You are on page 1of 22

Câu 1: Tại sao nói quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản

xuất
hàng hóa? Vận dụng quy luật này, các chủ thể trong nền kinh tế cần phải làm
gì để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó?

TRẢ LỜI

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng
hóa, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa điều phải dựa trên cơ sở giá trị
của hàng hóa, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó.

Quy luật giá trị có tác động mạnh mẽ vào sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở
nơi nào có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở nơi đó chịu sự tác động của quy
luật giá trị. Để làm rỏ hơn vấn đề này thì chung ta sẽ tìm hiểu lần lượt nội dung,
chức năng, tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng
hóa, mọi hoạt động sản xuất và trao đổi hàng hóa điều phải dựa trên cơ sở giá trị
của hàng hóa, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó.

Quy luật giá trị có tác động mạnh mẽ vào sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở
nơi nào có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở nơi đó chịu sự tác động của quy
luật giá trị. Để làm rỏ hơn vấn đề này thì chung ta sẽ tìm hiểu lần lượt nội dung,
chức năng, tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Về nội dung của quy luật giá trị thì chúng ta dể nhận thấy rằng: quy luật giá
trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hang hóa, ở đâu có trao đổi
hàng hóa thì ở đó có sự tác động của quy luật giá trị. Trong sản xuất, người sản
xuất phải có mức hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng với mức hao phí lao
động xã hội cần thiết.

Nội dung về nguyên tắc trao đổi hàng hóa thì quy luật giá trị quy định: thực
hiện theo nguyên tắc ngang giá.

Trong trao đổi hàng hóa với nhau, hai bên được lợi về giá trị sử dụng, còn
lượng giá trị thì bằng nhau.

Về cơ chế tác động của quy luật giá trị


Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên, xuống của giá cả
hàng hóa thông qua sự biến đổi của quan hệ cung - cầu, giá cả thị trường và cạnh
tranh.

Sự thay đổi của giá cả xoay quanh trục giá trị tạo sự hấp dẫn cho sản xuất và
tiêu dùng. Xét tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị.

Về chức năng của quy luật giá trị:

Trước hết: chức năng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa: điều tiết sản
xuất là thu hút nguồn vốn, tư liệu sản xuất vào các ngành sản xuất khác nhau, tạo
nên cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn và đáp ứng nhu cầu xã hội, điều tiết lưu thông là
thu hút nguồn hàng từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, góp phần cân đối
hàng hóa giữa các vùng miền trong cả nước, đưa hàng hóa từ nơi thừa đến nơi
thiếu để cung cấp cho người tiêu dùng.

Thứ hai là chức năng kích thích tiến bộ, nâng cao năng suất lao động xã hội,
như vậy người sản xuất muốn có lợi nhuận thì phải làm cho hao phí lao động của
mình thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì người sản xuất mới có lợi
nhuận. muốn vậy thì người sản xuất phải cải tiến kỷ thuật, cải tiến quản lý, góp
phần vào việc thu được lợi nhuận và quá trình này diễn ra lien tục sẽ làm cho lực
lượng sản xuất xã hội phát triển.

Chức năng thứ ba là sự phân hóa sản xuất hàng hóa thành người giàu và
người nghèo.

Trong nền sản xuất hang hóa giản đơn xuất hiện tình trạng trái ngược nhau.

Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp
hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hang hóa theo mức hao phí xã
hội cần thiết sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm them tư liệu sản xuất,
mở rộng sản xuất kinh doanh đến mức trở thành ông chủ giàu có hơn và có thể sử
dụng nhiều hơn lao động làm thuê.

Ngược lại, những người sản xuất hang hóa nào có mức hao phí lao động cá
biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, phá
sản, trở thành người phải bán sức lao động làm thuê.

Chính do các tác động nhiều mặt của quy luật giá trị đã làm cho sản xuất
hàng hóa thực sự là điểm khởi đầu của chủ nghĩa tư bản.

Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực
một cách tự phát, khách quan.

Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta phủ nhận sản xuất hang hóa và quy luật giá
trị nên không khai thác được các nguồn lực nền kinh tế kém phát triển, rơi vào
khủng hoảng.

Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta phải phát triển sản xuất hang hóa, quy luật
giá trị hoạt động tạo nên cạnh tranh, phát triển kinh tế…bên cạnh đó mặt trái nảy
sinh: phân hóa giàu nghèo, buôn bán gian lân. Vì vậy, nhà nước điều tiết bằng luật
pháp, chính sách đầu tư, thuế, đào tạo nhân lưc…để đảm bảo tính định hướng xã
hội chủ nghĩa nển kinh tế thị trường ở nước ta.

Như vậy nếu những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động
cá biệt thấp hơn hoặc bằng mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì khi bán hàng
họ sẽ có lợi nhuận. Ngược lại nếu những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao
phí lao động cá biệt cao hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ lổ dẫn
đến phá sản, phải đi làm thuê bán sức lao động cho người khác. Chức năng tác
động này là tiêu cực cần phải khắc phục và cũng chính chức năng này tạo điều kiện
ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Từ những nội dung chức năng đó quy luật giá trị đã hình thành cơ chế tác
động biến đổi lên xuống của giá cả thị trường bằng quan hệ cung cầu hàng hóa
được thể hiện ở ba trường hợp cụ thể. Nếu đủ hàng thì giá cả bình ổn, nếu thiếu
hàng thì giá cả tăng, nếu thừa hàng thì giá cả giảm.

Việc nghiên cứu nội dung của quy luật giá trị từ đó chúng ta có thể rút ra ý
nghĩa của nó đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay là quy luật giá trị tác động trên hai mặt tích cực và tiêu cực. Về mặt tích
cực là chủ thể kinh tế luôn năng động, nhạy bén, phải kinh doanh những ngành
nghề mình có lợi thế và phải luôn đổi mới công nghệ, năng lực cạnh tranh; về mặt
tiêu cực là khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm mội trường, tệ nạn xã
hội, khủng hoản kinh tế, phân hóa giàu nghèo. Do đó vai trò quản lý của nhà nước
là rất quan trọng, phải tôn trọng và phát huy vai trò điều tiết của quy luật giá trị,
đồng thời phải khắc phục hạn chế của quy luật giá trị.

Câu 2 : Trình bày mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Vì sao Đảng ta nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN?
TRẢ LỜI

Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức sản xuất
biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai
đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Dưới sự vận động của lịch sử loài
người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức
sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó,
các quá trình kinh tế, xã hội được chuyển sang một chất mới. Phương thức sản xuất
là cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại
kinh tế khác nhau. Mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng
sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Vậy thế nào là
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và giữa chúng có mối quan hệ ra sao?

Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu
sản xuất, trước hết là công cụ lao động.

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất.
Quan hệ sản xuất được cấu thành từ các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan
hệ tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ phân phối sản phẩm lao
động, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Quan hệ
sản xuất được hình thành một cách khách quan trên cơ sở một trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất

Giữa LLSX và QHSX có mối quan hệ nhau đó là quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Tính quy định của LLSX đối với quan hệ sản xuất
Thứ nhất, biện chứng giữa lực lượng sản xuất và QHSX là mối quan hệ
khách quan, vốn có của mọi quá trình sản xuất vật chất. Để tiến hành sản xuất vật
chất, con người thực hiện mối quan hệ “đôi”, quan hệ “kép”, quan hệ song trùng.
Thiếu một trong hai quan hệ đó, quá trình sản xuất vật chất không được thực hiện.

Thứ hai, trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai trò quyết
định. Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều tiến
bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng, bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển
của LLSX, trước hết là công cụ lao động. Trong một phương thức sản xuất, LLSX
bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ
nhất định sẽ làm cho quan hệ sản xuất phải biến đổi theo phù hợp với nó.

Thứ ba, sự phù hợp của QHSX với trình độ LLSX là một trạng thái mà trong
đó QHSX là “hình thức phát triển” tất yếu của LLSX. Nghĩa là trạng thái mà ở đó
QHSX, các yếu tố cấu thành của nó ‘tạo địa bàn đầy đủ” cho LLSX phát triển.

Sự phù hợp: là sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành của QHSX
(việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và TLSX), các yếu tố cấu thành của LLSX,
giữa LLSX và QHSX đem lại những phương thức liên kết tốt nhất giữa người lao
động với tư liệu sản xuất.

Dấu hiệu của sự phù hợp: tạo địa bàn cho LLSX phát triển, tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhanh, ít có biến động kinh tế - xã hội.

Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là sự phù hợp biện
chứng, sự phù hợp bao hàm mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất là nội
dung thường xuyên biến đổi (động) với quan hệ sản xuất là hình thức xã hội lại
tương đối ổn định (tĩnh), nên QHSX từ thích ứng với LLSX lại trở thành “xiềng
xích”, kìm hãm LLSX phát triển (không phù hợp). Khi giải quyết mâu thuẫn đó sẽ
đem lại thích ứng mới của QHSX với LLSX. Biện chứng giữa LLSX và QHSX
biểu hiện thành sự phù hợp - không phù hợp - phù hợp… giũa LLSX và QHSX là
quy luật khách quan phổ biến cho mọi phương thức sản xuất trong lịch sử.

Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở trình độ phát triển LLSX, do
LLSX quy định. Nhưng sau khi được xác lập nó có sự tác động trở lại sự phát triển
của LLSX. Sự tác động trở lại theo hai hướng:

Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, nó tạo địa bàn cho sự
phát trển LLSX, trở thành một trong những động lực thức đẩy LLSX phát triển.

Nếu QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, điều đó được
thể hiện ở QHSX “đi trước” hoặc lạc hậu phát triển không đồng bộ so với trình độ
của LLSX, khi đó sẽ kìm hãm sự phát triển LLSX.

Trong quá trình lãnh đạo Đảng ta nhất quán chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN.

Truớc thời kỳ đổi mới trong nhận thức và vận dụng quy luật này, làm trái với
quy luật khách quan. Do chưa nhận thức đúng quy luật và chủ quan duy ý chí, nên
chủ trương xây dựng QHSX vượt quá xa so với trình độ của LLSX, trong khi trình
độ LLSX còn thấp kém và không phát triển đồng đều, mà xác lập và thừa nhận có
hai hình thức sở hữu tập thể và nhà nước.

Từ sai lầm đó, trong công cuộc đổi mới kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (1986) cho đến nay, Đảng ta đã “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trườmg có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Đường lối đó xuất phát từ thực tiễn nước ta đi lên xây dựng CNXH còn ở
trình độ thấp, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, xét về trình độ lực lượng sản
xuất ở nước ta vừa thấp kém, vừa không đồng đều (đa dạng về trình độ) nên chúng
ta không thể nóng vội, chủ quan chỉ xây dựng một quan hệ sản xuất dựa trên chế
độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Như thế, sẽ đẩy quan hệ sản xuất
vượt quá xa (không phù hợp) so với lực lượng sản xuất. Gắn liền với với trình độ
LLSX ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải đa dạng về hình thức sở hữu TLSX
(QHSX). ĐHĐBTQ lần thứ XI và XII Đảng ta xác định có 3 hình thức sở hữu
TLSX: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, tương ứng với nó có
các thành phần kinh tế: TP kinh tế nhà nước, TP kinh tế tập thể, TP kinh tế tư nhân
và TP kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Đảng ta thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm khơi dậy tiềm năng của các thành phần
kinh tế, phát huy tính chủ động sáng tạo, kích thích lợi ích… đối với các chủ thể
sản xuất trong quá trình sản xuất, kinh doanh để thúc đẩy sản xuất phát triển, nhằm
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Câu 3: Phân tích hai giai đoạn của quá trình nhận thức. Từ cơ sở lý luận
này, đồng chí hãy rút ra ý nghĩa thực tiễn đối với công tác của mình.

1. Khái niệm nhận thức: Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và
sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn mang tính lịch sử
- xã hội cụ thể.

2. Hai giai đoạn của quá trình nhận thức:

a. Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động)

- Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, gắn liền với
thực tiễn. Ở giai đoạn này nhận thức phản ánh trực tiếp khách thể thông qua các
giác quan, được diễn đạt ra những hình thức như: cảm giác, tri giác, biểu tượng.

+ Cảm giác là sự phản ánh trực tiếp từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của
sự vật thông qua các giác quan của con người.

+ Tri giác là tổng hợp nhiều cảm giác, đem lại cho con người hình ảnh ảnh
trọn vẹn về vẻ bề ngoài của sự vật.

+ Biểu tượng là hình ảnh của sự vật do tri giác đem lại nhưng được tái hiện lại
nhờ trí nhớ (là những ấn tượng đặc trưng về sự vật được nhớ lại, được hình dung
lại một cách khái quát, khi sự vật đó không còn trước mặt chúng ta).

- Nhận thức cảm tính là sự phản ánh trực tiếp sự vật, không thông qua khâu
trung gian. Tuy phong phú sinh động, nhưng nó chỉ là sự phản ánh bề ngoài sự vật
hiện tượng khách quan, chưa phản ánh được mặt bản chất, tất yếu, bên trong của sự
vật.

b. Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng).


- Nhận thức lý tính là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình
nhận thức, dựa trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại. Chỉ qua
giai đoạn này, nhận thức mới nắm được bản chất, quy luật của hiện thực. Nhận
thức cảm tính giúp con người phản ánh sự vật một cách gián tiếp, khái quát hơn,
đầy đủ hơn dưới các hình thức: khái niệm, phán đoán và suy lý.

+ Khái niệm là hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh một hoặc một số
những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng, được biểu đạt bằng một từ, hay
một cụm từ.

+ Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng bằng cách liên kết các khái
niệm để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính nào đó của sự vật.

+ Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một
hoặc nhiều phán đoán làm tiền đế để rút ra phán đoán mới làm kết luận.

- Phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm thì suy lý là sự liên hệ giữa các
phán đoán. Suy lý là công cụ của tư duy trừu tượng thể hiện quá trình vận động của
tư duy đi từ cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách gián tiếp.

c. Sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là 2 giai đoạn của một quá trình nhận
thức. Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng lại thống nhất và liên hệ, bổ sung cho
nhau trong quá trình nhận thức của con người. Nhận thức cảm tính là cơ sở cho
nhận thức lý tính, không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính.
Ngược lại, không có nhận thức lý tính thì không thể nắm bắt bản chất và quy luật
của sự vật. Vì vậy cần phải phát triển nhận thức cảm tính lên lý tính, nhận thức lý
tính sẽ giúp cho nhận thức cảm tính trở nên chính xác hơn.
3. Ý nghĩa thực tiễn (học viên tự thêm ý để bám sát đơn vị công tác mới
có điểm)

- Quán triệt sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính sẽ
giúp cho chúng ta tránh được thái độ chỉ coi trọng nhận thức cảm tính sẽ dễ dẫn
đến bệnh kinh nghiệm, ít chịu tổng kết thực tiễn, để nâng lên thành lý luận. Ngược
lại, chỉ đề cao nhận thức lý tính sẽ dẫn đến bệnh giáo điều, sách vở xa rời thực tiễn.

- Trong công tác phải luôn bám sát thực tiễn, từ nhiệm vụ cụ thể của đơn vị,
cơ sở, từ phong trào quần chúng của địa phương. Qua đó giúp cho nhận thức cảm
tính nắm bắt được những yêu cầu, tâm tư nguyện vọng trực tiếp của nhân dân, để
từ đó bổ sung cho chủ trương, nghị quyết, kế hoạch của đơn vị được sát thực hơn.
Đồng thời, phải tổ chức thực hiện trong thực tiễn, thông qua đó nhằm kiểm tra tính
đúng đắn của các nghị quyết, kế hoạch đó.

Câu 4: Phân tích những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Từ vị trí công tác của mình, đồng chí cần
phải làm gì để góp phần vào thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản đó?

TRẢ LỜI

Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là có
điểm xuất phát từ trình độ phát triển thấp song bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, do
đó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải vận dụng sáng tạo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với hoàn cảnh lịch sử
của dân tộc.

Trong quá trình đổi mới, đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam từng bước được xác định rõ hơn. Từ chổ hiểu bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua toàn bộ những gì chủ nghĩa tư bản đã làm, đến nhận
thức về tính tất yếu khách quan của việc khôi phục và phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trước những vấn đề đó Đảng ta đã xác định những nhiệm vụ kinh tế cơ bản
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm:

Thứ nhất, phát triển lực lượng sản xuất thông qua công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài
nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền
vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các
ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công
nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ
cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo
đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh
tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế.

Thứ hai, xây dựng quan hệ sản xuất mới thông qua phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ
chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo
pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là 1 trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp
và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các
yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây
dựng, phát triển vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa đảm bảo tính định
hướng xã hội chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử
dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo
đảm mọi tư liệu sản xuất đều có ng làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng
và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà
nước quản lý kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.

Thứ ba, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tư chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất
nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì 1 nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh;
là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp
phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Từ những nhiệm vụ kinh tế cơ bản trên, ở vị trí công tác cần thực hiện
tốt các nhiệm vụ sau:
Một là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên tầm chiến lược đáp ứng yêu cầu
trong thời đại mới

Hai là: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong tổ chức, quản lý
Ba là: Sắp xếp đổi mới bộ máy quản lý, cải cách hành chính

Bốn là: Thực hiện tốt chính sách khen thưởng, kỷ luật, bảo đảm lợi ích tập thể

Năm là: Thực hiện tốt công tác phối hợp trong hoạt động

Câu 5: Trình bày những đặc trưng cơ bản của CNXH ở Việt Nam trong
cương lĩnh 2011. Nêu những mối quan hệ lớn được trình bày trong NQ Đại
hội Đảng lần XIII và chỉ ra điểm mới của nó so với ĐH Đảng lần XII

TRẢ LỜI

Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu
của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội tiến bộ, ưu việt
hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Để xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản phải hình dung, phác
thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những dự báo về những đặc trưng
của xã hội chủ nghĩa xã hội dựa trên thực tiễn đương thời. Tuy không coi đó là mô
hình bất biến, song các ông đã hình dung và phác thảo về chủ nghĩa xã hội - một
chế độ xã hội ưu việt và tiến bộ hơn so với các chế độ xã hội trước đó. Trên cơ sở
những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ĐCSVN đưa ra quan điểm về
những đặc trưng cơ bản của CNXH:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH được ĐH VII
thông qua năm 1991 ghi rõ: XH XHCN có 6 đặc trưng:

Do NDLĐ làm chủ.

Có nền KT phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công hữu về
các TLSX chủ yếu.
Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.

Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công; làm theo năng
lực, hưởng theo lao động; có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân.

Các DT trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên TG.

Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã bổ sung thành 8 đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam1. Cụ thể là:

Đặc trưng thứ nhất: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đây là đặc trưng khái quát nhất bao trùm hệ mục tiêu cần đạt tới của cả thời kỳ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện từng bước xã hội xã hội chủ
nghĩa phù hợp với nhu cầu, đặc điểm thực tế của Việt Nam trên các phương diện.

Đặc trưng thứ hai: Do nhân dân làm chủ. Đặc trưng này có sự kế thừa, chọn
lọc, điều chỉnh từ đặc trưng đã có trong Cương lĩnh 1991 nhưng được xác định rõ
ràng thiết thực hơn. Đặc trưng này thể hiện bản chất dân chủ rộng rãi, mọi quyền
lực thuộc về nhân dân.

Đặc trưng thứ ba: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đây là đặc trưng được điều chỉnh, bổ
sung trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011). Cách diễn đạt này thể hiện
cách nhìn nhận mới về chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, đồng thời cho thấy “tính mở” trong phát triển các thành phần kinh tế.
1
Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011,
tr.70.
Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản săc dân tộc. Đặc
trưng này tiếp tục kế thừa đầy đủ nội dung của đặc trưng văn hóa trong xã hội xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được Cương lĩnh 1991 xác định.

Đặc trưng thứ năm: Con người có cuộc song ấm no, tự do, hạnh phúc có
điều kiện phát triển toàn diện. Đây là đặc trưng về quan hệ xã hội, quan hệ giữa
người với người trong xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trên cơ sở kế thừa nội
dung, điều chỉnh và lược bỏ một số cụm từ mà Cương lĩnh năm 1991 đã diễn đạt
để thể hiện gọn, rõ hơn.

Đặc trưng thứ sáu: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển. Điểm mới của đặc trưng này là
không diễn đạt “các dân tộc trong nước” mà thay bằng “các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam”; bổ sung thêm cụm từ “tôn trọng” sau cụm từ “đoàn kết” để xác
định phong phú hơn nội dung bao trùm của chính sách dân tộc, giải quyết đúng đắn
các quan hệ tộc người trong quốc gia đa dân tộc ở Việt Nam.

Đặc trưng thứ bảy: Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là đặc trưng hoàn
toàn mới được bổ sung (so với Cương lĩnh năm 1991) để làm rõ bản chất của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân
dân; giữa Đảng Cộng sản với Nhà nước.

Đặc trưng thứ tám: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước
trên thế giới. Điểm khác so với Cương lĩnh 1991 là diễn đạt “có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới” thay bằng “có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” để làm rõ hơn việc hội nhập quốc tế của
Việt Nam trong điều kiện hiện nay với tinh thần tăng cường hội nhập quốc tế cả
chiều rộng và chiều sâu.
Tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng được điều
chỉnh, bổ sung thể hiện tinh thần khoa học, tôn trọng và tổng kết thực tiễn ở Việt
Nam để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng ta, trong đó có lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

* Những mối quan hệ lớn được trình bày trong NQ Đại hội Đảng lần XIII
và chỉ ra điểm mới của nó so với ĐH Đảng lần XII

- Những mối quan hệ lớn được trình bày trong NQ Đại hội Đảng lần XIII

Một là, quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển.

Hai là, giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Ba là, giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Năm là, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.

Sáu là, giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Bảy là, giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế.
Tám là, giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Chín là, giữa nhà nước, thị trường và xã hội.
Mười là, mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế,
bảo đảm kỷ cương xã hội.
Điểm mới của nó so với ĐH Đảng lần XII: Ở ĐH lần thứ XII của Đảng
trên cơ sở kế thừa quan điểm cơ bản về nhận thức và giải quyết các mối quan
hệ lớn, Đảng ta đã nêu ra chín mối quan hệ lớn. Đến ĐH XIII, thực tế công
cuộc xây dựng, phát triển đất nước và quá trình 30 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (2011) cho thấy,
một số vấn đề quan trọng chưa được đề cập đến trong các mối quan hệ lớn, đặc
biệt là vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
và tăng cường pháp chế, kỷ luật, kỷ cương xã hội. Do vậy, Đại hội XIII của
Đảng tiếp tục bổ sung thêm mối quan hệ thứ mười, đó là “mối quan hệ giữa
thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”
Như vậy, điểm mới so với ĐH XII thì ĐH XIII có thêm một mối quan hệ
nữa dó là:“mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo
đảm kỷ cương xã hội”
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình vận động, chuyển hóa liên tục,
không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng luôn luôn vận động, chuyển hóa và
phát triểnĐiều đó đặt ra cho Đảng ta trọng trách là phải không ngừng đổi mới tư
duy, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa tiếp tục khám phá ra những vấn
đề, những nội dung, những đặc trưng mới, vừa sáng suốt lãnh đạo toàn dân ta xây
dựng xã hội đạt tới các phẩm chất và các giá trị, vươn tới các đặc trưng mới của xã
hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai./.
Câu 6: Phân tích những nội dung cơ bản của khối liên minh công - nông
- trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Anh chị hãy liên hệ
thực tiễn ở địa phương hoặc nơi mình công tác trong việc xây dựng và phát
huy sức mạnh liên minh công - nông - trí thức
TRẢ LỜI

Mục đích của liên minh công – nông – trí thức nhằm khắc phục sự
chênh lệch về phát triển giữa 3 chủ thể, hạn chế sự khác biệt giữa thành thị và nông
thôn, giữa lao động chân tay và trí óc để 3 chủ thể xích lại gần nhau hơn, phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Để thực hiện tốt các nội dung của liên minh, trong quá trình thực
hiện liên minh cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Một là: Phải “kết hợp đúng đắn các lợi ích” của các chủ thể trong khối
liên minh.

Hai là: Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong khối liên minh,
vì Đảng không chỉ có vai trò là tập hợp lực lượng để tiến hành cách mạng, mà còn
đóng vai trò điều hòa các lợi ích của các chủ thể trong khối liên minh, hướng tới
đảm bảo dân chủ, công bằng xã hội, tiến bộ xã hội và giải phóng con người.

Liên minh công – nông – trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam có nội dung toàn diện được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội:
chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội.

Về nội dung chính trị của liên minh công - nông - trí thức: là sự
đoàn kết, hợp lực của công nhân, nông dân, trí thức để thực hiện các nhiệm vụ
chính trị nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chế độ chính trị để giữ vững định
hướng lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung chính trị của liên minh thể hiện ở việc giữ vững lập trường
chính trị - tư tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đối với khối liên minh trong quá trình xây dựng và bảo vệ
vững chắc chế độ chính trị, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng lên chủ nghĩa
xã hội

Nội dung chính trị của liên minh thể hiện ở việc họ cùng nhau hợp lực
tạo nên sức mạnh để vượt qua những khó khăn, trở ngại cùng bảo vệ vững chắc
chế độ chính trị và những thành quả cách mạng.

Về nội dung kinh tế của liên minh công - nông - trí thức: là sự hợp tác
giữa họ để xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa mà ở thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện nội dung kinh tế của liên minh công - nông - trí thức Đảng
và Nhà nước cần phải:
Một là, xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế của công nhân,
nông dân, trí thức và toàn xã hội, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đầu tư và tổ
chức triển khai các hoạt động kinh tế đúng trên tinh thần đảm bảo lợi ích của các
bên và tránh sự đầu tư không hiệu quả, lãng phí.

Hai là, tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công
nghiệp - nông nghiệp - khoa học và công nghệ; giữa các ngành kinh tế; các thành
phần kinh tế, các vùng kinh tế; giữa trong nước và quốc tế để phát triển sản xuất
kinh doanh, nâng cao đời sống cho công nhân, nông dân, trí thức và toàn xã hội.

Ba là, nâng cao hiệu quả việc chuyển giao và ứng dụng khoa học - kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất kinh doanh nông nghiệp và
công nghiệp nhằm gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực kinh tế cơ bản của quốc gia, qua đó
gắn bó chặt chẽ công nhân, nông dân và trí thức làm cơ sở kinh tế - xã hội cho sự
phát triển của quốc gia.

Về nội dung văn hóa - xã hội của liên minh công - nông - trí thức: là
sự đoàn kết, hợp lực của công nhân, nông dân, trí thức nhằm xây dựng nền văn
hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Phải đảm bảo kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa,
tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
môi trường sinh thái; xây dựng nông thôn mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, trong đó công nhân, nông dân, trí thức là nguồn nhân lực quan trọng và cơ
bản nhất của quốc gia.

Phải thực hiện xóa đói giảm nghèo; thực hiện tốt các chính sách xã hội
đối với công nhân, nông dân, trí thức; chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng
sống cho nhân dân; nâng cao dân trí.

Vấn liên minh công - nông - trí thức luôn được địa phương quan tâm
trong thời gian qua và đạt những thành tựu như:

Về chính trị: trên nền tảng liên minh công - nông - trí thức địa phương
xây dựng và củng cố hệ thống chính trị; Thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở; tuyên
truyền nâng cao nhận thức về đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước và xây
dựng khối đoàn kết, gắn bó chặt chẽ giữa công nhân, nông dân và trí thức trở
thành lực lượng cách mạng chủ yếu nhất để xây dựng và bảo vệ tổ quốc nói chung
và giữ vững an ninh trật tự xã hội của địa phương, bảo vệ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, bảo vệ Nhà nước XHCN.

Về kinh tế: địa phương đã triển khai kế hoạch thực hiện chương trình
xây dựng nông thôn mới; Liên kết 4 nhà nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa
học và nhà nước; Chuyển giao và ứng dụng khoa học- công nghệ cho nông dân;
Liên kết thu mua bao tiêu sản phẩm nông nghiệp; Thực hiện chính sách khuyến
nông, khuyến công và khuyến thương…

Về văn hóa - xã hội: địa phương đã xây dựng đời sống văn hóa khu dân
cư; đầu tư cho giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao dân trí; thực hiện đào tạo nghề
cho lao động nông thôn; giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động ở nông
thôn; Thực hiện tốt chính sách đối với người có công cách mạng, gia đình liệt sĩ,
thương binh…; Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo

     

You might also like