You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI (CS2)

KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Lớp tín chỉ: PLDC1022H-K21-HKI-D1.5-LT
HỌC KỲ 1 - NĂM HỌC 2021 - 2022

Đề tài:
LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

Họ và tên sinh viên: Đỗ Nguyên Dung


Mã SV: 2153404040615
Ngày/tháng/năm sinh: 15/12/2003
Lớp niên chế: Đ21NL2
Họ và tên giảng viên: Th.S Trịnh Thùy Linh

TP.HCM - 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT......................................................................1
1.1. Khái niệm............................................................................................................ 1
1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật.......................................................................1
1.2.1. Tuân theo pháp luật.............................................................................................1
1.2.2. Thi hành (chấp hành) pháp luật...........................................................................2
1.2.3. Sử dụng pháp luật...............................................................................................4
1.2.4. Áp dụng pháp luật...............................................................................................5
Chương 2: VẤN ĐỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY....
..................................................................................................................................... 10
2.1. Thực trạng.........................................................................................................10
2.2. Nguyên nhân....................................................................................................10
2.3. Hậu quả............................................................................................................12
2.4. Biện pháp.........................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................14
LỜI MỞ ĐẦU
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì thế mà nhân dân ta
không thể không có những tri thức pháp luật cần thiết để suy nghĩa và hành động theo
đúng pháp luật. Trong đời sống xã hội con người luôn luôn gắn với cộng đồng của
mình, mối liên hệ đó luôn được nhìn nhận như là một điều kiện cơ bản để đảm bảo sự
phát triển của mỗi cá nhân. Có thể nói, quá trình trưởng thành của mỗi cá nhân là quá
trình tiếp nhận và xử lý các mối quan hệ thông qua sự tác động của nó từ nhiều phía và
từ nhiều cấp độ khác nhau. Để xử lý các mối quan hệ đó, con người luôn giữ vai trò
chủ đạo trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người và muốn đạt được điều đó
con người cần có ý thức pháp luật tích cực. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật
được coi là phương tiện hữu hiệu để công dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Với
vai trò là công cụ đặc biệt trong việc thiết lập trật tự xã hội, hệ thống pháp luật đã
không ngừng được hoàn thiện, đã và đang góp phần quan trọng vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối với nước ta hiện nay, việc tăng cường vai trò thực hiện pháp luật, tạo môi trường
thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức đã trở thành một trong những
yêu cầu cấp thiết. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự đòi hỏi phải tích cực hơn nữa
trong việc thực hiện pháp luật vào đời sống, hình thành và phát triển ý thức pháp luật.
Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật làm cho mọi thành viên trong xã hội có thể tự do
phát huy khả năng sáng tạo của mình trong môi trường lành mạnh – môi trường vận
hành có trật tự, nền nếp, kỷ cương của một xã hội năng động, phát triển và văn minh.
Thực tế, việc thực hiện pháp luật, làm cho pháp luật đi vào đời sống giúp cho
sinh viên nhận thức một cách đúng đắn về vai trò của pháp luật đối với bản thân và
xã hội, hiểu những quy tắc xử sự theo chuẩn mực của pháp luật để từ đó các hạn chế
được những hành vi vi phạm pháp luật, xác định pháp luật có vai trò chủ đạo trong
việc giáo dục đạo đức cho sinh viên, góp phần ổn định kỷ cương, ổn định trật tự xã
hội, để sau này trở thành những công dân tốt, sống có ích cho xã hội và góp phần vào
sự phát triển bền vững của đất nước.
Với những lý do trên việc nghiên cứu đề tài “Lý luận về thực hiện pháp luật và
liên hệ thực tiễn về việc thực hiện pháp luật của sinh viên hiện nay” là vấn đề cần
thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
CHƯƠNG 1
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm:
Thực hiện pháp luật1 là một quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những
quy định của pháp luật đi vào đời sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của
các chủ thể.
Trên thực tế, việc thực hiện các quy phạm pháp luật đều thông qua hành vi
(hành động hoặc không hành động) của các chủ thể. Duới gốc độ pháp lý thì hành vi
thực hiện pháp luật của các chủ thể là hành vi hợp pháp, tức là hành vi đó không trái,
không vượt quá các quy định của pháp luật, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của pháp luật, phù
hợp với pháp luật và có lợi cho Nhà nước, cho xã hội và cho các cá nhân.
Những hành vi hợp pháp có thể được thực hiện theo ý chí của các chủ thể, trên
cơ sở nhận thức là cần thiết phải xử sự như vậy để đảm bảo lợi ích của bản thân hay
lợi ích của người khác. Cũng có thể chúng được thực hiện theo ý chí của nhà nước.
Ngoài ra, việc thực hiện những hành vi hợp pháp có thể xuất phát từ thực hiện theo
những hành vi của những người xung quanh (thấy người khác làm như vậy thì cũng
làm theo) chứ bản thân người thực hiện hành vi này không nhận thức được đầy đủ ý
nghĩa của việc làm đó. Thế nhưng, dù hành vi hợp pháp được thực hiện với lý do nào
thì về bản chất chúng cũng là một quá trình đưa các quy định pháp luật của Nhà nước
đi vào đời sống.

1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật:

Các quy phạm pháp luật rất phong phú cho nên các hình thức thực hiện chúng
cũng đa dạng. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, có thể xác định
những hình thức thực hiện pháp luật sau:

1.2.1 Tuân theo pháp luật (tuân thủ pháp luật):

Tuân theo pháp luật 2là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp
luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm.

1
Giáo trình Pháp luật đại cương, trường Đại học Lao Động Xã Hội (2016) do Th.s
Đào Xuân Hội ( chủ biên ). Nhà xuất bản Dân Trí, Trang
2

1
Ví dụ: khi một công dân kiềm chế không thực hiện hành vi cố ý gây thương tích
mà Bộ luật Hình sự cấm thì công dân đó đã tuân thủ quy định của pháp luật hình sự.

Đây là hình thức thực hiện pháp luật thông qua các xử sự thụ động (không hành
động) của các chủ thể. Thông thường chủ thể thực hiện hành vi theo sự điều khiển của
ý chí và lý trí nhằm phục vụ mục đích và nhu cầu của mình. Tuy nhiên, một số hành vi
của chủ thể có thể sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Do đó, pháp luật yêu cầu
chủ thể không được thực hiện một số hành vi nhất định. Như vậy, trong quá trình thực
hiện tất cả các hành vi của mình, chủ thể có nghĩa vụ phải nhận thức được những hành
vi nào có thể gây ảnh hưởng đến lợi ích của người khác và bị pháp luật cấm, và chủ
thể kiềm chế không được thực hiện những hành vi đó. Việc không thực hiện hành vi
được gọi là thực hiện pháp luật khi đó gắn liền với lý trí và ý chí của chủ thể. Nếu việc
không thực hiện hành vi không gắn với việc nhận thức được tính chất, ý nghĩa pháp lý
của hành vi thì không được gọi là thực hiện pháp luật.

Mối quan hệ giữa tuân theo pháp luật và tự do cá nhân: Tuân theo pháp luật có
liên quan trực tiếp đến phạm trù tự do của các chủ thể. Để duy trì trật tự chung cho xã
hội, mỗi chủ thể chỉ được xử sự hoàn toàn theo ý mình trong một phạm vi nhất định.
Vượt ra khỏi giới hạn đó là xâm phạm tới tự do của những người khác, phá vỡ thế cân
bằng về quyền lợi giữa các chủ thể và xét trên diện rộng sẽ gây ra những bất ổn định
xã hội. Chính vì thế, Nhà nước xác định rõ một ranh giới pháp lý về những việc mà ở
đó, các chủ thể cần phải biết dừng lại (kiềm chế để không thực hiện những việc Nhà
nước cấm), trên cơ sở đó Nhà nước duy trì được “sự công bằng” chung giữa các chủ
thể. Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp việc “xác định ranh giới” luôn mang màu sắc
giai cấp, nghĩa là theo cách xác định đó thì lợi ích của giai cấp thống trị luôn được
thực hiện một cách tối đa, mặc dù “sự thực hiện tối đa” này phải được hiểu một cách
năng động là nó tương thích với bối cảnh xã hội cụ thể hiện tại, tức là, vẫn ở mức mà
mọi người trong xã hội có thể chấp nhận được.

Những quy phạm pháp luật có tính chất cấm thực hiện hành vi nào đó được thể
hiện trong Luật Hình sự, hành chính. Đó chính là những mệnh lệnh của Nhà nước đòi
hỏi các chủ thể phải thực hiện theo hình thức kiềm chế việc thực hiện một hành vi nào
đó, nghĩa là ở hình thức tuân theo pháp luật.

1.2.2. Thi hành (chấp hành) pháp luật:

2
Thi hành pháp luật 3là hình thức thực hiện pháp luật trong đó chủ thể thực hiện
nghĩa vụ pháp lý của mình bằng những hoạt động tích cực.

Chẳng hạn, công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế,
nghĩa vụ lao động công ích, nghĩa vụ nuôi dạy con cái, chăm sóc ông bà, cha mẹ khi
già yếu thì việc thực hiện những nhiệm vụ này đều thông qua xử sự chủ động, đó là
việc thi hành (hay chấp hành) pháp luật.

Ngược lại, với trường hợp tuân theo pháp luật, ở trường hợp này các chủ thể
cần thực hiện pháp luật thông qua các xử sự tích cực (các hành động). Nó thể hiện sự ý
thức và thể hiện một cách tích cực các bổn phận, nghĩa vụ hay trách nhiệm của mình.
Mặc dù việc tiến hành những xử sự đó có thể xuất phát từ một thái độ hoàn toàn tự
giác hay bị bắt buộc. Nếu ở hình thức tuân theo pháp luật, các chủ thể phải thực hiện
yêu cầu của Nhà nước đều xuất phát từ mục đích bảo toàn các lợi ích hợp pháp và sẵn
có (đã có từ trước) của các chủ thể khác. Thì trong trường hợp này, việc thực hiện yêu
cầu của Nhà nước lại xuất phát từ mục đích phải tạo ra những quyền về vật chất, tinh
thần hay tạo ra những lợi thế nhất định cho các đối tượng mà họ cần thực hiện nghĩa
vụ. Chính tính chất chủ động của quá trình tạo ra các quyền vật chất, tinh thần hay
những lợi thế mà các chủ thể pháp luật không thể thực hiện loại nghĩa vụ này bằng
hành vi ở dạng không hành động.

Yếu tố quyết định điểm khác biệt của hai hình thức thực hiện pháp luật là chấp
hành pháp luật và tuân theo pháp luật chính là tính chất của mối quan hệ xã hội mà chủ
thể tham gia. Khi tham gia vào những quan hệ pháp luật mà nghĩa vụ được thực hiện
theo hình thức tuân theo pháp luật thì thông thường các chủ thể giữ tư cách là công
dân nói chung. Việc tuân theo pháp luật của các chủ thể nhằm bảo vệ các quyền công
dân cho các chủ thể khác (ví dụ: quyền được bảo toàn tính mạng, quyền được bảo vệ
danh dự, uy tín, quyền được bảo vệ tài sản hợp pháp) hoặc nhằm bảo vệ trật tự công
cộng mà Nhà nước đã thiết lập trên một lĩnh vực nhất định (ví dụ: trật tự an toàn giao
thông đường bộ). Ngược lại, đối với những quan hệ xã hội mà nghĩa vụ được thực hiện
theo hình thức thi hành pháp luật thì các chủ thể thường không giữ tư cách công dân
nói chung nữa mà có một tư cách khác, đặc thù cho mối quan hệ xã hội đó. Những
quan hệ xã hội này, để tham gia vào nó cần phải có những điều kiện nhất định. Chỉ
những cá nhân có đầy đủ các điều kiện đó thì mới trở thành chủ thể của quan hệ loại
này (chứ không thể là công dân bất kỳ). Như quan hệ gia đình giữa cha mẹ và con cái
(nghĩa vụ nuôi dạy con, nghĩa vụ cấp dưỡng), quan hệ giữa những người có cùng một
3

3
hợp đồng kinh tế hay dân sự, hay quan hệ bồi thường cho người khác vì thiệt hại mà
mình đã gây ra (điều kiện của chủ thể trong các trường hợp trên là có quan hệ gia đình,
có ký kết hợp đồng, đã gây ra thiệt hại). Đối với những loại quan hệ này, Đôi khi các
chủ thể cũng giữ tư cách là công dân, nhưng không phải tư cách công dân nói chung
mà là công dân cụ thể, có những điều kiện cụ thể để phải thực hiện những nghĩa vụ
nhất định.
Ví dụ: quan hệ của công dân với Nhà nước khi thực hiện nghĩa vụ quân sự thì
phải có điều kiện là nam giới, đủ 18 tuổi trở lên, chưa thực hiện nghĩa vụ quân sự. Khi
tham gia vào những quan hệ xã hội riêng biệt, các chủ thể đều nhận thức được vị trí,
vai trò, tư cách của mình (Ví dụ: làm cha mẹ hoặc là một bên của hợp đồng lao động)
vì thế cũng ý thức được nghĩa vụ mình cần thực hiện khi giữ vị trí, vai trò, tư cách cụ
thể đó.
Những quy phạm pháp luật xác định nghĩa vụ phải được thực hiện bằng những hành vi
tích cực trong hình thức thực hiện pháp luật này. Trong các lĩnh vực kinh tế, dân sự
hay hành chính ta đều có thể dễ dàng nhận thấy nhiều hành vi được thực hiện theo
hình thức thi hành pháp luật.

1.2.3. Sử dụng pháp luật:

Sử dụng pháp luật4 là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể thực
hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép).

Ví dụ5: Hiến pháp 2013 quy định: “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do
pháp luật qui định”. Như vậy, các công dân có quyền tự do trong việc tìm kiếm, hoặc
tiếp nhận và truyền đạt ý kiến của mình đối với các lĩnh vực trong xã hội. Công dân có
quyền thực hiện hoặc không thực hiện quyền này.

Hai hình thức thực hiện pháp luật trên đều yêu cầu chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật phải thực hiện hành vi như: “ không làm điều pháp luật cấm hoặc làm điều
pháp luật buộc phải làm bảo vệ quyền, lợi ích của người khác, lợi ích của xã hội.

Khác với hai hình thức thực hiện pháp luật đã nêu ở trên, đối với hình thức sử
dụng pháp luật, các chủ thể lại có quyền lựa chọn việc tiến hành hay không tiến hành
những hoạt động mà Nhà nước cho phép. Song để thực hiện lợi ích của bản thân hay

4
của người khác, họ cần phải biết được những quyền mà Nhà nước trao cho và chủ
động tổ chức thực hiện các quyền ấy. Nhà nước quy định nhiều quyền, nhiều hành vi
chủ thể được phép làm tùy điều kiện mỗi người mà các chủ thể lựa chọn, thực hiện
những hành vi được pháp luật cho phép để tạo lợi ích cho mình. Người có sự hiểu biết
pháp luật càng nhiều thì sự vận dụng pháp luật càng trở nên chủ động, đầy đủ và có
hiệu quả.

Tuy nhiên, chúng ta cũng nên xem xét thêm một thuật ngữ: “Lợi dụng kẽ hở
của pháp luật nhằm đạt được những lợi ích không chính đáng”. Điều đáng nói chính là
ở chỗ: mặc dù hành vi lợi dụng kẽ hở của pháp luật nhằm đạt được những lợi ích
không chính đáng thường được tiến hành một cách không có căn cứ và không chính
đáng nhưng việc xử lý những hành vi này lại không thể thực hiện một cách kịp thời do
chưa có quy định nào xác định đó là hành vi bị cấm cũng như chưa có biện pháp xử lý
thích hợp. Chỉ trong trường hợp hành vi đó có tính chất nghiêm trọng, gây tổn hại
đáng kể đến trật tự kinh tế, chính trị, xã hội thì mới bị xử lý theo hình thức áp dụng
tương tự pháp luật, song trường hợp này cũng rất hạn chế. Chính vì khả năng bị xử lý
thấp nên chúng khá phổ biến và nhiều khi người ta nhầm tưởng chúng là sử dụng pháp
luật. Thực tế, nguyên nhân chính của tình trạng này là do Nhà nước chưa kịp ra quy
định cấm đối với những hành vi đó.

Những quy phạm pháp luật quy định các quyền tự do, dân chủ của công dân
được thực hiện theo hình thức này. Theo xu hướng chung, những hành vi thực hiện
pháp luật theo hình thức này sẽ ngày càng tăng dần cùng với những tiến bộ xã hội hoặc
khi Nhà nước không ngừng mở rộng thêm các quyền tự do, dân chủ cho công dân.
Thêm vào đó đời sống xã hội trong thời đại mới cũng đặt ra những đòi hỏi ngày càng
cao đối với con người bắt buộc họ phải ngày càng hiểu biết, năng động hơn và sử dụng
pháp luật một cách có hiệu quả hơn vào trong thực tiễn hoạt động của mình.

1.2.5. Áp dụng pháp luật:

Áp dụng pháp luật6 là hình thức thực hiện pháp luật trong đó Nhà nước thông
qua ra các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những
quy định pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các
quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ
thể.

5
Nếu như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình
thức mà thông thường các chủ thể đều có thể tự mình thực hiện một cách độc lập thì
hình thức áp dụng pháp luật lại đòi hỏi cần phải có sự tham gia của Nhà nước. Đây
chính là nét đặc thù của hình thù của hình thức này.

Ví dụ:7 Cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với
người đi vào đường ngược chiều hay không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông
đường bộ.

Trong thực tế, khi sử dụng pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, nếu chỉ
thông qua các hình thức tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật thì
sẽ có rất nhiều quy phạm pháp luật không thực hiện. Nguyên nhân có thể là các chủ
thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả năng tự thực hiện nếu thiếu sự tham gia
của cơ quan Nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền. Sự tham gia của nhà nước có vai
trò đặc biệt: Nhà nước là người tổ chức cho các chủ thể thực hiền quyền hay nghĩa vụ,
cũng có thể là người hỗ trợ hay tạo ra những điều kiện cần thiết về mặt tài chính. Tuy
vậy, trong trường hợp nào thì kết quả của quá trình áp dụng pháp luật cũng là những
quyết định có tính bắt buộc đối với tất cả các chủ thể có liên quan.

Một số đặc điểm của áp dụng pháp luật:8

Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền
lực Nhà nước. Cụ thể:

Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do cơ quan Nhà nước hay nhà chức trách có
thẩm quyền tiến hành. Mỗi cơ quan Nhà nước hay nhà chức trách trong phạm vi thẩm
quyền chỉ được thực hiện một số hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Áp dụng pháp
luật là cơ sở để các cơ quan thực hiện chức năng của mình bởi vì trong quá trình đó để
áp dụng pháp luật vào vụ việc, những cơ quan này cần tiến hành rất nhiều những hoạt
động cần thiết để lám sáng tỏ tình tiết của vụ việc cần áp dụng pháp luật và đi đến một
quyết định chính xác.

Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng

6
pháp luật. Điều này thể hiện vai trò chủ động của Nhà nước trong việc kiểm soát và
điều hành xã hội.

Các quyết định của cơ quan Nhà nước khi áp dụng pháp luật thông qua các văn
bản áp dụng pháp luật có tính chất bắt buộc đối với tất cả các tổ chức, cá nhân có liên
quan. Trong những trường hợp cần thiết, quyết định áp dụng pháp luật được bảo đảm
thực hiện bằng cưỡng chế của Nhà nước.

Thứ hai: áp dụng pháp luật là hoạt động cần phải tuân theo những thủ tục chặt
chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ, việc giải quyết một vụ án hình sự cần phải tiến hành
theo những quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Do tính chất quan trọng và phức
tạp của hoạt động áp dụng pháp luật có ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích của các
chủ thể có liên quan nên pháp luật phải xác định rõ cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục,
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình áp dụng pháp luật để tránh tình trạng áp
dụng tùy tiện, áp dụng thiếu chính xác...

Thứ ba: áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các
quan hệ xã hội xác định. Khi trong đời sống xã hội nảy sinh những tình huống đòi hỏi
cần phải có những tác động từ phía Nhà nước để làm nảy sinh, làm thay đổi hay làm
chấm dứt quan hệ pháp luật nhất định. Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật là
những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt trên cơ sở những mệnh lệnh chung
trong quy phạm pháp luật. Chỉ thông qua những điều chỉnh cá biệt thì những mệnh
lệnh chung đó mới được hiện thực hóa.

thứ tư: áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Khi áp dụng pháp
luật các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên cứu vụ việc để trên cơ sở đó lựa
chọn quy phạm, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong trường hợp
pháp luật chưa có quy định ảnh hoặc quy định chưa rõ thì phải vận dụng một cách
sáng suốt.

Những trường hợp cần áp dụng pháp luật9

Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước hoặc áp dụng các chế tài
pháp luật đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.

Trong các quan hệ pháp luật xác định, các chủ thể cần có ý thức và thái độ tự
giác thực hiện các nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên trong trường hợp không có trở ngại

7
khách quan mà chủ thể vẫn cố tình không thực hiện hoặc trì hoãn không thực hiện một
cách kịp thời thì nhà nước cần có sự can thiệp nhất định để thúc đẩy việc chấp hành
nghĩa vụ đó. Như vậy, biện pháp cưỡng chế Nhà nước hoặc các chế tài được áp dụng
khi các chủ thể không tích cực, không tự giác thực hiện nghĩa vụ, hoặc bị xử lý khi có
hành vi vi phạm pháp luật.

Khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi,
chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước.

Trong một số quan hệ pháp luật nhất định, để làm xuất hiện các quyền hay nghĩa
vụ ở các chủ thể, cần phải có một quyết định cụ thể của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Quyết định đó làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật và trở
thành một căn cứ cần thiết để các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ.

Ví dụ: quyền kinh doanh của một cá nhân hay tổ chức trực chỉ được phát sinh
khi được cơ quan Nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; quan hệ lao
động giữa một công dân với một cơ quan nhà nước chỉ phát sinh khi có quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tuyển dụng người đó vào làm việc.

Khi xảy ra tranh chấp về quyền hoặc nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia
quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được.

Trong trường hợp này, quan hệ pháp luật đã phát sinh, nhưng quyền và nghĩa vụ
của các bên không được thực hiện do có tranh chấp. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
tham gia vào quá trình này với vai trò vừa là người trung gian vừa là nhà chức trách có
thẩm quyền phán quyết. Căn cứ vào quy định chung của pháp luật, cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền sẽ giải quyết mối xung đột, giúp các bên hiểu rõ và thực hiện đúng các
quyền và nghĩa vụ của họ trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể của vụ việc theo đúng cách
thức Nhà nước đã xác định. Phán quyết của cơ quan nhà nước ở đây không chỉ nhằm
phân định rạch ròi quyền và nghĩa vụ của các bên có tranh chấp để các bên hiểu rõ mà
còn để đưa ra mệnh lệnh có tính chất bắt buộc đối với bên có nghĩa vụ. Trong trường
hợp bên đó không thực hiện hoặc cố ý trì hoãn không thực hiện thì trên cơ sở yêu cầu
của bên có quyền lợi bị xâm phạm, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền lại có thể tiếp tục
đưa ra quyết định khác, đó là quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để
pháp luật Nhà nước được thực thi đầy đủ.

Trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để
kiểm tra, giám sát các bên tham gia quan hệ đó hoặc xác nhận sự tồn tại hay không tồn
tại của một số sự việc, sự kiện thực tế.

8
Đối với những sự kiện, sự việc có ý nghĩa quan trọng, có liên quan đến quyền
về tài sản hay nhân thân của các bên, nếu không được xác định rõ để giải quyết quyền
lợi cho các bên đó thì dễ làm phát sinh tranh chấp; hoặc những bằng chứng, tài liệu dễ
bị giả mạo, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của các chủ thể thì Nhà nước cũng tham
gia nhằm kiểm tra, giám sát hoặc nhằm xác minh, công nhận một cách chính thức để
khẳng định giá trị pháp lý của chúng, làm cho chúng phát sinh hiệu lực.

Ví dụ: Việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp. Việc tham gia của Nhà
nước trong trường hợp này giữ vai trò vừa là quản lý xã hội, vừa là người làm chứng
để các bên chính thức được tiến hành các quyền và nghĩa vụ của mình một cách có căn
cứ pháp lý và được bảo hộ về quyền lợi.

9
CHƯƠNG 2
VẤN ĐỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA GIỚI TRẺ HIỆN NAY

2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật của giới trẻ hiện nay:

Sinh viên là lứa tuổi trẻ trung và sôi nổi, ham học hỏi, ôm ấp nhiều khát vọng
và hoài bão, sẵn sàng cống hiến tất cả các sức lực và nhiệt huyết. Họ đang có mặt khắp
mọi nơi và đóng vai trò xung kích trong mọi hoạt động của xã hội. Sinh viên nước ta
hiện nay cơ bản được sống và học tập và rèn luyện trong môi trường tốt, được trang bị
tri thức đã có sự hiểu biết nhất định về pháp luật, có tình cảm và hình thành niềm tin
vào pháp luật của Việt Nam. Từ đó, sinh viên đã đưa pháp luật vào đời sống, biến nó
thành công cụ hữu hiệu trong việc hình thành, rèn luyện và phát triển đạo đức, tư duy,
lối sống lành mạnh. Chẳng hạn, sinh viên hiện nay đã sử dụng pháp luật đó là quyền tự
do ngôn luận vào đời sống hằng ngày, được phát biểu và đóng góp ý kiến của mình
trong các buổi hội thảo. Ngoài ra, sinh viên còn tích cực thi hành pháp luật, như chấp
hành nghiêm chỉnh các luật lệ an toàn giao thông: đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao
thông, chấp hành các tín hiệu của đèn giao thông. Bên cạnh đó, sinh viên còn tuân thủ
pháp luật, không làm những điều mà pháp luật cấm: mua bán mại dâm, ma túy, cờ bạc,
cá độ, đua xe, trộm cắp,...Có thể thấy, sinh viên hiện nay đa phần đều có ý thức chấp
hành tốt những qui định của pháp luật. Tuy nhiên, ngoài những sinh viên luôn cố gắng,
nỗ lực rèn luyện, trau dồi văn hóa và đạo đức thì cũng có một bộ phận không nhỏ
thanh niên đã và đang không quan tâm và thực hiện nghiêm chỉnh các hệ thống pháp
luật. Có thể thấy thời gian qua các phương tiện truyền thông, báo chí, truyền hình,
internet đã phản ánh rất nhiều về thực trạng sinh viên Việt Nam rất hạn chế về văn hóa
pháp luật. Biểu hiện cụ thể là lối sống lệch lạc, thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, thiếu
ý thức chấp hành pháp luật; có lối sống thực dụng, ăn chơi đua đòi ngày càng gia tăng
đã dẫn họ vào con đường phạm tội khiến cho tình trạng phạm tội ở lớp người này xảy
ra nghiêm trọng, chiếm tỷ lệ cao trong tổng số người phạm pháp và có xu hướng ngày
càng tăng. Thực trạng của vấn đề không thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh ở
sinh viên-những chủ nhân tương lai của đất nước đang là một vấn đề được xã hội đặc
biệt chú ý và quan tâm.

2.2. Nguyên nhân:

Việc sinh viên không chấp hành thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh đã
để lại những hậu quả vô cùng lớn không chỉ ảnh hưởng đến bản thân sinh viên-những

10
người không thực hiện pháp luật mà còn để lại hậu quả cho bản thân người bị hại và là
một vấn nạn nhức nhối cho xã hội.
Phần lớn, sinh viên nhận thức còn hạn chế, thiếu hiểu biết về pháp luật, chưa
rèn luyện được các kỹ năng ứng xử giải quyết các tình huống khi xung đột, thiếu sự
quản lý, giáo dục, quan tâm, không định hướng được tương lai dẫn đến những hành vi
lệch chuẩn đạo đức, quan hệ xã hội mà vi phạm pháp luật, nhân cách chưa hoàn chỉnh,
nông nổi, bồng bột, kích động, đôi khi tự cao, tự mãn, thích tự do phóng khoáng, hay
đua đòi
và đặc biệt là hiểu biết về pháp luật chưa toàn diện và sâu sắc, họ chưa tự làm chủ
được bản thân nên dễ bị lôi kéo tham gia vào những việc làm sai trái, vi phạm pháp
luật.

Từ phía gia đình: Gia đình là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến việc hình thành
nhân cách của mỗi cá nhân trong thời kì ấu thơ. Nhận thức của họ bắt đầu hình thành
từ những hành vi của những người xung quanh, bao gồm cả những hành vi tốt hay
không tốt, , phần lớn các sinh viên không chấp hành hay không thực hiện pháp luật
đều rơi vào hoàn cảnh gia đình khó khăn về kinh tế hoặc có bố mẹ là các đối tượng
hình sự, vướng vào các tệ nạn: rượu chè, cờ bạc, buôn bán trái phép các chất cấm,...
Những sinh viên sống trong tình trạng gia đình thường xảy ra bạo lực, bố mẹ ly hôn, ly
thân, hoặc việc quản lý, giáo dục chưa phù hợp dẫn đến việc sinh viên tiếp xúc với
những thành phần xấu của xã hội, dễ dàng bị kẻ xấu lôi kéo vào con đường phạm
pháp.

Từ phía nhà trường, trường học chính là nơi rèn luyện tri thức, nền tảng đạo
đức, đóng vai trò trong việc giáo dục, hình thành phẩm chất đạo đức chuẩn mực cho
mỗi cá nhân.Tuy nhiên, công tác giáo dục đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật và quản
lý học sinh trong nhà trường còn nhiều hạn chế. Đó là công tác giáo dục pháp luật,
giáo dục đạo đức và nhất là giáo dục kỹ năng sống còn yếu kém. Các bài học trong các
nhà trường còn nặng về lý thuyết, ít gắn với thực tiễn đời sống và thường là theo lối
độc thoại, học sinh phải học thuộc lòng một cách gò bó, từ đó tạo tâm lý không hứng
thú, ít thấy được ý nghĩa thiết thực. Cần xem xét lại hiệu quả gắn kết của “tam giác”:
gia đình - nhà trường - xã hội chưa chặt chẽ, thường xuyên trong việc quản lý, giáo
dục, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các cá nhân có biểu hiện vi phạm pháp luật.

Từ phía xã hội, Một thực tế không thể phủ nhận là việc bùng nổ công nghệ
thông tin. Lớp trẻ hiện đang bị “đầu độc” bởi quá nhiều thứ văn hóa nghe nhìn, giải trí
có nội dung kích động bạo lực. Chỉ cần bật các kênh truyền hình được cấp phép hoạt

11
động cũng thấy hàng ngày đang có quá nhiều phim bạo lực, trò chơi trực tuyến có nội
dung bạo lực tràn ngập tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống xã hội, đạo đức xã hội
xuống cấp; môi trường xã hội không lành mạnh đã ảnh hưởng tiêu cực đến suy nghĩ và
hành động của sinh viên.

Ngoài ra, việc tuyên truyền giáo dục pháp luật, văn hóa, đạo đức, lối sống
trong quần chúng nhân dân nhất là sinh viên chưa được coi trọng đúng mức, còn thiếu
cả về bề rộng và chiều sâu. Do vậy, một bộ phận không sinh viên khi thực hiện hành vi
mà không biết rằng đó là hành vi phạm tội.

2.3. Hậu quả:

Việc sinh viên không chấp hành thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh đã
để lại những hậu quả vô cùng lớn không chỉ ảnh hưởng đến bản thân sinh viên-những
người không thực hiện pháp luật mà còn để lại hậu quả cho bản thân người bị hại và là
một vấn nạn nhức nhối cho xã hội.

Trước tiên những hành động đó gây hậu quả rất lớn cho bản thân người vi phạm
và gia đình của họ, để lại đau thương mất mát cả về vật chất lẫn tinh thần cho thân
nhân của người bị hại. Sinh viên là lớp trẻ là người nắm trong tay quyết định tương lai
đất nước, sự lệch chuẩn về ý thức thực hiện pháp luật để lại một hệ quả lớn cho đất
nước, cho xã hội làm rối loạn, mất trật tự an toàn xã hội, chất lượng cuộc sống giảm.
Điều này không những góp phần làm cho đất nước kém phát triển mà còn trì trệ, lạc
hậu, khó có thể theo kịp với tiến bộ của nhân loại và sánh vai với các cường quốc
khác.

Hơn thế nữa, tình hình sinh viên tham gia vào các băng nhóm tội phạm xuyên
quốc gia có cơ cấu tổ chức chặt chẽ còn gây mất trật tự an toàn xã hội làm cho hình
ảnh của thế hệ giới trẻ Việt Nam sẽ bị mất đi trong mắt bạn bè quốc tế. Đó là nguyên
nhân kiềm hãm sự phát triển của đất nước.

2.4. Biện pháp:

Về phía bản thân mỗi sinh viên, phải biết tự giáo dục, trau dồi thêm nhiều kiến
thức về pháp luật, rèn luyện văn hóa pháp luật qua đó hình thành ý thức, thói quen,
hành vi chấp hành pháp luật trong mọi sinh hoạt hằng ngày. Tự xác định cho mình nội
12
dung, hình thức, phương pháp tiếp thu, lĩnh hội hệ thống tri thức, nguyên tắc chuẩn
mực cần thiết, lựa chọn hình thức, biện pháp phù hợp nhằm phát triển văn hóa pháp
luật của bản thân, điều chỉnh hành vi làm cho nhân cách ngày càng phát triển. Bên
cạnh đó, cần xây dựng tinh thần ham hiểu biết pháp luật cho mình. Cùng với quá trình
đó, cần chú trọng rèn luyện thói quen, lối sống và hành động theo hiến pháp và pháp
luật cho sinh viên để phát huy nỗ lực chủ quan trong tự giáo dục, rèn luyện, phát triển
văn hóa pháp luật được cụ thể hóa bằng các công việc hằng ngày như không mắc các
tệ nạn xã hội, tuân thủ luật giao thông,...Việc rèn luyện thói quen, lối sống và hành
động theo hiến pháp, pháp luật cho thanh niên phải tuân theo quy luật từ dễ đến khó,
từ đơn giản đến phức tạp, từ nhận thức đến hành động, nâng cao dần.

Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục văn hóa pháp luật cho sinh viên.
Gia đình là tế bào của xã hội vậy nên ngay từ trong mỗi gia đình, cha mẹ hãy là “nhà
giáo” đầu tiên khởi nguồn cho việc hình thành và phát triển lối sống tuân theo pháp
luật của sinh viên. Cả cha và mẹ đều phải luôn cập nhật kiến thức về pháp luật, đồng
thời, họ phải thấy rõ trách nhiệm của mình để có sự phối hợp với nhà trường, xã hội
quản lý, giáo dục cho sinh viên một cách thống nhất.

Phát huy vai trò của tổ chức, nhất là tổ chức đoàn và nhà trường trong việc rèn
luyện văn hóa pháp luật của sinh viên. Đối với các nhà trường và tổ chức đoàn các
cấp, cần liên tục đổi mới và hoàn thiện chương trình, nội dung giáo dục pháp luật cho
sinh viên; cung cấp kịp thời tri thức về pháp luật giúp cho sinh viên có nhận thức
đúng đắn để hình thành thái độ, niềm tin pháp luật. Cần linh hoạt, sáng tạo các hình
thức, phương pháp, rèn luyện văn hóa pháp luật cho sinh viên; kết hợp lồng ghép linh
hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp mới trong giáo dục pháp luật, rèn luyện kỷ
luật. Tổ chức tốt các hoạt động thực tiễn chấp hành pháp luật Nhà nước cho sinh viên.
Đối với các tổ chức xã hội khác, cần thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường văn hóa
pháp luật lành mạnh trong toàn xã hội. Kịp thời phát hiện và dự báo xu hướng biến
động về văn hóa pháp luật trong sinh viên để có những giải pháp thích hợp. Các tổ
chức thường xuyên thông qua các phương tiện thông tin đại chúng truyền tải sâu rộng
trong xã hội những hành vi phản văn hóa pháp luật và hậu quả của lối sống không thực
hiện pháp luật gây ra.

13
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Khái niệm thực hiện pháp luật và các hình thức:


Trường Đại học Lao động – Xã hội (2016), Giáo trình Pháp Luật Đại
Cương, Nhà xuất bản. Dân Trí, tr.144 – tr.151.
2. Ví dụ:
Phạm Kim Oanh, Thực hiện pháp luật là gì? Các hình thức thực hiện pháp
luật ?, https://luathoangphi.vn/thuc-hien-phap-luat-la-gi/ truy cập 8/12/2021
Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
https://pbgdpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Lists/ToGap/Attachments/355/To
%20gap%2010%20-%20Bao%20chi%20-%20Tieng%20Viet.pdf
truy cập 8/12/2021

14

You might also like