You are on page 1of 113

®¹i häc quèc gia hµ néi

khoa luËt

ng« v¨n nam

Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ XÂY DỰNG Ý THỨC PHÁP LUẬT


TRONG ĐIỀU KIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật


Mã số : 60 38 01

luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc

Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: GS. TS. Ph¹m Hång Th¸i

Hµ néi - 2009
®¹i häc quèc gia hµ néi
khoa luËt

ng« v¨n nam

Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ XÂY DỰNG Ý THỨC PHÁP LUẬT


TRONG ĐIỀU KIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY

luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc

Hµ néi - 2009
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên


cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ
và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Văn Nam

MỤC LỤC TRANG

1
Chƣơng 1: lý luận cơ bản về ý thức pháp luật 04
1.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ cấu, chức năng, phân loại ý thức
pháp luật….………………………………………………….........
04
1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật …………………………...........
04
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật .............................
06
1.1.3. Chức năng của ý thức pháp luật..............................................
12
1.1.4. Cơ cấu của ý thức pháp luật....................................................
14
1.1.5. Phân loại ý thức pháp luật......................................................
16
1.2. Mối Quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật
19
1.2.1. Vai trò của ý thức pháp luật đối với pháp luật………………
19
1.2.1.1. Tác động của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng
pháp luật…………………………………………………………..
20
1.2.1.2. Tác động của ý thức pháp luật đối với hoạt động thực hiện
pháp luật ………………………………………………………….
22
1.2.2. Sự tác động của pháp luật đối với ý thức pháp luật…………
26

Chƣơng 2: Thực trạng ý thức pháp luật ở Việt nam hiện nay
2.1 Thực trạng ý thức pháp luật của cá nhân………………………
2.1.1. Cách tiếp cận vấn đề……………………………………… 30
30
2.1.2 Những biểu hiện tích cực trong ý thức pháp luật của các cá
30
nhân trong thời kỳ đổi mới đất nước ……………………...............
2.1.3. Những biểu hiện hạn chế trong ý thức pháp luật…………...
2.2. Thực trạng ý thức pháp luật của cán bộ, công chức…………. 31

2.3. Thực trạng phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật……………… 35

Chƣơng 3: xây dựng ý thức pháp luật trong nhà nƣớc pháp quyền ở 47
nƣớc ta hiện nay………………………………… 61
3.1. Nhà nước pháp quyền và những yêu cầu đặt ra đối với ý thức
pháp luật…………………………………………………………... 68
3.1.1. Khái niệm Nhà nước pháp quyền…………………………..

2
3.1.2 Những yêu cầu đặt ra đối với ý thức pháp luật trong nhà 68
nước pháp 68
quyền…………………………………………………………
3.2. Các Quan điểm cơ bản trong việc xây dựng ý thức pháp 75
luật………………………………………………………………….
3.3. Hệ thống những biện pháp chủ yếu để xây dựng ý thức pháp 79
luật trong điều kiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………
3.3.1. Những biện pháp kinh tế……………………………………. 83
3.3.2. Những biện pháp văn hóa - xã hội………………………….. 83
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng các nguyên tắc của 83
nhà nước pháp quyền………………………………………………
3.3.4. Tổ chức thực hiện pháp luật, nâng cao chất lượng phổ biến, 85
giáo dục pháp luật ………………………………………………..
3.3.5. Nâng cao chất lượng, hiệu qủa áp dụng pháp luật. Tăng 87
cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật…….
3.3.6. Đảm bảo tính minh bạch, công khai của pháp luật ………… 96
Kết luận 98
100

LỜI NÓI ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

3
Đất nước ta đã trải nhiều thời kì bị xâm lược, từ ngàn năm Bắc thuộc
tới các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong quá trình cai trị,
các nước đã đưa pháp luật phản động vào nước ta nhằm phục vụ mục đích
cai trị và nô dịch; do vậy, hình thành nên ý thức chống đối hoặc thờ ơ với
pháp luật trong nhân dân. Ý thức hệ ấy còn tồn tại trong một bộ phận không
nhỏ nhân dân hiện nay và là rào cản trong quá trình nhà nước ta đưa các chủ
trương, chính sách pháp luật vào cuộc sống. Hơn thế, trình độ dân trí nước ta
còn thấp nên để hiểu pháp luật và thi hành pháp luật là những thách thức
lớn.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ta đã đạt được những thành tựu
quan trọng về kinh tế-xã hội, an ninh chính trị được giữ vững, đời sống nhân
dân từng bước được cải thiện và phát triển; bộ máy nhà nước hoạt động
ngày càng hiệu quả hơn, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới của đất
nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại tình trạng vi phạm pháp luật do
thiếu ý thức pháp luật, thái độ coi thường pháp luật gây ra. Nước ta đã chính
thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), yêu cầu
xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, sự tuân thủ pháp luật và những
cam kết hội nhập là một yêu cầu bức thiết đặt ra.
Xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, em xin
chọn đề tài: "Ý thức pháp luật và xây dựng ý thức pháp luật trong điều
kiện nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn Thạc
sỹ luật học của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Vấn đề ý thức pháp luật đã được các nhà khoa học quan tâm tìm hiểu,
nghiên cứu. Có thể kể tên một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như:
Đề tài "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo luật pháp"
trong chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-07; một số bài
viết trên các tạp chí, như: "Làm thế nào để xây dựng ý thức pháp luật và lối
sống theo pháp luật", tác giả Đào Trí Úc - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số

4
4/1993; "Xây dựng lối sống theo pháp luật nhìn từ góc độ lịch sử truyền
thống" của tác giả Vũ Minh Giang, tạp chí Nhà nước và pháp luật 1993. Các
nhà khoa học, giảng viên các cơ sở đào tạo cũng đã có nhiều bài báo về chủ
đề trên. Các giáo trình: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Luật hành
chính của các cơ sở đào tạo luật học, hành chính cũng có một số chương đề
cập đến vấn đề ý thức pháp luật.
Các công trình nói trên đã đề cập đến những khía cạnh, những vấn đề
nhất định liên quan đến ý thức pháp luật. Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu
một cách hệ thống ý thức pháp luật và đề ra các biện pháp pháp lý xây dựng
ý thức pháp luật trong điều kiện nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên
cứu của các công trình, tài liệu khoa học trên và các tài liệu khác có liên
quan.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
3.1. Thực hiện đề tài này, luận văn đặt ra những mục đích nghiên cứu:
- Phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về ý thức pháp luật.
- Thực trạng ý thức pháp luật hiện nay
- Yêu cầu xây dựng NNPQ và các giải pháp về xây dựng ý thức pháp
luật.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Ý thức pháp luật là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi nghiên cứu
rộng, toàn diện. Trong khuôn khổ của luận văn Thạc sỹ luật học, tác giả tập
trung nghiên cứu về ý thức pháp luật, đánh giá thực trạng ý thức pháp luật
trên một số lĩnh vực, một số đối tượng và đề xuất một số các giải pháp nhằm
xây dựng ý thức pháp luật trong điều kiện nhà nước pháp quyền Việt Nam
hiện nay.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (vận dụng tổng hợp các phương pháp

5
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử...). Trong quá trình nghiên cứu luận văn
đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích, tổng hợp, tổng
kết thực tiễn, tiếp cận hệ thống...
6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN
Kết quả nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về ý thức pháp luật; đánh giá về thực trạng ý thức pháp luật của cán bộ,
công chức và người dân, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất những giải
pháp cơ bản xây dựng ý thức pháp luật. Kết quả nghiên cứu có thể làm tài
liệu tham khảo cho các đối tượng khác nhau.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về ý thức pháp luật
Chương 2: Thực trạng ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Các giải pháp cơ bản về xây dựng ý thức pháp luật trong
nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay

6
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, CƠ CẤU, CHỨC NĂNG, PHÂN LOẠI Ý
THỨC PHÁP LUẬT
1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Với tư cách là một trong những hình thái của ý thức xã hội, ý thức
pháp luật xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, phản ánh
trực tiếp các quan hệ kinh tế, văn hoá, xã hội. Ý thức pháp luật là một trong
những hình thái của ý thức xã hội, là một trong những biểu hiện của trình độ
văn hoá xã hội dưới dạng chung nhất. Nó là sản phẩm của quá trình phát
triển của xã hội, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của các hệ tư tưởng, quan điểm
và quan niệm trong xã hội. Nếu một xã hội mà người dân được giáo dục ý
thức pháp luật, nâng cao hiểu biết, nhận thức về pháp luật thì xã hội đó sẽ
hạn chế được vi phạm pháp luật, tội phạm. Bằng cách đó mà góp phần tích
cực vào việc hình thành, xây dựng văn hoá pháp lý cho cá nhân và toàn xã
hội.
Là một trong những bộ phận cấu thành thuộc thượng tầng kiến trúc xã
hội, ý thức pháp luật chịu sự quy định, tác động mạnh mẽ của đời sống xã
hội. Quan điểm biện chứng là không phải tất cả các quan điểm đều thể hiện
trực tiếp các quan hệ kinh tế và những nhu cầu giai cấp và của toàn xã hội.
Ví dụ, quan điểm về hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, về tổ chức, trình
tự tư pháp và xem xét khiếu nại, về thừa kế, được hình thành không chỉ dưới
ảnh hưởng của cơ sở kinh tế, mà còn dưới ảnh hưởng của chính trị, truyền
thống, văn hoá, đạo đức, tập quán, thậm chí cả tôn giáo... Các hình thái ý
thức xã hội khác ở những mức độ khác nhau tác động mạnh mẽ đến ý thức
pháp luật cũng như đối với bản thân pháp luật. Chẳng hạn, ý thức pháp luật

7
của người dân Việt Nam trong chế độ phong kiến đã chịu ảnh hưởng sâu sắc
của ý thức hệ tư tưởng nho giáo và tư tưởng chính trị - đạo đức của dân tộc
Việt. Nội dung Bộ luật Hồng đức dưới triều vua Lê Thánh Tông là một ví
dụ tiêu biểu, tư tưởng văn hoá, đạo đức nho giáo cũng như văn hoá đạo đức
dân tộc đã thể hiện sâu sắc trong bộ luật như trật tự đạo đức trong gia đình,
xã hội và cả những sự đề cao vai trò của phụ nữ và người cao tuổi.
Phạm trù ý thức pháp luật có biểu hiện rất đa dạng, phong phú, vừa có
sức ỳ to lớn lại vừa thường xuyên biến đổi do sự tác động của các hình thái
ý thức xã hội khác, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Sự
biến động và tác động thường xuyên của các hiện tượng xã hội, những cảm
nhận, thái độ, quan niệm, các lý thuyết, tư duy pháp lý của con người, của
các nhóm xã hội, của nhà nước và của toàn xã hội cũng vận động không
ngừng. Sự bất bình của người dân về một quyết định không công bằng, chưa
thấu tình đạt lý của toà án hay một quyết định sai trái của cơ quan hành
chính, sự trung lập về một văn bản mới ra đời... Một quan điểm mới về cách
thức, mức độ điều chỉnh của luật bảo vệ môi trường vv... đều thuộc phạm trù
ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật được hình thành từ những quan niệm của con người
về sự cần thiết của các quy tắc xử sự mà nhà nước cần đảm bảo thực hiện,
về tính hợp pháp hay không hợp pháp của các thiết chế, chế định pháp lý...
Nếu như pháp luật (xét theo nghĩa khách quan) là những chế định bề ngoài,
là hệ thống các quy phạm pháp luật, thì ý thức pháp luật là phạm trù chủ
quan, là những quan niệm, quan điểm về pháp luật, là tâm lý, cảm xúc, tâm
trạng, nguyện vọng của con người về pháp luật, về các vấn đề pháp lý nói
chung [18;248].
Trước kia, một nhà khoa học Xô viết nổi tiếng đã từng nhận định
“thái độ chủ quan của con người đối với pháp luật hiện hành và mong muốn
về những quy định pháp luật mới, được gọi là ý thức pháp luật”.[17;91] Khi
một văn bản pháp luật ra đời và được áp dụng vào thực tế cuộc sống, điều

8
luật đó có tính hợp pháp hay không hợp pháp trong cách xử sự của con
người. Nếu điều luật đó được đa số nhân dân công nhận và nghiêm túc chấp
hành thì điều luật có tính đúng đắn.
Phạm vi tác động của ý thức pháp luật rất rộng, không có lĩnh vực
hành vi pháp luật nào của con người lại không cần đến tư duy nhận thức
pháp luật – xã hội, như TS. Nguyễn Minh Đoan đã nhận xét. [2;22]
Ý thức pháp luật kiểu mới mà chúng ta đang tiếp tục phát triển hình
thành từ trong xã hội tư bản được chứa đựng trong các tác phẩm của các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác, trong cương lĩnh của các đảng công nhân.
Trong các yêu sách đấu tranh của giai cấp vô sản trong các tác phẩm của
mình, Mác và Ph. Ăng-ghen không những chỉ ra cho giai cấp vô sản những
yêu cầu pháp lý để đấu tranh nhằm xây dựng một xã hội mới, mà còn xây
dựng những khái niệm quan trọng nhất về pháp luật, tạo cơ sở cho sự phát
triển ý thức pháp luật mới sau này. Cùng với sự phát triển của hệ thống các
quan hệ xã hội mới và của pháp luật, ý thức pháp luật kiểu mới ngày càng
được phát triển và nâng cao.
Vấn đề ý thức pháp luật được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau
như triết học, luật học, tâm lý học, xã hội học. Tuy vấn đề này còn có nhiều
quan điểm khác nhau, nhưng đa số các nhà nghiên cứu cho rằng: ý thức
pháp luật là tổng thể những tư tưởng, học thuyết, quan điểm, thái độ, tình
cảm, sự đánh giá của con người về pháp luật trên các phương diện, tiêu chí
cơ bản như: về sự cần thiết (hay không cần thiết), về vai trò, chức năng của
pháp luật, về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không
đúng đắn của các quy định pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua trong quá
khứ, pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành
vi của các cá nhân, tổ chức nhà nước và xã hội. [18;430]

1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật

9
Là một trong những hiện tượng rộng lớn, phức tạp của đời sống pháp
luật, ý thức pháp luật có nhiều biểu hiện phong phú, được thể hiện trong các
đặc điểm cơ bản. Có nhiều cách tiếp cận về đặc điểm của ý thức pháp luật
xét từ các góc độ của các mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và các hiện
tượng xã hội khác như: kinh tế, văn hoá - xã hội, chính trị và cả vấn đề nhà
nước. Thông qua các đặc điểm đó có thể thấy rõ nhữung nét tương đường và
những nét khác biệt so với các hình thái ý thức xã hội khác.

Đặc điểm 1: Ý thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội
Ngay từ thời của mình, Các - Mác đã khẳng định: “Không phải ý thức
của con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại, chính sự tồn tại xã hội
của họ quyết định ý thức của họ” [1;15]. Ý thức pháp luật cũng như các hình
thái ý thức xã hội khác là sản phẩm của tồn tại xã hội. Những nhận thức, thái
độ, tình cảm, quan niệm, mong muốn của con người về pháp luật, về nhà
nước suy cho cùng là do những điều kiện xã hội khách quan quy định, chi
phối. Nhìn lại xã hội phong kiến nước ta, ý thức pháp luật của người dân
chịu sự quy định, chi phối của tính chất, đặc điểm và những điều kiện kinh
tế phong kiến chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lúa nước. Những yếu tố xã
hội khác như tư tưởng, đạo đức, tập quán chi phối lớn tới ý thức pháp luật
của người dân. Hơn thế, pháp luật có nguồn gốc du nhập và ảnh hưởng lớn
của pháp luật Trung Quốc trong quá trình Bắc thuộc và bản thân sự hà khắc,
đi ngược lại lợi ích người dân trong các quy định pháp luật nên người dân
thường có thái độ thờ ơ, coi thường và chống đối pháp luật, ứng xử chủ yếu
theo phong tục, tập quán của từng địa phương. Các phong tục, tập quán ấy
phần lớn mang tính phù hợp với trật tự quản lý xã hội của địa phương và đến
nay vẫn phát huy giá trị tích cực. Tuy nhiên, một số phong tục, tập quán lạc
hậu vẫn tồn tại song song và là rào cản trong quản lý và bảo đảm hiệu lực
thống nhất của các văn bản pháp luật.

10
Trong thời kỳ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, ý thức pháp luật
mang nặng tính bình quân chủ nghĩa, người dân còn e dè, ngại ngùng sử
dụng pháp luật, tâm lý coi thường hoặc thờ ơ với pháp luật. Đến thời kinh tế
thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền, tự cuộc sống đã rèn luyện cho
con người ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật bởi họ thấy điều đó là cần
thiết, pháp luật thể hiện nhiều hơn các lợi ích của họ. Nhưng từ một phương
diện khác, do sự thôi thúc của đồng tiền, lợi nhuận hặc những lý do phi kinh
tế khác, nhiều người cũng không ngần ngại bất cập pháp luật hoặc có thái độ
bất cần, coi thường các quy định pháp luật. Đấy là những biểu hiện về sự
quy định của tốn tại xã hội – tức là những điều kiện kinh tế, văn hoá, đạo
đức, công nghệ, kỹ thuật và kể cả các vấn đề pháp luật, nhà nước đối với ý
thức pháp luật.
Yêu cầu của một xã hội văn minh, hiện đại, trên cơ sở phát huy, phát
triển những giá trị của văn hoá truyền thống, các văn bản luật phải được ban
hành đồng bộ và thực hiện thống nhất trên phạm vi lãnh thổ quốc gia. Nước
ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, mọi công dân có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, khuyến
khích làm giàu chính đáng... đã có tác động mạnh mẽ đến ý thức pháp luật
của các cá nhân với những biểu hiện như: quan tâm đến pháp luật nhiều hơn,
tuân thủ pháp luật và luôn có mong muốn về một nền pháp luật nhân văn,
một nền tư pháp công bằng, mọi công dân bình đẳng trước pháp luật. Bên
cạnh những mặt tích cực, trong nền kinh tế thị trường cũng có những hiện
tượng tiêu cực trong lĩnh vực ý thức pháp luật của một bộ phận dân cư như:
coi thường, bất chấp, lạng lách pháp luật, vi phạm những chuẩn mực đạo
đức để thu lợi nhuận tối đa...

Đặc điểm 2: Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật

11
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức pháp luật là sự
phản ánh của tồn tại xã hội nên nó chịu sự quy định của tồn tại xã hội; tuy
nhiên ý thức pháp luật cũng có tính độc lập tương đối đối với tồn tại xã hội.
Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện ở những
điểm cơ bản sau: tính lạc hậu, tính tiên phong, tính kế thừa, sự tác động trở
lại tồn tại xã hội và các hình thái ý thức xã hội khác.
- Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thực tế đã
chứng minh, khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi nhưng ý thức nói chung trong đó
có ý thức pháp luật do nó sinh ra vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một thời
gian dài những tàn dư của quá khứ được giữ lại, đặc biệt trong lĩnh vực tâm
lý pháp luật, nơi mà các thói quen và truyền thống đóng vai trò to lớn, phép
vua thua lệ làng.
Tính lạc hậu này được thể hiện cả trong lĩnh vực tư tưởng pháp luật,
cả trong lĩnh vực tâm lý pháp luật như trong cách suy nghĩ, cách đánh giá,
quan niệm, những đòi hỏi về pháp luật của nhiều người vẫn chưa theo kịp tư
duy hiện đại, điều kiện kinh tế, văn hoá - xã hội hiện đại. Tư duy điều hành
công việc nhà nước theo kiểu thời chiến cũng cón rơi rớt lại ở nhiều cán bộ
hành chính nhà nước, hay như tư duy về nhà nước phải bao cấp các hoạt
động xã hội, tư duy của cơ chế “xin – cho” trong việc giải quyết các công
việc của dân; thái độ coi thường pháp luật, tư tưởng cát cứ, phép vua thua lệ
làng....
Sự lạc hậu của ý thức pháp luật còn được thể hiện ở tâm lý pháp luật
phong kiến như sự thờ ơ, phủ nhận đối với pháp luật, biết hành vi đó bị pháp
luật cấm nhưng vẫn cố tình phạm tội và coi chuyện đó là chuyện bình
thường chứ không hề run sợ trước hành vi sai trái của mình, tâm lý luôn
muốn chống đối pháp luật. Tâm lý này không chỉ ở người dân mà cả trong
một bộ phận cán bộ nhà nước có liên quan đến pháp luật, dấu ấn của những
tư tưởng pháp luật thời bao cấp vẫn còn đậm nét như soạn thảo các quy định

12
pháp luật chủ yếu coi trọng yếu tố quản lý nhà nước mà ít chú ý đến sự
thuận lợi cho người dân - những đối tượng phải thi hành pháp luật.
Tâm lý pháp luật của thời chiến tranh, quản lý tập trung bao cấp vẫn
còn ngự trị trong tư tưởng, thái độ và biểu hiện thành những hành vi không
hợp pháp hoặc không hợp đạo đức, Chúng ta bắt gặp chúng ở trong cung
cách quản lý, giải quyết các vụ việc pháp lý của một bộ phận không nhỏ các
cán bộ hành chính hoặc trong hành vi pháp luật của các cá nhân. Việc dồn
khó khăn về thủ tục pháp lý trong một số quy định pháp luật là một biểu
hiện, nhưng công cuộc cải cách thủ tục hành chính những năm gần đây đã
khắc phục được rất nhiều hiện tượng này.

Tính tiên phong của ý thức pháp luật


Trong lịch sử, những quan điểm chính trị – pháp lý của Các - Mác,
Lênin đã có tính tiên phong, mang tầm nhìn sâu rộng về xu thế phát triển tất
yếu của xã hội. Trong những điều kiện xã hội nhất định, tư tưởng của con
người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt lên trước sự
phát triển của tồn tại xã hội. Nhìn lại lịch sử, những quan điểm chính trị –
pháp lý của Các - Mác, Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tính tiên phong,
mang tầm nhìn sâu rộng về xu thế phát triển tất yếu của xã hội. Những quan
điểm về nhà nước pháp quyền của chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là về Hiến
pháp, về quản lý xã hội bằng pháp luật đã hình thành từ rất sớm. Năm 1919
trong bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi tới hội nghị Vécxây, Bác
Hồ đã viết: phải thay chế độ sắc lệnh bằng chế độ các đạo luật, và "Bảy xin
hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền" [10;438]. Đây
chính là kết quả của quá trình hoạt động cách mạng tìm đường đấu tranh giải
phóng dân tộc của Người, kế thừa các tinh hoa văn hoá pháp lý của nhân
loại vào điều kiện của Việt nam.
- Tính kế thừa của ý thức pháp luật

13
Tính kế thừa của ý thức pháp luật trong quá trình phát triển: ý thức
pháp luật phản ánh sự tồn tại của một xã hội của một thời đại nào đó. Trong
xã hội phong kiến, ý thức pháp luật của con người rất là hạn chế, chỉ một
phần nhỏ số người được biết chữ thì có thể biết chút ít về pháp luật. Còn
phần đông người dân đều mù chữ, cho nên pháp luật được thực thi một cách
không công bằng, không đúng đắn, thiếu sự thống nhất. Song nó cũng kế
thừa những yếu tố nhất định thuộc ý thức pháp luật của thời đại trước đó, tất
nhiên những yếu tố được kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ. Ví dụ:
tập quán pháp là những tập quán lưu truyền trong xã hội phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị đã được nhà nước thừa nhận làm cho chúng trở thành
những quy tắc xử sự chung và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Đây là
hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng nhiều nhất trong
các Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến và hiện nay còn được sử dụng ở
những Nhà nước tư sản có chế độ quân chủ lập hiến, nhưng với mức độ nhất
định và trong phạm vi hẹp hơn so với các Nhà nước trước đây.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chúng ta đã và đang nghiên cứu để
học tập kế thừa chọn lọc các tư tưởng, học thuyết về nhà nước, pháp luật, về
cách tổ chức quyền lực nhà nước và xây dựng, thực thi pháp luật của các
quốc gia phát triển trên thế giới. Ví dụ, kế thừa các kỹ thuật pháp lý về xây
dựng pháp luật, các quan điểm khoa học về tổ chức hoạt động giám sát,
thanh tra, các loại hình dịch vụ pháp lý, tranh tụng tại phiên toà vv…
- Sự tác động trở lại của ý thức pháp luật đối với tồn tại xã hội và
đối với các hình thái ý thức xã hội khác
Sự phụ thuộc vào tồn tại xã hội của ý thức pháp luật cũng chỉ mang
tính tương đối, ý thức pháp luật đến lượt mình có tác động trở lại vô cùng
đối với sự tồn tại xã hội, với ý thức chính trị, đạo đức và các yếu tố thượng
tầng kiến trúc chính trị - pháp lý như nhà nước và pháp luật, tuỳ thuộc vào ý
thức pháp luật tiến bộ hay lạc hậu mà sự tác động của nó có thể là thúc đẩy
hay tìm kìm hãm sự phát triển của xã hội. Tư tưởng, lý luận, quan điểm, thái

14
độ đúng đắn, phù hợp tiến bộ xã hội, sự tôn trọng và ý thức chấp hành pháp
luật sẽ có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, đạo đức của xã
hội. Ngược lại, những tư tưởng, lý thuyết sai lầm, những quan niệm lệch lạc,
thái độ coi thường pháp luật, hành vi vi phạm pháp luật... có tác động tiêu
cực đến sự phát triển xã hội, đến môi trường văn hoá pháp lý và văn hoá đạo
đức.
Các hình thái ý thức xã hội khác có ảnh hưởng to lớn đến ý thức pháp
luật và người lại, ý thức pháp luật cũng tác động mạnh mẽ đến các hình thái
ý thức xã hội khác như đạo đức, khoa học, chính trị... ý thức pháp luật góp
phần rèn luyện, nâng cao ý thức đạo đức và thực hành đạo đức của các cá
nhân nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hội nhập như hiện nay.ở
một xã hội mà ý thức pháp luật của người dân càng cao thì tội phạm càng ít,
từ đó tạo thuận lợi cho xã hội phát triển. Ý thức pháp luật do vậy có vai trò
to lớn trong việc giáo dục ý thức và hành vi của con người, hỗ trợ cho họ
trong các quan hệ pháp luật hay xã hội mà họ tham gia. Để từng bước xây
dựng ý thức tôn trọng pháp luật của các cá nhân, cần thường xuyên phổ
biến, giáo dục pháp luật, xây dựng môi trường thuận lợi cho những hành vi
hợp pháp.
Đặc điểm 3:
Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp, tính dân tộc.
Là sự phản ánh đời sống xã hội, đời sống pháp luật nên ý thức pháp
luật tất yếu mang tính dân tộc, tính giai cấp tương ứng với mỗi thời kỳ lịch
sử. Mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật có thể tồn tại nhiều hệ thống
ý thức pháp luật khác nhau. Đó là những tư tưởng, học thuyết, trường phái,
quan điểm, nhận thức, thái độ về pháp luật của các cá nhân, các nhóm xã hội
rất đa dạng về tính chất. Xét từ phương diện cơ cấu xã hội, trong một quốc
gia theo đó, tồn tại nhiều hệ thống ý thức pháp luật, như: ý thức pháp luật
của giai cấp thống trị; ý thức pháp luật của giai cấp bị trị; ý thức pháp luật
của tầng lớp trung gian.

15
Về nguyên tắc, hệ thống pháp luật, bao gồm các quy định, các nguyên
tắc pháp luật, các lĩnh vực pháp luật, và cả việc thực hiện, áp dụng pháp luật
của quốc gia truớc hết thể hiện ý thức pháp luật của giai cấp thống trị. Đồng
thời cũng phần nào thể hiện ý thức pháp luật của các tầng lớp, các nhóm xã
hội. Điều này được thể hiện rõ nét trong các kiểu pháp luật chủ nô, phong
kiến. Nhưng trong xã hội ta giữa giai cấp công nhân, nông dân và các tầng
lớp lao động phải có lợi ích thống nhất với nhau về cơ bản, do dó, ý thức
pháp luật tương đối thống nhất. Nó phản ánh sự thống nhất về chính trị, tư
tưởng của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội ta. Nhà nước ta là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân lao động.

1.1.3. Chức năng của ý thức pháp luật


Chức năng của ý thức pháp luật là các phương thức hoạt động cơ bản
của ý thức pháp luật. Như trên đã nêu, một trong các đặc điểm của ý thức xã
hội là sự phản ánh đời sống pháp luật. Ý thức pháp luật phản ánh các điều
kiện kinh tế - xã hội cần được điều chỉnh bằng pháp luật trong xã hội có
phân chia giai cấp. Thông qua sự phản ánh này chúng ta có được thông tin
về hệ thống văn bản pháp luật, tình trạng pháp chế, văn hoá pháp lý, tình
hình áp dụng pháp luật. Từ các thông tin đó của ý thức pháp luật chúng ta
nhận thức được thực trạng của đời sống pháp luật, đây là chức năng nhận
thức của ý thức pháp luật.
Chức năng của ý thức pháp luật thể hiện vai trò, giá trị xã hội và tính
sống động của ý thức pháp luật. Chức năng của ý thức pháp luật được hiểu
là những phương thức hoạt động cơ bản của ý thức pháp luật. Ý thức pháp
luật là hiện tượng xã hội phức tạp, sự vận động của các yếu tố trong cơ cấu
của nó cững phức tạp và phong phú. Trong khoa học pháp lý thường quan
niệm ý thức pháp luật có những chức năng cơ bản như: chức năng mô hình

16
hóa pháp lý, chức năng điều chỉnh hành vi của con người. Ngoài ra còn có
những cách xác định khác.
Nhờ có ý thức pháp luật mà đánh giá được các mô hình nào là cần
thiết và tất yếu để hướng hành vi, cách xử sự, các quan hệ xã hội phát triển
có kết quả. Đó là chức năng mô hình hóa pháp lý của ý thức pháp luật. Trên
cơ sở nhận thức đúng đắn về lợi ích, trách nhiệm của cá nhân, của tập thể và
toàn xã hội sẽ tạo cho các chủ thể ý thức tự điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp với lợi ích của chủ thể khác cũng như với lợi ích chung của toàn xã
hội. Không dừng lại ở đó, ý thức pháp luật cao còn tạo cho các chủ thể thái
độ tích cực, đấu tranh với các hành vi, hiện tượng vi phạm pháp luật. ý thức
pháp luật trên cơ sở mô hình hoá các hành vi nhất định đã định hướng cho
hành vi của chủ thể. Tuy nhiên cần phải chú ý đến một điều là ý thức pháp
luật thấp, nhận thức không đúng đắn về lợi ích và trách nhiệm của chủ thể
thì ý thức pháp luật, có thể làm cho hành vi của chủ thể trở nên sai lệch với
các yêu cầu của pháp luật hiện hành.
Ý thức pháp luật định hướng cho hành vi của con người phù hợp hay
không phù hợp với yêu cầu của pháp luật hiện hành, hoặc làm cho hành vi
của con người trở nên không phù hợp với các yêu cầu đó. Như vậy ý thức
pháp luật có chức năng điều chỉnh hành vi của con người.
Các chức năng trên của ý thức pháp luật liên hệ chặt chẽ với nhau và
tác động trong một cơ chế thống nhất, chúng bao gồm cả yếu tố đánh giá và
dự báo xã hội. ý thức pháp luật luôn chứa đựng sự đánh giá hiện thực khách
quan, hành vi xử sự của con người dưới lăng kính pháp lý, đồng thời cùng
với việc đưa ra nguyên tắc mô hình hóa pháp lý cũng như trong thực hiện
pháp luật.

1.1.4. Cơ cấu của ý thức pháp luật


Ý thức pháp luật là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp. Căn
cứ vào những tiêu chí khác nhau có thể chia ý thức pháp luật ra những bộ

17
phận cấu thành khác nhau. Mỗi cách phân chia có ý nghĩa nhất định nhằm
khám phá bản chất, đặc điểm và vai trò của ý thức pháp luật. Trong khoa
học luật học tồn tại những quan điểm khác nhau về cơ cấu ý thức pháp luật.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, ý thức pháp luật cấu thành từ hai yếu tố: hệ tư
tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Quan điểm thứ hai coi ý thức pháp luật
gồm 3 yếu tố: hệ tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật và yếu tố hành vi.
Tuy vậy, theo quan điểm được thừa nhận chung, cơ cấu của ý thức
pháp luật bao gồm hai bộ phận cấu thành cơ bản đó là hệ tư tưởng pháp luật
và tâm lý pháp luật. Quan điểm này được thể hiện trong nhiều công trình
khoa học, ví dụ như trong các giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật của GS. TS. Phạm Hồng Thái cùng đồng chủ biên là PGS. TS. Đinh
Văn Mậu, PGS. TS. Hoàng Thị Kim Quế vv… Đôi khi hai bộ phận này còn
được gọi là hai trình độ, mức độ thể hiện của ý thức pháp luật. Bản thân tác
giả luận văn cũng tán đồng với quan điểm này và xét trên phương diện triết
học về các hình thái ý thức xã hội, người ta cũng xác định cơ cấu (hay trình
độ, mức độ) của ý thức xã hội là bao gồm hệ tư tưởng xã hội và tâm lý xã
hội. Ý thức pháp luật cũng như các hình thái ý thức xã hội khác như đạo
đức, khoa học, chính trị bên cạnh sự khác biệt, tất yếu cũng có nhiều nét
tương đồng.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng thể những quan điểm, tư tưởng, học
thuyết các khái niệm về pháp luật, về nhà nước. Hệ tưởng pháp luật là sự
phản ánh toàn diện đời sống pháp luật bằng sự khái quát thành lý luận, thành
các học thuyết về Nhà nước và pháp luật. Đây không phải là sự phản ánh
trực tiếp ở mức độ cảm giác mà là sự phản ánh tự giác, có mục đích, có tổ
chức của hoạt động tư duy lý luận. Một hệ tư tưởng pháp luật cao bao giờ
cũng đi liền với tri thức pháp luật cao mang tính khoa học có thể vượt lên
trước cả tồn tại xã hội thực hiện vai trò hướng dẫn, chỉ đạo. Nội dung phản
ánh, luận giải trong tư tưởng pháp luật bao quát hầu hết các lĩnh vực cơ bản
của đời sống nhà nước và pháp luật: vai trò, giá trị, chức năng của pháp luật;

18
cách thức xây dựng, kỹ thuật xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật; quan
điểm về các loại nguồn pháp luật; các quyền và nghĩa vụ pháp lý; hoạt động
đào tạo, giáo dục pháp luật vv... Tư tưởng pháp luật của nhân loại đã có bề
dầy lịch sử và thường xuyên có sự kế thừa, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với
sự tiến bộ xã hội. Trong lịch sử đã có nhiều hệ tư tưởng pháp luật tiêu biểu
như tư tưởng pháp luật Arixtot, Platon, Khổng Tử, Hàn phi Tử; Hêghen,
Monteskiơ; học thuyết Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, tư tưởng nhà
nước pháp quyền Hồ Chí Minh vv...
- Tâm lý pháp luật:
Tâm lý pháp luật được hình thành tự phát dưới dạng tâm trạng, cảm
xúc, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Nó thể
hiện mối quan hệ, thái độ của chủ thể đối với pháp luật và đời sống pháp
luật. Sự tồn tại của tâm lý pháp luật luôn gắn với những đặc điểm tâm lý của
con người. Những hiện tượng pháp luật trong đời sống xã hội tác động lên
tâm lý mỗi người, mỗi cộng đồng khác nhau và hình thành ở họ những cách
xử sự khác nhau. Tâm lý pháp luật bao giờ cũng mang tính bền vững, bảo
thủ hơn so với tư tưởng pháp luật vì nó gắn bó chặt chẽ với truyền thống, tập
quán, thói quen của cá nhân hoặc cộng đồng.
So với tư tưởng, học thuyết pháp luật, tâm lý pháp luật được hình
thành một cách tự phát, thiếu tính hệ thống, ví dụ: tình cảm đối với vấn đề
công bằng, nỗi sợ hãi trước hình phạt, sự đồng tình hay phản đói với bản án
mà Toà đã tuyên cho bị cáo. Thái độ quan tâm, phẫn nộ hay trung lập, lãnh
đạm, thờ ơ đối với các hành vi vi phạm pháp luật... đều là những biểu hiện
đa dạng, nhạy cảm về tâm lý pháp luật của các cá nhân [18;439].
Tâm lý pháp luật có ảnh hưởng lớn đến thái độ của chủ thể đối với
pháp luật. Khi chủ thể nhận thức được sự cần thiết của pháp luật, tin tưởng
vào sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật thì họ tự giác tuân thủ pháp
luật. Còn nếu chủ thể có trình độ hiểu biết pháp luật thấp, xem thường pháp
luật thì có thể có những hành vi vi phạm pháp luật. Hoặc cũng có những chủ

19
thể miễn cưỡng chấp hành các quy định của pháp luật do sợ hãi.[3;27] Do
vậy phải có những biện pháp thích hợp trong phổ biến giáo dục pháp luật để
hình thành trong mỗi công dân tâm lý pháp luật đúng đắn, tạo cho họ niềm
tin vào pháp luật để họ có thói quen sống và làm việc theo pháp luật, biết
đấu tranh với những biểu hiện và hành vi vi phạm pháp luật.

1.1.5. Phân loại ý thức pháp luật


Phân loại ý thức pháp luật dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau, mỗi cách
phân loại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định.
a. Căn cứ vào mức độ nhận thức, có thể chia ý thức pháp luật thành: ý
thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật mang tính lý luận và ý thức
pháp luật mang tính nghề nghiệp.
Ý thức pháp luật thông thường là những quan niệm, nhận thức, tri
thức; tình cảm, thái độ của con người hình thành một cách trực tiếp trong
hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được khái quát hoá ở trình độ lý luận.
Ý thức pháp luật thông thường nhìn chung mới chỉ phản ánh những hiện
tượng pháp lý - xã hội bên ngoài, chưa đi sâu vào bản chất, nội dung bên
trong của các hiện tượng pháp luật. Nhưng chính ý thức pháp luật thông
thường lại phản ánh một cách sinh đông, trực tiếp, chân thực các hiện tượng
pháp lý do vậy có ý nghĩa to lớn cho việc xây dựng pháp luật và thực hiện,
áp dụng pháp luật.
Đồng thời ý thức pháp luật thông thường hay phổ thông còn có ý
nghĩa cho công tác nghiên cứu khoa học, hình thành ý tưởng mới cho các
nhà khoa học và các nhà quản lý, áp dụng pháp luật bởi lẽ nó mang tính
chân thật, thiết thực về các vấn đề pháp luật. Ví dụ, sự bất bình của người
dân trong việc giải quyết các vụ án hành chính, sự dây dưa của các cơ quan
chức năng trong việc xử lý một số vụ tham nhũng, chính những sự phản ứng
đó của người dân sẽ đem lại cho người nghiên cứu, nhà quản lý những ý
tưởng mới, những phát hiện mới để hoàn thiện việc nghiên cứu hay trong

20
việc xây dựng, áp dụng pháp luật. Tuy là trình độ thấp so với ý thức pháp
luật lý luận nhưng những tri thức kinh nghiệm phong phú, gần gũi với cuộc
sống sinh động của ý thức pháp luật thông thường có vai trò quan trọng, là
tiền đề cho sự hình thành các ý tưởng khoa học, các lý thuyết khoa học về
pháp luật [6;423-425].
Khi nói một người có ý thức pháp luật thông thường nghĩa là anh ta
chỉ có hiểu biết nhất định về các quy phạm pháp luật hiện hành, có kinh
nghiệm giải quyết các vụ việc pháp lý cụ thể nhưng chưa có những tri thức
pháp luật sâu sắc mang tính lý luận, mang tính hệ thống.
Ý thức pháp luật mang tính lý luận thể hiện dưới dạng các học thuyết,
quan điểm về pháp luật, về nhà nước như quan điểm về bản chất của pháp
luật, mối quan hệ qua lại của pháp luật và các hiện tượng xã hội khác, vai trò
điều chỉnh của pháp luật trong xã hội, mối quan hệ giữa pháp luật với các
hiện tượng xã hội khác như chính trị, đạo đức, văn hoá. Những quan điểm
về pháp luật của ý thức pháp luật mang tính lý luận thường có tính khái quát
hoá, tính hệ thống, được xây dựng trên cơ sở khoa học và đúc kết từ thực
tiễn. Nó giúp cho hoạt động soạn thảo, xây dựng các dự án pháp luật phản
ánh được các lợi ích và nhu cầu của xã hội.
Nếu ý thức pháp luật thông thường mới chỉ phản ánh mối liên hệ bên
ngoài, chưa đi vào bản chất bên trong của pháp luật thì ý thức pháp luật
mang tính lý luận phản ánh những vấn đề bản chất của pháp luật như giá trị
xã hội của pháp luật, các nguyên lý hình thành và áp dụng pháp luật, kỹ
thuật pháp lý, tính chất của các quan hệ pháp luật vv…
Ý thức pháp luật nghề nghiệp là ý thức pháp luật của những người có
hoạt động liên quan trực tiếp đến pháp luật: từ xây dựng pháp luật, áp dụng
pháp luật, giải thích pháp luật, tư vấn pháp luật, đào tạo, nghiên cứu pháp
luật vv... Trước hết là ý thức pháp luật của các nhà làm luật, các nhà áp dụng
pháp luật như thẩm phán, của các luật sư, kiểm sát viên, thanh tra viên, các
luật gia vv... Các chủ thể của ý thức pháp luật nghề nghiệp còn bao gồm tất

21
cả các cán bộ quản lý hành chính mà công việc hàng ngày của họ có liên
quan đến việc áp dụng pháp luật vào những trường hợp cụ thể.
So với ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận ở
trên, ý thức pháp luật nghề nghiệp có những đặc trưng nhất định. Trước hết
đó là tính chất chuyên môn nghiệp vụ sâu, rộng hơn xuất phát từ yêu cầu
nghề nghiệp của họ. Tiếp đến là các kỹ năng phân tích, kỹ năng vận dụng,
nghệ thuật vận dụng vào những tình huống, những vấn đề thực tế đặt ra.
Tính chuyên nghiệp, kỹ năng áp dụng, giải thích các vấn đề pháp luật, kinh
nghiệm nghề nghiệp và cả thói quen trong các thao tác pháp lý. Để làm được
điều đó, đòi hỏi ở người áp dụng pháp luật một vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ
năng và bản lĩnh nghề nghiệp cao.
b. Căn cứ vào chủ thể, có thể chia ý thức pháp luật thành: ý thức
pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật xã hội.
+ Ý thức pháp luật cá nhân là những tư tưởng, quan điểm, khái niệm,
tâm lý pháp luật của mỗi công dân. Ý thức pháp luật cá nhân không hoàn
toàn giống nhau, bởi nó phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như điều kiện
chính trị, kinh tế - xã hội và các yếu tố chủ quan của họ. Có thể cũng chính
là anh A nhưng ngày hôm qua đã có ý thức coi thường quy định pháp luật
giao thông nhưng đến ngày kia anh ta lại nhận thức lại và có ý thức tôn
trọng luật giao thông. Đó có thể do nhiều lý do như sau khi thấy một người
khác bị xử phạt vi phạm, hoặc được phổ biến, giải thích luật giao thông hoặc
lý do, tác động khác.
+ Ý thức pháp luật xã hội là ý thức pháp luật của bộ phận tiên tiến, đại
diện cho xã hội. Nội dung của ý thức pháp luật xã hội thể hiện các quan
điểm, tư duy khoa học về pháp luật, đã và đang được phổ biến trong xã hội,
tác động đến ý thức, hành vi pháp luật trên diện rộng. Ví dụ như hiện nay,
trong xã hội đã và đang tồn tại, đang tác động mạnh về tinh thần thượng tôn
pháp luật, ý thức pháp luật nhân văn trong nhà nước pháp quyền, ý thức về

22
dân chủ, công khai, minh bạch, ý thức về đầu tranh chống các vi phạm pháp
luật, đặc biệt đối với tệ nạn tham nhũng vv…
+ Ý thức pháp luật nhóm phản ánh những đặc điểm của các nhóm xã
hội tương ứng. Đó là những quan điểm, nhận thức, tư tưởng tình cảm pháp
luật của một nhóm người nhất định trong xã hội. Các nhóm xã hội được liên
kết với nhau theo những tiêu chuẩn, lợi ích nhất định và trong những điều
kiện sống có nhiều nét tương đồng. Do vậy, các nhóm xã hội có những quan
niệm, tư duy, thái độ, cách đánh giá, những yêu cầu đối với pháp luật tương
đối giống nhau. Ví dụ, ý thức pháp luật của giới văn nghệ sỹ, giới thầy
thuốc, giới sinh viên vv… đều có những đặc trưng riêng.

1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ PHÁP LUẬT


1.2.1. Vai trò của ý thức pháp luật đối với pháp luật
Pháp luật và ý thức pháp luật có mối quan hệ biện chứng, tác động,
ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của nhau. Mối quan hệ này
được thể hiện trong xây dựng pháp luật, trong thực hiện và áp dụng pháp
luật ý thức pháp luật hiện hữu trong công việc soạn thảo, ban hành các văn
bản pháp luật, các quyết định áp dụng pháp luật, trong cả hành vi pháp luật
của mỗi chủ thể pháp luật. Không có một hiện tượng xã hội nào có thể được
thể hiện dưới dạng quy phạm pháp luật thành quyền và nghĩa vụ pháp lý
chừng nào chúng chưa được đi qua ý thức của con người. Đến lượt mình,
các quy định pháp luật muốn thực hiện được cũng phải trải qua ý thức của
con người tức là sự thực hiện pháp luật chính là quá trình đưa quy phạm vào
ý thức pháp luật của các cá nhân [19;2]. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật
và pháp luật được thể hiện trong sự tác động qua lại giữa chúng theo các
chiều hướng khác nhau trong quá trình pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội.
Vai trò của thức pháp luật đối với pháp luật được thể hiện trong hoạt
động xây dựng pháp luật, trong thực hiện pháp luật, đặc biệt là trong áp
dụng pháp luật. Ý thức pháp luật có ở tất cả các giai đoạn của cơ chế điều

23
chỉnh pháp luật. Hiệu lực và hiệu quả của toàn bộ cơ chế điều chỉnh pháp
luật phụ thuộc nhiều vào mức độ chín muồi của ý thức pháp luật các cá nhân
trong xã hội. Ý thức pháp luật có vai trò to lớn trong việc hình thành và phát
triển nhân cách của con người trong lĩnh vực đạo đức và pháp luật.
Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật với pháp luật được thể hiện trên
các phương diện của đời sống - thực tiễn pháp luật: trong xây dựng pháp
luật, thực hiện - áp dụng pháp luật và cả trong lĩnh vực ý thức pháp luật, văn
hoá pháp lý.
Trong thực tiễn, không thể tách bạch một cách độc lập, không thể coi
cái nào, ý thức pháp luật hay pháp luật mang tính thứ nhất, thứ hai. Nếu xét
về nguồn gốc ban đầu thì tồn tại xã hội là cái có trước, quyết định ý thức .
Còn trong quá trình vận động, chúng thẩm thấu trong nhau, là tiền đề, điều
kiện và sản phẩm của nhau. Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng cho hoạt
động xây dựng pháp luật. Đến lượt mình, pháp luật lại là cơ sở cho ý thức
pháp luật tác động đến ý thức cá nhân, hướng họ xử sự phù hợp với các quy
định hoặc các nguyên tắc của pháp luật. Pháp luật tác động theo chiều hướng
nào, tích cực hay tiêu cực, điều đó lại tuỳ thuộc vào chất lượng pháp luật và
các yếu tố khác.
Mối quan hệ giữa pháp luật và ý thức pháp luật tựu chung lại được
thể hiện ở sự tác động qua lại giữa chúng cả theo chiều hướng tích cực, tiêu
cực tuỳ thuộc vào tính đúng đắn của pháp luật, của ý thức pháp luật và tuỳ
thuộc vào những yếu tố chủ quan, khách quan khác. Dưới đây là sự tác động
qua lại của pháp luật và ý thức pháp luật:
1.2.1.1. Tác động của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng
pháp luật:
Ý thức pháp luật là tiền đề trực tiếp cho hoạt động xây dựng pháp
luật. Ý thức pháp luật cho phép đánh giá đúng đắn yêu cầu điều chỉnh bằng
pháp luật đối với các quan hệ xã hội mà cuộc sống đặt ra. Ý thức pháp luật
cao cũng đảm bảo cho hoạt động, xây dựng và ban hành các văn bản qui

24
phạm pháp luật được tốt. Ví dụ, nếu có ý thức pháp luật phù hợp, đúng đắn
(bao gồm cả tư tưởng, quan điểm cả tâm lý pháp luật) về vấn đề phụ nữ thì
sẽ là tiền đề thuận lợi cho việc xây dựng, ban hành Luật bình đẳng giới.
Ý thức pháp luật cao có nghĩa là sự hiểu biết về pháp luật và các hiện
tượng pháp lý càng sâu, rộng. Điều này giúp cho các nhà làm luật của các cơ
quan có thẩm quyền làm luật ban hành những văn bản qui phạm pháp luật,
có chất lượng, tránh được sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau giữa các văn bản,
bảo đảm được tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Các quy tắc xử sự trước khi được ghi nhận thông qua dưới dạng văn
bản đã tồn tại trong ý thức pháp luật của chủ thể dưới dạng các mô hình
được trừu tượng hoá một cách khoa học. Ý thức pháp luật là nhân tố chủ
quan có ý nghĩa quyết định đối với nội dung của các văn bản quy phạm pháp
luật. Pháp luật tiến bộ ghi nhận và phản ánh trung thành các tư tưởng dân
chủ, nhân đạo, công bằng. Sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ xuất phát
từ vai trò trên của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật cần
thiết phải hoàn thiện hệ tư tưởng pháp luật với tính cách là bộ phận lý luận
khoa học của ý thức pháp luật mà ở đó phản ánh các lợi ích nhu cầu xã hội
và chuyển hoá chúng thành các chế định và quy phạm pháp luật trước hết
điều đó liên quan tới sự nâng cao trình độ pháp luật nghề nghiệp của các cán
bộ cơ quan đó thẩm quyền xây dựng pháp luật, đồng thời công tác xây dựng
pháp luật cũng đòi hỏi phải nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân
dân lao động vì trong quá trình phát triển và mở rộng dân chủ nhân dân lao
động ngày càng tham gia rộng rãi hơn vào quá trình xây dựng pháp luật.
Chất lượng của các văn bản pháp luật phụ thuộc rất lớn vào ý thức
pháp luật trước hết là của những nhà làm luật, của những người tham gia
vào hoạt động này. Trong xây dựng pháp luật, ý thức pháp luật của người
dân có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vì họ là những người được tham gia góp ý
kiến xây dựng pháp luật, nếu ý thức pháp luật tốt họ sẽ có những đóng góp ý

25
kiến đúng đắn, có chất lượng hoặc ngược lại... nếu ý thức pháp luật của họ
thấp, sai lệch... việc góp ý kiến của họ sẽ giảm chất lượng.[2;23]
Thực tế cho thấy, nếu ý thức pháp luật của các nhà làm luật - những
người trực tiếp soạn thảo ban hành pháp luật đúng đắn thì họ sẽ cho ra đời
những văn bản pháp luật có chất lượng, phù hợp cuộc sống. Trong trường
hợp ngược lại - sẽ cho ra đời văn bản pháp luật thiếu khách quan, không phù
hợp cuộc sống, không khả thi sẽ kìm hãm sự phát triển xã hội và làm giảm
lòng tin của nhân dân vào hoạt động quản lý của nhà nước (thí dụ như vấn
đề quản lý bán hàng rong, quản lý xe ba bánh tự chế...). Những năm gần
đây, do ý thức pháp luật của các nhà làm luật được nâng cao (thể hiện ở
trình độ lý luận, tư duy pháp lý và tình cảm thái độ của họ về pháp luật) nên
nhìn chung đã cho ra đời những văn bản pháp luật có chất lượng, đáp ứng
được yêu cầu của cuộc sống tiêu biểu như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự
mới 1999, Luật doanh nghiệp...
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quy định pháp luật bất cập, lạc hậu, chưa
phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của các quan hệ xã hội. Như trong
lĩnh vực kinh doanh, pháp luật về cạnh tranh còn thiếu, pháp luật về giáo
dục, đào tạo còn nhiều bất cập, thường xuyên thay đổi... thậm chí có những
đạo luật vừa ban hành đã bộc lộ nhiều bất cập như Luật Phá sản doanh
nghiệp; có khi rơi vào tình trạng vừa thừa, vừa thiếu pháp luật... hoặc luật
khó hiểu, cách hiểu không thống nhất, hoặc quy định quá chung chung...
1.2.1.2. Tác động của ý thức pháp luật đối với hoạt động thực hiện
pháp luật
“Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích nhằm
làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành
vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [27;1]. Có bốn hình thức thực
hiện pháp luật: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật,
áp dụng pháp luật. Về bản chất của mỗi hình thức thực hiện pháp luật này đã
được các nhà khoa học thừa nhận chung như sau.[14;53]

26
- Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
ngăn cấm. Những quy phạm pháp luật cấm trong luật hình sự, hành chính
được thực hiện dưới hình thức này.
- Chấp hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
các chủ thể pháp luật thực hiện nghiã vụ pháp lý của mình bằng hành động
tích cực. Những quy phạm pháp luật bắt buộc (những quy phạm quy định
nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi tích cực nhất định) được thực hiện ở
hình thức này.
- Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành
vi mà pháp luật cho phép). Hình thức sử dụng pháp luật khác với hình thức
chấp hành pháp luật ở chỗ chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không
thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị
bắt buộc phải thực hiện.
- Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà
nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho
các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình
căn cứ vào các quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trường
hợp này, các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự
can thiệp của Nhà nước.
Có nhiều yếu tố khác nhau tác động đến quá trình thực hiện pháp
luật, song ý thức pháp luật là nhân tố quan trọng. Các văn bản quy phạm
pháp luật sau khi được ban hành mà không được thực thi hoặc thực thi
không có hiệu lực, hiệu quả, hoặc có được thực hiện nhưng hiệu lực, hiệu
quả không cao thì những văn bản quy phạm pháp luật sẽ chỉ là giấy tờ,
không thể đi vào thực tế cuộc sống. Hoạt động thực thi pháp luật là do các

27
cơ quan quản lý nhà nước, các bộ, ngành, địa phương thực hiện mà trực tiếp
là do các cán bộ, công chức thực thi.
Do vậy, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ không thể có hiệu lực, hiệu
quả nếu như trình độ hiểu biết, nhận thức về pháp luật cũng như thái độ đối
với pháp luật, thái độ chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức không cao,
không đáp ứng với những đòi hỏi cấp thiết đặt ra từ thực tiễn. Ở mỗi vị trí
công tác của mình trong hoạt động thực thi pháp luật, cán bộ, công chức cần
có những nhận thức đúng đắn, đầy đủ, có thái độ tôn trọng pháp luật,
nghiêm túc chấp hành những quy định của pháp luật thì hoạt động thực thi
pháp luật mới có hiệu lực, hiệu quả, làm giảm những chi phí tốn kém không
cần thiết cho xã hội, nâng cao niềm tin của quần chúng nhân dân đối với sự
nghiêm minh của pháp luật cũng như đối với hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước.
Việc thực hiện pháp luật phụ thuộc vào trình độ nhận thức pháp luật,
tâm lý, tình cảm pháp luật của con người. Các qui phạm pháp luật điều
chỉnh hành vi của các chủ thể pháp luật thông qua sự tác động vào ý thức
của họ đối với các cá nhân, hoạt động nhận thức các yêu cầu của qui phạm
pháp luật từ đó xác lập động cơ mục đích lựa chọn phương án xử sự bao giờ
cũng xảy ra trước khi họ thực hiện hành vi pháp luật. Vì vậy, ý thức pháp
luật của các chủ thể càng cao thì sự tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật,
chấp hành pháp luật của họ càng đúng đắn. Nếu người kinh doanh tôn trọng
pháp luật và có đạo đức nghề nghiệp họ sẽ chấp hành pháp luật, không làm
hàng giả, không xâm phạm lợi ích, uy tín của cơ sở kinh doanh khác. Và
ngược lại, họ sẽ làm hàng giả, hàng nhái, hàng độc hại cho sức khoẻ, trốn
thuế... Để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân thì các đạo
luật không chỉ có tính đúng đắn, phù hợp, khả thi mà công tác tuyên truyền
giáo dục pháp luật và các biện pháp cưỡng chế pháp lý cũng hết sức cần
thiết để tránh hình thành tâm lý luôn muốn chống đối pháp luật.

28
Ý thức pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động áp
dụng pháp luật:
Đội ngũ cán bộ, công chức có thể đánh giá là lực lượng có nhận thức
sâu về các quy định pháp luật trong lĩnh vực họ công tác. Họ là người đại
diện cho nhà nước thực hiện việc áp dụng các quy định của pháp luật vào
thực tiễn cuộc sống bằng các quyết định áp dụng pháp luật. Chất lượng, hiệu
quả, tính đúng đắn của các quyết định áp dụng pháp luật phụ thuộc rất nhiều
vào nhận thức pháp luật, tâm lý, tình cảm pháp lý, đạo đức của người cán bộ
áp dụng pháp luật. Ví dụ, để ra bản án đúng pháp luật thấu tình, đạt lý,
người thẩm phán cần có ý thức pháp luật, cụ thể là có kiến thức nghiệp vụ,
có quan điểm, thái độ tình cảm tôn trọng pháp luật, tình cảm đạo đức, cảm
thông với số phận của những đương sự, có trách nhiệm và lương tâm nghề
nghiệp. Trong thực tế, một số thẩm phán tuy có trình độ nghiệp vụ tốt, am
hiểu pháp luật nhưng nếu thiếu trách nhiệm hay đạo đức nghề nghiệp, họ
vẫn có thể ra những quyết định hay bản án oan sai, chưa thấu tình đạt lý.
Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước
là khâu quan trọng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, tạo điều kiện
thúc đẩy việc nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội, xây dựng củng cố các
mối quan hệ xã hội trên cơ sở pháp luật.
Để giải quyết tốt một vụ việc cá biệt cụ thể, đòi hỏi cơ quan có thẩm
quyền, nhà chức trách phải thu thập nhanh chóng và phân tích chính xác các
tình tiết của vụ việc nhằm xác định rõ đặc trưng pháp lý của vụ việc trên cơ
sở đó lựa chọn qui phạm pháp luật thích ứng để giải quyết vụ việc. Sau đó
cần phân tích, làm sáng tỏ nội dung tư tưởng của qui phạm pháp luật được
lựa chọn để hiểu được ý đồ của nhà làm luật. Tiếp đến là ra quyết định áp
dụng pháp luật hợp pháp, hợp lý, và cuối cùng là tổ chức thực hiện văn bản
đã ban hành.
Một trong những hoạt động chủ yếu của quản lý nhà nước là xây
dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật. Cán bộ, công

29
chức có thể trực tiếp ban hành hay tham gia, xây dựng, ban hành các quyết
định hành chính, các văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, nếu nhận thức,
hiểu biết của cán bộ, công chức tốt thì chất lượng của các văn bản pháp luật
sẽ tốt, đáp ứng được với những đòi hỏi của thực tế. Ngược lại, nếu trình độ
của công chức hành chính còn bất cập thì rất dễ dẫn đến tình trạng chất
lượng của các văn bản pháp luật chưa cao, chưa đáp ứng với yêu cầu của
thực tế. Ngoài ra, nếu trong trường hợp vì những động cơ xấu, vụ lợi, với
những suy nghĩ, ý muốn tiêu cực của mình, rất có thể họ sẽ góp phần cho ra
đời những quyết định sai trái, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến uy tín, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước.

1.2.2. Sự tác động của pháp luật đối với ý thức pháp luật
Sự tác động này cũng có thể diễn ra theo hai chiều hướng tích cực
hoặc tiêu cực, tuỳ thuộc vào chất lượng, tính chất của pháp luật và ý thức
pháp luật, tuỳ thuộc cả vào các yếu tố chủ quan và khách quan khác.
Khái niệm pháp luật ở đây sẽ được hiểu trên nghĩa rộng, bao quát toàn
bộ các hiện tượng cơ bản của đời sống pháp luật: cả văn bản pháp luật -
pháp luật trên giấy, cả hành vi thực hiện pháp luật của cá nhân, người dân,
cán bộ nhà nước, các tổ chức, cả các văn bản áp dụng pháp luật vào từng
trường hợp cụ thể.
Bản thân sự tồn tại của hệ thống pháp luật cũng tác động bằng cách
này cách khác tới ý thức của từng thành viên trong xã hội, phát triển và nâng
cao ý thức pháp luật của họ. Hệ thống pháp luật càng hoàn chỉnh thì càng
tạo điều kiện cho việc nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân. Ví dụ,
Luật giao thông đường bộ trên cơ sở thực tế xã hội đã tác động tốt về cơ bản
đến ý thức pháp luật của những người tham gia giao thông. Tuy vậy, cũng
còn một số quy định chưa thật sự hợp lý thì lại có tác động chưa tốt đến ý
thức chấp hành pháp luật của họ, ví như một số quy định về bắn tốc độ hay
chế tài chưa đủ độ răn đe vv..

30
Bản thân pháp luật không thể trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt sự tồn tại của các quan hệ xã hội bởi các quan hệ xã hội tồn tại một cách
khách quan. Pháp luật chỉ có thể gây ảnh hưởng đến ý thức của những người
tham gia các quan hệ xã hội vào trật tự và quy định cho họ những hành vi xử
sự xã hội. Những con người cụ thể tham gia vào hoạt động xã hội không
phải như những cái máy. Hoạt động của họ là hoạt động lý trí, có ý thức, do
đó, các qui tắc xử sự do pháp luật định ra có thể ảnh hưởng đến những người
tham gia vào các quan hệ xã hội. Các qui tắc xử sự đã làm chức năng điều
chỉnh hành vi của các chủ thể pháp luật.
Pháp luật chịu sự tác động của ý thức pháp luật nhưng ngược lại nó
cũng tác động tích cực đến việc hình thành, củng cố phát triển ý thức pháp
luật. Bản thân sự tồn tại của hệ thống pháp luật cũng tác động bằng cách này
cách khác tới ý thức của từng thành viên trong xã hội, phát triển và nâng cao
ý thức pháp luật của họ.
Trong pháp luật phản ánh những tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc
pháp lý tiên tiến của ý thức pháp luật xã hội, khi đó pháp luật đóng vai trò
như là phương tiện truyền bá ý thức pháp luật xã hội tới ý thức pháp luật cá
nhân, nâng cao ý thức pháp luật của cá nhân lên ngang tầm với ý thức pháp
luật tiên tiến trong xã hội. Pháp luật với những đặc trưng vốn có của nó, nhất
là tính bắt buộc chung là phương tiện rất có hiệu quả bởi vì một mặt những
tư tưởng quan điểm, nguyên tắc pháp lý tiên tiến khi đã trở thành yêu cầu
của luật, chúng sẽ được lan truyền rộng rãi. Mặt khác, những tư tưởng, quan
điểm, nguyên tắc trên phù hợp với lợi ích nhu cầu của đại đa số nhân dân,
thấm nhuần lý tưởng nhân đạo, tự do, công bằng, bác ái nên chúng được xã
hội tiếp nhận một cách tự giác, đồng thời cũng có vai trò của khả năng áp
dụng cưỡng chế nhà nước trước hết vẫn là giáo dục nâng cao ý thức pháp
luật trong nhân dân.
Pháp luật không chỉ là tổng thể các qui phạm mà là tất cả các yếu tố
hợp thành của thượng tầng kiến trúc pháp lý (qui phạm pháp luật, quan hệ

31
pháp luật, thực hiện pháp luật, pháp chế, trật tự pháp luật), đều tác động tích
cực tới sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Trong toàn bộ sự tác
động này, vai trò của các cơ quan bảo vệ, áp dụng pháp luật là rất quan
trọng. Hoạt động xét xử chẳng hạn, có tác động, vai trò to lớn đối với ý thức
pháp luật của người dân và những chủ thể có liên quan đến các vụ án mà toà
án giải quyết. Nếu một bản án thấu tình đạt lý thì có tác động tích cực và
ngược lại, bản án sai, tình trạng oan sai kéo dài… chắc chắn sẽ gây những
tác động tiêu cực đến tâm lý, ý thức pháp luật như sự coi thường pháp luật,
mất niềm tin vào công lý, thờ ơ, bực dọc, bất mãn vv… Hoạt động của các
cơ quan nhà nước có tác động trực tiếp đến việc hình thành, phát triển các
quan niệm, tình cảm pháp luật đúng đắn, khẳng định trong ý thức công dân,
tính tất yếu và bất di bất dịch của những quyền, nghĩa vụ và tự do. Tình
trạng vi phạm quyền của người dân, không xử lý nghiêm minh các hành vi
vi phạm pháp luật cũng tác động tiêu cực đến ý thức pháp luật đúng đắn của
các cá nhân.
Các quyết định áp dụng pháp luật đúng đắn, bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp có tác động tích cực đối với việc củng cố, nâng cao ý thức
pháp luật cho cá nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho những hành vi hợp pháp.
Nếu các quyết định áp dụng pháp luật không hợp pháp và hợp đạo đức, sẽ
có tác động tiêu cực tới ý thức pháp luật của các cá nhân, có thể làm giảm
niềm tin vào công lý, gây hoang mang dao động, tạo tâm lý coi thường pháp
luật vv..
Bản thân sự mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản pháp luật như
hiện nay cũng có tác động tiêu cực đến ý thức và hành vi tôn trọng, chấp
hành pháp luật của các cá nhân.
Tính minh bạch, công khai của pháp luật, thông tin pháp luật kịp thời,
công tác giáo dục pháp luật có chất lượng… đều là những yếu tố tích cực tác
động đến việc hình thành, nuôi dưỡng ý thức tôn trọng và chấp hành pháp
luật của các cá nhân. Xây dựng nhà nước pháp quyền sẽ là một trong những

32
điều kiện tiên quyết để hình thành và nâng cao ý thức pháp luật đúng đắn
của cá nhân, tổ chức. Tất nhiên, ngoài ra còn cần đến các yếu tố khác như
đời sống kinh tế, việc làm, lao động, giáo dục đạo đức, áp dụng công nghệ,
kỹ thuật tiên tiến vv…
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện sẽ tác động mạnh mẽ đến việc hình
thành, nâng cao ý thức pháp luật cho các chủ thể pháp luật. Ví dụ, sau khi
Luật doanh nghiệp năm 2000 ra đời, đã có tác động tích cực đến ý thức pháp
luật của mọi người, đặc biệt là đối với những nhà kinh doanh. Hệ thống pháp
luật càng hoàn thiện thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao ý thức
pháp luật trong nhân dân. Trong pháp luật phản ánh những tư tưởng, quan
điểm tiến bộ của ý thức pháp luật, khi đó pháp luật có vai trò là phương tiện
truyền bá ý thức pháp luật tới ý thức pháp luật cá nhân, qua đó mà nâng cao ý
thức pháp luật của họ.
Sự tác động của văn bản pháp luật đến ý thức pháp luật của con người
có thể theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực, phụ thuộc vào chất lượng,
tính đúng đắn, tính phù hợp của văn bản pháp luật đó. Các quyết định áp dụng
pháp luật (như các quyết định hành chính hay các bản án của toà) cũng có tác
động đối với ý thức pháp luật: quyết định đúng đắn sẽ củng cố, bồi dưỡng
nâng cao ý thức pháp luật cho cá nhân, và ngược lại nó sẽ có tác động tiêu
cực tới ý thức pháp luật của các cá nhân làm giảm, thậm chí mất niềm tin vào
công lý, gây hoang mang dao động, tạo tâm lý coi thường pháp luật...
Việc nắm vững mối quan hệ giữa pháp luật và ý thức pháp luật có tầm
quan trọng đặc biệt trong thực tiễn. Muốn hoàn thiện pháp luật và nâng cao
chất lượng, hiệu quả thực hiện pháp luật phải chăm lo đến việc xây dựng ý
thức pháp luật đúng đắn cho các chủ thể pháp luật. Đồng thời để xây dựng ý
thức pháp luật đúng đắn thì cũng phải hoàn thiện pháp luật cả về nội dung
và hình thức, cả luật trên giấy và áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

33
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG Ý THỨC PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 THỰC TRẠNG Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA CÁ NHÂN


2.1.1. Cách tiếp cận vấn đề:
Đánh giá thực trạng ý thức pháp luật thực sự là đề tài rộng lớn, phức
tạp. Trên mức độ một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ có thể bước đầu phân tích
một số vấn đề cơ bản trên cơ sở tham khảo lý luận và thực tiễn.
Đánh giá thực trạng ý thức pháp luật của các cá nhân cần được thực
hiện trên cơ sở phân tích các tiêu chí cơ bản như sự nhận thức, hiểu biết về
pháp luật; thái độ đối với pháp luật và hành vi thực hiện pháp luật trên thực
tế và cả bản thân hoạt động xây dựng pháp luật, các văn bản pháp luật. Bởi
vì, xét về bản chất, pháp luật – các văn bản pháp luật chính là sự vật chất
hoá ý thức pháp luật, một trong những sản phẩm của ý thức pháp luật.
Do vậy, đánh giá thực trạng ý thức pháp luật cả trên phương diện hoạt
động xây dựng pháp luật, các sản phẩm của hoạt động này, cả trong hoạt
động tổ chức thực hiện pháp luật và trong tâm lý pháp luật của cá nhân:
nhận thức, hiểu biết pháp luật, thái độ, tình cảm và hành vi pháp luật của họ
trong cuộc sống.
Phạm vi thể hiện của ý thức pháp luật rất rộng lớn nên tác giả chỉ giới
hạn trong một số lĩnh vực quan hệ xã hội đang có tính bức xúc hiện nay như
về giao thông, các quan hệ xã hội có liên quan đến đời sống của phụ nữ, trẻ
em, đạo đức cán bộ, công chức.

34
Đánh giá những ưu điểm, hạn chế, yếu kém của ý thức pháp luật trên
các lĩnh vực thể hiện nêu trên và nêu những nguyên nhân của tình trạng đó.
Có như vậy chúng ta mới có thể có cơ sở đề xuất những kiến nghị, giải pháp
phù hợp, thiết thực nhằm xây dựng, nâng cao ý thức pháp luật đúng đắn của
các chủ thể pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, hội
nhập ở nước ta hiện nay.
2.1.2 Những biểu hiện tích cực trong ý thức pháp luật của các cá
nhân trong thời kỳ đổi mới đất nƣớc
Công cuộc đổi mới toàn diện các lĩnh vực hoạt động xã hội của đất
nước đã thực sự đem đến cho đời sống pháp luật trong đó có ý thức pháp
luật những tín hiệu khả quan, tích cực. So với thời kỳ bao cấp truớc đây,
diện mạo đời sống ý thức pháp luật ở nước ta đã có nhiều yếu tố tích cực
theo các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Điều này được đánh giá cả
trên phương diện ý thức pháp luật của cá nhân, của các nhóm xã hội, cả
trong xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật.
Về phương diện tâm lý pháp luật, thay vì thờ ơ, thậm chí có cả sự coi
thường, bất chấp pháp luật, các cá nhân đã có ý thức pháp luật một cách tích
cực hơn, từ sự quan tâm, tìm hiểu, sử dụng và chấp hành pháp luật. Ý thức
pháp luật của cá nhân phản ánh những tư tưởng, quan điểm, tâm lý, tình cảm
thái độ của mỗi người về pháp luật và đối với pháp luật, từ đó thể hiện bằng
hành vi ứng xử cụ thể theo các chuẩn mực được pháp luật quy định.
Ý thức pháp luật của người dân được hình thành và phát triển do sự
tác động của các yếu tố xã hội như điều kiện kinh tế, hoàn cảnh riêng của
từng người như môi trường sống, lao động, sức khoẻ, trình độ học vấn. Sự
hình thành ý thức pháp luật trước hết xuất phát từ ý thức của mỗi cá nhân, từ
thái độ và khả năng nhận thức về pháp luật của họ. Trong công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, nước ta từ một nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường.
Với nhiều thành phần kinh tế đòi hỏi sự bình đẳng trong cạnh tranh, phát

35
triển phải có một nhà nước pháp quyền mới đáp ứng được các đòi hỏi khách
quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu công bằng, dân
chủ, văn minh.
Trình độ ý thức pháp luật của người dân đã được nâng cao đáng kể
trong một số lĩnh vực và một số địa phương. Biểu hiện rõ nhất là ý thức về
quyền, nghĩa vụ cá nhân trong việc đóng thuế, đăng ký hộ tịch, chấp hành
luật giao thông, trong giao dịch thương mại, dân sự.
Về phương diện xây dựng pháp luật nơi thể hiện rất rõ ý thức pháp
luật của các chủ thể - các nhà làm luật và các cá nhân - đối tượng sẽ phải
thực hiện các văn bản pháp luật. Dân chủ từng bước được thể hiện trong
hoạt động xây dựng pháp luật, qua việc công khai từ ngay quá tình soạn
thảo, sự góp ý kiến của người dân đã ngày càng tích cực và thiết thực hơn.
Dân chủ hoá đời sống xã hội từng bước được mở rộng, không những tạo
điều kiện để nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nước mà còn
được thể hiện ngay trong hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Cách thức làm luật, kỹ thuật pháp lý và nội dung các văn bản pháp
luật đã được hoàn thiện rõ nét so với thời kỳ quản lý tập trung bao cấp. Nội
dung các văn bản pháp luật đã thể hiện nhiều hơn các quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể pháp luật và cả phần nào cơ chế thực thi pháp luật .
Về cơ bản đã tạo dựng được khung pháp lí phục vụ cho sự phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thay
đổi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, mệnh lệnh hành chính trước
đây, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới đất nước. Tạo hành
lang pháp lý cho việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
xác định chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các
doanh nghiệp, thương gia, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do hợp
đồng, các cơ chế khuyến khích và bảo đảm đầu tư; Cơ bản xoá bỏ chế độ
Nhà nước độc quyền về ngoại thương; Giảm dần sự can thiệp của cơ
quan Nhà nước bằng các biện pháp hành chính và các quan hệ dân sự,

36
kinh tế, thương mại nói chung và các hoạt động của các doanh nghiệp
nói riêng.
Các văn bản pháp lý được ban hành thời gian qua đã tạo cơ sở
pháp lý cần thiết để từng bước thực hiện công bằng xã hội, phát huy và
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, phát triển khoa học, công nghệ và bảo
vệ môi trường. Cải cách tư pháp, tuy chưa đồng bộ như cải cách lập
pháp và cải cách hành chính nhưng đã có thành tựu quan trọng. Đã có
những điều chỉnh nhất định về tổ chức, bộ máy của toà án, việc kiểm sát,
các cơ quan điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp.
Thành lập thêm các Toà kinh tế, lao động, hành chính tại Toà án
nhân dân tối cao và các Toà án cấp tỉnh, bảo đảm việc xét xử được
chuyên môn hoá. Nguyên tắc độc lập của Toà án khi xét xử được quan
tâm củng cố thông qua việc tái lập chế độ bổ nhiệm thẩm phán thay chế
độ bầu; cải thiện đáng kể chế độ chính sách đãi ngộ đối với thẩm phán.
Hoạt động xét xử của Toà án có sự tham gia ngày càng nhiều của luật
sư, sự quan tâm của xã hội và ngày một công khai hơn. Do đó, việc giải
quyết các vụ án, vụ việc thận trọng hơn, chính xác hơn và khách quan
hơn.
Hoạt động bổ trợ tư pháp như luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp
pháp lý, công chứng... được triển khai mạnh mẽ và rộng khắp, nhằm
giúp đỡ công dân, doanh nghiệp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của họ, góp phần bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho các giao
dịch dân sự, kinh tế.
Tạo hành lang pháp lí cho việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, xây dựng chế độ sở hữu, địa vị kinh doanh cho các chủ thể kinh
doanh, quyền tự do hợp đồng, khuyến khích đầu tư, xoá bỏ cơ chế nhà nước
độc quyền về ngoại thương, giảm sự can thiệp của nhà nước bằng các biện

37
pháp hành chính vào các quan hệ kinh tế, dân sự và các hoạt động khác của
doanh nghiệp.
Nhìn một cách tổng thể ta thấy rằng tuy thời gian không dài nhưng
nước ta đã từng bước xây dựng được một hệ thống pháp luật mới, trên mọi
lĩnh vực đã khắc phục và thay thế được pháp luật của nền kinh tế tập trung
kế hoạch hóa, thể hiện nguyên tắc hiến định “Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Hoạt động phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật đã có nhiều thành tích
đáng khích lệ cả về quy mô, hình thức và phương pháp. Sự tham gia tích cực
của người dân vào quá trình xây dựng pháp luật những năm gần đây là bằng
chứng cho sự nâng cao ý thức pháp luật của họ.
Hoạt động bổ trợ tư pháp như luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp
lý, công chứng… được triển khai mạnh mẽ và rộng khắp, nhằm giúp đỡ
công dân, doanh nghiệp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
họ, góp phần bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch dân sự,
kinh tế.
Hoạt động thông tin, phổ biến giáo dục pháp luật có sự chuyển biến
mạnh mẽ. Các phương tiện thông tin đại chúng tham gia ngày càng tích cực
vào hoạt động này. Bước đầu hình thành các cơ sở dữ liệu pháp luật cho
hoạt động thông tin pháp luật, phổ biến pháp luật phục vụ hoạt động quản lý
Nhà nước và đáp ứng quyền được thông tin của công dân. Hệ thống thông
tin nội bộ, trong đó có thông tin pháp luật, của các cơ quan Nhà nước và cả
khu vực tư nhân phát triển đáng kể.
Một bước chuyển rõ nét trong nhận thức, thái độ và hành vi chấp hành
một trong những quy định về trật tự, an toàn giao thông đó là việc đội mũ
bảo hiểm khi tham gia giao thông.
Phải kể đến vai trò của Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc nâng cao YTPL cho người dân. Nhà nước có những công cụ hữu hiệu
để đưa pháp luật vào cuộc sống, đó là bộ máy tuyên truyền, giáo dục thuyết

38
phục và cưỡng chế thi hành. Việc tuyên truyền có dễ dàng, hiệu quả hay
không phụ thuộc phần lớn vào sự phù hợp của đạo luật đó với cuộc sống của
đại bộ phận người dân. Ví như việc tuyên truyền đội mũ bảo hiểm khi tham
gia giao thông bằng mô tô, xe gắn máy; quy định này trước hết xuất phát từ
tình trạng tai nạn giao thông diễn ra hết sức nghiêm trọng. Quy định bắt
buộc đội mũ bảo hiểm nhận được sự đồng thuận cao trong xã hội do đây là
quy định phù hợp, nó trước hết bảo vệ quyền lợi của chính người tham gia
giao thông, sau đó là lợi ích của cộng đồng xã hội.
Bản thân Nhà nước cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Nhà
nước không phải là khái niệm chung chung trìu tượng mà đó chính là những
con người cụ thể, cơ quan cụ thể cấu kết thành một hệ thống để quản lý xã
hội, thực thi quyền lực nhà nước và tạo cơ sở cho người dân bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Trở lại với dẫn chứng về việc quy định bắt buộc
đội mũ bảo hiểm, quy định này có hiệu lực vào ngày 15/12/2007 nhưng
trước đó thành phố Hà Nội đã có Chỉ thị bắt buộc đối với cán bộ công chức
của Thành phố đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng mô tô, xe gắn
máy từ ngày 15/9/2007 (trước 3 tháng). Có thể nói rằng, đây là biện pháp
tuyên truyền, giáo dục tốt nhất đối với người dân - đó là sự nêu gương về
chấp hành pháp luật của các cơ quan nhà nước.

2.1.3. Những biểu hiện hạn chế trong ý thức pháp luật
Trong nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, ý thức pháp luật của các cá
nhân - người dân, cán bộ nhà nước còn thấp kém cả trên phương diện nhận
thức, hiểu biết, thái độ và hành vi pháp luật. Biểu hiện của tình trạng yếu
kém này về ý thức pháp luật có rất nhiều, đơn cử như sự coi thường, thờ ơ,
sự chống đối, bất chấp pháp luật; sự lạng lách pháp luật, vi phạm pháp luật,
lợi dụng quy định pháp luật về thủ tục để thực hiện những hành vi vi phạm
đạo đức.

39
Tình trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, đôi khi là thuộc “Lỗi
Hệ thống “những yếu tố chủ quan của cá nhân vi phạm pháp luật hoặc do bất
cập từ chính quy định pháp luật, do điều kiện sống, môi trường sống, do sự
vi phạm của những người xung quanh nhưng không bị xử lý hoặc xử lý
không nghiêm, không công bằng vv… Do vậy cần có sự đánh giá khách
quan, công bằng, toàn diện về thực trạng yếu kém của ý thức pháp luật mới
có thể nhận diện đúng và đề xuất được những giải pháp hữu hiệu nhằm xây
dựng ý thức và lối sống tuân theo pháp luật trong toàn xã hội.
- Đi tìm nguyên nhân về nếp nghĩ, lối sống, thói quen, tập quán
Về phương diện đời sống kinh tế, quan niệm, nếp nghĩa, văn hoá,
phong tục, tập quán... có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém,
tiêu cực của ý thức pháp luật.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, người Việt cổ truyền không
có thói quen truyền thống sống theo pháp luật. Văn hoá nước ta là văn hoá
truyền thống, lúa nước, trọng nghĩa, trọng tình, xem nhẹ lý, nặng tình.
Người Việt bắt đầu thực sự tiếp xúc với pháp luật là vào thời kỳ của quyền
đất nước đã nằm trong tay chính quyền cai trị ngoại bang. Các chính quyền
đô hộ Hán tộc đã dùng pháp luật để duy trì ánh thống trị của họ áp đặt cho
người Việt lối sống và phong tục Hán với mục đích từng bước thủ tiêu
những giá trị văn hoá của người Việt tiến tới đồng hoá người Việt trước
những chế định quan phương mang tính chất áp bức và đồng hoá như vậy,
người Việt Nam đã phản kháng quyết liệt mà đỉnh cao là những cuộc khởi
nghĩa vũ trang diễn ra liên tục trong suốt thời kỳ bắc thuộc trong toàn bộ quá
trình đó là hình thành hai hệ thống chế định đối lập hệ thống chế định quan
phương của chính quyền đô hộ.

Do đó, người dân ta trong truyền thống không có thói quen sống theo
pháp luật mà sống theo lệ. Hơn nữa, Việt Nam chịu ảnh hưởng của quan
niệm Trung Quốc về pháp luật. Đối với người Trung Quốc cũng như người
Việt Nam trong lịch sử, pháp luật được quan niệm như là hình phạt. Về sau

40
này, tư tưởng về pháp luật được phát triển bởi Khổng Tử, Mặc Tử, Hàn Phi
Tử và được hiểu là khuôn mẫu của hành vi trong xã hội nhưng vẫn mang
tính chất là hình phạt. Do ảnh hưởng của người Trung Quốc, trong truyền
thống pháp luật được người dân ta quan niệm là hình phạt. Chính vì vậy
người dân có thái độ chống đối pháp luật, sợ pháp luật, không muốn sống
theo pháp luật.

Những yếu tố văn hoá nói trên của người Việt Nam đã tạo điều kiện
cho các chế định phi quan phương (vi phạm đạo đức, luật tục, phong tục, tập
quán, hương ước) chiếm ưu thế hơn so với các chế định quan phương, pháp
luật trong việc điều chỉnh xã hội. Người Việt Nam trong truyền thống không
có thói quen sử dụng công đường, “vô phúc đáo tụng đình”, cho rằng phải ra
toà dù thế nào đi chăng nữa cũng là xấu, mà chắc gì đã thắng.
Do tính chất cộng đồng của con người. Người Việt Nam hướng về tài
"nhân hoà". Người Việt Nam trong truyền thống thường giải quyết xung đột
và các tranh chấp theo lối "đóng cửa bảo nhau" hoặc "chín bỏ làm mười"
hoặc "dĩ hoà vi quý". Với ý thức cộng đồng của con người, bổn phận người
Việt Nam sống trọng tình hơn lý trong xã hội người Việt cổ truyền trật tự và
ổn định của làng xã được điều chỉnh bằng phong tục, tập quán, hương ước
của làng - những chế định phi quan phương này phù hợp với việc điều chỉnh
các quan hệ tình cảm mang tính cộng đồng của người Việt. Văn hoá nông
nghiệp cũng đẻ ra tính tuỳ tiện. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng, một
trong những bất cập của căn tính tiểu nông là "thói vô kỷ luật".

Theo chuẩn mực "tam cương, ngũ thường" của nho giáo, cá nhân phải
có nghĩa vụ phục tùng nhà nước, còn nhà nước lại có độc quyền đối với cá
nhân. Nho giáo không dạy dân kiện quan. Vì vậy, nền quân chủ nho giáo tồn
tại ở Việt Nam vào thế kỷ XV - XVIII đã tạo cho người dân tâm lý phụ
thuộc vào nhà nước, không dám đứng ngang bằng với nhà nước để kiện lại
những hành vi vi phạm pháp luật của các quan chức nhà nước.

41
Ngại khởi kiện cũng là một đặc trưng của tính cách con người trong
xã hội cổ truyền. Người dân vẫn chưa có thói quen xử lý tranh chấp bằng
con đường toà án, sợ việc ra toà. Tâm lý cam chịu, nhắm mắt cho qua nhiều
khi ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ở nước ta,
thường có trường hợp nhiều người tiêu dùng mua phải hàng giả, hàng không
đảm bảo chất lượng, nhưng người tiêu dùng không muốn khởi kiện bởi vì họ
quan niệm rằng "chờ được vạ thì má đã sưng" hoặc bị vi phạm bản quyền
nhưng người bị vi phạm vẫn không khởi kiện

Trong các cơ quan nhà nước, cũng có nhiều trường hợp vi phạm pháp
luật, đáng lẽ phải đưa ra toà án để giải quyết thì lại được giữ lại để giải
quyết nội bộ, vì người ta không muốn những điều tiếng cho đương sự khi vụ
việc được đưa ra xét xử trước vành móng ngựa. Còn về vấn đề hiệu quả toà
hành chính thì toà hành chính được lập ra để "dân kiện quan", nhưng toà
hành chính của nước ta vẫn còn nhàn rỗi. Nguyên nhân một phần vì người
Việt không có truyền thống kiện lại nhà nước và một phần vì người dân
chưa thực sự tin tưởng vào pháp luật.

Từ sự thờ ơ, coi thường hoặc bất chấp pháp luật dẫn đến hành vi coi
thường pháp luật và phạm pháp chỉ là một khoảng cách rất mong manh, mỗi
trường hợp vi phạm đều có những động cơ khác nhau. Tuy nhiên, một bộ
phận dân cư, nhất là khu vực nông thôn và miền núi, kiến thức pháp luật và
việc sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật còn biểu hiện thấp.
- Về sự hiểu biết pháp luật
Một trong những nguyên nhân của tình trạng ý thức pháp luật kém và
dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật đó là sự biết và hiểu pháp luật còn hạn
chế.
Theo một điều tra xã hội học về hộ gia đình và quyền sử dụng đất tại
Hà Nội do Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thực hiện, tình hình hiểu biết
pháp luật của người dân được thể hiện như sau: có 62,40% số người được

42
hỏi trả lời là có biết Bộ luật Dân sự, nhưng đại đa số chỉ biết chung chung.
Biểu số cho thấy tỷ lệ người biết qua nguồn báo chí, đài, TV cao nhất, chiếm
55,30%, thứ hai là đọc sách 22,6%, thứ ba là qua chuyện trò với người xung
quanh 15,00%. Còn về tình hình tranh chấp đất đai, qua ý kiến của bà con
được hỏi, có nhiều nguyên nhân như phổ biến là lợi ích cá nhân 70,8%, do
chính quyền xác định ranh giới không rõ ràng 33.80%; thiếu giấy tờ 32,7%;
do không hiểu biết pháp luật 32,30 %, do quy định pháp luật không rõ ràng
12,2% chính quyền cấp nhà và quyền sử dụng đất không công bằng 12,7%,
cán bộ địa chính kém khi xác định, lập bản đồ.., nhất là khu vực ngoại thành
Hà Nội. Về lựa chọn cách giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp đất đai, những
người được hỏi cho biết: chọn phương pháp thương lượng với nhau là
78,8%, phương pháp hoà giải có mặt người thứ 3 là 30 %, đề nghị chính
quyền can thiệp là 30%, kiện ra toà là 16,7%, bằng vũ lực là 1,7%...

Nhiều vấn đề nẩy sinh tiêu cực nhưng pháp luật cũng chưa hoặc quy
định không rõ ràng nên gây khó khăn cho việc xử lý trên thực tế. Hay tình
trạng cầm đồ ở thành phố Hà Nội, hiện nay các cửa hàng cầm đồ mọc ra san
sát mà không có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước, bởi
vì hiệu cầm đồ là nơi để tiêu thụ một cách thuận lợi đồ ăn cắp, chỉ cần mang
đồ vật đến cửa hàng cầm đồ là có tiền ngay mà không cần có giấy tờ gì
chứng nhận quyền sở hữu. Chính vì vậy, chuyện trộm cắp xẩy ra thường
xuyên cho nên muốn giám sát để hạn chế tình trạng này, nhà nước ta cần
phải có những quy định chặt chẽ để quản lý hình thức kinh doanh này. Cụ
thể là các cửa hàng cầm đồ này phải có mối quan hệ với nhau để phát hiện
ra thành phần nào liên tục đến cầm đồ thì chứng tỏ thành phần này là hành
nghề ăn cắp, từ đó giúp các cơ quan công an giữ gìn an ninh trật tự được tốt
hơn. Muốn làm được việc này thì khi cầm đồ cho khách hàng, nhân viên của
hiệu cầm đồ phải lưu lại giấy chứng minh nhân dân của khách hàng, sau đó
cơ quan công an cử người đến giám sát các cửa hàng cầm đồ và thu giấy tờ

43
khác hàng của các hiệu cầm đồ lại từ đó mới quản chế được tệ nạn trộm cắp
tài sản và tạo cho ngưòi dân có ý thức pháp luật hơn.

- Tình hình tội phạm liên quan đến trẻ em hiện nay

Đây cũng là một hiện tượng đáng báo động hiện nay bởi lẽ đã và
đang có sự gia tăng các tội phạm, vi phạm pháp luật do trẻ em gây ra, và các
hành vi xâm phạm các quyền trẻ em. Tất nhiên có nhiều nguyên nhân dẫn
đến thực trạng này nhưng trong đó có nguyên nhân về ý thức pháp luật trên
mọi phương diện biểu hiện của nó. Đến lượt mình, bản thân ý thức pháp luật
yếu kém ở đây lại bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân xã hội khác.

Sở dĩ thanh, thiếu niên có hành vi sai lệch và vi phạm pháp luật là do


các nguyên nhân chủ yêú như sau: Công tác phòng, ngừa vi phạm pháp luật
chưa được chú trọng. Việc quản lý của các ngành chức năng đối với hoạt
động kinh doanh giải trí ở các quán bar, vũ trường, quán Karaoke, của hàng
Internet, nhà hàng, khách sạn... thiếu chặt chẽ, đã tạo cho các cơ sở này trở
thành nơi tụ tập, sinh hoạt của một số thanh, thiếu nhi có tiền, của những
học sinh hư, trốn học... trẻ vị thành niên lại là lứa tuổi đang có sự thay đổi
mạnh mẽ về tâm sinh lý, muốn khẳng định mình, không muốn phụ thuộc và
dễ bị tác động, rủ rê, lôi kéo của các đối tượng xấu. Nhiều em bị ảnh hưởng
tâm lý từ các loại phim, ảnh bạo lực, văn hóa phẩm đồi trụy... trên mạng
Internet và ngoài xã hội. Trong khi đó, nhiều bậc phụ huynh không chú ý
đến sự phát triển tâm sinh lý của con cái, nuông chiều con cái, không
nghiêm khắc trong việc dạy bảo con em mình mà mải lo công việc, tranh thủ
kiếm tiền. Một số trẻ em phải sống trong hoàn cảnh mồ côi bố hoặc mẹ, cha
mẹ bất hòa, ly thân, ly hôn... dẫn đến sự thiếu hụt về mặt tình cảm, sự phát
triển lệch lạc. hơn nữa do thiếu sự chỉ bảo, quan tâm của gia đình nên số
thanh, thiếu niên này dễ bị kẻ xấu lợi dụng và lôi kéo vào con đuờng phạm
tội. Theo thống kê của ủy ban dân số, gia đình và trẻ em, 38.8% vị thành
niên vi phạm pháp luật xuất thân từ những gia đình có cha mẹ làm nghề

44
buôn bán; trong đó số trẻ em được trực tiếp phỏng vấn có 52,4% là đang
sống với cha mẹ, được cha mẹ nuôi dưỡng. Số còn lại là sống trong hoàn
cảnh gia đình không bình thường: 12% chỉ sống với mẹ, 4% chỉ sống với bố,
3,1% sống với mẹ kế, 9,03%sống với người khác. Trong số vị thành niên vi
phạm luật có tới 17% là những trẻ lang thang, vô cư, 71,37% số trẻ thành
niên vi phạm pháp luật trả lời không nhận được sự quan tâm, chăm sóc đầy
đủ của cha mẹ và gia đình. [31;1] Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa gia đình -
nhà trường - xã hội của nhiều nơi còn bị buông lỏng, thiếu thông tin đồng
bộ, thiếu biện pháp ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm pháp của các em
ngay từ ban đầu. Vấn đề giáo dục pháp luật, đạo đức công nhân chưa được
chú trọng đúng mức, đặc biệt là việc trang bị những kiến thức về kỹ năng
sống cho học sinh chưa được đầy đủ. Ngoài ra, viêc tổ chức tuyên truyền,
phổ biến pháp luật ở các địa phương, đơn vị còn chậm và chưa phát huy
được vai trò của quần chúng nhân dân tham gia phòng, chống tội phạm.
Việc thực hiện Nghị quyết 09/CP về chương trình quốc gia phòng, chống tội
phạm lồng ghép với các chương trình phát triển kinh tế, xã hội, tuyên truyền
giáo dục cộng đồng chưa được chặt chẽ. Nhiều cấp ủy, chính quyền thiếu
quan tâm đến công tác phòng, chống tội phạm ở lứa tuổi này, có nơi còn tư
tưởng coi nhiệm vụ phòng chống tội phạm là của cơ quan công an.

Xét về cơ cấu tội phạm thì thấy rằng người chưa thành niên phạm vào
hầu hết các tội danh được qui định trong BLHS ,nhưng chủ yếu tập trung
vào nhóm tội xâm phạm tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Với các tội
danh này người chưa thành niên thường giữ vai trò chủ động. Nhìn vào thực
trạng phạm tội của người chưa thành niên thời gian qua cho thấy tình trạng
sử dụng bạo lực trong người chưa thành niên phạm tội phát triển khá mạnh,
những hành vi cố ý gây thương tích, cướp, hiếp dâm... ngày càng phổ biến.

Tình hình trẻ em phạm pháp có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu do
những nguyên nhân sau đây:

45
Do tác động xấu từ đời sống gia đình:
Hoàn cảnh gia đình, sự giáo dục của gia đình có ảnh hưởng rất lớn
đến việc phát triển hành vi phạm pháp, qua phân tích cho thấy số trẻ em
phạm pháp là do không được gia đình quản lý đúng mức, do bị gia đình
chửi mắng đánh đập, gia đình có người làm ăn phi pháp, bố mẹ ly hôn và
được nuông chiều quá mức... Những việc làm hành vi lối sống của bố mẹ
đã để lại trong tâm lý trẻ một ấn tượng xấu, gây ảnh hưởng đến tư tưởng và
hành vi của chúng, dẫn đến việc chán chường và đi vào con đường phạm
tội. Đối với tình trạng xâm hại quyền trẻ em, nguyên nhân chủ yếu là do
tác động mặt trái của cơ chế thị trường, sự xuống cấp đạo đức của một bộ
phận xấu trọng xã hội và sự thiếu hiểu biết pháp luật nói chung và pháp
luật về trẻ em nói riêng.
Báo cáo sơ bộ của Viện KSND thành phố Hồ Chí Minh cho thấy,
trong năm 2008 riêng tại thành phố này có 18 học sinh bị khởi tố bởi các tội
danh nghiêm trọng như giết người, hiếp dâm, phá hoại tài sản nhà nước…
Còn theo số liệu thống kê của Viện KSND Tối cao cho thấy 71% trẻ vị
thành niên phạm pháp là do không được quan tâm chăm sóc đúng mức. Một
nghiên cứu của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị
thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 49%
phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ. Theo số liệu điều tra 2.209 học viên các
trường giáo dưỡng, có tới 49,81% trong số này sống trong cảnh bị đối xử hà
khắc, thô bạo, độc ác của bố mẹ. Số em bị bố đánh chiếm 23% (gấp 6 lần
mẹ đánh); bị dì ghẻ, bố dượng đánh chiếm 20,3%. [31;1]
Môi trường gia đình ảnh hưởng nhiều tới thái độ ứng xử, hành vi của
các em. Số liệu điều tra trên 200 học sinh Thành phố Hồ Chí Minh của
nhóm đề tài Viện Nghiên cứu Phát triển cho thấy sự thiếu trách nhiệm của
cha mẹ, ít quan tâm đến con cái, quá chú trọng vào việc kiếm tiền, thiếu
quan tâm, hoàn cảnh gia đình phức tạp ảnh hưởng nhiều đến tâm lý trẻ em,
gây cho các em chứng trầm cảm, cộc cằn, hung dữ, là nguy cơ dẫn đến bạo

46
lực. Theo điều tra, nhóm cha mẹ thường xuyên đánh lộn, cãi nhau chiếm
33,4%; cha mẹ hàng ngày uống rượu chiếm 9,1%; cha mẹ li thân, li dị hoặc
đã chết chiếm 11,1%; cha mẹ thường xuyên đi xa, ít quan tâm đến con
chiếm 9,6%. [32;1] Đây là những nguy cơ ảnh hưởng đến tinh thần trẻ tổn
thương, tâm trạng bực bội, khó chịu, dễ có hành động gây hấn, hung dữ
hoặc có hành vi bạo lực không kiểm soát được.
Sự giáo dục trong nhà còn buông lỏng, hình thức, chưa sát thực và
hiệu quả. Nhà trường mới chỉ cung cấp trí thức qua sách vở, còn việc quản
lý học sinh và tổ chức các hình thức sinh hoạt ngoại khoá thì còn thiếu,
thêm nữa là tình trạng quá tải về giờ học, tạo tâm lý chán nản, thêm nữa
các loại chi phí cho học tập quá cao, vượt khả năng của nhiều gia đình
nghèo đông con, nên nhiều em buộc phải bỏ học dẫn đến tình trạng hư
hỏng, mắc vào các tệ nạn và phạm tội.
Do thiếu sự quản lý, giáo dục của các cơ quan, tổ chức xã hội. Gần
đây nhiều cơ sở tổ chức hoạt động của Đoàn, Đội không được duy trì, thiếu
sự phối hợp chăm sóc, giáo dục của chính quyền cơ sở, nhà trường, các
đoàn thể và gia đình, trong số các em phạm pháp chủ yếu do không sinh
hoạt Đoàn, Đội.
Do đời sống kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn trong nhiều gia đình
dẫn đến việc bỏ học, đi lang thang kiếm sống, sinh ra trộm cắp, cướp giật,
coi đồng tiền là trên hết, bất chấp luân thường đạo lý.
Do ảnh hưởng của văn hoá phẩm xấu, do tác động của các tệ nạn xã
hội, những sách báo, phim ảnh, truyện có nội dung đồi truỵ, kích động bạo
lực, nội dung tư tưởng xấu... Những tệ nạn xã hội như nghiện ma tuý đã
hàng ngày, hàng giờ làm nảy sinh tư tưởng và hành động phạm tội của trẻ
em.
Về phía pháp luật, còn thiếu sự đồng bộ và nhất là cơ chế đảm bảo tổ
chức thực thi còn kém, lúng túng trên thực tế. Pháp luật về Bảo vệ chăm
sóc giáo dục trẻ em chưa đồng bộ, các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa làm

47
tốt vai trò của mình trong việc đấu tranh phòng ngừa người chưa thành niên
phạm tội, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, các chính sách,
văn bản pháp luật của Nhà nước còn nhiều điều bất cập chưa đồng bộ, hệ
thống cơ quan chuyên trách theo dõi và phòng ngừa trẻ em phạm pháp
chưa thống nhất, cán bộ làm công tác liên quan đến quyền trẻ em còn rất
hạn chế.
Pháp luật hôn nhân và gia đình là công cụ để bảo vệ lợi ích hợp pháp
của trẻ. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật liên quan đến trẻ em vẫn
diễn ra ở nhiều nơi. Tình trạng li hôn gia tăng trong thời gian qua ngày càng
cao làm thay đổi môi trường gia đình. Trong sự kiện li hôn quyền và lợi ích
của trẻ em bị ảnh hưởng nhất, môi trường gia đình xáo trộn ảnh hưởng tới
tâm sinh lý các em. Mặc dù luật Hôn nhân và gia đình qui định bên nào nuôi
con cũng không được cản trở phía bên kia chăm sóc nuôi dưỡng, nhưng thực
tế sau sự kiện li hôn trẻ em luôn bị tách khởi sự chăm sóc thường xuyên của
cha mẹ. Chưa kể trường hợp sau li hôn đứa trẻ bị ném ra lề đường. Chính vì
vậy, phần lớn trẻ em trong gia đinh có cha mẹ li hôn bị chịu thiệt thòi,
thường bị xốc về tâm sinh lý, ảnh hưởng đến nhân cách trẻ, nhiều trẻ rơi vào
trạng thái uất, nổi loạn.
Tình trạng tảo hôn cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác
bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Do ảnh hưởng của phong tục tập quán
lạc hậu, do thiếu hiểu biết về pháp luật cũng nhu tác động của các yếu tố
kinh tế, xã hội, tình trạng tảo hôn còn có những diễn biến phức tạp. Xuất
phát từ kết hôn trước tuổi nên tình trạng sinh con ra không làm giấy khai
sinh do bố mẹ sợ bị phạt... Do chậm trễ làm giấy khai sinh nên nhiều trường
hợp quyền lợi của trẻ em bị ảnh hưởng. Ngoài ra, pháp luật về Hôn nhân và
gia đình còn đề cập đến một vấn đề khác xâm phạm đến quyền, lợi ích của
trẻ em là bạo lực gia đình. Nhiều bậc cha mẹ coi con cái là tài sản sở hữu của
cha mẹ nên thường xuyên sử dụng quyền uy đánh đập, chửi mắng con cái.
Nhiều bậc cha mẹ coi đây là phương pháp giáo dục con. Mặc khác, do áp lực

48
gia đình, đời sống kinh tế, một số gia đình coi nhẹ tình mẫu tử đã bán con
lấy tiền mà không cần biết tương lai của con. Với những gia đình rơi vào
tình trạng trên trẻ em không tim thấy sự yên ổn, tình yêu thương của gia đình
và cha mẹ, niềm tin vào gia đình bị phá vỡ. Hậu quả là nhiều trẻ em bỏ học
đi lang thang rồi sa vào tệ nạn xã hội. Như vậy các em đã trở thành nạn nhân
trong chính gia đình mình, mà lẽ ra đây là nơi các em được yêu thương chăm
sóc.
Trong thời gian qua bên cạnh việc gia tăng tình trạng người chưa
thành niên phạm tội, một điều đáng buồn là tình trạng trẻ em bị tội phạm
xâm hại cũng tăng đáng kể. Hoạt động phạm tội xâm hại tới trẻ em gây ra
nhiều hậu quả nghiêm trọng đến nhiều mặt kể cả chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, làm xói mòn các giá trị truyền thống, làm băng hoại đạo đức xã hội,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến thiết chế gia đình và xã hội. Có thể thấy rằng
tình trạng người chưa thành niên phạm tội và người chưa thành niên bị xâm
hại thời gian qua diễn biến hết sức phức tạp, chỉ báo trong thời gian tới do
sự biến đổi về kinh tế- xã hội kéo theo tình trạng thay đổi truyền thống gia
đình và môi trường xã hội, điều này dẫn đến tình trạng phức tạp về tội phạm.
Do đó, xu hướng phạm tội của người chưa thành niên và người chưa thành
niên bị xâm hại sẽ không giảm mà có xu hướng tăng.

Thực thi pháp luật lao động về quyền trẻ em.


Tình trạng trẻ em lang thang, phải đi lao động khi còn quá nhỏ, Bên
cạnh đó là một số trẻ em rơi vào tình trạng có bố mẹ li thân hoặc li hôn phải
tự lo kiếm sống. Đối với hầu hết gia đình nông thôn Việt Nam thì điều quan
trọng là tăng thu nhập và phần đông gia đình nghĩ lao động không ảnh
hưởng nhiều đến các em mà là rèn luyện trẻ em. Với quan niệm đó phần lớn
trẻ em nông thôn tham gia các quan hệ lao động trong đó có nhiều công việc
nặng nhọc và xu hướng này có nguy cơ ngày càng gia tăng. Trong xã hội

49
chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng lao động trẻ em từ phía gia
đình. Xuất phát từ quan niệm cho rằng đó là việc riêng của mỗi gia đình.
Theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội
(Bộ Công an): Năm 2006 có 7.000 vụ đối tượng phạm tội ở độ tuổi dưới 14
tuổi, chiếm 70% tội phạm vị thành niên. Năm 2007, số vụ phạm pháp hình
sự do người chưa thành niên vi phạm có giảm 1% so với năm 2006, nhưng
mức độ phạm tội lại nghiêm trọng hơn nhiều. [33;1] Các vụ án không chỉ
xảy ra ở thành phố, thị xã mà xảy ra ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa. Nếu như trước đây các loại tội mà trẻ vị thành niên mắc phải
thường là trộm cắp vặt, gây rối, đánh nhau... không gây nguy hiểm lớn, thì
gần đây mức độ phạm tội lại nguy hiểm hơn, vượt quá giới hạn của tuổi vị
thành niên như đánh nhau có vũ khí, hình thành băng cướp, trộm cắp tài sản
lớn, thậm chí phạm cả tội cưỡng hiếp, giết người, mua bán, sử dụng chất ma
túy.
Ngoài ra, nền kinh tế thị trường đã mở cửa cho thị trường sức lao
động. Ở đây sức lao động được coi là hàng hoá, trở thành đối tượng mua và
bán. Với sự đa dạng của các thành phần kinh tế và phân hoá giàu nghèo
trong xã hội. Số lượng trẻ em tham gia quan hệ lao động xã hội ngày càng
nhiều do hoàn cảnh. Tuy nhiên ở đây người bán sức lao động chưa có nhận
thức đầy đủ và sự hiểu biết cần thiết cũng như những lợi ích hợp pháp của
mình. Vì thế khi trẻ em tham gia vào các quan hệ lao động thường không
được ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản. Điều này dẫn đến khó khăn
khi có tranh chấp hoặc khi quyền trẻ em không được người sử dụng lao
động tôn trọng và thực hiện bởi không có cơ sở pháp lý cho việc giải quyết
tranh chấp. Chính điều này dẫn đến tình trạng trẻ em bị bóc lột sức lao động.
Trong thực tiễn khi trẻ em tham gia quan hệ lao động phần lớn dưới
hình thức phục vụ và hầu hết được ký kết dưới hình thức hợp đồng miệng.
Do đó, hầu như không có một ràng buộc nào về mặt pháp lý giữa người sử
dụng lao động với người lao động. Do đó khó có thể đảm bảo rằng trẻ em có
bị bóc lột hay không?

50
Mặt khác, do tác động của nền kinh tế thị trường dẫn đến sự phân
cách mức sống thành thị và nông thôn. Thời gian qua một số lớn lao động
nông thôn đã ra thành thị làm trong đó có trẻ em. Ngoài những tác động đã
nêu trên phải kể đến thực trạng tồn tại đó là một số đối tượng sử dụng lao
động trẻ em vào các công việc độc hại hay sử dụng vào các công việc trái
pháp luật như: buôn bán vận chuyển ma tuý.
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em vào quan hệ lao
động được pháp luật quy định tương đối hoàn thiện trong các văn bản pháp
luật. Đặc biệt là pháp luật đã quy định các biện pháp chế tài mang tính
nghiêm khắc đối với các hoạt động lạm dụng, bóc lột sức lao động trẻ em,
sử dụng lao động trẻ em trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên
về phương diện pháp lý việc sử dụng lao động trẻ em tồn tại nhiều vấn đề
trong đó phải kể đến phần lớn các trẻ em tham gia vào quan hệ lao động
nhưng không có hợp đồng lao động, không có bảo hiểm. . .Vấn đề đặt ra là
làm thế nào để đảm bảo cho các quy định của pháp luật lao động đối với lao
động trẻ em thực hiện trong thực tế. Bởi lẽ trong lĩnh vực này pháp luật thực
định không thiếu nhưng thiếu sự hiểu biết quan tâm và thái độ ủng hộ của
cộng đồng.

2.2 THỰC TRẠNG Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Ý thức pháp luật của cán bộ, công chức là sự thể hiện thái độ, tình
cảm và nhận thức về pháp luật, về thực tiễn pháp lý; tri thức pháp luật; thái
độ đối với những hành vi hợp pháp hay hành vi vi phạm pháp luật; thể hiện
sự tôn trọng hay coi thường pháp luật của cán bộ, công chức. Nhìn chung, ý
thức pháp luật của cán bộ, công chức được đánh giá như sau: Thứ nhất, về
trình độ hiểu biết pháp luật của cán bộ, công chức; Thứ hai, xét trong cơ cấu
ý thức pháp luật thì thái độ tôn trọng, chấp hành pháp luật là khâu yếu nhất.
Thứ tư, chưa hình thành một cách thực sự lối sống tuân theo pháp luật theo

51
đúng nghĩa của nó trong xã hội nói chung và trong đội ngũ cán bộ, công
chức nói riêng, cần phải có nhiều nỗ lực hơn nữa từ nhiều phía (Nhà nước,
công chức, người dân) tiến tới xây dựng một xã hội thực sự sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Nhìn chung, trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là những năm vừa qua,
cùng với sự phát triển về mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, ý
thức pháp luật của cán bộ, công chức cũng đang vận động một cách tích cực
và đã có những chuyển biến đáng kể: đội ngũ cán bộ, công chức bên cạnh
trình độ chuyên môn cũng như kiến thức pháp lý ngày càng cao đã quan tâm
nhiều hơn đến pháp luật, đã nhận rõ vị trí, vai trò quan trọng của pháp luật
đối với đời sống xã hội và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ, công chức
còn ở trình độ thấp kém về ý thức pháp luật. Thể hiện của tình trạng này là
sự coi thường pháp luật, bấp chất pháp luật, tư lợi trong thi hành công vụ,
kém hiểu biết dẫn đến ban hành quy định pháp luật sai trái hoặc áp dụng
pháp luật còn sai phạm nhiều. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX có đánh giá: Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất phức
tạp. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong
nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta.
Hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức là sự biểu hiện trực
tiếp của tình trạng ý thức pháp luật thấp kém. Việc vi phạm pháp luật của
cán bộ, công chức cho thấy có thể do họ không hiểu, hiểu không đầy đủ
hoặc do thái độ thiếu tôn trọng, coi thường pháp luật của cán bộ, công chức
trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Việc đánh giá tình hình vi phạm
trong việc ban hành các văn bản pháp luật không chỉ cho thấy trình độ hiểu
biết pháp luật, năng lực của cán bộ, công chức mà còn cho thấy tình hình
thực thi pháp luật của cán bộ, công chức ở các bộ, ngành, địa phương.

52
Hiểu biết pháp luật không phải là điều kiện duy nhất, nhưng là điều
kiện rất quan trọng nhất để có thái độ, tình cảm và hành vi hợp pháp. Có
được sự hiểu biết pháp luật một cách toàn diện, đầy đủ chủ yếu thông qua
việc đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng và trung học pháp lý. Do đặc
điểm của quá trình hình thành đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay
thì kiến thức pháp luật của họ được tích luỹ chủ yếu cũng thông qua học tập
ở nhiều loại trường, lớp khác nhau như các trường chuyên nghiệp, trường
chính trị, trường hành chính, và phần lớn là qua kinh nghiệm thực tiễn công
tác.
Những năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức đã được đào tạo kiến thức
nghiệp vụ chuyên sâu và kiến thức pháp luật một cách bài bản hơn, thường
xuyên hơn. Nhưng vẫn còn sự chênh lệch quá mức về trình độ học vấn của
cán bộ, công chức trong các cấp của cơ quan nhà nước, đặc biệt là giữa cơ
quan trung ương và cơ quan địa phương, giữa tỉnh, huyện với cơ sở, giữa
cán bộ vùng đồng bằng, thành thị với cán bộ vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo là trở ngại rất lớn cho việc thống nhất
nhận thức và áp dụng pháp luật.
Về thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết công việc của cán
bộ, công chức ở cơ sở cũng còn một số bất cập. Ở một số địa phương, vẫn
còn tình trạng cán bộ cơ sở giải quyết công việc hàng ngày mà không quan
tâm cập nhật chính sách, văn bản pháp luật mới. Có thể thể lấy một ví dụ là
Quyết định 80/TTg năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp cho nông dân đã ban hành được 3 tháng nhưng khi phỏng
vấn một số cán bộ lãnh đạo một xã ở tỉnh Hà Tây (cũ) thì một số người còn
nói là chưa hề được nghe thấy quyết định này, còn theo một vị lãnh đạo
huyện Hoài Đức thì ở một số xã nhiều khi văn bản pháp luật về đến xã
nhưng lại bị thất lạc ngay trong chính UBND xã. Từ đó cho thấy đội ngũ cán
bộ cơ sở còn một số bất cập trong ý thức cập nhật thông tin pháp luật để
nâng cao trình độ kiến thức pháp lý.

53
Hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức là sự biểu hiện trực
tiếp của tình trạng ý thức pháp luật thấp kém. Việc vi phạm pháp luật của
cán bộ, công chức cho thấy có thể do họ không hiểu, hiểu không đầy đủ
hoặc do thái độ thiếu tôn trọng, coi thường pháp luật của cán bộ, công chức
trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Việc đánh giá tình hình vi
phạm trong việc ban hành các văn bản pháp luật không chỉ cho thấy trình độ
hiểu biết pháp luật, năng lực của cán bộ, công chức mà còn cho thấy tình
hình thực thi pháp luật của cán bộ, công chức ở các bộ, ngành, địa phương.
Hàng năm, các cơ quan chức năng đã phát hiện, kiến nghị sửa đổi
hàng ngàn văn bản quản lý của các ngành, các cấp, thu hồi hàng ngàn tỷ
đồng và nhiều tài sản khác do sai phạm. Năm 2007 VKSND các cấp đã phát
hiện 3376 văn bản có vi phạm pháp luật, trong đó có 185 văn bản của chính
quyền cấp tỉnh, 979 văn bản của chính quyền cấp huyện và 2185 văn bản
của chính quyền cấp xã. Qua kết quả khảo sát thực tế cho thấy ở một số địa
phương tình trạng ban hành văn bản pháp luật còn có những sai phạm. Ví
dụ: tỉnh Hà Tây, năm 2005 phát hiện có 45 văn bản vi phạm pháp luật, năm
2006 phát hiện có 41 văn bản vi phạm pháp luật, năm 2007, qua kiểm tra
705 văn bản phát hiện 39 văn bản có vi phạm; Thành phố Hồ Chí Minh
trong 3 năm 2005, 2006, 2007 VKSND Thành phố Hồ Chí Minh và
VKSND các quận, huyện của Thành phố đã nghiên cứu và kiểm sát hàng
nghìn văn bản của chính quyền 3 cấp ở Thành phố Hồ Chí Minh đã phát
hiện và kháng nghị 58 văn bản quy phạm pháp luật có vi phạm. Có thể thấy
tình trạng ban hành văn bản vi phạm pháp luật chủ yếu là ở cấp địa phương,
do các chính quyền địa phương thực hiện. Mặc dù số vụ vi phạm của văn
bản quản lý được phát hiện chưa phải là nhiều nhưng điều đó cũng đã thể
thiện rõ mức độ vi phạm cao, tính chất vi phạm khá nghiêm trọng vì các văn
bản quản lý bị phát hiện thấy sai phạm thường vẫn đang có hiệu lực thi
hành. Nội dung trái với các quy định của pháp luật, với các văn bản quản lý
của cấp trên. Tình trạng này xảy ra chủ yếu do chưa nắm rõ các quy định

54
pháp luật của công chức, nhưng một số trường hợp cũng do mục đích cá
nhân vụ lợi, lợi dụng để thực hiện mục đích cá nhân;
- Tình trạng ban hành văn bản cá biệt để giải quyết các quyền và
nghĩa vụ pháp lý cho cơ quan, tổ chức và công dân vượt quá thẩm quyền cho
phép, nhất là trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính, quản lý và sử dụng
đất đai. Trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính, sai sót chủ yếu do xử phạt
quá thẩm quyền, chưa đúng với các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt
hành chính. Còn trong lĩnh vực đất đai, vi phạm chủ yếu trong lĩnh vực tự ý
chuyển đổi mục đích sử dụng đất sai mục đích, giao đất không đúng quy
định pháp luật. Thậm chí có UBND phường không có thẩm quyền giao đất,
cho thuê đất nhưng vẫn thực hiện việc giao đất ở địa phương.
- Áp dụng các quy phạm pháp luật không đúng khi giải quyết các
quyền, nghĩa vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức và công dân, làm thiệt hại lợi
ích của Nhà nước, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
công dân;
- Ban hành văn bản pháp luật hình thức thiếu nhất quán, không có tên
văn bản, nội dung văn bản không phù hợp với hình thức văn bản;
- Trình tự xây dựng, ban hành văn bản pháp luật tuỳ tiện, không thông
báo văn bản đến người dân nhưng đã buộc họ phải chấp hành. Tình trạng
này vẫn còn chưa được chấm dứt đối với các chính quyền cơ sở hiện nay.
Những sai phạm trong xây dựng, ban hành văn bản phần lớn do cán bộ
không biết hoặc biết không đầy đủ những quy định trong những văn bản có
hiệu lực cao hơn về lĩnh vực, vấn đề đó;
Vi phạm pháp luật trong hoạt động công tác của công chức hành
chính có thể do không hiểu hoặc hiểu chưa rõ những quy định pháp luật,
nhưng cũng có thể do tuy đã hiểu rõ quy định của pháp luật mà vẫn cố tình
vi phạm. Có thể thấy rằng, trên thực tế nhiều vụ vi phạm pháp luật biểu lộ
thái độ cố tình vi phạm của công chức chứ không phải do không hiểu biết
pháp luật. Rất nhiều vụ án lớn vừa qua cho thấy vi phạm pháp luật do cố ý

55
của cán bộ, công chức có số lượng không nhỏ. Ví dụ như các vụ án buôn lậu
Hang Dơi, Đông Nam, hoàn thuế giá trị gia tăng trong thời gian gần đây đều
có sự tiếp tay một cách cố ý của những cán bộ hải quan biến chất. Đây là
một điều báo động về tình trạng ý thức pháp luật của cán bộ, công chức hiện
nay.
Điều đáng nói hiện nay là hầu hết các vụ việc vi phạm, sai trái đều do
nhân dân, các cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện ra mà rất ít vụ vi phạm
pháp luật được cán bộ phụ trách, tổ chức Đảng, tổ chức thanh tra ở cơ quan
xảy ra vi phạm phát hiện và đấu tranh ngăn chặn. Điều đó cho thấy công tác
quản lý nội bộ đội ngũ công chức hành chính còn kém.
Công tác đấu tranh, xử lý các vi phạm pháp luật của công chức hành
chính hiện nay ở một số nơi còn chưa cương quyết, nghiêm khắc, thể hiện
qua các biểu hiện như: để xử lý nội bộ, xử lý hành chính mà không truy tố
hình sự. Do vậy mà tác dụng răng đe, giáo dục ý thức tôn trọng kỷ cương
phép nước đã bị hạn chế nhiều.
- Về tình trạng tham nhũng:
Những tội trạng tham nhũng đã được bàn tay của pháp luật đụng
chạm tới mới chỉ là cái mỏm băng nổi lên mặt nước của cả tảng băng, phần
chìm dưới nước là rất lớn và khó đánh giá. Cho đến nay thiếu hẳn những
điều tra nghiên cứu xã hội học một cách khoa học về tình trạng tham nhũng
ở nước ta, để nhìn nhận, đánh giá toàn diện vấn đề này và để làm căn cứ cho
quốc sách, cho những biện pháp phòng, chống tham nhũng. Vì vậy còn nặng
về chống, mà nhẹ về phòng. Trong thực tế do không phòng ngừa được, và
chỉ chống được ở phần ngọn, đó là nhận xét của GS. Hoàng Tụy), nên
những năm gần đây xuất hiện tình trạng càng chống, tham nhũng càng
hoành hành, vụ sau nghiêm trọng hơn vụ trước. Đặc biệt nghiêm trọng là
bàn tay pháp luật hầu như chỉ có khả năng đụng vào những vụ trọng án đã bị
lộ. Nhìn vào các đơn vị kinh tế, ngày nay số các tổng công ty lớn của nhà
nước không dính vào các vụ bê bối nghiêm trọng thật là hiếm, nhiều đơn vị

56
có những vụ tham nhũng tiêu cực nặng nề, khó mà lường hết thiệt hại.
David Dapice tại hội thảo 20 năm đổi mới được tổ chức ở Hà Nội ngày 15
và 16-06-2006 đưa ra con số ước lượng mỗi năm khu vực các doanh nghiệp
nhà nước để lãng phí, thất thoát khoảng 1 tỷ USD. Trong xây dựng thường
được ước lượng thất thoát khoảng 20% tổng đầu tư (cũng có con số ước
lượng là 30%), chất lượng công trình thấp xa so với thiết kế và kém hiệu quả
[32;1].

Phạm vi tham nhũng ngày càng lan rộng, phổ biến

Ngoài các lĩnh vực được xem như nhạy cảm dễ xảy ra tham nhũng như
đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, thuế, hải quan… tham nhũng đã lan
rộng sang các lĩnh vực mà từ trước đến nay là trong sạch, được xã hội coi
trọng như giáo dục, y tế, chính sách thương binh, phúc lợi xã hội… Thậm
chí còn xảy ra ở ngay các cơ quan thanh tra, cơ quan bảo vệ pháp luật. Tham
nhũng không chỉ dừng trong bộ máy công quyền mà đã lan tràn ra cả ngoài
lĩnh vực được xã hội hoá cao như bóng đá.

Tính chất tham nhũng ngày càng phức tạp, nghiêm trọng, thủ đoạn
ngày càng tinh vi.

Tham nhũng ngày càng có tổ chức, liên quan đến nhiều cấp, nhiều
ngành nhiều địa phương, thậm chí mang đặc tính tội phạm xuyên quốc gia
thông qua ký kết hợp đồng thương mại, phê duyệt các dự án đầu tư nước
ngoài và các dự án khác để nhận tiền, gửi giá, chuyển khoản vào tài khoản
ngân hàng ở nước ngoài hoặc mua tài sản, bất động sản ở nước ngoài chẳng
hạn như vụ buôn lậu xăng dầu dưới hình thức tạm nhập, tái xuất hình thành
đường dây khép kín từ Singapo vào Việt Nam sang Campuchia của Công ty
TNHH Thành phát (Tiền Giang).

Tham nhũng hiện nay thường có nhiều đối tượng tham gia, với rất
nhiều thủ đoạn tính vi. Đối tượng thực hiện hành vi tham nhũng có cả những
người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có nhiều hành kinh nghiệm

57
công tác và quản lý, hiểu biết về pháp luật. Tham nhũng thường liên kết với
các tội phạm khác như buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo. Vì vậy, việc phát hiện,
điều tra, xử lý gặp rất nhiều khó khăn. Các đối tượng nói trên cấu kết, lợi
dụng sự sơ hở hoặc thiếu đồng bộ, chồng chéo của pháp luật, sự quản lý
lỏng lẻo, yếu kém, sự thiếu trách nhiệm trong kiểm tra, kiểm soát để thực
hiện các hành vi vi phạm, chiếm đoạt tài sản, xâm hại lợi ích của Nhà nước.

Được núp bóng dưới nhiều hình thức khác nhau trong lĩnh vực trật tự
xã hội đó là hành vi “bảo kê” che chắn cho các hành vi phạm pháp có tổ
chức của bọn “xã hội đen” làm tay sai đắc lực cho bọn tội phạm ngang nhiên
hoành hành điển hình là vụ án “Năm Cam”, vụ án “Hai Chi”.

Trong lĩnh vực kinh tế là sự móc nối giữa các doanh nghiệp nhà nước
với doanh nghiệp tư nhân để chuyển lợi nhuận vào túi tư nhân để dễ dàng
cho việc ăn chia và đối phó với cơ quan điều tra. Đây chính là “sân sau” của
các cán bộ có chức có quyền trong doanh nghiệp nhà nước và luôn được
trúng thầu trong các dự án, gói thầu béo bở.

Sự móc nối giữa các công ty nhà nước và công ty ngoài ra nước để rút
ruột nhà nước. Nền kinh tế đa thành phần đã làm cho đời sống kinh tế thêm
năng động nhưng cũng tự nó nảy sinh nhiều tiêu cực, đặc biệt là việc “móc
nối” lợi dung để tham nhũng. Đó chính là tình trạng lập các doanh nghiệp
“vệ tinh” do người thân hoặc họ hàng làm giám đốc, trở thành sân sau của
những người có chức vụ quyền hạn quản lý doanh nghiệp. Vụ việc PMU18
là ví dụ điển hình cho thấy là các công ty nhà nước thua lỗ triền miên trong
khi những người quản lý các doanh nghiệp lại giàu lên nhanh chóng.

Buôn lậu và trốn thuế là những hình thức làm giàu phổ biến trong quá
trình chuyển đổi cơ chế quản lý sang kinh tế thị trường. Khi chuyển đổi cơ
chế thì việc tìm kiếm lợi nhuận thông qua hành vi buôn lậu trốn thuế là phổ
biến, vấn đề là ở chỗ hai hành vi này luôn đi liền với hành vi hối lộ các quan
chức. Rất nhiều vụ việc diễn ra đã chứng minh cho vấn đề này chẳng hạn vụ

58
buôn lậu ở Tân Trường Sanh là một ví dụ điển hình trong số 74 bị cáo thì có
đến 51 người là cán bộ hải quan …

Trong đầu tư, xây dựng cơ bản, tham nhũng xảy ra ở tất cả các khâu,
từ nghiên cứu đến lập dự án, lập dự toán, thiết kế công trình, giải quyết vốn,
giao thầu, giải phóng mặt bằng, xây dựng công trình, nghiệm thu, thanh
quyết toán công trình. Theo báo cáo của Ban cán sự đảng Bộ Xây dựng,
"tham nhũng trong xây dựng cơ bản chưa thuyên giảm". Lĩnh vực đầu tư,
xây dựng cơ bản có đặc điểm là được tiến hành ở tất cả các ngành, các cấp
từ nông thôn đến thành thị, từ các doanh nghiệp đến các cơ quan Đảng, Nhà
nước, đoàn thể; từ bệnh viện, trường học đến các ngành quốc phòng, an
ninh, với số vốn đầu tư hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm. Tham nhũng xảy
ra ở đây là rất lớn, nhưng chưa có số liệu tổng kết về thiệt hại, và cũng chưa
thấy có cơ quan nào tổng kết về thiệt hại này...
- Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tham nhũng thường xảy ra trong
việc cấp phát quota, hạn ngạch, kiểm hóa; tham nhũng gắn với buôn lậu.
Hành vi chủ yếu là sách nhiễu, thông đồng để ăn hối lộ như trong các vụ án
đã phát hiện và xử lý thời gian qua.

- Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tham nhũng chủ yếu xảy ra
trong xét duyệt, cấp phát, cho vay, quản lý, sử dụng tài chính, thanh quyết
toán, thuế với các hành vi cố ý làm trái để tham ô, nhận hối lộ. Do đó, đã
dẫn đến nhiều vụ án lớn. Theo kết quả của thanh tra Chính phủ, trong 4 năm
(2003 – 2007), đã phát hiện nhiều vụ tham nhũng có liên quan đến 4.625 cán
bộ do thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, tham ô chiếm đoạt, xâm tiêu,
nhận hối lộ, lập quỹ trái phép để vụ lợi làm thất thoát trên 1.355 tỷ đồng.
Chỉ tính riêng năm 2007, ngành thuế đã phát hiện 298 cán bộ tham ô.

Tham nhũng xảy ra phổ biến và gây thiệt hại rất lớn về tài sản của nhà
nước. Hầu hết các công trình xây dựng đều xảy ra thất thoát tài sản do tham
ô, cố ý làm trái và xảy ra ở tất cả các khâu, các giai đoạn, từ khâu lập và phê

59
duyệt dự án, khảo sát, thiết kế, duyệt kế hoạch vốn, đấu thầu, tư vấn giám
sát, nghiệm thu, thanh quyết toán công trình.

Qua các vụ án đã được phát hiện, điều tra cho thấy tỷ lệ thất thoát
trong đầu tư xây dựng cơ bản trung bình từ 10 đến 20%. Chính vì vậy mà
nhiều công trình xây dựng chất lượng kém, thậm chí chưa nghiệm thu đã hư
hỏng, chưa đưa vào sử dụng hoặc ngay sau khi sử dụng đã xuống cấp như:
Nhà hát chèo Hà Nội, đường dẫn cầu Hoàng Long, việc rút ruột công trình
Trung tâm hội nghị công đoàn… Vi phạm thường xảy ra ở những công trình
hoàn thành trong một thời gian ngắn để phục vụ yêu cầu chính trị, công trình
chỉ định thầu hoặc đấu thầu hạn chế, công trình sử dụng vốn ODA… Nhiều
công trình mặc dù đã xây dựng xong và được đưa vào sử dụng nhưng sau
một thời gian dài vẫn chưa quyết toán được, trong đó có những công trình
trọng điểm như công trình cải tạo Nhà hát lớn Hà Nội.

- Tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai.

Đây cũng là lĩnh vực xảy ra nhiều tham nhũng và số lượng tài sản nhà
nước bị mất là vô cùng lớn. Vi phạm và tham nhũng về đất đai thường qua
các dạng chủ yếu: cấp đất trái thẩm quyền, thông qua danh nghĩa dự án để
chia chác bán kiếm lời, chia lô, bán nền, ăn hối lộ để hợp thức hoá đất lấn
chiếm trái phép, chuyển mục đích sử dụng đất, trong đó đền bù với giá thấp
sau đó thay đổi mục đích sử dụng đất từ đó tăng giá kiếm lời đây là những
công việc siêu lợi nhuận. Ngoài ra còn các hành vi tham nhũng trong quá
trình đền bù giải phóng mặt bằng thông qua việc nâng giá đền bù, khai
khống diện tích…

Tình trạng tham ô, cố ý làm trái, thiếu tinh thần trách nhiệm, lừa đảo,
nhận hối lộ xảy ra ở nhiều ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng
thương mại cổ phần. Một số bộ phận lãnh đạo, nhân viên các ngân hàng
thương mại bị thoái hoá biến chất được các doanh nghiệp, cá nhân móc nối,
hối lộ đã cho vay trái nguyên tắc, vượt quá khả năng thanh toán của doanh

60
nghiệp, thông đồng với đối tượng vay nhận hồ sơ thế chấp không hợp lệ, hồ
sơ giả để vay tiền dẫn đến hàng nghìn tỷ đồng bị thất thoát, hàng trăm cán
bộ ngành ngân hàng và giám đốc phải và các doanh nghiệp phải vào tù.

- Tham nhũng trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội.

Đây là lĩnh vực gây nhiều nhức nhối trong dư luận xã hội và ngày
càng trở nên phổ biến trong thời gian gần đây. Điển hình trong lĩnh vực này
là việc cấp quota, giấy phép hạn ngạch xuất khẩu, đánh bắt xa bờ, xóa đói,
giảm nghéo, ủng hộ bão lụt… gần đây là vụ việc đề án 112 tin học hóa quản
lý hành chính nhà nước. Trong lĩnh vực lao động thương binh và xã hội thì
tham nhũng phổ biến ở việc lợi dụng chính sách đối với người có công như
hợp lý hóa hồ sơ để hưởng chế độ của đối tượng; lập hồ sơ giả để hưởng
chính sách xã hội, tính trùng lặp, khai khống đối tượng để rút tiền của nhà
nước; thu các khoản lệ phí không đúng quy định.

Tệ hại hơn là tham ô cả các khoản tiền cứu trợ đồng bảo lũ lụt, tham ô
tiền chi cho công tác quản lý, chăm sóc người nghiện ma túy; lập hồ sơ
khống chế người tàn tật để rút tiền nhà nước.

Qua các vụ án đã được phát hiện điều tra và xử lý cho thấy nhiều cán
bộ trong cơ quan bảo vệ pháp luật không chỉ ở cơ sở mà còn ở cả các cơ
quan trung ương đã có hành vi nhận hối lộ, thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý
làm trái… với mục đích bảo kê, bao che, thậm chí tiếp tay cho bọn tội phạm.
Các hiện tượng như chạy án, chạy tội, xâm phạm hoạt động tư pháp đã gây
sự bất bình, bức xúc trong xã hội. Chẳng hạn như trong vụ án Năm Cam và
đồng bọn đều có sự tiếp tay của những cán bộ thoái hóa biến chất trong
ngành bảo vệ pháp luật, đặc biệt là lực lượng công an , một số kiểm soát
viên những người có vai trò quan trọng trong quá trình điều tra, truy cứu
trách nhiệm hình sự, khiến cho hồ sơ và kết quả điều tra bị sai lệch, vừa bỏ
lọt tội phạm vừa làm oan người vô tội.

61
- Những yếu kém từ phía các văn bản pháp luật, tổ chức thực
hiện pháp luật

Như phần lý luận đã phân tích, ý thức pháp luật có vai trò to lớn trong
xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật. Thế nhưng chất lượng, tính đúng
đắn, phù hợp của các quy định pháp luật và các quyết định áp dụng pháp
luật cá biệt lại phụ thuộc vào trình độ và tính đúng đắn của ý thức pháp luật
truớc hết là của các nhà làm luật và các nhà áp dụng pháp luật vào cuộc
sống. Nếu sản phẩm là các quy định pháp luật không đúng đắn xét trên các
tiêu chí như lợi ích, sự phù hợp cuộc sống thì sẽ tác động xấu đến ý thức và
hành vi pháp luật của cá nhân.

Về hệ thống pháp luật, bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn
bộc lộ rất nhiều yếu kém. Tất nhiên nguyên nhân thì không chỉ từ phía trình
độ ý thức pháp luật, sự nhận thức vấn đề cần điều chỉnh bằng pháp luật và
thái độ, trách nhiệm của nhà làm luật nhưng ý thức pháp luật có ý nghĩa
quan trọng.
Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay còn bộc lộ nhiều tồn tại và
bất cập.
Chất lượng văn bản quy phạm pháp luật chưa cao: Nhiều quy định
của pháp luật không rõ ràng, có quy định của pháp luật kinh tế chưa phù
hợp với thể chế thị trường, trái với chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế...
làm giảm hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật. Khi soạn thảo văn bản
mới, không liệt kê cụ thể những văn bản bị bãi bỏ dấn đến tình trạng
không biết văn bản nào hết hiệu lực thi hành. Hơn nữa, pháp luật chưa
được hệ thống hoá và pháp điển hoá thường xuyên, gây khó khăn cho
việc tiếp cận, thực hiện đầy đủ và đúng pháp luật.
Khung pháp luật thiếu toàn diện: Một số lĩnh vực quan trọng về
kinh tế thị trường, an ninh xã hội, quốc phòng và an ninh quốc gia chưa
có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh như pháp luật về cạnh tranh

62
chống độc quyền, pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp, pháp luật về biên
giới, lãnh thổ quốc gia, pháp luật về quốc phòng, an ninh quốc gia.
Chưa xây dựng được cơ chế thi hành pháp luật, chưa quan tâm
đúng mức đến các điều kiện về tổ chức, nhân sự và tài chính để bảo đảo
thi hành pháp luật. Nhiều luật mới chỉ dừng lại ở những quy định mang
tính chất khung còn những vấn đề cụ thể, thậm chí cả vấn đề khó thì
dành cho văn bản hướng dẫn thi hành. Luật đã có hiệu lực, nhưng chưa
có văn bản hướng dẫn thi hành thì còn chưa được thi hành, trong khi
việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành trái với luật, pháp lệnh, làm
giảm đáng kể hiệu lực thi hành của luật, pháp lệnh.
Nhiều quy định pháp luật chưa thể hiện được đầy đủ lợi ích của các
tầng lớp nhân dân lao động cũng như những quy định về quyền công dân,
quyền con người chưa được thể hiện đầy đủ. Pháp luật trong Nhà nước pháp
quyền phải là pháp luật vì con người, đảm bảo công bằng dân chủ và khách
quan. Theo như quy định trong quá trình xây dựng pháp luật, những bản dự
thảo luật cần phải được đưa ra để trưng cầu dân ý và lấy ý kiến đóng góp
của nhân dân, nhưng trên thực tế thì hiệu quả chưa cao, luật cũng chưa quy
định chi tiết về quá trình cách thức trưng cầu dân ý ra sao.
Về tính đồng bộ của hệ thống pháp luật Việt Nam thì hiện nay hệ
thống pháp luật Việt Nam đang hướng tới sự thống nhất, đảm bảo tính đồng
bộ, xác định rõ ranh giới giữa các ngành luật. Trong từng ngành luật các quy
phạm pháp luật cơ bản đã tránh được sự chồng chéo, mâu thuẫn về thẩm
quyền ban hành hay nội dung các văn bản quy phạm pháp luật đã dẫn. Nhiều
văn bản quy phạm pháp luật đã được kiểm tra, rà soát.
Những văn bản pháp luật nào trái pháp luật hoặc không còn phù hợp
với thực tế nữa sẽ được hủy bỏ hoặc đình chỉ. Tuy nhiên, bên cạnh đó hệ
thống pháp luật vẫn còn nhiều tồn tại chưa đảm bảo được tính đồng bộ, vẫn
còn những văn bản dưới luật chồng chéo, mâu thuẫn, trái với Hiến pháp,
Luật. Với cùng một vấn đề văn bản này qui định một kiểu, văn bản kia lại
qui định kiểu khác.

63
Văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành luật lại hướng dẫn không đúng
theo tinh thần của luật thậm chí còn qui định thêm những vấn đề mà luật
không qui định. Điều này được thể hiện ở việc có trường hợp Nghị định,
Thông tư hướng dẫn thi hành mâu thuẫn với Luật, Pháp lệnh hoặc văn bản
hướng dẫn sau đã sửa đổi khác so với những hướng dẫn cũ đã tạo ra sự mâu
thuẫn, chồng chéo không đồng bộ giữa các văn bản nói riêng và của cả hệ
thống pháp luật nói chung.
Các qui định kiểu chung chung, thiếu chính xác, cụ thể. Ví dụ: chúng
ta có thể tìm thấy ở rất nhiều điều luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam
với cái đuôi: “các trường hợp pháp luật qui định khác. Vậy các trường hợp
khác ở trên đây là gì? Lại có trường hợp pháp luật của ta qui định tiền trợ
cấp thôi việc cho người lao động ở các doanh nghiệp bị giải thể có khó khăn
về tài chính sẽ do ngân sách nhà nước trả nhưng khi ở vào trường hợp đó,
người lao động không được biết được tiền này sẽ do ngân sách cấp nào trả.
Bên cạnh đó có nhiều quy phạm pháp luật không còn phù hợp với điều kiện
thực tế nhưng chưa được sửa đổi bổ sung.
Về tính ổn định và tính dự báo trước của pháp luật, có thể nói pháp
luật Việt Nam vẫn chưa đảm bảo được tính ổn định. Pháp luật nước ta còn
thiếu sự ổn định nên đã ảnh hưởng nhiều đến việc điều chỉnh các quan hệ xã
hội bằng pháp luật. Pháp luật nước ta chưa có tính có thể dự đoán trước (ở
cả cấp độ thứ nhất và cấp độ thứ hai). Thực tế đây là một khó khăn rất lớn
và cũng là rào cản để tiến tới hoàn thiện pháp luật trong nhà nước pháp
quyền bởi vì nó sẽ trực tiếp gây thiệt hại cho một số chủ thể đồng thời có thể
là cơ hội làm giàu hợp pháp nhưng bất chính của những ai nhờ những nguồn
thông tin khác nhau biết trước sự thay đổi bất thường đó và pháp luật đó
cũng không dựa trên những qui luật của xã hội, qui luật của tự nhiên.
Về trình độ kỹ thuật pháp lý: trình độ kỹ thuật pháp lý hiện nay của
pháp luật Việt Nam đã có những bước tiến bộ nhất định. Nhiều văn bản Luật
được Quốc hội ban hành với chất lượng cao nhờ có đội ngũ chuyên gia pháp
lý có năng lực, kinh nghiệm. Tuy nhiên, thủ tục ban hành văn bản pháp luật,
đặc biệt là các văn bản dưới luật còn chưa thật hợp lý, chưa đưa ra được

64
những phương án tối ưu trong quy trình xây dựng pháp luật. Hơn nữa, về
mặt thuật ngữ pháp lý vẫn chưa có sự thống nhất, về mặt trình bày đôi khi
còn dài dòng, khó hiểu, mất tính chính xác.
Năng lực xét xử thẩm phán, nhất là thẩm phán toà án địa phương
vẫn còn hạn chế, thủ tục tố tụng phức tạp, rườm rà tạo tâm lý e ngại của
nhà đầu tư nước ngoài, khi giải quyết tranh chấp tại Toà án Việt Nam,
thậm chí ngay cả các doanh nghiệp Việt Nam cũng tìm kiếm phương
thức giải quyết tranh chấp khác. Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Toà án còn chậm chạp, khó khăn trong khâu thi hành. Tình hình
trên dẫn đến tình trạng niềm tin vào công lý bị giảm sút.

Các văn bản pháp luật thiếu, không kịp thời. Có quan điểm cho rằng:
"Cứ vi phạm chưa chắc đã bị phát hiện, có bị phát hiện chưa chắc đã bị truy
tố, bị truy tố chưa chắc đã có tội, có tội chưa chắc đã thi hành án". Từ chưa
chắc là một thực tế đau lòng, hiện tượng tiêu cực đã len lỏi trong quá trình tố
tụng, hiện tượng này chúng ta dễ thấy trong quá trình xử phạt hành chính,
xử phạt an toàn giao thông, dẫn đến có các ý kiến cho rằng họ thiếu niềm tin
vào công lý, vào pháp luật.

Pháp luật của chúng ta chưa thực sự nghiêm minh.

Thời gian vừa qua Nhà nước ta đã ban hành quy định về cấm lưu hành
xe tự chế, quản lý việc bán hàng rong…, việc ban hành quy các quy định
này là cần thiết, tuy nhiên nó đụng chạm tới cuộc sống của một bộ phận
không nhỏ người dân lên các thành phố kiếm sống, gánh hàng rong và xe tự
chế là miếng cơm manh áo của rất nhiều gia đình trong khi nhà nước chưa
có các phương án giải quyết cuộc sống cho họ đã vội ban hành các quy định
này nên quy định đã bị phản kháng.

Các quy định của nhà nước phải phù hợp với điều kiện thực tế và có
tính khả thi. Nhà nước có trách nhiệm trong viẹc nâng cao trình độ dân trí,
cải tạo các điều kiện xã hội để người dân có điều kiện, khả năng tiếp nhận

65
các thông tin pháp luật. Quy định này chỉ thực hiện rầm rộ trong một thời
gian ngắn, khi việc giám sát thực hiện pháp luật của các cơ quan công an lơ
lỏng thì vi phạm tái diễn, hơn thế nữa chính những điều này đã tạo cho
người dân ý thức coi thường pháp luật. Lẽ ra trước khi ban hành một điều
luật, một nghị định, một thông tư nào đó thì phải xem xét kỹ tính khả thi để
khi thực hiện nó thì phải thực hiện một cách nghiêm minh để cho người dân
thấy được sự nghiêm khắc của pháp luật và tạo cho người dân ý thức
nghiêm túc khi thực hiện pháp luật.

Công cuộc đổi mới của đất nước trong thời cơ chế kinh tế thị trường,
nhà nước pháp quyền là sự bảo đảm địa vị ngự trị của pháp luật trong các
lĩnh vực đời sống xã hội. Chức năng quan trọng của nhà nước pháp quyền là
làm cho pháp luật thực sự trở thành phương tiện điều chỉnh các quan hệ xã
hội hàng đầu nhưng phải là một nền pháp luật dựa trên cơ sở đạo đức tiến bộ
và tổ chức thực hiện pháp luật.

2.3. THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT
Công tác tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật nhằm đáp ứng một
cách rộng rãi, nhanh chóng và đầy đủ nhu cầu thông tin pháp luật của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội, nghề nghiệp và nhân dân nói
chung về thông tin pháp luật, trên cơ sở gắn liền và góp phần thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam từ nay đến 2010 và chương
trình tin học hoá quản lý nhà nước giai đoạn 2001-2005.
Đối với cán bộ, công chức, công tác giáo dục ý thức pháp luật nhằm
nâng cao ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật của đối tượng cán bộ, công
chức; nâng cao khả năng vận dụng pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp,
chuyên môn của đối tượng này để pháp luật trở thành công cụ giúp họ thực
thi công vụ.

66
Đối với người dân, công tác giáo dục ý thức pháp luật nhằm nâng cao
hiểu biết pháp luật, nhất là kiến thức pháp luật liên quan mật thiết đến cuộc
sống, những vấn đề cần biết, cần làm, những trình tự, thủ tục pháp lý cơ bản
để người dân có thể vận dụng trực tiếp trong cuộc sống; nâng cao khả năng
tiếp cận pháp luật và tiếp cận với các cơ quan công quyền của người dân.
Đồng thời, tăng cường khả năng của các cơ quan nhà nước tiếp cận thông tin
phản hồi từ phía các tổ chức kinh tế xã hội, nghề nghiệp và nhân dân nói
chung trong quá trình thực thi pháp luật.
Để có ý thức pháp luật trong hoạt động công vụ của cán bộ, công
chức cũng như chấp hành pháp luật của người dân thì trước hết phải có
thông tin pháp luật. Thông tin pháp được truyền tải qua hệ thống tuyên
truyền đa dạng, phong phú và thích nghi với từng đối tượng trong xã hội.
Thời gian qua, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đã được thực hiện
bằng nhiều hình thức khác nhau, phù hợp với đặc thù của đối tượng và địa
bàn thực hiện. Trong số đó, có một số hình thức đã phát huy được hiệu quả
tuyên truyền tốt, như:
Tuyên truyền miệng về pháp luật là hình thức được các cơ quan Trung
ương và các địa phương sử dụng có hiệu quả trong việc giới thiệu nội dung
pháp luật cho cán bộ và nhân dân thông qua hoạt động của các báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật tại các hội nghị tập huấn, các buổi nói chuyện
chuyên đề, các cuộc họp, sinh hoạt của các đoàn thể (Hội Nông dân, Hội
phụ nữ, Đoàn Thanh Niên...), tại các cuộc họp tổ dân phố, cụm dân cư. Nội
dung tuyên truyền chủ yếu là các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp tới
cuộc sống người dân nên dễ tiếp thu, vận dụng, đây là kênh thông tin quan
trọng và hiệu quả.
Tuyên truyền thông qua phương tiện thông tin đại chúng: Hiện nay,
Đài Truyền hình Việt Nam có các chương trình pháp luật thu hút được đông
đảo người xem như “Hộp thư truyền hình” – VTV1, “Tạp chí Pháp luật và
Đời sống” – VTV2. Đài Tiếng nói Việt Nam có chuyên mục “Nhà nước và

67
Pháp luật”, “Tiếp chuyện bạn nghe đài”. Chuyên mục: “Toà tuyên án” -
VTV3 được phát sóng hàng tuần vào thứ 7… Các Đài phát thanh và truyền
hình địa phương đã xây dựng chuyên mục pháp luật trong chương trình của
mình. Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội đang xây dựng chuyên mục phổ
biến giáo dục pháp luật về các chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ
trợ tái định cư, thủ tục pháp lý thành lập doanh nghiệp… đây là kiến thức
pháp lý quan trọng nhằm giúp cho cán bộ công chức cơ sở, người dân và
doanh nghiệp hiểu biết và thống nhất thực hiện từ Thành phố tới cơ sở. Các
báo viết ở Trung ương và địa phương đều có chuyên trang, chuyên mục
pháp luật. Trong đó cùng với việc thông tin về nội dung văn bản pháp luật,
giải đáp pháp luật, các báo, đài phát thanh và truyền hình đã quan tâm thông
tin về tình hình thực thi pháp luật, tình hình vi phạm pháp luật trên mọi lĩnh
vực.
Ngoài các văn bản pháp luật, các tài liệu PBGDPL được biên soạn
dưới nhiều hình thức khác nhau, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của một số
nhóm đối tượng. Đó là các Đề cương giới thiệu, phổ biến các văn bản luật,
pháp lệnh: ngay sau khi Luật, Pháp lệnh được ban hành, bộ Tư pháp có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản đó biên soạn Đề
cương chung và gửi cho các Sở Tư pháp và các tổ chức pháp chế để tổ chức
việc phổ biến, giới thiệu văn bản; các sổ tay nghiệp vụ, cẩm nang pháp luật
dành cho cán bộ thực hiện công tác PBGDPL (Bộ Tư pháp hiện đang phát
hành Sổ tay báo cáo viên pháp luật với từng chuyên đề).
PBGDPL thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý: Trợ giúp pháp lý là
sự giúp đỡ pháp lý (tư vấn, đại diện, bào chữa) miễn phí và tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật của các tổ chức trợ giúp pháp lý cho người
nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số nhằm nâng cao ý
thức pháp luật cho các đối tượng này.
Thông qua hoạt động hòa giải ở cơ sở công tác PBGDPL được thực
hiện ngày càng có hiệu quả do pháp luật được trực tiếp sử dụng, giải thích,

68
phân tích đối với từng trường hợp cụ thể trực tiếp đến với người dân đang ở
trong tình huống tranh chấp hoặc vi phạm cụ thể. Trên toàn quốc hiện có
hàng trăm ngàn tổ hòa giải với các hòa giải viên chủ yếu là các cán bộ đoàn
thể ở cơ sở, những người có uy tín trong cộng đồng dân cư. Hoạt động hòa
giải ở cơ sở không chỉ góp phần giữ gìn an ninh, trật tự ở cụm dân cư mà
còn góp phần thiết thực trong việc PBGDPL cho nhân dân.
Giáo dục pháp luật trong nhà trường: Giáo dục pháp luật trong
trường học là một giải pháp mang tính cơ bản, lâu dài, cơ bản để nâng cao
dân trí pháp lý. Việc đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường đã được Bộ Tư
pháp và Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức triển khai trong toàn quốc. Chương
trình giáo dục pháp luật được đưa vào giảng dạy và học tập ở tất cả các cấp
học, bậc học từ mầm non đến đại học.
Nhiều hình thức PBGDPL có hiệu quả khác cũng đã được tổ chức
hoạt động thường xuyên như thi tìm hiểu pháp luật; lồng ghép PBGDPL vào
các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ; sinh hoạt Câu lạc bộ pháp luật và đưa pháp
luật vào nội dung sinh hoạt của các loại hình câu lạc bộ khác.

- Về thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật:


Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng còn nhiều yếu kém, bất
cập. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ý thức
pháp luật chưa cao, còn nhiều hành vi vi phạm pháp luật xẩy ra.
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn nặng về phong trào,
hình thức, chưa chú trọng xây dựng một hệ thống tư vấn và cung cấp
dịch vụ pháp lý hữu hiệu giúp công dân, tổ chức và doanh nghiệp bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hiệu quả của việc tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật chưa cao, nhất là đối với nông thôn, miền
núi, vùng sâu, vùng xa và đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Chưa có
Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật nên chưa tạo được sự đồng bộ
xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật, đào tạo pháp luật, thông tin pháp

69
luật và phổ biến giáo dục pháp luật, tuy vẫn có các chương trình như cải
cách luật pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp.
Ý thức tôn trọng pháp luật của một số cơ quan Nhà nước và cán
bộ, công chức chưa cao. Nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật không phải
do kém hiểu biết mà nguyên nhân chính là ý thức coi thường pháp luật,
chẳng hạn, có địa phương, vì quyền lợi của mình mà đặt những quy định
mang tính “cát cứ” gây cản trở cho việc thi hành pháp luật, trong khi
chúng ta chưa có cơ chế kiểm soát đối với các cơ quan công quyền. Quy
định pháp luật về quyền giám sát của xã hội, của nhân dân đối với việc
thi hành pháp luật khá rõ, nhưng còn thiếu cơ chế cụ thể, hữu hiệu, để
nhân dân và xã hội thực hiện quyền giám sát đối với thực thi pháp luật,
nhất là các điều kiện để thực hiện quyền giám sát còn rất nhiều, trong
đó, ngay cả tính công khai, minh bạch còn là một vấn đề cần được khắc
phục.
Mặt khác, một bộ phận nhân dân chưa nhận thức đúng đắn và đầy
đủ về tính tối thượng của luật, về vai trò, vị trí và ý nghĩa của pháp luật
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nên chưa tự giác thi hành có
khi còn coi thường pháp luật.
Thông tin pháp luật còn tình trạng cát cứ, chưa tập trung, thiếu
thống nhất. Các cơ quan Nhà nước chưa thực hiện nghiêm chỉnh quy
định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật về việc gửi đăng
Công báo các văn bản quy phạm pháp luật.
Đội ngũ cán bộ thực hiện công tác phổ biến giáo dục pháp luật chủ
yếu còn kiêm nhiệm, chưa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về
nghiệp vụ. Hệ thống các tổ chức tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý chưa
đủ mạnh, chưa trở thành chỗ dựa đáng tin cậy để nhân dân bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Trong điều kiện pháp luật chưa hoàn chỉnh,
đồ sộ về số lượng văn bản, phức tạp về cấp độ văn bản, hệ thống tuyên

70
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn chưa hiệu quả... thì việc phát
triển mạnh các cơ quan tư vấn, trợ giúp pháp lý là một định hướng quan
trọng.
Công tác PBGDPL đã có được cơ sở pháp lí cho việc triển khai các
hoạt động, đặc biệt là các hoạt động phối hợp. Chỉ thị số 02 và Quyết định
số 03 của Thủ tướng Chính phủ bước đầu đã tạo được những chuyển biến
tích cực trong nhận thức, tư tưởng quan điểm của các cấp, các ngành, các cơ
quan, đơn vị đối với công tác PBGDPL, phát huy được vai trò chủ động của
các ban ngành, các cơ quan, tổ chức hệ thống chính trị, huy động được nhiều
nguồn lực trong xã hội tham gia công tác PBGDPL.
Các hoạt động PBGDPL dần dần đi vào nền nếp theo kế hoạch,
chương trình cụ thể với nhiều hình thức, biện pháp thực hiện phù hợp với
từng nhóm đối tượng được PBGDPL và điều kiện của địa bàn thực hiện.
Nhiều hoạt động PBGDPL đã được triển khai đồng bộ trong cả nước. Quyền
được tiếp cận với thông tin pháp luật của các công dân được quy định trong
hiến pháp đã được thực hiện.
Nhìn chung, công tác PBGDPL đã có tác động tốt, có hiệu quả rõ rệt
trong việc nâng cao ý thức pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, góp phần
nâng cao dân trí pháp lí, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, ổn định đời sống
bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Việc phổ biến pháp luật hiện nay còn mang tính thời sự và phong trào
mà chưa đi sâu phân tích, giải thích một cách cụ thể những nội dung chủ yếu
mà người dân cần tìm hiểu, chưa được xuất phát từ nhu cầu bức xúc của
người dân. Phổ biến pháp luật vì vậy chưa mang tính gíải đáp, thiếu tính vận
động chấp hành pháp luật.
Mặt khác việc phổ biến hiện nay mới chỉ tập trung vào các văn bản
luật và Pháp lệnh, chưa chú trọng vào các văn bản dưới luật, văn bản hướng
dẫn thi hành trong khi Luật, Pháp lệnh còn quá nhiều quy định hết sức khái
quát, thiếu tác dụng điều chỉnh trực tiếp, cụ thể. Đồng thời một mảng văn

71
bản quy phạm quan trọng gắn trực tiếp với từng địa phương cũng chưa được
quan tâm phổ biến đó là các văn bản do chính quyền địa phương ban hành.
Hình thức PBGDPL nói chung còn nặng về tổ chức hội nghị, tập huấn
triển khai văn bản mà chưa khai thác một cách có hiệu quả các hình thức
PBGDPL khác phù hợp với điều kiện của các địa phương, với đối tượng
được tuyên truyền như việc tổ chức tốt PBGDPL trên mạng lưới truyền
thanh cơ sở, biên soạn và phát hành các tài liệu PBGDPL, thực hiện trợ giúp
pháp lý lưu động, tổ chức phiên toà, xét xử lưu động kết hợp với PBGDPL
cho nhân dân… Các hình thức PBGDPL hiện đại chưa được sử dụng triệt
để, đặc biệt là việc ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin vào các hoạt
động PBGDPL.
Lực lượng thực hiện công tác PBGDPL, đặc biệt là ở các cơ sở còn
thiếu, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế và chưa đồng đều. Việc
xây dựng đội ngũ Báo cáo viên, Tuyên truyền viên pháp luật chưa thực sự
đáp ứng yêu cầu, kĩ năng nghiệp vụ, cung cấp tài liệu cho lực lượng này
chưa được thường xuyên; chưa huy động được đông đảo lực lượng báo cáo
viên, tuyên truyền viên từ các ngành tham gia công tác PBGDPL.

Công tác PBGDPL chưa gắn với việc xây dựng và tổ chức thực hiện
pháp luật. Do vậy hiệu quả của từng hoạt động nói riêng cũng như kết quả
của việc chấp hành, thực thi pháp luật trong cuộc sống nói chung còn rất hạn
chế.

72
Chƣơng 3:
XÂY DỰNG Ý THỨC PHÁP LUẬT
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

3.1. NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI
Ý THỨC PHÁP LUẬT
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là con đường đi tất yếu của đất nước
ta. Một trong những tiền đề, điều kiện quan trọng của quá trình này là xây
dựng ý thức pháp luật và nền văn hoá pháp lý. Làm sao cho tinh thần pháp
quyền thấm sâu vào mọi quan hệ xã hội, vào các hành vi xã hội của các cá
nhân.

3.1.1. Khái niệm Nhà nƣớc pháp quyền


Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã hình thành từ trong lịch sử xa xưa
của nhân loại, từ thời kỳ cổ đại. Được hoàn thiện trong thời kỳ của các cuộc
cách mạng tư sản và được ít nhiều hiện thực hoá trong quá trình phát triển
nhà nước và pháp luật tư sản. Ban đầu nó chỉ là những ý tưởng, những quan
điểm thể hiện khát vọng, ước mơ và lý tưởng của con người về các giá trị xã
hội cao quý như: công bằng và bác ái, nhân đạo và tình thương, dân chủ và
tự do, pháp luật và pháp chế. Với bản chất nhân đạo, tiến bộ và dân chủ,
NNPQ không những chỉ là một học thuyết tiên tiến trong khoa học pháp lý

73
của nhân loại, và còn là hiện thực sinh động ở các nước văn minh và phát
triển cao trên thế giới.
Trong tư tưởng chính trị - pháp lý ở phương Đông và phương Tây thời
cổ trung đại đã chứa đựng các nhân tố nhà nước pháp quyền. Trong các học
thuyết chính trị - pháp lý tiêu biểu của Trung hoa thời cổ trung đại như đức
trị và pháp trị tuy còn nhiều hạn chế lịch sử, song cũng đã chứa đựng những
nhân tố nhà nước pháp quyền, được thể hiện trong các tác phẩm của các nhà
tư tưởng vĩ đại như: Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử. Nhà nước
pháp quyền đề cao vai trò pháp luật nhưng không phủ nhận đạo đức, do vậy
tư tưởng quản lý xã hội bằng đạo đức của Khổng Tử tuy còn có những mặt
hạn chế song cũng có nhiều giá trị tích cực bởi pháp luật của nhà nước pháp
quyền cũng phải phù hợp với đạo đức và thiếu đạo đức thì không thể nào có
một xã hội phát triển bền vững.
Tư tưởng chính trị của trường phái pháp gia mà đại biểu là Hàn Phi
Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị lên đỉnh cao, coi pháp luật cơ sử duy nhất
để quản lý xã hội, pháp luật phải thay đổi theo thời cuộc "thời biến, pháp
biến". Hàn Phi đã khẳng định: “không có thứ pháp luật luôn luôn đúng".
Theo Hàn Phi, pháp luật phải được viết thành văn và công bố rộng rãi cho
mọi người. Pháp luật phải nghiêm minh và có chế độ thưởng phạt đúng đắn.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền ở phương Tây cổ đại chủ yếu gắn liền với
sự phát triển của nền dân chủ Hy Lạp và La Mã. Các nhà tư tưởng chú ý tới
tính tối cao, tính hợp lý của đạo luật; tới sự tổ chức hợp lý của bộ máy nhà
nước, hiểu pháp luật là pháp luật tự nhiên, pháp luật xuất phát từ bản chất lý
trí của con người và của thế giới xung quanh con người, pháp luật là thuộc
tính vốn có của con người, luật nhà nước phải đáp ứng yêu cầu của luật tự
nhiên. Các nàh tư tưởng tiêu biểu như Arixtot, Platon, Xocrat vv…
Các tư tưởng về nhà nước pháp quyền thời cổ đại đã được các nhà
tư tưởng tư sản tiếp thu và phát triển, có sự kế thừa và phát triển mà nội
dung chủ yếu là: chống chế độ chuyên quyền độc đoán phong kiến, tình

74
trạng vô pháp luật. Học thuyết nhà nước pháp quyền ra đời gắn liền với tên
tuổi của các nhà tư tưởng vĩ đại như: Lockơ, Montesquieu, Rutxô, Cantơ,
Hêghen vv... Họ khẳng định tính tối cao của các đạo luật, nguyên tắc phân
chia quyền lực, bảo vệ quyền con người, tuân thủ pháp luật không có ngoại
lệ vv…
Mặc dù tư tưởng NNPQ đã có nguồn gốc từ rất lâu (khoảng trên 2000
năm) nhưng phải đến thế kỷ 19 khái niệm NNPQ mới có được cách biểu
hiện với ý nghĩa là khái niệm. Khái niệm NNPQ được xem xét dưới nhiều
góc độ khác nhau. Với tư cách là một học thuyết NNPQ được hiểu là toàn
bộ các quan điểm về vai trò thống trị của pháp luận trong toàn bộ hoạt động
của nhà nước. Với tư cách là một thể chế chính trị, NNPQ là nhà nước mà
trong đó mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước dù ở cấp cao nhất hay cấp
thấp nhất đều được thực hiện trên cơ sở của pháp luật.
Xét về mặt nội hàm của khái niệm, NNPQ: thứ nhất, khái niệm
NNPQ phản ánh đặc điểm chung của nhà nước, với tư cách là tổ chức đặc
biệt của quyền lực chính trị, thành tố đặc biệt của hệ thống chính trị. Thứ
hai, khái niệm NNPQ phản ánh những đặc điểm riêng của nhà nước đặt
trong mối quan hệ khách quan giữa nhà nước - pháp luật - xã hội công dân.
Theo PGS. TS. Hoàng Thị Kim Quế trong giáo trình Lý luận chung
về nhà nước và pháp luật, NXB ĐHQGHN 2005 thì: “Nhà nước pháp quyền
là hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp, thường được hiểu theo nhiều cấp
độ, do vậy khó có thể có một định nghĩa bao quát hết nội hàm khái niệm nhà
nước pháp quyền. Tuy vậy, trong khoa học pháp lý vẫn đạt được sự thừa
nhận chung là: nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước với
sự phân công lao động khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp, nhà nước với tư cách là tổ chức công quyền được tổ chức và
hoạt động trên cơ sở pháp luật, pháp luật có tính khách quan, nhân đạo, công
bằng được công quyền thừa nhận, sử dụng là phương tiện điều chỉnh hàng
đầu đối với các quan hệ xã hội.[24;40]

75
NNPQ là nhà nước trong đó 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
được phân định rõ ràng và hợp lý cho 3 hệ thống cơ quan tương ứng trong
mối quan hệ cân bằng, đối trọng, chế ước lẫn nhau tạo thành cơ chế đồng bộ
bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân
dân, nhà nước có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó các đạo luật
có vai trò tối thượng, mọi cá nhân, tổ chức phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp
luật và bình đẳng trước pháp luật; NNPQ là nhà nước bảo vệ và bảo đảm các
quyền con người một cách tốt nhất.
Như vậy, NNPQ là nhà nước mà trong đó pháp luật có tính pháp lý
cao, phù hợp với lý trí thể hiện những giá trị xã hội cao cả của con người.
Mọi chủ thể đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, phục tùng pháp luật.
3.1.2. Những đặc điểm cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của nhà nước pháp quyền, có thể nêu
những đặc điểm cơ bản nhất về nhà nước pháp quyền như sau:
* Nhà nước pháp quyền tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ thực hiện các
quyền con người
- Một nền pháp luật vì con người, đây là một trong những đặc điểm,
nguyên tắc cốt lõi nhất của NNPQ, khác với các nhà nước cực quyền, độc tài
chuyên chế. Giữa pháp luật và quyền con người có một mối quan hệ hết sức
chặt chẽ. Trong Nhà nước pháp quyền, việc xác lập và bảo đảm quyền con
người luôn là mối quan tâm và ưu tiên hàng đầu. Điều đó thể hiện trên các
phương diện sau đây:
- Pháp luật chính là phương tiện ghi nhận các quyền con người và có
cơ chế bảo vệ; bảo đảm. Theo Monteskiơ thì “Trong trạng thái tự nhiên, mọi
người sinh ra bình đẳng. Nhưng khi họ hợp thành xã hội thì họ mất bình
đẳng, và họ chỉ trở lại bình đẳng nhờ có luật pháp”;[20;87]
Bên cạnh việc thể hiện các quyền tự nhiên của con người, pháp luật
còn là công cụ của Nhà nước và đặc biệt là công cụ của nhân dân trong việc
thực hiện, bảo vệ quyền con người. Theo Locke, “Nhà nước được thành lập

76
để bảo vệ các quyền tự nhiên của con người, thiết lập luật pháp để tạo lập
và bảo vệ sở hữu, cũng như sử dụng các lực lượng xã hội để thực hiện các
đạo luật này và bảo vệ sự tấn công từ bên ngoài” [21;80]. Như vậy, giá trị
ưu tú của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền không chỉ là sự ghi nhận
quyền tự nhiên của con người mà còn ghi nhận những biện pháp để bảo đảm
hiện thực hóa những quyền đó trên thực tế.
Quyền con người được pháp luật quy định trở thành quy phạm mang
tính phổ biến, có tính bắt buộc chung đối với toàn xã hội. Và khi trở thành
quyền pháp định, các quy phạm pháp luật về quyền con người sẽ trở thành
quy phạm phổ biến, thể hiện ý chí chung của toàn xã hội, được xã hội phục
tùng, được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy cưỡng chế mang quyền lực nhà
nước.
Trong Nhà nước pháp quyền các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của
công dân phải được ghi nhận về mặt lập pháp, tuân thủ về mặt hành pháp và
được bảo vệ về mặt tư pháp bằng những cơ chế pháp lý đảm bảo các quyền
công dân được thực hiện và có biện pháp xử lý những hành vi vi phạm các
quyền đó. Con người có các quyền tự do, bình đẳng và quyền sở hữu, đó là
những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nhà nước ra đời
để bảo vệ con người, bảo vệ pháp luật.
NNPQ là nhà nước trong đó các quyền tự do, dân chủ và lợi ích chính
đáng của con người được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng hệ thống pháp
luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được xử lý nghiêm minh, kịp
thời, đúng pháp luật.
Để bảo đảm yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo đảm tiêu
chí pháp luật vì con người, vấn đề đặt ra đối với Nhà nước ta là phải ban
hành những đạo luật phục vụ nhân dân, phát triển xã hội dân sự. Thực tế
trong thời gian qua, luật tư ở Việt Nam phát triển chậm hơn so với luật công.
Hiện nay, nhu cầu về pháp luật tư của người dân và sự đáp ứng của Nhà nư-
ớc vẫn còn cách xa nhau. Hàng loạt những văn bản pháp luật rất cần thiết

77
với người dân chưa được ban hành như Luật trưng cầu dân ý, Luật về luật
sư... Một số văn bản pháp luật phục vụ người dân đã có và tỏ ra nhiều bất
cập nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung. Vì vậy, tư duy lập kế hoạch lập
pháp nên ưu tiên luật phục vụ người dân.
- NNPQ là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện, có cơ chế hữu
hiệu để đảm bảo vai trò tối thượng của các đạo luật. Các quan hệ xã hội cơ
bản phải có pháp luật điều chỉnh trên cơ sở kết hợp với đạo đức, tập quán
truyền thống dân tộc.
- Pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải mang tính pháp lý cao,
khách quan, công bằng, nhân đạo phù hợp đạo đức xã hội, tất cả vì lợi ích
chính đáng của con người. Đây là những giá trị đạo đức nhân văn của pháp
luật trong NNPQ.
- NNPQ là nhà nước, trong đó mối quan hệ giữa nhà nước và công
dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, quan hệ đồng trách nhiệm. Tuân thủ
pháp luật là nghĩa vụ đối với mọi cá nhân, tổ chức kể cả nhà nước, nhà nước
phải chịu trách nhiệm vật chất, tinh thần về các quyết định và hành vi của
mình.
- Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước được tổ chức khoa
học, các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rõ ràng, hợp lý
cho ba hệ thống cơ quan nhà nước tương ứng trong mối quan hệ cân bằng,
kiểm soát lẫn nhau tạo thành một cơ chế đồng bộ đảm bảo sự thống nhất của
quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân.
* Thực hiện dân chủ hoá sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực xã hội, kể
cả trong hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật
- Pháp luật phải phản ánh đầy đủ, trung thực quyền con người, quyền
công dân, nhất là các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá. Pháp luật không
phải là phương tiện cai trị mà phải là phương thức quản lý xã hội, phục vụ
nhân dân. Nhân dân phải là chủ thể chân chính của quá trình sáng tạo pháp
luật. Để thực hiện điều đó đòi hỏi phải thu hút nhân dân tham gia đông đảo

78
vào hoạt động xây dựng pháp luật. Quy trình lập pháp phải cụ thể hoá sự
tham gia đông đảo của nhân dân trong các giai đoạn; đồng thời phải phát
huy cao độ dân chủ bàn bạc, thảo luận, quyết định trong hoạt động của Quốc
hội và các cơ quan có thẩm quyền qua các giai đoạn của quy trình lập pháp;
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng đã khẳng định
"Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều
kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những
vấn đề quan trọng. Khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức. Xây dựng
Luật trưng cầu ý dân".[28;134] Chỉ có như vậy, tất cả mọi dự luật và các
văn bản pháp luật khác cũng như các chủ trương, chính sách của Nhà nước
trước khi được xây dựng, thông qua, đi vào hiệu lực và triển khai trên thực
tiễn được đưa ra lấy ý kiến, bàn bạc công khai và rộng rãi với người dân và
mới có hiệu quả, thực sự phản ánh ý chí của nhân dân, thuộc về nhân dân.
* Tính nhân đạo, công bằng của pháp luật
Nguyên tắc nhân đạo, công bằng thực ra đã tuyên bố ngay từ xa xưa
nhưng trong quá khứ chưa có đầy đủ các điều kiện để hiện thực hoá. Trong
nhà nước pháp quyền, nhân đạo phải được quán triệt xuyên suốt toàn bộ hệ
thống pháp luật và hoạt động của nhà nước. Lịch sử nhân loại được đặc
trưng bởi xu hướng nhân đạo hoá các quan hệ xã hội, mở rộng phạm vi áp
dụng nguyên tắc nhân đạo trong xây dựng và thực thi pháp luật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã nhiều lần nhấn mạnh đến tính
nhân đạo của pháp luật. Theo đó, Người cho rằng “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư
pháp cũng như mọi vấn đề khác trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người,
ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau
khổ, bị áp bức.”[11;138] Vì vậy, hình phạt phải lấy giáo dục làm chính và là
mục tiêu để cảm hoá tội phạm.
Luật hình sự nước ta cũng ngày càng xác định rõ nguyên tắc và xu
hướng nhân đạo trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích chính đáng của cá nhân, lợi
ích cộng đồng xã hội. Pháp luật có vai trò to lớn trong việc phát huy truyền

79
thống khoan dung, nhân ái của dân tộc ta. Xu hướng nhân đạo hoá sẽ giúp
cho pháp luật đi sâu vào đời sống, pháp luật được người dân thực hiện tự
giác. Ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện công bằng cũng là một trong
những giá trị xã hội to lớn của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền.
* Pháp luật trong NNPQ phải được xây dựng và áp dụng phù hợp với
cơ sở đạo đức
Trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật luôn được đề cao nhưng
không loại trừ quy phạm đạo đức. Các nguyên tắc, những chuẩn mực đạo
đức luôn là tiêu chí, tác động và có ảnh hưởng lớn đến các quy phạm
pháp luật và được tính đến khi xem xét các vấn đề pháp lý và ngược lại:
trong những vấn đề của đạo đức ta cũng xem xét đến phương diện pháp
lý.
Cần đưa các quy phạm đạo đức vào trong nội dung các quy phạm
pháp luật và trong áp dụng, thực hiện pháp luật. Quy phạm đạo đức trong
cuộc sống cũng chính là những quy phạm chuẩn mực của hành vi, phù
hợp với nếp sống, nếp nghĩ của người dân. Đạo đức cũng chính là yếu tố
đảm bảo cho sự an toàn, hạnh phúc, bình yên của con người và trong đó
có cả sự an toàn pháp lý.
* Bảo đảm tính tối cao của các đạo luật trong hệ thống văn bản
pháp luật
Một trong những yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là
việc quản lý xã hội bằng các đạo luật; bảo đảm tính tối cao của các đạo luật
trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Đây không phải là một yêu cầu
chủ quan, duy ý chí mà xuất phát từ chính bản thân các đạo luật là sự phản
ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân nên nó cần được khẳng định và ghi
nhận là nguồn cơ bản và hàng đầu của các văn bản quy phạm pháp luật. Yêu
cầu này đặt ra một số vấn đề như sau:
- Tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tổ chức và hoạt động theo
quy định của các đạo luật;

80
- Việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật phải trên cơ sở
văn bản luật; nội dung của văn bản hướng dẫn không được trái với văn bản
luật;
- NNPQ là nhà nước sống hoà đồng với cộng đồng thế giới, thực hiện
các cam kết quốc tế, các điều ước quốc tế mà nhà nước là thành viên ký kết
hay công nhận…

3.1.2 Những yêu cầu đặt ra đối với ý thức pháp luật trong nhà
nƣớc pháp quyền
- Ý thức pháp luật trong nhà nước pháp quyền
Là hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật tất yếu sẽ phải chịu sự qui
định và tác động của những điều kiện khách quan của xã hội. Do vậy, ý thức
pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền tất yếu cũng có
nhiều điểm khác với ý thức pháp luật trong các nhà nước, các thời kỳ trước
đây. Tất cả các phương diện của cấu trúc ý thức pháp luật đều chịu sự tác
động, từ tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật, từ ý thức pháp luật cá nhân
đến ý thức pháp luật nhóm, ý thức pháp luật nghề nghiệp...
Xu hướng vận động của ý thức pháp luật là ngày càng đa dạng,
phong phú, nhận thức của cá nhân, hành vi và thái độ của họ cùng các tư
tưởng lý luận khoa học về nhà nước và pháp luật ngày càng có nhiều đổi
mới, đi vào chiều sâu và có nhiều nhân tố tích cực. Đó chính là một trong
những biểu hiện, sản phẩm của một xã hội công dân trong điều kiện nhà
nước pháp quyền, dân chủ hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Con người ngày càng quan tâm hơn đến pháp luật. Khoa học pháp lý
ngày càng phục vụ tốt hơn thực tiễn xã hội - những “đơn đặt hàng” của xã
hội đối với lý luận pháp lý. Sự tôn trọng, tuân thủ và cả nhu cầu tự nhiên,
thiết yếu của cá nhân, tổ chức về pháp luật cũng gia tăng trong xã hội hiện
đại, xã hội của nhà nước pháp quyền. Đời sống kinh tế thị trường, quá trình

81
hội nhập quốc tế đã tác động đến ý thức pháp luật của mỗi cá nhân, mỗi bộ
phận cư dân trong xã hội.
YTPL trong nhà nước pháp quyền tất yếu sẽ mang những đặc điểm
riêng, khác với YTPL trong các nhà nước không phải là nhà nước pháp
quyền. Điều đó được biểu hiện ở nhiều phương diện, đó là thái độ tôn trọng
pháp luật vì pháp luật thể hiện tốt hơn các quyền và lợi ích chính đáng của
con người. Thứ nữa là trách nhiệm pháp lý rõ ràng, nghiêm ngặt đặt ra cho
các cá nhân, tổ chức trong điều kiện họ có tự do hơn trong các hoạt động xã
hội của mình. Tinh thần thượng tôn pháp luật yêu cầu họ phải tuân thủ pháp
luật, phải tìm hiểu pháp luật tự mình hoặc qua nhiều kênh khác nhau. Tiếp
nữa, sản phẩm văn bản pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở dân chủ
hoá, có sự tham gia góp ý kiến của người dân. Điều đương nhiên là ý thức
pháp luật trong NNPQ cũng có những đặc điểm chung như ý thức pháp luật
trong các nhà nước khác. Cá nhân bất kỳ ai đều phải có ý thức và hành vi
bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, trách nhiệm bồi thường nhà
nước cũng được đặt ra cao hơn so với trong các nhà nước khác. Ý thức pháp
luật của các cá nhân phải được xây dựng, bồi dưỡng bằng việc tự học hỏi,
rèn luyện của họ và bằng cả việc nhà nước cung cấp thông tin pháp luật, phổ
biến, giáo dục pháp luật. Mặt khác, ý thức pháp luật trong điều kiện NNPQ
còn phải được xây dựng trên cơ sở lối sống đạo đức, xây dựng ý thức và lối
sống tuân theo pháp luật phù hợp đạo đức xã hội.
Các cá nhân trong NNPQ phải có thái độ tích cực, ủng hộ, tôn trọng
pháp luật, biết cách sử dụng pháp luật, tránh xa những hành vi vi phạm pháp
luật và mạnh dạn đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật từ phía
công quyền. Tức là không chỉ tự mình, cho mình mà còn phải giám sát
những người xung quanh đặc biệt là các công chức nhà nước. Phổ biến giáo
dục pháp luật để xây dựng ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý để tạo lập cho
mọi công dân lối sống theo pháp luật đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các
công dân phải hiểu biết một cách đúng đắn tính chất của pháp luật và các

82
mối liên hệ của nó với các chuẩn mực giá trị khác của xã hội, các phương
tiện điều chỉnh khác. Trước hết phải khắc phục tình trạng coi thường pháp
luật trong các khâu xây dựng pháp luật, hoạt động áp dụng pháp luật cũng
như tuân thủ pháp luật của mọi công dân trong đời sống xã hội. Trong xây
dựng pháp luật phải phát hiện kịp thời nhu cầu điều chỉnh pháp luật của các
quan hệ xã hội; đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Pháp luật chính là một bộ
phận cấu thành của nền kinh tế thị trường. Nếu pháp luật không phù hợp với
yêu cầu của nền kinh tế thị trường thì nền kinh tế không vận hành trôi chảy,
không phát triển được.
Ý thức pháp luật trong nhà nước pháp quyền tấy yếu sẽ mang “bản
sắc” của NNPQ. Và thực chất cũng là bản sắc của một xã hội đã được tổ
chức ở trình độ cao. Về đặc điểm của pháp luật trong nhà nước pháp quyền
có thể nêu ra một cách tổng quát nhất như: tính nhân đạo, công bằng, phù
hợp đạo đức, vì con người; tính dân chủ, công khai minh bạch, tính tối cao
của các đạo luật... Pháp luật trong nhà nước pháp quyền có những đặc điểm
– tiêu chí cơ bản, vừa có sự kế thừa vừa có nhiều tố chất mới làm nên những
chuẩn nhất định để nhận diện nhà nước pháp quyền.
Pháp luật trong NNPQ vừa là một bộ phận hợp thành vừa là cơ sở tổ
chức và hoạt động của NNPQ. NNPQ khác nhà nước cực quyền ở việc nhà
nước thừa nhận giá trị xã hội, tính phổ biến bắt buộc chung của pháp luật, sự
ngự trị của pháp luật trong các quan hệ xã hội: chỉ khi nào nhà nước được
thiết lập như một tổ chức pháp lý hoạt động trên cơ sở pháp luật thì khi đó
tư tưởng NNPQ mới thực sự trở thành hiện thực". NNPQ không chỉ đơn
thuần là phục tùng pháp luật mà pháp luật ở đó phải có chất lượng, yêu cầu -
tiêu chí như thế nào?. Nhà nước nào cũng đều có pháp luật để quản lý xã hội
theo đường lối của mình, song không phải nhà nước nào cũng là NNPQ.
Pháp luật trong NNPQ theo đó phải có cơ chế đảm bảo cho được nguyên
tắc: được làm tất cả trừ những gì luật cấm - đối với cá nhân và: chỉ được làm
những gì mà pháp luật cho phép - đối với tổ chức. Pháp luật phải có tính

83
pháp quyền và hợp đạo đức, pháp luật khi trở thành đại lượng công bằng,
phổ biến thì mới có tính pháp lý. Pháp luật phải công khai, minh bạch, dễ
hiểu, thống nhất, dễ vận dụng, nhất quán, công khai, dễ dàng truy cập, có độ
tin cậy cao. Nhà nước phải đáp ứng nhu cầu thông tin về pháp luật, về các
hoạt động thực tiễn pháp lý cho cá nhân và tổ chức.
- Những yếu tố tác động đến ý thức pháp luật:
Đó là những yếu tố kinh tế và phi kinh tế trong mối quan hệ biện
chứng và những tác động nhiều chiều tích cực và tiêu cực, như: yếu tố kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, truyền thống, đạo đức, phong tục,
tập quán, dân tộc, tôn giáo, lối sống, tính cách, điều kiện khí hậu, địa lý,
những yếu tố từ bên ngoài, bản chất chế độ xã hội - nhà nước vv... Tất cả
các yếu tố này xét một cách khái quát đều đem đến những tác động tích cực
và tiêu cực ở những mức độ khác nhau.
Một cách sơ lược, có thể đề cập đến một số sự tác động như sau. Thứ
nhất, quá trình dân chủ hoá đang tác động mạnh mẽ đến ý thức pháp luật.
Thứ hai, cơ chế thị trường. Thứ ba, cũng phải nói đến khoa học pháp lý
nước nhà trong những năm gần đây cùng với hoạt động đào tạo luật học.
Tiếp nữa là thực tiễn sôi động của các giao dịch pháp lý của các thành viên
trong xã hội. Những cái mới đã dần dần xuất hiện, mang lại nhiều sắc thái
mới của ý thức pháp luật như hoạt động dịch vụ của nhà nước, các hình thức
thông tin pháp lý như tư vấn pháp luật, giáo dục phổ biến pháp luật và trợ
giúp pháp lý...
Ý thức pháp luật là sản phẩm của đời sống vật chất và tinh thần của
xã hội. Là sự phản ánh đời sống xã hội hiện tồn, là hiện tượng xã hội pháp lý
tồn tại song song cùng Nhà nước, pháp luật và xã hội. Mỗi một sự thay đổi
trong đời sống xã hội thì sớm muộn sẽ kéo theo sự đổi thay trong lĩnh vực ý
thức pháp luật. Song không phải là ngay lập tức, ý thức pháp luật có sức ỳ
ghê gớm được cộng hưởng cùng các hình thái ý thức xã hội khác như đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v...

84
Thời kỳ của cơ chế quản lý tập trung bao cấp đã sản sinh ra ý thức
pháp luật tương ứng. Do tác động của nền kinh tế hiện vật của những nhận
thức, tư duy sai lầm về chủ nghĩa xã hội, về kinh tế, pháp luật... nhận thức
của cá nhân về pháp luật cũng hạn chế: Đó là thái độ thờ ơ, lãnh đạm với
pháp luật cả luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp luật. Thói quen ứng xử
theo pháp luật dường như bỏ trống. Tư tưởng, lý luận pháp luật cũng còn
nhiều hạn chế... Thực trạng đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xây
dựng pháp luật. Pháp luật mang tính liệt kê, hơn nữa chỉ qui định những
điều cho phép và ngoài phạm vi những điều cho phép là vùng cấm dường
như không giới hạn. Hệ quả nặng nề là đã làm thui chột những tài năng sáng
tạo của con người, kể cả tư duy khoa học pháp lý.
Xây dựng ý thức pháp luật, lối sống tuân theo pháp luật là một quá
trình cách mạng lâu dài cũng không nằm ngoài quy luật đó.

3.2. CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN TRONG VIỆC XÂY DỰNG Ý THỨC PHÁP
LUẬT
- Chiến lược xây dựng ý thức pháp luật và nền văn hóa pháp lý.
Bên cạnh việc xây dựng chiến lược pháp triển hệ thống pháp luật,
chúng ta cần triển khai chiến lược xây dựng ý thức pháp luật và nền văn hoá
pháp lý. Tất nhiên trên nghĩa rộng, nói đến hệ thống pháp luật là cũng đã
bao hàm cả lĩnh vực đưa pháp luật vào cuộc sống – thực thi pháp luật. Hệ
thống các phương hướng và giải pháp của chiến lược này cần xuất phát từ
thực trạng mà chúng ta đang có.
Thực trạng hiện nay là còn quá nhiều bất cập trong hệ thống pháp luật
của chúng ta. Tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, không rõ ràng, thiếu cụ thể
của các quy định vẫn còn khá phổ biến. Lượng quy phạm trong hệ thống
pháp luật đồ sộ, tồn tại một cách tản mạn ở nhiều loại văn bản do nhiều cơ
quan nhà nước khác nhau ban hành. Hệ thống pháp luật như vậy làm cho
ngay cả những người hành nghề luật cũng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm
các thông tin pháp luật chứ không nói gì tới những đối tượng chịu thiệt thòi

85
trong xã hội. Công tác rà soát, hệt hống hóa văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam chưa kịp thời. Vì thế, những mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ
thống quy phạm không được phát hiện và sửa đổi một cách kịp thời. Cơ chế
kiểm tra việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo tính thống
nhất của hệ thống pháp luật còn thiếu hiệu quả. Hiện tại, dịch vụ pháp lý ở
Việt Nam còn kém phát triển, thể hiện ở những điểm như: số lượng các tổ
chức dịch vụ pháp lý còn ít, với địa bàn hoạt động chủ yếu ở các thành phố
lớn, tính cạnh tranh còn yếu, phí dịch vụ rất cao so với mức thu nhập của
người dân, loại hình dịch vụ chưa đa dạng, chất lượng dịch vụ thấp, chưa
tạo được niềm tin trong nhân dân.
Hệ thống các phương hướng và giải pháp chủ yếu của chiến lược xây
dựng YTPL trong điều kiện nhà nước pháp quyền ở nước ta. Đây là một vấn
đề lớn, đòi hỏi phải có hệ thống những giải pháp đồng bộ về phương diện
pháp lý, phương diện kinh tế và xã hội. Xét riêng trên phương diện pháp lý,
có thể nêu một số phương hướng, giải pháp như: xây dựng ý thức và lối sống
tuân theo pháp luật, nâng cao hiệu quả các hình thức đưa pháp luật vào cuộc
sống hiện có ở nước ta như hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật, tư vấn
pháp luật, trợ giúp pháp lý... Đồng thời hoàn thiện, phát triển khoa học pháp
lý, hiệu quả hoạt động đào tạo pháp luật đổi mới chương trình giảng dạy,
học tập pháp luật vv...
Để có được một Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, người dân
trong xã hội ấy không thể không có hiểu biết về pháp luật và ý thức tuân thủ
pháp luật. Cần đến một chiến lược đồng bộ, bao gồm việc xây dựng ý thức
và lối sống tôn trọng, tuân theo pháp luật, phù hợp đạo đức xã hội.
- Xây dựng ý thức và lối sống tuân theo pháp luật phù hợp điều
kiện cụ thể của Việt nam
Phải căn cứ vào đặc điểm, điều kiện và tình hình cụ thể của Việt Nam
hiện nay: người dân chưa có thói quen sống và làm việc theo pháp luật; hệ
thống pháp luật chưa đầy đủ và hoàn thiện; bộ máy nhà nước còn nặng nề,

86
cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả; một bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức nhà nước còn có những biểu hiện tiêu cực như quan liêu, hách dịch,
cửa quyền, tham nhũng, coi thường dân, vi phạm pháp luật,… Tất cả những
điều đó đang gây nhiều khó khăn, trở ngại cho việc nâng cao dân trí nói
chung, ý thức pháp luật nói riêng. Nguyên tắc trên đòi hỏi chủ thể áp dụng
các biện pháp pháp lý nhằm hình thành, nâng cao ý thức pháp luật cho cán
bộ, nhân dân phải tính toán, cân nhắc kỹ càng mọi yếu tố, trong đó có những
đặc điểm về lứa tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, giới tính, dân tộc, điều
kiện và môi trường tự nhiên, xã hội mà họ sinh sống, làm việc nhằm phân
chia thành từng nhóm đối tượng cụ thể để tuyên truyền, phổ biến, giải thích,
giáo dục pháp luật cho phù hợp với họ.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước ta hiện nay là
phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục pháp
luật để mọi người dân cũng như nhân viên nhà nước hiểu được ý nghĩa, vai
trò, nội dung, mục đích đó của pháp luật, từ đó có thái độ, tình cảm đúng
đắn về pháp luật để xây dựng và thực hiện lối sống, thói quen "Sống và làm
việc theo pháp luật"; tham gia tích cực hơn nữa vào quản lý nhà nước.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi thực hiện các biện pháp hình thành, nâng
cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân thì chủ thể và đối tượng áp
dụng các biện pháp đó phải quán triệt và xuất phát từ lập trường, quan điểm
chính trị vững vàng, từ đó có động cơ, thái độ đúng đắn trong hành động
thực tiễn để đạt được hiệu quả cao.
- Thực hiện các giải pháp đồng bộ trong việc xây dựng ý thức pháp
luật
Tiến hành một cách đồng bộ các giải pháp về kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, khoa học, công nghệ, trong đó đặc biệt chú trọng những biện
pháp pháp lý cơ bản là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo
vệ pháp luật và cải cách bộ máy nhà nước theo hướng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân.

87
Nguyên tắc này yêu cầu chủ thể tiến hành các biện pháp pháp lý nhằm
nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân phải có quan điểm hệ thống
và tổng hợp để đi tới nhận thức đầy đủ, sâu sắc được rằng nhận thức là một
quá trình và là kết quả tác động của tổng hợp các nhân tố về kinh tế, chính
trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, đạo đức, pháp luật, từ đó tiến hành đồng thời
và đồng bộ các biện pháp có kết quả.
Xã hội hóa hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
Thực hiện xã hội hoá công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật để hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
Đành rằng nhà nước vẫn giữ vai trò chính trong việc tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật, nhưng mọi việc đều trông chờ, ỷ lại vào nhà nước thì
chắc chắn nhà nước sẽ làm không nổi, trong khi đó nhà nước đang phải lo
giải quyết rất nhiều vấn đề lớn mang tầm chiến lược quốc gia, vì lợi ích của
cả dân tộc và của cả quốc gia. Hơn nữa nhà nước cũng đang gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt là ngân sách và các phương tiện cơ sở vật chất - kỹ thuật
khác.
Nguyên tắc trên yêu cầu chủ thể tiến hành các biện pháp pháp lý
nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, nhân dân phải biết tổ chức, vận
động, giáo dục, thuyết phục cán bộ và các tầng lớp nhân dân để huy động
mọi nguồn lực, tiềm năng về vật chất, tinh thần của họ vào việc bồi dưỡng,
nâng cao ý thức pháp luật cho toàn xã hội. Các chủ thể đó cần phải thấy
được rằng chính trong quá trình xã hội hóa tuyên truyền, phổ biến, giải
thích, giáo dục pháp luật thì cán bộ, nhân dân cũng tự hình thành và nâng
cao ý thức pháp luật.

3.3. NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ XÂY DỰNG Ý THỨC PHÁP LUẬT
TRONG ĐIỀU KIỆN NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM HIỆN NAY
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là con đường phát triển tất yếu,
khách quan không chỉ của nước ta. Hệ thống các biện pháp, giải pháp chủ

88
yếu của chiến lược xây dựng YTPL trong điều kiện nhà nước pháp quyền ở
nước ta phải đảm bảo tính đồng bộ và tiến hành song song các biện pháp.
Đây là một vấn đề lớn, đòi hỏi phải có hệ thống những giải pháp đồng bộ về
phương diện pháp lý, phương diện kinh tế và xã hội

3.3.1. Những biện pháp kinh tế


Chúng ta đều biết, văn hóa phát triển trong sự chi phối của quy luật
không đều với sự phát triển của kinh tế nhưng văn hóa và kinh tế vẫn không
nằm ngoài quy luật về tính quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc
thượng tầng. Do vậy, phát triển văn hóa nói chung cũng như văn hóa pháp lý
nói riêng không thể tách rời sự phát triển của nền kinh tế. Hoàn thiện các
thiết chế của nền kinh tế thị trường, hoàn thiện các loại thị trường như thị
trường vốn, thị trường lao động, công nghệ, thông tin ... Với việc phát triển
nền kinh tế, nâng cao đời sống vật chất nhu cầu thưởng thức các giá trị tinh
thần cũng có điều kiện được quan tâm, nhu cầu hưởng thụ các giá trị tinh
thần ngày càng được coi trọng.

3.3.2. Những biện pháp văn hóa - xã hội


- Giữ gìn, phát huy những giá trị của văn hoá đạo đức, văn hoá pháp
lý Việt Nam
Việc bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống trong xây dựng
một nền văn hoá pháp lý Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gồm
những nội dung chính sau: kế thừa, phát huy và nâng cao những giá trị văn
hoá pháp lý tiêu biểu cho sức sống, bản lĩnh, bản sắc của con người Việt
Nam của đời sống pháp luật Việt Nam; cải tạo, biến đổi hay xoá bỏ những
truyền thống tiêu cực, hạn chế phản ánh tính lỗi thời, bảo thủ và trì trệ của
qúa khứ; hình thành và phát triển những truyền thống pháp lý mới theo yêu
cầu đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

89
- Tiếp thu tinh hoa của văn hoá pháp lý nhân loại, những kinh nghiệm,
kỹ thuật tiên tiến trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật của các nước trên
thế giới.
Bản thân pháp luật cũng là một hiện tượng văn hoá mà văn hoá có tính
mở cho nên sự giao lưu, kế thừa lẫn nhau giữa các nền văn hoá pháp luật là
một quy luật tất yếu. Vấn đề là nên kế thừa như thế nào cho phù hợp. Lịch
sử phát triển nhân loại đã cho chúng ta những kinh nghiệm về sự kế thừa
pháp luật quốc tế. Đó là sự kế thừa của pháp luật tư sản đối với pháp luật
phong kiến và sự kế thừa của pháp luật xã hội chủ nghĩa đối với pháp luật tư
sản. Cho nên, có thể nói rằng kế thừa pháp luật là một yêu cầu khách quan
của quá trình phát triển văn hoá nói chung, văn hoá pháp lý nói riêng và văn
minh nhân loại.
Ở Việt Nam từ khi cách mạng tháng Tám thành công, chúng ta đã tiếp
thu nhiều giá trị văn hoá pháp lý của nhân loại, những thành tựu của nền lập
pháp các nước trên thế giới để góp phần hình thành nên nền pháp luật của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những giá trị đó kết hợp với
văn hoá pháp lý truyền thống đã làm nên diện mạo của một đời sống pháp
luật Việt Nam dân chủ, vì nhân dân ngày nay.
Mọi sự du nhập, tiếp thu khập khiễng, chắc chắn sẽ đưa lại một kết quả
thấp, nhiều khi là phản tác dụng.
- Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân
Một trong những điều kiện để thực hành đạo đức và pháp luật, xây
dựng ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật là cuộc sống vật chất, tinh thần
của cá nhân phải được đảm bảo ở những mức độ cơ bản.
Quan tâm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công chức
và của nhân dân có ý nghĩa rất lớn đảm bảo cho sự hình thành và phát triển
của các giá trị văn hoá pháp lý. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức, phát
triển đời sống vật chất , tinh thần cần được thực hiện theo hướng cải cách
chế độ tiền lương, bảo đảm để tiền lương có thể nuôi sống họ và gia đình ở

90
mức độ trung bình của xã hội. Đó chính là điều kiện là động lực để thúc đẩy
họ nâng cao ý thức pháp luật, sống và làm việc theo những chuẩn mực của
văn hoá pháp lý.
Trình độ dân trí chưa được cải thiện là bao, đặc biệt là đối với vùng
sâu, vùng xa đang có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với vùng đồng bằng, thành
thị. Do đó, để nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, Đảng và Nhà nước
cần phải hình thành một chiến lược phát triển văn hoá - xã hội thật sự có
hiệu quả, ưu tiên nhiều cho những vùng khó khăn, kém phát triển. Trước
mắt, nhà nước sớm đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn
hoá nhà nước từ tỉnh đến xã hoàn chỉnh, như hệ thống nhà văn hoá, thư viện
(huyện, xã), các tụ điểm sinh hoạt văn hoá ở khu dân cư và ở các cơ sở tôn
giáo, dân tộc phù hợp với từng địa phương

3.3.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng các nguyên tắc của
nhà nƣớc pháp quyền
Đây là một trong những điều kiện đặc biệt quan trọng để xây dựng và
nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ,
tác động qua lại giữa pháp luật với ý thức pháp luật, trước hết, chúng ta phải
tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo các yêu cầu: toàn diện, đồng
bộ, khoa học, có tính khả thi cao.
Trong NNPQ XHCN, tính hoàn thiện của hệ thống pháp luật là một
đòi hỏi có tính nguyên tắc. Hệ thống pháp luật của ta hiện nay vẫn còn nhiều
yếu kém, bất cập, nhiều lĩnh vực còn thiếu sự điều chỉnh của các văn bản có
giá trị pháp lý cao.
Do đó, trong hoạt động hệ thống hoá pháp luật, chúng ta cần có sự sắp
xếp, điều chỉnh hợp lý hệ thống các văn bản, khắc phục tình trạng rườm rà,
mâu thuẫn, chồng chéo. Đồng thời, gấp rút nghiên cứu xây dựng các văn
bản pháp luật, điều chỉnh kịp thời những lĩnh vực quan trọng nhưng còn mới
mẻ hoặc chưa được quan tâm đúng mức (ví dụ như lĩnh vực pháp luật về tố

91
tụng, pháp luật về trách nhiệm của Nhà nước). Tăng cường học hỏi kinh
nghiệm của những người đi trước, của nước ngoài để bảo đảm chất lượng
của các văn bản pháp luật. Hiện nay, kỹ thuật lập pháp của chúng ta còn
nhiều khiếm khuyết, gây nên sự trùng lắp, mâu thuẫn hoặc khó hiểu trong
nội dung các văn bản luật. Do đó, hoàn thiện kỹ thuật lập pháp là một vấn đề
cần được quan tâm đặc biệt bởi nó ảnh hưởng đến chất lượng các quy định
pháp luật và đến nhận thức pháp luật, hành vi pháp luật của cá nhân.
Tính toàn diện của hệ thống pháp luật thể hiện ở chỗ: trong hệ thống
pháp luật về cơ bản phải có đầy đủ các ngành luật để điều chỉnh các lĩnh vực
quan hệ xã hội cơ bản.
Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật được thể hiện ở chỗ: không có
sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các ngành luật trong hệ thống pháp luật,
giữa chế định luật trong một ngành luật, giữa các quy phạm pháp luật trong
một chế định luật và giữa các văn bản quy phạm pháp luật với nhau; các quy
phạm pháp luật, các chế định luật và các ngành luật được sắp xếp, bố trí
theo một cơ cấu, trật tự, lôgíc, hợp lý, khoa học, chặt chẽ, thống nhất và hài
hoà.
Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật được dựa trên những
căn cứ thực tiễn chuẩn xác, được rút ra từ sự nghiên cứu sâu sắc, toàn diện
không chỉ thực tiễn pháp lý mà còn những đòi hỏi, nhu cầu khách quan của
thực tiễn, cụ thể là của các quan hệ xã hội cần tới sự điều chỉnh của pháp
luật. Ba là: ngôn ngữ pháp lý phải được rõ ràng, cụ thể, đơn giản, ngắn gọn,
dễ hiểu. Bốn là: hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở
những thành tựu mới nhất của khoa học pháp lý trong nước và ngoài nước.
Tính khả thi cao của hệ thống pháp luật là tiêu chuẩn bắt buộc của hệ
thống pháp luật, được thể hiện ở chỗ: các quy phạm pháp luật do nhà nước
đặt ra hoàn toàn phù hợp với khả năng, điều kiện thực tế để thực hiện. Nói
cách khác, các quy phạm pháp luật không đứng cao hơn hay thấp hơn trình

92
độ phát triển kỹ thuật, văn hoá, xã hội, dân trí,… của xã hội; chúng hoàn
toàn phù hợp với ý chí, nguyện vọng của xã hội.
Cần tập trung xây dựng, hoàn thiện bộ phận pháp luật về tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước; về các quyền, lợi ích hợp pháp và nghĩa vụ
của công dân; về bảo đảm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
và về đối ngoại.
Để góp phần quyết định vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chúng tôi cho rằng cần giải quyết nhiều vấn đề quan trọng, trong
đó nổi lên các vấn đề chủ yếu như: nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn nữa về
vị trí của pháp luật đối với quản lý nhà nước và quản lý xã hội; hoạch định
chiến lược phát triển pháp luật của nhà nước trong những thập niên đầu của
thế kỷ XXI; nâng cao năng lực chuyên môn của các cơ quan và chuyên gia
làm nhiệm vụ xây dựng pháp luật; đẩy mạnh công tác xây dựng luật của
Quốc hội và cải tiến quy trình xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật nói chung; nâng cao hơn nữa kỹ thuật xây dựng pháp luật; dân chủ
hoá việc xây dựng pháp luật, trong đó đặc biệt chú ý tới việc thu hút nhân
dân và các chuyên gia pháp lý tham gia xây dựng pháp luật, xử lý có hiệu
quả những ý kiến xác đáng của dư luận xã hội và của các cấp các ngành có
liên quan. Trước mắt, phải thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi để đưa việc xây dựng,
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật vào nề nếp, có kỷ cương, trật tự.

3.3.4. Tổ chức thực hiện pháp luật, nâng cao chất lƣợng phổ biến,
giáo dục pháp luật
Có pháp luật rồi thì nhà nước phải tổ chức tốt việc thực hiện pháp
luật, nếu không thì pháp luật có cũng như không, và như Lênin đã từng nhấn
mạnh, lúc đó pháp luật chỉ là "những tờ giấy lộn"!
Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật là công việc chung của cả nhà
nước và nhân dân. Tuy vậy, nhà nước vẫn luôn luôn đóng vai trò chủ yếu, vì

93
nó là tổ chức quyền lực do nhân dân thiết lập, thay mặt nhân dân để quản lý
xã hội bằng pháp luật. Nhà nước huy động mọi nguồn lực của mình và tổ
chức nhân dân đóng góp sức người, sức của để đưa pháp luật vào cuộc
sống; thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật
cho cán bộ, công chức và nhân dân.
Tổ chức thực hiện pháp luật là hình thức hoạt động pháp luật chủ yếu
của nhà nước nhằm tổ chức cho tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế và mọi công dân thực hiện pháp luật
một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ và thống nhất trên phạm vi cả nước. Các tổ
chức chính trị - xã hội và mọi công dân có nghĩa vụ tham gia tích cực vào
hoạt động quan trọng của nhà nước. Mục đích hoạt động tổ chức thực hiện
pháp luật là huy động mọi nguồn lực của nhà nước và của nhân dân để đưa
pháp luật vào cuộc sống nhằm tạo ra những giá trị văn minh vật chất và văn
minh tinh thần phong phú cho xã hội; củng cố nhà nước và tăng cường pháp
chế. Qua hoạt động này ý thức pháp luật của nhân dân nói chung, của nhân
viên nhà nước và của các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng cũng được từng
bước nâng cao.
Nội dung hoạt động tổ chức thực hện pháp luật của nhà nước rất
phong phú, đa dạng và phức tạp, gồm nhiều vấn đề, liên quan đến cả người
dân và cán bộ, công chức nhà nước.
- Đổi mới hình thức, phương thức tổ chức phổ biến giáo dục pháp luật.
Để nâng cao hiệu quả của công tác phổ biến giáo dục pháp luật còn
phải tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hoá hoạt
động phổ biến giáo dục pháp luật.
Phân loại các nhóm đối tượng để có kế hoạch, nội dung phổ biến giáo
dục pháp luật cho từng nhóm, lựa chọn được các hình thức phổ biến giáo
dục pháp luật cho phù hợp đối với cán bộ viên chức Nhà nước phải nắm
được các kiến thức cơ bản về Nhà nước và pháp luật nói chung, về pháp luật
hành chính nói riêng, về pháp luật kinh tế và các văn bản pháp luật liên quan

94
đến hoạt động quản lý chuyên môn nghiệp vụ của mình, đồng thời có được
kỹ năng vận dụng, thi hành pháp luật trên cương vị công tác của mình để
thực thi công vụ một cách đúng đắn, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Đối với học sinh - sinh viên tuỳ theo lứa tuổi và cấp học phải có nội
dung phù hợp từ thấp đến cao, từ lồng ghép trong các môn học đến tách
riêng thành môn học chính thức trong các trường đại học để góp phần xây
dựng con người mới Việt Nam XHCN phát triển toàn diện đáp ứng cho
công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Các tầng lớp nhân dân thì phải nắm bắt được các quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân, ngoài ra từng thành phần trong đối tượng này như
thanh niên, phụ nữ, nông dân, đồng bào dân tộc ít người… phải được phổ
biến giáo dục kiến thức pháp luật đáp ứng các nhu cầu thiết thực của họ.
Chẳng hạn đối với đồng bào dân tộc ít người phải được phổ biến giáo dục
các kiến thức pháp luật về bảo vệ rừng, phòng chống ma tuý, chống các hủ
tục lạc hậu, pháp luật về hôn nhân gia đình, về đăng ký hộ tịch…
Đối với các chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý, cán bộ công đoàn ở
các doanh nghiệp ngoài kiến thức pháp luật phổ thông cần được phổ biến
giáo dục pháp luật chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp mà chủ yếu liên quan đến pháp luật dân sự, kinh tế, lao
động.
- Xúc tiến xây dựng các tiêu chí, chỉ báo cụ thể cho việc đánh giá
hiệu quả của hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật.
Phổ biến giáo dục pháp luật chỉ là một yếu tố của quá trình hình thành
ý thức pháp luật của công dân, tuy nhiên hiệu quả của nó cuối cùng vẫn thể
hiện ở việc thực hiện, áp dụng pháp luật và phát huy dân chủ XHCN. Do
vậy để có các định hướng, giải pháp đúng đắn nâng cao hiệu quả hoạt động
phổ biến giáo dục pháp luật phải xây dựng một số tiêu chí cơ bản sau để có
thể thấy được hiệu quả của hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật.

95
Hiệu quả của hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật thể hiện ở sự tăng
trưởng kinh tế ổn định, ở việc tăng những hành vi chấp hành pháp luật và giảm
những hành vi vi phạm pháp luật, ở môi trường văn hóa lành mạnh. Đồng thời
còn được thể hiện ở sự ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội mà sự
hiểu biết, tham gia của mỗi người dân hết sức quan trọng. Số lượng nhân
dân tham gia một cách tự giác trong phong trào an ninh, bảo vệ tổ quốc,
phòng chống tội phạm, phòng chống các tệ nạn xã hội đều nói lên hiệu quả
của hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật.
Ngoài ra còn có thể đánh giá hiệu quả của hoạt động phổ biến giáo
dục pháp luật còn có thể thông qua số lượng các vụ tranh chấp kể cả tranh
chấp lao động, các vụ khiếu kiện được giải quyết thông qua hoà giải ở cơ sở,
qua trợ giúp pháp lý hoặc thông qua việc đánh giá sự hiểu biết pháp luật của
từng nhóm đối tượng, từng địa phương, từng ngành trong các cuộc thi tìm
hiểu pháp luật.
Việc đánh giá hiệu quả của hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật là
một việc khó khăn đòi hỏi các cấp, các ngành phải có sự chỉ đạo cụ thể,
kiểm tra sát sao hoạt động này, có lựa chọn đúng đắn tiêu chí cho từng thời
gian mới đưa ra được đánh giá đúng đắn hiệu quả của công tác phổ biến
giáo dục pháp luật.
- Giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức
Kết hợp phổ biến giáo dục pháp luật với các hoạt động giáo dục khác
như giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức, đặc biệt là với giáo dục
đạo đức. Phổ biến giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức sẽ bổ sung cho
nhau trong việc tác động lên tình cảm, hình thành hành vi hợp đạo đức, hợp
pháp luật ở mỗi công dân.
Gắn hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật với hoạt động tư pháp, trợ
giúp pháp lý và tư vấn pháp luật, để cho pháp luật đi vào nhận thức, tình
cảm của mỗi gia đình, mỗi cá nhân một cách sâu sắc và có tính thuyết phục
hơn. Các cơ quan, tổ chức tư pháp, cơ quan trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp

96
luật tác động một cách có định hướng khi giải thích pháp luật, cung cấp
thông tin sẽ bồi dưỡng tình cảm, lòng tin đối với pháp luật của mỗi công
dân, giúp cho họ biết sử dụng quyền và nghĩa vụ của mình để bảo vệ lợi ích
chính đáng và hợp pháp của công dân được pháp luật quy định.
Đối với công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật,
nhà nước cần sử dụng toàn bộ các phương tiện thông tin đại chúng và cán bộ
pháp luật có năng lực; sử dụng nhiều hình thức khác nhau, như nói chuyện
pháp luật, thi tìm hiểu pháp luật, giải đáp pháp luật, tọa đàm về pháp luật,
vận động nhân dân tham dự các phiên toà, mở nhiều phiên toà lưu động;
nâng cao chất lượng giải thích pháp luật chính thức của cơ quan có thẩm
quyền, đồng thời huy động các nhà khoa học pháp lý, các nhà giáo, cán bộ
hoạt động thực tiễn pháp luật để giải thích pháp luật không chính thức; đổi
mới nội dung và phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật; đào tạo đội
ngũ cán bộ chuyên nghiệp về tuyên truyền, phổ biến pháp luật; đổi mới nội
dung và phương pháp giảng dạy pháp luật ở các trường chuyên luật và
không chuyên luật; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho
đội ngũ giáo viên luật và giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân ở các
trường phổ thông.
Tổ chức thực hiện pháp luật là hình thức hoạt động pháp luật chủ yếu
của nhà nước nhằm tổ chức cho tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế và mọi công dân thực hiện pháp luật
một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ và thống nhất trên phạm vi cả nước. Các tổ
chức chính trị - xã hội và mọi công dân có nghĩa vụ tham gia tích cực vào
hoạt động quan trọng của nhà nước. Mục đích hoạt động tổ chức thực hiện
pháp luật là huy động mọi nguồn lực của nhà nước và của nhân dân để đưa
pháp luật vào cuộc sống nhằm tạo ra những giá trị văn minh vật chất và văn
minh tinh thần phong phú cho xã hội; củng cố nhà nước và tăng cường pháp
chế. Qua hoạt động này ý thức pháp luật của nhân dân nói chung, của nhân

97
viên nhà nước và của các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng cũng được từng
bước nâng cao.
Nội dung hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của nhà nước rất
phong phú, đa dạng và phức tạp, gồm nhiều mặt và liên quan tới mọi cấp,
mọi ngành và mọi lĩnh vực xã hội.
Để hiểu pháp luật thì trước hết phải tiến hành việc phổ biến, tuyên
truyền pháp luật. Đây là biện pháp nhằm tác động vào trạng thái nhận thức
ban đầu, nhận thức ở mức độ cảm tính, làm tăng thêm sự chú ý và thái độ
tôn trọng pháp luật của công chức hành chính, có tác dụng tạo điều kiện cho
giai đoạn sau là nhận thức lý tính, hiểu sâu sắc về pháp luật.
Tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và
pháp luật là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng nhằm đưa pháp luật
vào cuộc sống, góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật cho toàn xã hội nói
chung, cho công chức hành chính nói riêng. Trong xu hướng xây dựng nhà
nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cấp, các ngành từ trung ương đến địa
phương tăng cường quản lý nhà nước, kinh tế - xã hội bằng pháp luật. Điều
đó đòi hỏi phải nâng cao văn hoá pháp lý, ý thức pháp luật cho công chức
hành chính.
Hiện nay còn có tình trạng mất cân đối giữa công tác xây dựng, ban
hành văn bản pháp luật với công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp
luật. Tình trạng vi phạm pháp luật vì do không hiểu pháp luật là một thực
trạng đáng quan tâm cần phải được thay đổi. Việc cán bộ, công chức trong
bộ máy hành chính nhà nước, những người có trách nhiệm tổ chức thực hiện
pháp luật nhất là ở cấp xã, phường, thị trấn ít am hiểu pháp luật, ý thức pháp
luật thấp kém lại do tác động lối sống cộng đồng đã gây những ảnh hưởng
xấu trong công tác tổ chức, thực hiện pháp luật, tuyên truyền giáo dục pháp
luật, làm cho công tác quản lý nhà nước thiếu hiệu quả.

98
Công tác giáo dục pháp luật phải được tiến hành một cách thường
xuyên, liên tục vì đó là một nội dung không thể thiếu được trong giáo dục và
đào tạo, là một bộ phận của giáo dục đào tạo.
Giáo dục pháp luật phải được thực hiện dưới nhiều hình thức với nội
dung, chương trình và phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Quá trình
giáo dục pháp luật dần hình thành ý thức pháp luật, đặc biệt là tâm lý pháp
luật để mọi tầng lớp trong xã hội nói chung, công chức hành chính nói riêng
sẽ khơi dậy tính tích cực của họ trong đấu tranh phòng chống vi phạm pháp
luật, tội phạm nói chung.
Trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của Đảng và
Nhà nước phải đặc biệt coi trọng giáo dục kiến thức pháp luật vì bản thân
pháp luật là cơ sở của mọi hoạt động nhà nước là cơ sở là chuẩn mực cho
mọi hành vi, xử sự của con người, là công cụ cơ bản của quản lý hành chính
nhà nước.
Hiện nay, ngoài những hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật qua
các phương tiện thông tin đại chúng, trong hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước có các hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật tương đối phổ
biến và có hiệu quả là: gửi văn bản quy phạm pháp luật theo đường công
văn giữa các cơ quan nhà nước, Công báo (hình thức chính), phụ lục Công
báo của Nhà nước, Tạp chí Tổ chức Nhà nước của Bộ Nội vụ, phụ lục của
một số tạp chí của một số cơ quan nhà nước. Hình thức chuyển văn bản quy
phạm pháp luật theo đường công văn thì không phải cơ quan nào cũng có
thể nhận được mà phần lớn chỉ có những cơ quan thực thi trách nhiệm về
lĩnh vực đó mới có thể nhận được, trong khi yêu cầu phố biến pháp luật lại
được đặt ra đối với toàn thể công chức hành chính. Còn đối với Công báo,
phụ lục Công báo và Tạp chí Tổ chức nhà nước cũng không phải mọi cơ
quan hành chính đều đã có được vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Hơn nữa
ngay cả trong các loại tài liệu này cũng chưa chứa đựng được hết các loại
văn bản cần thiết cho hoạt động quản lý. Có nhiều văn bản của một số bộ

99
không được đăng trên công báo như: Bộ Quốc phòng, Bộ Công an (chỉ tính
những văn bản không liên quan đến bí mật nhà nước). Do đó một yêu cấp
cấp thiết đặt ra là phải phát huy hơn nữa tác dụng của những hình thức trên,
về mặt số lượng cần tăng thêm số lượng Công báo, về nội dung cần có đầy
đủ các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết cho hoạt động quản lý.
Cần quan tâm đến việc quy định trách nhiệm cung cấp thông tin trong
hệ thống hành chính. Trong đó quy định rõ trách nhiệm, quyền lợi của mỗi
cấp, mỗi cơ quan và mỗi loại cán bộ trong việc cung cấp, tiếp nhận thông tin
pháp luật. Cần khắc phục tình trạng cấp có thẩm quyền cao hơn, vì lý do nào
đó, không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin pháp luật cho tổ
chức, cá nhân cấp dưới và ngược lại cấp có thẩm quyền thấp hơn không báo
cáo hoặc báo cáo không đầy đủ, kịp thời cho cấp trên những thông tin pháp
luật, tư liệu về các vụ việc, nhất là các vi phạm pháp luật xảy ra ở đơn vị, địa
phương mình. Cần có những quy định pháp luật cụ thể xác định rõ trách
nhiệm và mức xử lý đối với những cơ quan, cá nhân cán bộ cố tình có những
thông tin không đầy đủ, chính xác, kịp thời hoặc báo cáo sai sự thật gây thiệt
hại cho xã hội và cho hoạt động quản lý nhà nước.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích và giáo dục
pháp luật. Nhà nước cần sử dụng toàn bộ các phương tiện thông tin đại
chúng, các luật gia và những người hiểu biết pháp luật khác với nhiều hình
thức hoạt động khác nhau, như nói chuyện pháp luật, giải đáp pháp luật, thi
tìm hiểu pháp luật, tọa đàm pháp luật, nhân dân tham dự các phiên toà, mở
nhiều phiên toà lưu động, cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích chính
thức pháp luật và các nhà khoa học pháp lý, các nhà giáo, các nhà hoạt động
thực tiễn giải thích không chính thức pháp luật, giảng dạy pháp luật trong
các trường học của nhà nước và của các tổ chức chính trị - xã hội khác.
Trong thời gian tới, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác
tuyên truỳen, phổ biến, giải thích và giáo dục pháp luật ở nước ta thì nhà
nước cần đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác này; đổi mới nội dung, hình

100
thức và phương pháp tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật;
đào tạo được đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về tuyên truyền, phổ biến pháp
luật; tăng cường việc giải thích pháp luật chính thức bởi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, đồng thời khuyến khích, huy động các nhà khoa học, các
nhà giáo và những người làm công tác thực tiễn pháp luật giải thích pháp
luật không chính thức; đổi mới và bổ sung nội dung, hình thức, phương
pháp giáo dục pháp luật cho các đối tượng trong xã hội, đặc biệt là ở các
trường chuyên luật cần đưa pháp luật vào giảng dạy ở các trường không
chuyên luật và các trường phổ thông. Gấp rút biên soạn giáo trình thống
nhất về các môn pháp luật trong các trường chuyên luật. Đồng thời, phải
biên soạn giáo trình pháp luật để giảng dạy pháp luật ở các trường phổ
thông. Công tác xuất bản cần được nhà nước quan tâm đầu tư hơn nữa. Hiện
nay, các ấn phẩm, sách báo pháp luật cung cấp cho cán bộ, công chức nhà
nước và nhân dân còn hạn chế và nếu có thì giá thành còn quá cao, trong khi
đó nhà nước còn chưa có chính sách bù lỗ cho các cơ quan xuất bản các loại
sách báo pháp lý.
Bên cạnh đó cũng cần quan tâm đến công tác hệ thống hoá văn bản
pháp luật, đây là nhiệm vụ quan trọng cần được tiến hành theo trình tự chặt
chẽ trong toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính nhà nước theo ba dạng chủ
yếu: hệ thống hoá theo giới hạn, thời gian (từng năm, từng quý; hệ thống
hoá theo ngành quản lý hay lĩnh vực kinh tế- xã hội; hệ thống hoá theo thẩm
quyền ban hành hoặc hiệu lực pháp luật của văn bản.
Đối với các địa phương phải xây dựng tủ sách pháp luật, khi có văn
bản mới của Nhà nước và các cơ quan ban ngành có liên quan thì phải phổ
biến cho nhân dân và cán bộ, công chức biết bằng cách niêm yết công khai
các văn bản có liên quan tại các trụ sở cơ quan, xí nghiệp, thông báo trên các
phương tiện thông tin địa phương, đặc biệt là các văn bản quy định quyền
lợi và trách nhiệm của công dân, của các cơ quan, tổ chức liên quan đến các
lĩnh vực như nhà đất, thuế nông nghiệp, thuế thương nghiệp, giấy phép đăng

101
ký kinh doanh, xây dựng. Ở các địa phương, chính quyền cấp xã, phường
cần thành lập đội tuyên truyền pháp luật, với thành phần bao gồm những
người có kiến thức pháp luật, họ được hưởng phụ cấp từ ngân sách Nhà
nước. Hình thức thực hiện là ban hành các cẩm nang pháp luật miễn phí cho
từng hộ gia đình, tất nhiên là những quy định pháp luật trực tiếp liên quan
tới quyền tự do công dân. Bên cạnh đó, Nhà nước cần thành lập các văn
phòng tư vấn pháp luật miễn phí cho người nghèo ở các vùng nông thôn để
giúp nhân dân hiểu và nắm bắt được các quy định của pháp luật, hạn chế đến
mức thấp nhất tỷ lệ "mù pháp luật" trong nhân dân. Đảm bảo tốt những hình
thức này cũng chính là góp phần đảm bảo cho những người chưa có điều
kiện được học tập qua đào tạo chính quy có điều kiện rèn luyện, học tập
nâng cao trình độ hoặc điều chỉnh các hành vi quản lý của mình. Mặt khác
cũng đảm bảo cho các kiến thức pháp lý được phổ biến rộng rãi đến các đối
tượng quản lý, tạo điều kiện tốt cho hoạt động thực thi pháp luật, kiểm tra,
giám sát của công chức hành chính ở địa phương ngày càng thuận lợi hơn.
Cần tiếp tục tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại
chúng (sách, báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình…) trong việc phổ biến,
tuyên truyền pháp luật, phát hiện vi phạm pháp luật. Đây là hình thức tuyên
truyền, phố biến pháp luật rất quan trọng trong xã hội, giúp cho không chỉ
những người thực thi công vụ trong các cơ quan nhà nước mà toàn xã hội có
thể nắm bắt kịp thời những chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước, có được những thông tin kịp thời về những vấn đề mới
nảy sinh, về tình hình vi phạm pháp luật. Từ đó hình thành nên những nhận
thức, hiểu biết quan trọng về pháp luật.
Đối với các hình thức, các kênh chuyển tải thông tin phổ biến trên,
cần quan tâm đến việc sắp xếp chương trình, bài vở theo những chuyên mục
riêng để chuyển trải tri thức, thông tin pháp luật, hoạt động quản lý hành
chính một cách nhanh gọn, dễ hiểu cho các đối tượng quản lý, cho công
chức hành chính. Cần khuyến khích các cuộc thi tìm hiểu pháp luật theo

102
từng lĩnh vực cụ thể trên truyền hình, phát thanh để nâng cao khả năng hiểu
biết pháp luật, khuyến khích thi đua, phấn đấu tìm hiểu pháp luật trong toàn
xã hội nói chung, công chức hành chính nói riêng.
3.3.5. Nâng cao chất lƣợng, hiệu qủa áp dụng pháp luật. Tăng
cƣờng công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật
Nâng cao chất lượng, hiệu qủa áp dụng pháp luật. Tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật, tổ chức tốt việc thực hiện
pháp luật là công việc chung của cả nhà nước và nhân dân. Tuy vậy, nhà
nước vẫn luôn luôn đóng vai trò chủ yếu, vì nó là tổ chức quyền lực do nhân
dân thiết lập, thay mặt nhân dân để quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước
huy động mọi nguồn lực của mình và tổ chức nhân dân đóng góp sức người,
sức của để đưa pháp luật vào cuộc sống; thường xuyên tuyên truyền, phổ
biến, giải thích, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức và nhân dân. Đối
với công tác tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật, nhà nước
cần sử dụng toàn bộ các phương tiện thông tin đại chúng và cán bộ pháp luật
có năng lực; sử dụng nhiều hình thức khác nhau, như nói chuyện pháp luật,
thi tìm hiểu pháp luật, giải đáp pháp luật, tọa đàm về pháp luật, vận động
nhân dân tham dự các phiên toà, mở nhiều phiên toà lưu động; nâng cao chất
lượng giải thích pháp luật chính thức của cơ quan có thẩm quyền, đồng thời
huy động các nhà khoa học pháp lý, các nhà giáo, cán bộ hoạt động thực tiễn
pháp luật để giải thích pháp luật không chính thức; đổi mới nội dung và
phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật; đào tạo đội ngũ cán bộ
chuyên nghiệp về tuyên truyền, phổ biến pháp luật; đổi mới nội dung và
phương pháp giảng dạy pháp luật ở các trường chuyên luật và không chuyên
luật; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ giáo
viên luật và giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân ở các trường phổ
thông.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật là
biện pháp quan trọng vừa ngăn ngừa, răn đe vừa là biện pháp để tuyên

103
truyền phổ biến giáo dục ý thức pháp luật hiệu quả cho người dân. Các tổ
chức chính trị - xã hội và mọi công dân có nghĩa vụ tham gia tích cực vào
hoạt động quan trọng của nhà nước. Mục đích hoạt động tổ chức thực hiện
pháp luật là huy động mọi nguồn lực của nhà nước và của nhân dân để đưa
pháp luật vào cuộc sống nhằm tạo ra những giá trị văn minh vật chất và văn
minh tinh thần phong phú cho xã hội; củng cố nhà nước và tăng cường pháp
chế. Qua hoạt động này ý thức pháp luật của nhân dân nói chung, của nhân
viên nhà nước và của các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng cũng được từng
bước nâng cao.
Đồng thời cần thường xuyên thực hiện hoạt động hệ thống hóa pháp
luật, công tác rà soát các văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát hiện được
những điểm lạc hậu, thiếu, lỗ hổng để tìm cách khắc phục, đồng thời chuẩn
bị điều kiện để xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới,
trước hết và quan trọng nhất là các luật.

3.3.6. Đảm bảo tính minh bạch, công khai của pháp luật
Để xây dựng ý thức và lối sống tuân theo pháp luật trước hết người
dân, doanh nghiệp phải hiểu biết về pháp luật, pháp luật phải bảo đảm tính
công khai, minh bạch; cần nâng cao hiệu quả các hình thức đưa pháp luật
vào cuộc sống hiện có ở nước ta như hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật,
tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý... Đồng thời hoàn thiện, phát triển khoa
học pháp lý, hiệu quả hoạt động đào tạo pháp luật đổi mới chương trình
giảng dạy, học tập pháp luật vv...
Thực trạng hiện nay còn quá nhiều bất cập trong hệ thống pháp luật
của chúng ta. Tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, không rõ ràng, thiếu cụ thể
của các quy định vẫn còn khá phổ biến. Lượng quy phạm trong hệ thống
pháp luật đồ sộ, tồn tại một cách tản mạn ở nhiều loại văn bản do nhiều cơ
quan nhà nước khác nhau ban hành. Hệ thống pháp luật như vậy làm cho
ngay cả những người hành nghề luật cũng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm

104
các thông tin pháp luật chứ không nói gì tới những đối tượng chịu thiệt thòi
trong xã hội. Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam chưa kịp thời. Vì thế, những mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ
thống quy phạm không được phát hiện và sửa đổi một cách kịp thời. Cơ chế
kiểm tra việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo tính thống
nhất của hệ thống pháp luật còn thiếu hiệu quả. Hiện tại, dịch vụ pháp lý ở
Việt Nam còn kém phát triển, thể hiện ở những điểm như: số lượng các tổ
chức dịch vụ pháp lý còn ít, với địa bàn hoạt động chủ yếu ở các thành phố
lớn, tính cạnh tranh còn yếu, phí dịch vụ rất cao so với mức thu nhập của
người dân, loại hình dịch vụ chưa đa dạng, chất lượng dịch vụ thấp, chưa
tạo được niềm tin trong nhân dân.
Để có được một Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, người dân
trong xã hội ấy không thể không có hiểu biết về pháp luật và ý thức tuân thủ
pháp luật. Trong một xã hội hiện đại, không thể nói tới một Nhà nước pháp
quyền và xã hội công dân nếu thiếu vắng các dịch vụ pháp lý cho công
chúng được cung cấp bởi luật sư và các công ty tư vấn pháp luật. Xây dựng
ý thức pháp luật, như vậy cần đến một chiến lược đồng bộ, bao gồm việc
xây dựng ý thức và lối sống tôn trọng, tuân theo pháp luật..., mạnh dạn tích
cực sử dụng pháp luật một cách đúng pháp luật và phát triển nền luật học
nước nhà vừa đậm đà bản sắc dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa vừa
mang tính hiện đại.

105
KẾT LUẬN

Xây dựng ý thức và lối sống tuân theo pháp luật là một trong những
nhiệm vụ vừa có tính chiến lược lâu dài là nhiệm vụ thường xuyên để phục
vụ công cuộc hội nhập của đất nước hiện nay. Một xã hội pháp quyền không
thể thiếu được sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật của cư dân, tổ chức. Nhưng
điều này không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu mà phải là hiện thực trong quá trình
xây dựng, nâng cao ý thức pháp luật.
Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề ý thức pháp luật ở nước ta
hiện nay luôn luôn mang tính cấp bách và có ý nghĩa thiết thực. Tựu chung
lại, luận văn đã thực hiện được một số vấn đề cơ bản như sau:
- Phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản của ý thức pháp
luật, làm cơ sở lý luận để đánh giá thực trạng ý thức pháp luật ở nước ta hiện
nay, từ đó đề xuất những phương hướng và biện pháp pháp lý nhằm từng
bước nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức nhà nước và nhân
dân trong bối cảnh cải cách và hội nhập quốc tế của Nhà nước CHXHCN
Việt Nam.
- Đánh giá ưu, khuyết của ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay; nêu rõ
các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những ưu, khuyết điểm ấy. Việc đánh giá
này, chủ yếu nhằm vào những tồn tại, khuyết điểm của ý thức pháp luật và
của hoạt động tổ chức quản lý nhà nước trong lĩnh vực ý thức pháp luật. Đây

106
chính là căn cứ thực tiễn để đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
- Đề xuất những phương hướng và biện pháp pháp lý nhằm nâng cao
ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Có nhiều phương hướng và giải pháp
về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, xã hội, v.v… nhưng ở đây, chúng tôi
chỉ tập trung phân tích và trình bày sâu vào những phương hướng và biện
pháp pháp lý. Dĩ nhiên, những phương hướng và biện pháp pháp lý đó có
quan hệ mật thiết và tác động qua lại với các phương hướng và giải pháp
khác.
Ý thức pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật là một đề tài khó, phức
tạp, liên quan tới nhiều lĩnh vực, nhiều ngành khoa học xã hội khác, do đó,
việc nghiên cứu này mới chỉ là bước đầu và còn ở mức độ nhất định.
Công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật và cuộc sống của nhà nước
và nhân dân đang đòi hỏi phải tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc và toàn
diện hơn nữa vấn đề ý thức pháp luật, cả về lý luận và thực tiễn, nhằm xây
dựng luận cứ khoa học cho Đảng, nhà nước tiếp tục hoạch định chiến lược,
đường lối, chính sách phát triển, hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao
ý thức pháp luật cho nhân dân trong điều kiện đổi mới, hội nhập quốc tế và
xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ ở nước ta./.

107
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Các Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995
2. Nguyễn Minh Đoan, ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội, tạp chí
Luật học, số 1/2006.
3. Nguyễn Minh Đoan (2002), Hiệu quả pháp luật - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn , Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
4. Nguyễn Văn Động (1986), "Vấn đề pháp luật, pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tác phẩm của Đồng chí Trường- Chinh:" Mấy vấn đề về
Nhà nước CHXHCN Việt Nam". Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, Luật
học, (2),Viện luật học thuộc ủy ban khoa học xã hội Việt Nam.
5. Nguyễn Văn Động (2002), Những vấn đề cơ bản của môn học Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
6. Giáo trình triết học Mac – Lênin, Bộ giáo dục và đào tạo, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà nội, 2004.
7. Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội (1993)
8. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Trường Đại học luật Hà Nội
(1998), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

108
9. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Trường Đại học luật Hà Nội
(2001), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
10. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà nội, 1985.
11. Hồ Chí Minh, Nhà nước và pháp luật, T.3, Nxb Lao động, 1971.
12. Nguyễn Đình đặng Lục, Vai trò của pháp luật trong quá trình hình
thành nhân cách, sách tái bản lần thứ 1, Nxb Tư pháp, 2005.
13. Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền Việt nam, Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1997;
Nguyễn Duy Quý, Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, của dân, do dân, vì dân, bài đăng trên báo nhân dân, ngày
29/11/2001.
14. Phạm Hữu Nghị trong giao trình Lý luận chung nhà nước và pháp luật,
Hoàng thị Kim Quế (chủ biên), Nxb ĐHQGHN, 2005, tr. 495 – 497
15. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương (khoá
VIII), Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997.
16. Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, Viện nghiên
cứu nhà nước và pháp luật (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Pháp luật trong cuộc sống của chúng ta, Alếchxâyép. Nxb Pháp lý, Hà
Nội, 1986.
18. Hoàng Thị Kim Quế, (chủ biên), Giáo trình Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà nội, 2005.
19. Hoàng Thị Kim Quế, Bàn vê ý thức pháp luật, tạp chí Luật học, số
1/2003, tr 40 -44
20. Tinh thần pháp luật, Montesquier, Nxb Giáo dục, Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn-Khoa Luật, Hà Nội, 1996.
21. Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu, Lịch sử các học thuyết chính trị -
pháp lý, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1996.
22. Lê Minh Tâm (1998), "Vấn đề văn hoá pháp luật ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay", Luật học, (5), tr. 17 - 25.

109
23. Tống Đức Thảo (2001), Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền con người
ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.
24. Đào Trí úc, Vấn đề nhà nước pháp quyền và sự cần thiết xây dựng mô
hình tổng thể bộ máy nhà nước ta, tạp chí Cộng sản , số 23, 12-2001.
25. Đào Trí úc (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp
luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đào Trí úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba BCH TW Khoá VIII, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1997.
28 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt
Nam, NXB CTQG, H., 2001.
29. V. I. Lê Nin, Toàn tập, T44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978.
30. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

TRANG WEBSITE

31. http://www.baothanhhoa.com.vn/news/46023.bth

32. http://www.chungta.net/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Luat-
Phap/Tham_nhung-tiep _can_tu_phia_he_thong/
33. http://www.thethaovanhoa.vn/374N20090528011957375T132/bao-
hanh- tre-em-trong-gia-dinh-va-nha-truong-nhung-con-so-biet-noi-
p1.htm

110
111

You might also like