô hình này e có thể chuyển động trên quỹ đạo cách hạt nhân một khoảng cách tùy ý,
miễn là có sự cân bằng lực.
Dễ dàng nhận thấy mô hình hành tinh của Rutherford chứa đựng trong nó nhiều mâu thuẫn. Trước
hết theo các định luật của điện động lực học cổ điển, một nguyên tử được cấu tạo như vậy không thể bền.
Khi e chuyển động có gia tốc, nó sẽ phát ra bức xạ điện từ. Quá trình ấy làm mất năng lượng, e chuyển
động theo đường xoắn ốc rồi cuối cùng rơi vào hạt nhân. Hơn nữa, bức xạ do e phát ra phải tạo thành một
phổ liên tục vì tần số chuyển động của e trên đường xoắn ốc không ngừng tăng lên. Cả hai điều đó trái
với sự thật là nguyên tử là một hệ bền và phổ phát xạ của nguyên tử là phổ gián đoạn.
2.3.2. Phổ nguyên tử
Một trong những yêu cầu đặt ra đối với mọi lý thuyết về nguyên tử là giải thích được sự xuất hiện
phổ vạch của nguyên tử và một số tính chất của chúng.
Khi nung nóng một chất tới một nhiệt độ đủ lớn thì nó phát sáng. Ví dụ cho một ít NaCl vào ngọn
lửa đèn cồn thì ngọn lửa nhuộm màu vàng thẫm, ánh sáng vàng ấy là do nguyên tử Na phát ra. Phân tích
ánh sáng ngọn lửa có chứa hơi Na bằng một quang phổ kế, người ta thấy bên cạnh phổ liên tục của ánh
sáng ngọn lửa là một vạch đậm màu vàng có bước sóng 5892A 0. Phổ xuất hiện như vậy gọi là phổ phát
xạ.
Trái lại, nếu chiếu ánh sáng trắng qua hơi Na thì trên phổ liên tục, ở vị trí tương ứng với vạch
vàng Na là một vật tối. Đó là phổ hấp thụ của Na. Nguyên tử có khả năng hấp thụ ánh sáng có tần số đúng
bằng tần số ánh sáng phát xạ của nó.
Phổ nguyên tử H ở vùng thấy được có cấu trúc đặc biệt đơn giản. Balmer tìm thấy các phổ vạch
nguyên tử H có bước sóng tuân theo công thức đơn giản:
km 2
λ=
m2 −22 ; k = 3645,6.10-7 (mm) và m = 3, 4, 5, …
Công thức Balmer được Rydberg (1896) và Ritz (1908) khái quát hóa:
1 1
ν =RH ( − )
n21 n22
4
RH=
Với k : hằng số Rydberg

2.3.3. Thuyết lượng tử Planck


Một dao động tử dao động với tần số ν chỉ có thể phát ra hay hấp thụ năng lượng từng đơn vị gián
đoạn, từng lượng nhỏ một nguyên vẹn, gọi là lượng tử năng lượng ε. Lượng tử năng lượng này tỉ lệ với
tần số ν của dao động tử.
ε = hν
h = 6,625.10-34 Js: hằng số Planck
Ý nghĩa quan trọng của thuyết lượng tử Planck là đã phát hiện ra tính chất gián đoạn hay tính chất
lượng tử của năng lượng trong các hệ vi mô. Năng lượng của electron trong nguyên tử, năng lượng quay,
năng lượng dao động của các nguyên tử hay nhóm nguyên tử trong phân tử… đều nhận những giá trị gián
đoạn xác định.
2.3.4. Mô hình nguyên tử của Bohr
2.3.4.1. Các tiên đề của Bohr
Tiên đề 1. Trong nguyên tử electron không chuyển động trên những quỹ đạo bất kỳ mà chỉ được
phép chuyển động trên những quỹ đạo sao cho xung lượng quay (momen xung lượng) của nó bằng số
h
ℏ=
nguyên lần đại lượng 2 π (điều kiện lượng tử hóa xung lượng quay)
L=n ℏ

hay mvr=n ℏ ; với n = 1, 2, 3,…


Người ta gọi n là số lượng tử
Tiên đề 2. Khi chuyển động trên những quỹ đạo được lượng tử hóa nói trên, electron không phát ra
bức xạ nghĩa là không mất năng lượng.
Quỹ đạo hay trạng thái trên đó năng lượng của e có một giá trị xác định, không đổi gọi là quỹ đạo
dừng hay trạng thái dừng.
Tiên đề 3. Electron chỉ phát xạ hay hấp thụ bức xạ khi chuyển từ trạng thái dừng này sang trạng thái
dừng khác.
Năng lượng của bức xạ được phát ra hay hấp thụ đúng bằng hiệu số năng lượng của 2 trạng thái
đó.
ΔE=E n −E n1 =hν
2

Trong đó:
En
2 : trạng thái có năng lượng cao
En
1 : trạng thái có năng lượng thấp
2.3.4.2. Mô hình Bohr đối với nguyên tử H và ion giống H
Các ion giống H (He+, Li2+, Be3+, …) có điện tích hạt nhân +Ze và có khối lượng M. Electron có
khối lượng m và điện tích –e. Dưới tác dụng của lực Coulomb, electron chuyển động trên các quỹ đạo
tròn quanh hạt nhân. Vì khối lượng hạt nhân rất lớn so với khối lượng electron, nên hạt nhân coi như
đứng yên. Để quỹ đạo electron là bền phải có sự cân bằng giữa lực hút Coulomb với lực li tâm xuất hiện
do chuyển động quay của electron:
1 Ze 2 mv2
=
4 πε r 2 r (1)

Theo điều kiện lượng tử hóa xung lượng quay:


nℏ
v=
mr (2)

n2 ℏ 2
r=4 πε
Từ (1), (2) ⇒ mZe 2
Ta thấy bán kính quỹ đạo tỉ lệ thuận với bình phương số lượng tử
Đối với nguyên tử H, nếu thay các giá trị của h, e, m vào công thức trên thì bán kính Bohr thứ
nhất (n=1) có giá trị: r1= 0,53.10-10 m = 0,53 A0
Trong tính toán đối với hệ nguyên tử, phân tử người ta thường dùng bán kính Bohr thứ nhất của
nguyên tử H làm đơn vị đo chiều dài và kí hiệu là a0
⇒ rn = n2a0

Electron trên quỹ đạo thứ nhất có năng lượng cực tiểu. Có thể xem a 0 là bán kính nguyên tử H ở
trạng thái bình thường.
Năng lượng: E = Eđ + Et
2
1 Ze
Eđ =
4 πε 2 r
−Ze 2
Et =
4 πε r 2
2 2
n ℏ
r=4 πε 2
mZe
2 4
−mZ e 1
E=
⇒ ( 4 πε)2 2 ℏ 2 n2
Như vậy điều kiện lượng tử xung lượng quay đã dẫn đến sự lượng tử hóa năng lượng.
2.3.5. Mô hình nguyên tử của Sommerfeld
Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong việc tìm ra e và xác định bán kính nguyên tử,
mô hình Bohr không thể giải thích được phổ của các nguyên tử này, tức là hiện tượng mỗi vạch phổ
nguyên tử trên thực tế bao gồm một số vạch đứng sát nhau. Để khắc phục, Sommerfeld (1916) tìm cách
cải tiến mô hình của Bohr bằng cách đưa vào quỹ đạo elip.
Tuy nhiên thuyết Bohr - Sommerfeld không phải là một lý thuyết hoàn chỉnh và nhất quán. Nó chỉ
được coi là một giai đoạn quá độ để đi đến một lý thuyết hoàn chỉnh: Cơ học lượng tử
2.4. Đại cương về cơ học lượng tử
2.4.1. Tính chất sóng - hạt của ánh sáng
Vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, có nhiều bằng chứng thực nghiệm chứng tỏ ánh sáng có lưỡng
tính sóng - hạt.
- Bản chất hạt của ánh sáng thể hiện ở hiệu ứng quang điện và hiệu ứng compton. Trong các hiệu
ứng này, ánh sáng thể hiện tính chất như các dòng hạt có khối lượng và xung lượng xác định với động
năng tính bằng công thức:
2
ε =mc (2.1)
m: khối lượng hạt ánh sáng
c: vận tốc ánh sáng
- Bản chất sóng của ánh sáng thể hiện trong các hiện tượng nhiễu xạ và giao thoa; trong đó ánh
sáng thể hiện tính chất như những sóng truyền đi trong không gian với vận tốc c, bước sóng λ và tần số ν
c=λν (2.2)
Từ (1), (2) ⇒ ε =mc λν=hν
h
⇔ λ=
mc
⇒ Tính chất sóng - hạt của vật chất

Năm 1924, nhà vật lý Pháp Louis De Brogli cho rằng các vi hạt cũng có lưỡng tính sóng - hạt
E h h
λ= ν = = (∗)
h ; mv p
Biểu thức (*) gọi là biểu thức De Broglie hay phương trình cơ bản của sóng vật chất De Broglie
2.4.2. Nguyên lý bất định Heisenberg
Từ tính chất sóng của các hạt vi mô, năm 1927 nhà vật lý Đức Heisenberg chứng minh được
nguyên lý bất định: “Về nguyên tắc không thể xác định đồng thời chính xác cả tọa độ và vận tốc của hạt,
do đó không thể vẽ chính xác quỹ đạo chuyển động của hạt”

Biểu thức: Δx . Δp x ≥ℏ
Δx : độ bất định của tọa độ
Δpx : độ bất định của động lượng
Δp x=m . Δv x

⇔ Δx . Δv x ≥
Biết: m
Từ hai tính chất vật lý của hạt vật chất có thể rút ra tính chất đặc trưng của hệ vi mô:
- Các đại lượng vật lý của hạt vi mô đều gián đoạn.
- Tọa độ x và động lượng của hạt là không thể xác định đồng thời.
- Chuyển động của hạt vi mô không có quỹ đạo.
2.4.3. Sự khác biệt giữa cơ học lượng tử và cơ học cổ điển
Cơ học cổ điển Cơ học lượng tử
- Chuyển động của hạt có quỷ đạo - Chuyển động của hạt không có quỷ đạo
- Các đại lượng vật lý (năng lượng, động - Các đại lượng vật lý chỉ có thể nhận
lượng, mômen động lượng …) có thể nhận những giá trị gián đoạn hay lượng tử hóa
bất cứ giá trị nào. - Tọa độ và động lượng là không thể đồng
- Các đại lượng cơ học đều có thể xác định thời xác định.
được đồng thời.
2.5. Cấu hình electron của nguyên tử Hidro và ion giống nguyên tử Hidro
2.5.1. Bài toán nguyên tử Hidro và ion giống nguyên tử Hidro
Phương trình Schrodinger của nguyên tử Hidro:
1 ∂ 2 ∂ψ 1 2m
2 ∂r
(r )+ 2 ∧ψ + 2 ( E−U ) ψ=0
r ∂ r r ℏ

Việc giải phương trình Schrodinger chính là đi tìm giá trị E và hàm ψ
2 4
−Z me
E=
Ta được kết quả: 2 n2 ℏ 2

ψ n ,l ,m( r,θ , ϕ)=Rn (r).Y l ,m (θ , ϕ)


Giải hàm góc Y(θ,φ) làm xuất hiện các số lượng tử:
Mỗi Orbital nguyên tử được đặc trưng bằng ba giá trị ứng với ba số lượng tử n, l, m:
n – số lượng tử chính
l – số lượng tử orbital (số lượng tử phụ).
m – số lượng tử từ.
Các số lượng tử này là những tham số trong các nghiệm của phương trình sóng Schrodinger và
chính là orbital.

a. Số lượng tử chính
Năng lượng En tương ứng với nghiệm n của phương trình sóng Schrodinger của nguyên tử hyđro
có dạng:

trong đó m – khối lượng điện tử


e - điện tích của điện tử
n – số nguyên bất kỳ từ 1 đến  được gọi là số lượng tử chính và được ký hiệu thành các
lớp tương ứng:
Số lượng tử chính n: 1 2 3 4...
Lớp: K L M N ...
Như vậy, số lượng tử chính n xác định năng lượng của các lớp điện tử. Trạng thái lượng tử của
nguyên tử hidro có mức năng lượng thấp nhất E1 (tương ứng với lớp n = 1) được gọi là trạng thái cơ bản.
Các trạng thái lượng tử của nguyên tử có mức năng lượng cao hơn E 2, E3, ... được gọi là các trạng thái
kích thích.
b. Số lượng tử orbital:
Số lượng tử orbital l (số lượng tử phụ) là tham số đặc trưng cho hình dạng của các orbital tức là
hình dạng của các đám mây điện tử có giá trị:
l = 0, 1, 2, 3, ..., (n - 1).
Số lượng tử orbital có ý nghĩa xác định độ lớn momen động lượng chuyển động orbital  M  của
điện tử:
h
¿⃗
M ∨¿ √ 1(l+1).

Số lượng tử orbital thường được ký hiệu bằng các chữ cái gọi là các phân lớp:
Số lượng tử orbital l: 0 1 2 3 4 5 ....
Phân lớp: s p d f g h ...
Từ số lượng tử chính sẽ suy ra số lượng tử phụ và các phân lớp như sau: ứng với một giá trị của n sẽ
có n giá trị của l.
c. Số lượng tử từ
Số lượng tử từ (m) là số lượng tử đặc trưng cho sự phân bố các orbital trong không gian, ứng với
một giá trị của l có (2l + 1) giá trị của m. Nó có các giá trị:
m = 0, ±1, ±2, ±3, ..., ±l
Số lượng tử từ xác định giá trị độ lớn hình chiếu của momen động lượng MZ trên trục z.
Tuy nhiên việc giải phương trình Schrodinger chỉ thu được 3 số lượng tử: n, l, m là chưa đủ để đặc
trưng trạng thái của electron.

2.5.2. Spin của electron


Khi cho 1 chùm nguyên tử H đi qua một từ trường không đều thì chùm H chia làm 2 phần theo 2

hướng ngược nhau. Ta đã biết với nguyên tử H: n = 1, l =0, |M|= √l(l+1)ℏ=0⇒ H không có momen
động lượng, nên phải đi thẳng qua từ trường, điều này mâu thuẫn với thực tế.
Ngoài ra, khi nghiên cứu chi tiết về phổ phát xạ của nguyên tử H và kim loại kiềm năm 1925, hai
nhà bác học người Hà Lan Uhlenbeck và Gouldsmit đã đưa ra giả thuyết về spin. Theo hai nhà bác học
này thì ngoài momen động lượng xác định bằng số lượng tử phụ l, electron còn có momen phụ thêm,
được gọi là momen động lượng riêng hay momen spin. Uhlenbeck và Gouldsmit giải thích sự tồn tại của
momen spin bằng sự chuyển động tự quay của electron chung quanh trục riêng của nó (trong tiếng Anh,
spin có nghĩa là quay).
Tuy nhiên, sự tự quay của electron chỉ là một cách diễn tả hình tượng.
Năm 1928, Dirac (Anh) đã dựa vào thuyết tương đối Einstein để hiệu chỉnh khối lượng electron và
giải phương trình Schrodinger thì thu được số lượng tử thứ 4 là số lượng tử spin, kí hiệu S; S = 1/2.
1
ms =±
Ứng với mỗi giá trị của S có (2S + 1) giá trị khác nhau của mS; 2
ms: số lượng tử spin của electron (thường được gọi tắt là spin).
2.5.3. Hàm spin - obitan

Hàm AO ψ n ,l , m( r,θ,ϕ) là hàm chỉ các tọa độ không gian của một electron trong nguyên tử và đặc
trưng bằng 3 số lượng tử n, l, m. Để đặc trưng đầy đủ trạng thái của electron trong nguyên tử cần spin
vào. Khi đó hàm sóng đầy đủ của nguyên tử phải chứa cả tọa độ spin σ của electron, gọi là hàm spin -
obital.
ψ n ,l , m , m (r , θ , ϕ, σ )=ψ n , l ,m (r , θ , ϕ). χ ( σ )
s

(Hàm toàn phần) (Hàm vị trí) (Hàm spin)

2.5.4. Năng lượng


Năng lượng của nguyên tử Hidro và ion giống với H được tính theo công thức sau đây:
Z2
E=−13 ,6 (eV )
n2
2.6. Nguyên tử nhiều electron
2.6.1. Phương trình Schrodinger của nguyên tử nhiều electron
Trong nguyên tử H, phương trình Schrodinger có dạng: Hψ = Eψ
2

− Δ+U
H=T+U= 2m
Đối với nguyên tử He có 2 e, ta có phương trình Schrodinger: Hψ = Eψ
H = T1 + T2 + U
2 2 2
Ze Ze Ze
− − +
Với U = r1 r2 r1 r2
2 2
ℏ ℏ
− Δ − Δ
T1 = 2m 1 T2 = 2m 2
Như vậy toán tử H trong nguyên tử He phức tạp hơn nhiều so với trong nguyên tử H, nên phương
trình Schrodinger trong trường hợp He không giải được một cách chính xác. Để giải bài toán về hệ điện
tử nhiều electron người ta phải xây dựng những phương pháp gần đúng.
2.6.2. Nguyên lý loại trừ Pauli
“Trong nguyên tử không thể có hai hay nhiều electron ở cùng một trạng thái như nhau, nghĩa là có
cùng 4 số lượng tử n, l, ml, ms như nhau”.
Hệ quả:
- Số e tối đa trong một obitan: 2 electron (nghĩa là n, l, m khác nhau thì ms phải khác nhau).
- Số e tối đa trong một phân lớp: mỗi phân lớp (n và l xác định) có tối đa là (2l + 1) AO ứng với (2l
+ 1) trị số của m. Vì mỗi AO có tối đa 2 e, nên mỗi phân lớp có tối đa 2(2l + 1)e
- Số e tối đa trong một lớp: một lớp có n phân lớp, ứng với giá trị của l từ 0 đến (n-1), mỗi phân lớp
chứa tối đa 2(2l + 1) e. Vậy số e tối đa trong một lớp là:
l=n−1
∑ 2( 2 l+1 )=2( 1+3+5+7 +.. .+( 2 n−1)=2 n2
l=0

2.6.3. Các mức năng lượng của nguyên tử nhiều electron


Trong nguyên tử nhiều electron, các electron chuyển động trong trường thế U, không phải là
trường Coulomb, nên năng lượng của chúng không những phụ thuộc vào số lượng tử chính n, mà còn phụ
thuộc vào số lượng tử phụ l.
Các mức năng lượng được sắp xếp theo trật tự tăng dần như sau (nguyên lý vững bền):
1s,2s,2p,3s,3p,4s,3d,4p,5s,4d,5p,6s,4f,5d,6p,7s,…
2.6.4. Quy tắc Klechkovski
Khi điện tích hạt nhân tăng, các electron sẽ chiếm các mức năng lượng có tổng số (n+l) lớn dần.
Đối với các phân lớp có tổng (n + l) bằng nhau thì electron được điền vào phân lớp có giá trị n nhỏ
trước, rồi mới tới phân lớp có n lớn hơn.
2.6.5. Quy tắc Hund
Trong một phân lớp ứng với một giá trị của l, các electron sẽ phân bố thế nào để tổng số spin của
chúng là cực đại.
Nghĩa là: các e sắp xếp trên các phân lớp sao cho số e độc thân là lớn nhất.
Một số ngoại lệ: Cr: 3d54s1, Cu: 3d104s1, La: 6s25d1 (chứ không phải 6s24f1).
2.7. Hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học
2.7.1. Một số khái niệm
- Lớp electron: Khái niệm lớp electron liên quan đến khái niệm không gian xa và gần hạt nhân. Do
đó, lớp là tập hợp các electron có cùng số lượng tử chính n.
- Phân lớp electron: Tập hợp các electron có cùng số lượng tử l (tất nhiên cùng n).
Ta có các vỏ s, p, d, f,…
Vỏ kín: Là vỏ có số electron bão hòa. Số electron tạo thành tối đa của vỏ bão hòa là 2(2l+1): ns 2,
np6, nd10, nf14,…
Vỏ hở: Có số e chưa bão hòa
- Chu kỳ: Tập hợp tất cả các nguyên tố mà trong cấu hình electron nguyên tử có số lớp electron
giống nhau.
- Nhóm: Tập hợp tất cả các nguyên tố mà trong cấu hình electron của nó có số electron ở lớp ngoài
cùng giống nhau.
Phân nhóm chính (phân nhóm A): Là tập hợp những nguyên tố mà trong cấu hình electron nguyên
tử của nó, electron cuối cùng điền vào obitan s hoặc p.
Phân nhóm phụ (phân nhóm B): Là tập hợp những nguyên tố mà trong cấu hình electron nguyên tử
của nó, electron cuối cùng điền vào obitan d hoặc f.
Đối với các nguyên tố thuộc phân nhóm chính thì số nhóm bằng tổng số electron của lớp ngoài
cùng.
Đối với các nguyên tố thuộc phân nhóm phụ: (n-1)dansb
- a + b < 8: nguyên tố thuộc phân nhóm (a + b)
- 8 ≤ a + b ≤ 10: nguyên tố thuộc phân nhóm 8
- a + b > 10: nguyên tố thuộc phân nhóm (a + b) - 10
2.7.2. Sự biến thiên
Cấu tạo nguyên tử của các nguyên tố hoá học biến thiên tuần hoàn theo quy luật: Cứ sau sự sắp xếp
một lớp điện tử thì lại bắt đầu hình thành một lớp điện tử mới, tức là sự hình thành đó xảy ra có tính chu
kỳ.
Qua sự phân bố điện tử trên các lớp và phân lớp trong nguyên tử của các nguyên tố có thể rút ra một
số nhận xét sau:
- Sự hình thành vỏ điện tử của các nguyên tố có tính chất tuần hoàn: cứ sau một dãy nguyên tố lại
bắt đầu hình thành một lớp điện tử mới. Dãy nguyên tố trong đó đang xảy ra sự hình thành một lớp điện
tử mới được gọi là chu kỳ. Sự phân bố điện tử của chu kỳ n được bắt đầu từ nguyên tố đầu tiên trên phân
lớp ns và kết thúc ở nguyên tố cuối cùng với phân lớp bão hoà np.
- Sự sắp xếp điện tử trong nguyên tử của các nguyên tố nhìn chung tuân theo quy tắc năng lượng
Klexcopxki nhưng có một số trường hợp ngoại lệ.
* (n-1)d9ns2 thì lại phân bố (n-1)d10ns1
* (n-1)d4ns2 thì lại phân bố (n-1)d5ns1
Ví dụ, trong nguyên tử 29Cu, thay vì phân bố điện tử vào phân lớp 3d, 4s là (3d 94s2) thì lại phân bố
3d104s1:
29Cu: 1s22s22p63s23p63d104s1
Sự sắp xếp có tính ngoại lệ này xảy ra tương tự ở 24Cr, 42Mo, 47Ag, 79Au...
2.7.3. Bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hoá học
2.7.3.1. Định luật tuần hoàn Menđeleep và nguyên tắc sắp xếp
* Định luật:
Tính chất của các nguyên tố và tính chất của các đơn chất, hợp chất của các nguyên tố phụ thuộc
tuần hoàn vào điện tích hạt nhân.
* Nguyên tắc sắp xếp:
Menđeleep đã sắp xếp bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hoá học theo 3 nguyên tắc sau:
- Các nguyên tố được xếp theo chiều tăng của điện tích hạt nhân Z.
- Các nguyên tố thuộc cùng một chu kỳ được xếp theo hàng ngang.
- Các nguyên tố có tính chất giống nhau được xếp theo hàng dọc (nhóm).
2.7.3.2. Sự biến thiên tuần hoàn tính chất của các nguyên tố
* Năng lượng ion hoá
Năng lượng ion hoá thứ nhất là năng lượng cần thiết để tách một điện tử ra khỏi nguyên tử nằm ở
trạng thái cơ bản:
Z  Z+ + e
Năng lượng ion hoá có giá trị dương. Đối với nguyên tử có nhiều điện tử, năng lượng ion hoá lần
lượt có các giá trị I1, I2, I3,... tương ứng với điện tử thứ nhất, thứ hai, thứ ba ... trong đó I 1 < I2 < I3...
Năng lượng ion hoá biến đổi có tính chu kỳ và nhìn chung theo quy luật: các nguyên tố đầu chu kỳ có
năng lượng ion hoá thấp, cuối chu kỳ có năng lượng cao.
* Ái lực với điện tử
Ái lực với điện tử e là năng lượng toả ra hay thu vào khi một nguyên tử nhận một electron:
Z + e  Z-
Ái lực với điện tử có giá trị bằng năng lượng ion hoá nhưng khác dấu ( dấu âm). Ái lực với điện tử
biến đổi có tính chất tuần hoàn.
Nhìn chung các nguyên tố á kim mạnh có trị số ái lực với electron lớn. Tất cả các nguyên tố thuộc
chu kỳ 2 có ái lực với e nhỏ hơn các nguyên tố cùng nhóm thuộc chu kỳ 3. Điều này khác với dự đoán,
nguyên nhân là do nguyên tử của các nguyên tố đầu nhóm có kích thước nhỏ nên mật độ với electron lớn.
Vì vậy việc kết hợp thêm electron không thuận lợi bằng các nguyên tố thuộc chu kỳ sau.
*Độ âm điện
Độ âm điện của các nguyên tố tăng từ trái sang phải theo chu kỳ và nhìn chung tăng từ dưới lên trên
theo phân nhóm. Các nguyên tố s của nhóm I có độ âm điện nhỏ nhất, các nguyên tố p của nhóm VII có
độ âm điện lớn nhất.
* Bán kính nguyên tử và bán kính ion
Sự thay đổi bán kính nguyên tử và bán kính ion (r Z) của các nguyên tố theo số thứ tự Z có tính chất
tuần hoàn: tăng từ trên xuống dưới theo phân nhóm và giảm từ trái sang phải theo chu kỳ.

Bài tập
2.1. Cho hai nguyên tố A (Z = 8) và B (Z = 24). Viết cấu hình điện tử của A và B. Cho biết vị trí
của chúng trong bảng hệ thống tuần hoàn và phản ứng hoá học xảy ra giữa chúng.
2.2. Electron ngoài cùng của một nguyên tử X có:
n = 3, l = 2, m = 1, ms = -1/2.
Hãy viết cấu hình electron và cho biết điện tích hạt nhân Z của nguyên tử X.
2.3. Cấu hình electron của phân lớp ngoài cùng của B là 3p3. Cho điện tích hạt nhân của Si, P, S, Cl,
As lần lượt là 14, 15, 16, 17, 33. B là nguyên tố nào?
2.4. Electron cuối cùng của A có các số lượng tử sau: n = 4, l = 0, m = 0, m s = -1/2. Xác định số thứ
tự của nguyên tố đó?
2.5. Nguyên tố X ở chu kỳ 4 tạo được oxit X2O7 trong đó X có số oxi hoá dương cao nhất, nguyên
tử của nó có 4 lớp electron. Xác định chu kỳ, phân nhóm và viết cấu hình electron nguyên tử của nó.
2.6. Ion X3+ có phân lớp electron ngoài cùng là 3d2:
- Viết cấu hình electron của nguyên tử X và ion X3+.
- Xác định điện tích hạt nhân của X3+.
- Xác định chu kỳ, phân nhóm của X.
- Hai electron 3d với những giá trị nào của số lượng tử chính n và số lượng tử phụ l.
2.7. Ion X2- có phân lớp electron ngoài cùng là 3p6. Hãy:
- Xác định điện tích hạt nhân Z của nó.
- Xác định chu kỳ, phân nhóm của X.
- Viết công thức oxit ứng với số oxi hoá dương cao nhất của X, công thức phân tử với H ứng với
số oxi hoá thấp nhất là âm của X.
2.8. Nguyên tử của nguyên tố X có 5 electron ở lớp ngoài cùng và thuộc chu kỳ 4:
- Xác định phân nhóm của X.
- Viết cấu hình electron nguyên tử của R cùng chu kỳ và cùng nhóm (nhưng khác phân nhóm) với
X.

You might also like