You are on page 1of 29

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ SẢN XUẤT
HÀNG HOÁ VÀ NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ NƯỚC TA HIỆN NAY

GVHD: Bùi Xuân Dũng


SVTH:Ngô Nguyễn Trung Kiên
MSSV: 18143109
Mã lớp học: LLCT150105

Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng năm

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….

Điểm: …………………………

KÝ TÊN
Contents
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ..................................................................................... 1
2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: ........................................................................... 2
CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ HÀNG
HOÁ, SẢN XUẤT HÀNG HOÁ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI .................... 2
1.1. Khái lược sự ra đời và phát triển của triết học Mác – Lênin .................. 2
1.1.1. Những điều kiện, lịch sử ra đời chủ nghĩa Mác ..................................... 2
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ SẢN
XUẤT HÀNG HOÁ VÀ NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ NƯỚC TA HIỆN
NAY .................................................................................................................... 12
2.1. Lý Luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sản xuất hàng hoá ............... 12

2.1.1. Những điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa................ 12

2.1.1.1. Phân công lao động xã hội. ............................................................ 12


2.1.1.2. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
....................................................................................................................... 12
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 26
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có giá trị có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi hay mua bán và được lưu thông trên thị
trường, có sẵn trên thị trường. Sản xuất hàng hóa là một quá trình tạo ra sản
phẩm là hàng hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu, thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người. Trong quan điểm của Mac – Lenin, Sản xuất hàng hóa không chỉ để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của người sản xuất ra nó mà còn là để đáp ứng nhu cầu
của người khác thông qua trao đổi và mua bán.
Sản xuất hàng hoá ra đời là một bước ngoặc của lịch sử phát triển loài người, nó
giúp xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên và dần đưa con người đến hướng phát triển
mới.
Ở Việt Nam trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề
thị trường hàng hoá sức lao động không chỉ là tiêu thức kinh tế mà còn mang ý
nghĩa chính trị. Đặc biệt, đối với một đất nước đang phát triển, đang trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì vấn đề này càng rất cấp thiết.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về quan điểm của chủ nghĩa Mac – lenin về sản
xuất hàng hoá sẽ giúp ta hiểu sâu hơn về nguồn gốc lịch sử cũng như sự phát
triển của hàng hoá để từ đó có được cái nhìn tổng quan về tình hình kinh tế thị
trường thế giới nói chung và đặc biệt với Việt Nam nói riêng. Từ đó, đề tài
nghiên cứu: “QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ SẢN
XUẤT HÀNG HOÁ VÀ NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ NƯỚC TA HIỆN
NAY” được ra đời.

1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
Nhằm mục đích có để tìm hiểu thêm và có những nhìn nhận, đánh giá trực
tiếp về nền sản xuất hàng hoá ở Việt Nam ta hiện nay.Vận dụng, nắm vững triết
học Mác-Lênin giúp chúng ta trau dồi các quan điểm, kiến thức về sự thay đổi
phát triển của con người trong quá trình hình thành và phát triển hàng hoá và sản
xuất hàng hoá.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ HÀNG


HOÁ, SẢN XUẤT HÀNG HOÁ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1. Khái lược sự ra đời và phát triển của triết học Mác – Lênin
1.1.1. Những điều kiện, lịch sử ra đời chủ nghĩa Mác
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó cũng là
thời kỳ Chủ nghĩa Tư bản đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của cách
mạng công nghiệp. Sự phát triển của CNTB làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn
có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. CNTB phát triển có nghĩa là kinh tế TBCN
phát triển - đây là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện những lý tưởng cao
đẹp của con người, trong đó có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan
phải có lý luận mới, khoa học dẫn đường. Trong khi ấy, có một loạt những lý luận
không khoa học đang tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân. Chẳng hạn như
“chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản” - chống CNTB, nhưng đòi thực hiện sở hữu nhỏ,
tức là đi ngược lại lịch sử ; “chủ nghĩa xã hội phong kiến” - chống CNTB nhưng
đòi quay trở về chủ nghĩa phong kiến ; “chủ nghĩa xã hội tư sản” - cho rằng không
cần phải đập tan nhà nước tư sản, chỉ cần sửa chữa nó. Trước tình hình đó đòi hỏi
phải có lý luận mới khoa học ra đời để dẫn đường cho phong trào công nhân. Sự

2
ra đời của Chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt
ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng.
1.1.2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên.
1.1.2.1. Nguồn gốc lý luận.
Mác và Ăngghen kế thừa toàn bộ những tinh hoa lý luận của nhân loại từ cổ đại
đến thời đại các ông nhưng trực tiếp là kinh tế - chính trị cổ điển Anh; CNXH
không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức. Với kinh tế - chính trị cổ điển Anh,
Mác và Ăngghen đã kế thừa học thuyết giá trị của A.Xmít và Đ.Ricácđô và vận
dụng vào phân tích kinh tế TBCN, chỉ ra nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác và
Ăngghen cũng kế thừa Xanh Ximông, Phuriê ở những luận điểm: cần và có thể
đập tan nhà nước tư sản. Với triết học cổ điển Đức, Mác, Ăngghen khắc phục vỏ
duy tâm, thần bí của triết học Hêghen kế thừa phương pháp biện chứng của ông
ta, đặt phương pháp biện chứng này trên nền thế giới quan duy vật. Đồng thời
khắc phục tính siêu hình trong triết học Phoiơbắc, kế thừa CNDV nhân bản của
ông và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng phương pháp biện chứng. Đồng thời
cả chủ nghĩa duy vật, cả phương pháp biện chứng đều được các ông nâng lên về
chất. Trên cớ sở đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
1.1.2.2. Tiền đề khoa học tự nhiên.
Đó là những phát minh khoa học như định luật bảo toàn vật chất và vận động;
định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng. Hai phát minh khoa học này đã
chứng minh tính thống nhất vật chất của thế giới, đồng thời chỉ ra rằng, mọi sự
vật và hiện tượng trong thế giới luôn nằm trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn
nhau. Thuyết tế bào; thuyết tiến hoá đã chứng minh sự thống nhất về mặt kết cấu
sinh học của thế giới hữu sinh; chỉ ra rằng, sự sống và sự đa dạng phong phú của
các loài sinh, động vật là kết quả tiến hoá tự nhiên, lâu dài của chính giới tự nhiên.
Những phát minh này tạo ra điều kiện, tiền đề cho thế giới quan duy vật và phương
pháp biện chứng ra đời.

3
Như vậy triết học Mác ra đời là tất yếu lịch sử, tất nhiên phải có những điều kiện
chủ quan như sự thông minh, lòng yêu thương những người lao động của chính
Mác và Ăngghen.
1.1.3 Quá trình hình thành và phát triển Triết học Mác
1.1.3.1 C.Mác và Ph.Ăngghen và quá trình chuyển biến tư tưởng của các ông từ
CNDT và dân chủ cách mạng sang CNDV và cộng sản chủ nghĩa
C.Mác (5/5/1818 - 14/3/1883), năm 1841 C.Mác nhận bằng tiến sỹ và từ đầu
5/1842 – 3/1843 ông làm ở báo Sông Ranh. Chính thời kỳ làm ở báo Sông Ranh
đấu tranh cho dân chủ đã giúp ông chuyển biến bước đầu từ chủ nghĩa duy tâm và
tinh thần dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa. Khi
báo Sông Ranh bị cấm (từ 1/4/1843) Mác đặt ra cho mình nhiệm vụ xem xét có
phê phán triết học Hêghen về xã hội và nhà nước. Trong thời gian Mác ở Croixnăc
(từ tháng 5 - 10/1843) Mác đã tiến hành phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen, qua đó phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nói chung. Cuối tháng
10/1843 Mác sang Pari. Tại đây được tiếp xúc với không khí cách mạng Pháp và
các đại biểu tiêu biểu của phong trào công nhân đã giúp Mác chuyển biến dứt
khoát sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Các bài báo: Bàn về vấn đề
Do Thái; Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu đăng
trên tạp chí Niên giám Pháp - Đức tháng 2/1844 đánh dấu quá trình chuyển biến
này.
Ph.Ăngghen (28/11/1820 - 5/8/1895) trong khoảng thời gian 1842 - 1843 có điều
kiện tiếp xúc đời sống và phong trào công nhân ở Anh nên đã có sự chuyển biến
về lập trường và thế giới quan. Điều này thể hiện rõ ở những bài báo cũng đăng
trên tạp chí Niên giám Pháp - Đức: Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị -
đứng trên lập trường duy vật phê phán A.Xmít và đ.Ricácđô; Tình cảnh nước Anh;
Tômát Cáclây - vạch trần quan điểm phản động của Cáclây vì đã phê phán chủ
nghĩa tư bản trên lập trường của chủ nghĩa phong kiến.
1.1.3.2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử.
4
Từ 1844 - 1848 là giai đoạn C.Mác và Ph.Ănghen chuyển biến dứt khoát và từng
bước hình hành tư tưởng của mình. Điều này thể hiện ở một loạt tác phẩm như
Bản thảo kinh tế - triết học 1844 - phê phán triết học duy tâm Hêghen, phê phán
khoa kinh tế chính trị cổ điển Anh, tìm nguyên nhân tha hoá con người ở sở hữu
tư nhân; Gia đình thần thánh - phê phán phái Hêghen trẻ, đề xuất một số nguyên
lý triết học duy vật của mình; Hệ tư tưởng Đức - phê phán các hệ tư tưởng Đức
bấy giờ, trình bày quan niệm duy vật về lịch sử; Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
- đánh dấu sự hình thành chủ nghĩa Mác trên tất cả các bộ phận cấu thành (triết
học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và kinh tế chính trị học).
1.1.3.3. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận triết học
Mác và Ăngghen luôn tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng và bổ sung lý luận
triết học của mình. Các tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp ; Ngày mười tám
tháng sương mù của Lui Bônapáctơ; Nội chiến ở Pháp, v.v đã được Mác phát triển
nhiều nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử, như đấu tranh giai cấp trong xã hội
có giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối
kháng; tính tất yếu của chuyên chính vô sản, về thái độ phải đập tan nhà nước tư
sản, v.v. Phê phán Cương lĩnh Gôta phát triển lý luận về hình thái kinh tế - xã hội,
trình bày tư tưởng về hai giai đoạn phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Chống Đuy-
rinh, Biện chứng của tự nhiên, Tư bản, v.v phát triển cụ thể nhiều vấn đề về phép
biện chứng, quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên, phê phán các quan điểm
sai trái; phân tích xã hội tư bản chỉ ra tính tất yếu của sự ra đời nhà nước vô sản,
v.v sau khi Mác mất Ăngghen đã biên tập xuất bản tập 2, 3 của bộ Tư bản, hoàn
thành những tác phẩm triết học quan trọng như: Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước; Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức.
1.1.3.4. Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và
Ph.ăngghen thực hiện
Thực chất cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện thể hiện
ở những điểm chủ yếu sau:
5
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng trong triết học trước đó, Mác và Ăngghen đã tạo ra sự thống nhất hữu cơ
giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng là chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Đây là bước phát triển cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực
hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cho triết học của C.Mác và
Ph.Ăngghen trở nên triệt để. Trước khi triết học Mác ra đời chưa có một nhà triết
học nào giải thích được một cách duy vật lĩnh vực lịch sử - xã hội - tinh thần. Triết
học Mác ra đời đã khắc phục được những hạn chế này.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực
tiễn. Triết học của hai ông trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của
nhân loại tiến bộ. Triết học của hai ông đã gắn bó với phong trào cách mạng của
giai cấp vô sản, còn phong trào vô sản cần đến sự chỉ đường, dẫn dắt của triết học
này.
Thứ tư, với sự ra đời của triết học Mác, Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập
giữa triết học với các khoa học cụ thể. Trước khi triết học Mác ra đời thì triết học
hoặc là đối lập với các khoa học cụ thể, hoặc là hoà tan vào nó. Từ khi triết học
Mác ra đời thì quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện
chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác
các thông số, dữ liệu khoa học, tài liệu khoa học để triết học Mác khái quát, còn
triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các
khoa học cụ thể.
Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.ăngghen thực hiện
Cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện có ý nghĩa hết sức
to lớn:
- Làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, vị trí, chức năng trong hệ thống tri thức
khoa học.
- Làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở trở thành khoa học.
6
- Làm cho triết học Mác trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
1.1.3.5. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác
V.I.Lênin (1870 - 1924) - người đã vận dụng sáng tạo và phát triển triết học Mác
vào thời đại đế quốc chủ nghĩa và bắt đầu xây dựng CNXH hiện thực. Ông đã có
những đóng góp to lớn vào việc phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác
nói riêng.
Khi chống lại những người dân tuý Nga, Lênin đã phát triển lý luận hình thái
kinh tế - xã hội của Mác, bảo vệ sự trong sáng của triết học Mác trước sự xuyên
tác của phái dân tuý Nga; phát triển quan niệm duy vật về lịch sử. Điều này thể
hiện rõ trong các tác phẩm: “Những "người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh
chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”; “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa
dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó”.
Khi chống lại chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Makhơ, Lênin đã khái quát
được những thành tựu khoa học đương thời, đưa ra định nghĩa nổi tiếng về vật
chất, khắc phục được cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học; bổ sung
nhiều vấn đề quan trọng cho lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Điều này được
Lênin trình bày trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghia xkinh nghiệm phê phán”
v.v.
Lênin có nhiều đóng góp vào việc phát triển phép biện chứng, lý luận nhận thức,
vấn đề nhà nước và cách mạng, vấn đề chuyên chính vô sản, vấn đề xây dựng
Đảng kiểu mới v.vCó thể nói, Lênin đã tạo ra một giai đoạn mới trong sự phát
triển triết học Mác. Nhưng cần lưu ý rằng, về bản chất triết học của Lênin là triết
học Mác.
1.2. Khái quát về hàng hoá và sản xuất hàng hoá
1.2.1. Khái niệm hàng hoá.
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán.

7
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức
kinh tế, đó là sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung tự
cấp là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm do lao động tạo ra nhằm để thỏa
mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản
phẩm để bán. Hay nói cách khác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất mà
trong đó, sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính
người trực tiếp sản xuất ra nó mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác
thông qua trao đổi, mua bán.
Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của loài
người. Sản xuất hàng hóa làm xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng
lực lượng sản xuất và làm nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
Hàng hóa có thể tồn tại dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể. Từ khái niệm này, ta
có thể rút ra kết luận một đồ vật muốn trở thành hàng hoá cần phải thỏa mãn 3
yếu tố:
• Hàng hóa là sản phẩm của lao động
• Hàng hóa có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người
• Thông qua trao đổi, mua bán
1.2.2. Các thuộc tính của hàng hoá

– Giá trị sử dụng: Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người. Ví dụ: Giá trị sử dụng của cơm là để ăn, của áo là để
mặc, của máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu là để sản xuất… Và ngay mỗi
một vật cũng có thể có nhiều thuộc tính tự nhiên khác nhau, do đó nó có nhiều giá
trị sử dụng hay công dụng khác nhau: gạo có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng
có thể dùng làm nguyên liệu trong ngành rượu, bia hay chế biến cồn y tế..

Số lượng giá trị sử dụng của một vật không phải ngay một lúc đã phát hiện ra
được hết, mà nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học –
kỹ thuật.

8
Giá trị sử dụng hay công dụng của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể
hàng hóa quyết định. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh
viễn.

Giá trị sử dụng chỉ thể hiện khi con người sử dụng hay tiêu dùng, nó là nội dung
vật chất của của cải, không kể hình thức xã hội của của cái đó như thế nào. Các
Mác chỉ rõ: Chỉ có trong việc sử dụng hay tiêu dùng, thì giá trị sử dụng mới được
thể hiện.

Một vật khi đã là hàng hóa thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không
phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hóa. Chẳng hạn, không khí
rất cần cho cuộc sống con người. nhưng không phải là hàng hóa. Nước suối, quả
dại cũng có giá trị sử dụng, nhưng cũng không phải là hàng hóa. Như vậy, một
vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất
ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong kinh
tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

– Giá trị: Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Các Mác
viết: “Giá trị trao đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là
một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử
dụng loại khác”.

Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng đây
là sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Sự đối lập và mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thể hiện ở chỗ: người làm
ra hàng hóa đem bán chỉ quan tâm đến giá trị hàng hóa do mình làm ra, nếu họ có
chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để có được giá trị. Ngược lại, người mua
hàng hóa lại chỉ chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hóa, nhưng muốn tiêu dùng
giá trị sử dụng đó người mua phải trả giá trị của nó cho người bán. Nghĩa là quá

9
trình thực hiện giá trị tách rời quá trình thực hiện giá trị sử dụng: giá trị được thực
hiện trước, sau đó giá trị sử dụng mới được thực hiện.

1.2.3. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá

Thống nhất: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá. Nếu
một vật có giá trị sử dụng (tức có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, xã
hội), nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao
động) như không khí tự nhiên thì sẽ không phải là hàng hoá. Ngược lại, một vật
có giá trị (tức có lao động kết tinh), nhưng không có giá trị sử dụng (tức không
thể thoả mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng không trở thành hàng hoá.

Đối lập: Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá khác nhau về
chất (vải mặc, sắt thép, lúa gạo…). Nhưng ngược lại, với tư cách là giá trị thì các
hàng hoá lại đồng nhất về chất, đều là “những cục kết tinh đồng nhất của lao động
mà thôi”, tức đều là sự kết tinh của lao động, hay là lao động đã được vật hoá (vải
mặc, sắt thép, lúa gạo… đều do lao động tạo ra, kết tinh lao động trong đó). Thứ
hai, quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách rời nhau cả về mặt
không gian và thời gian.

• Giá trị được thực hiện trong lĩnh vực lưu thông và thực hiện trước.

• Giá trị sử dụng được thực hiện sau, trong lĩnh vực tiêu dùng.

Người sản xuất quan tâm tới giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc
họ cũng phải chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm tới
giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình.

Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Nếu
không thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng

10
và giá trị hàng hoá cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng sản xuất thừa.

11
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ SẢN XUẤT
HÀNG HOÁ VÀ NỀN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Lý Luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sản xuất hàng hoá
2.1.1. Những điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi có đủ hai điều kiện đó là có phân công lao động
xã hội và có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
2.1.1.1. Phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội chính là điền kiện cần cho sản xuất hàng hóa ra đời.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, nghề
khác nhau. Phân công lao động xã hội tạo sự chuyên môn hóa lao động, do đó dẫn
đến chuyên môn hóa sản xuất.
Cơ sở của phân công lao động xã hội đó là: dựa trên những ưu thế về tự nhiên, kĩ
thuật, năng khiếu, sở trường của từng người cũng như của từng vùng; dựa trên
những đặc điểm, ưu thế về mặt xã hội như phong tục, tập quán, ăn ở,… của từng
vùng.
Phân công lao động có vai trò đó là làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu vì khi có phân công lao động xã hội thì mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một
hoặc một vài thứ sản phẩm nhất định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản
phẩm dẫn đến họ phải trao đổi sản phẩm với nhau. Ngoài ra, phân công lao động
xã hội còn làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên, do đó ngày càng nhiều sản
phẩm thặng dư lên trao đổi.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để
sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời và tồn
tại phải có điều kiện thứ hai.
2.1.1.2. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.
Bên cạnh điều kiện cần là sự phân công lao động xã hội, thì cần phải có điều kiện
đủ, đó là phải có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.

12
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế tức là những người sản xuất trở thành những
chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở
hữu của các chủ thể kinh tế hoặc do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản
phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Có ba cơ sở của điều kiện này. Trong lịch sử, sự tách biệt này là do chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất quy định còn trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách
biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi
cá nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Cụ thể, sản
xuất hàng hoá ra đời trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Sự tách biệt này do các quan
hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư
liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm
lao động. Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm
cho những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ
thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu
dùng. Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người khác
phải thông qua việc mua - bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái
hàng hóa.
Cơ sở thứ ba đó là do sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng trực tiếp tư
liệu sản xuất quy định. Sự tách biệt về kinh tế không chỉ ở sự khác biệt về quyền
sở hữu mà còn khác biệt ở quyền sử dụng những khối lượng tư liệu sản xuất khác
nhau của cùng một chủ thể sở hữu. Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể
sản xuất tồn tại trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội thì việc trao đổi
sản phẩm giữa những chủ thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích của họ. Điều
đó chỉ có thể có được khi trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại tức
là trao đổi hàng hóa, sản phẩm của lao động trở thành hàng hóa.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất làm cho sản
phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của người sản xuất đó, do đó họ
13
mới có quyền mang nó đi bán. Thêm vào đó, sự tách biệt ấy còn làm cho quan hệ
trao đổi của chủ thể đó tất yếu mang hình thái trao đổi hàng hóa, vì sự tách biệt
tương đối về mặt kinh tế làm cho những chủ thể sản xuất ấy có lợi ích kinh tế độc
lập với nhau. Chính vì vậy, sản phẩm làm ra phải mang hình thức trao đổi theo
nguyên tắc ngang giá mới công bằng, bình đẳng, đảm bảo lợi ích của các chủ thể
đó.
2.1.2. Đặc trưng của sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá có 3 đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa dùng để trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa là
kiểu tổ chức kinh tế dùng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua
việc trao đổi, mua bán.
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang
tính xã hội.
Thứ ba, mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ không phải
giá trị sử dụng.
2.1.3. Ưu nhược điểm của sản xuất hàng hoá
2.1.3.1 Ưu điểm
Thứ nhất, sản xuất hàng hóa ra đời dựa trên sự phân công lao động xã hội, chuyên
môn hóa sản xuất.
– Khai thác lợi thế về tự nhiên, xã hội, kĩ thuật của từng người, từng cơ sở sản
xuất,…
– Thúc đẩy sự phát triển mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng mở
rộng.
– Phá vỡ tính tự cung tư cấp, bảo thủ lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương làm
tăng năng suất lao động và nhu cầu xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn.
– Khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai, quy mô sản xuất không bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính
khép kín của mỗi cá nhân, gia đình,…

14
– Mở rộng quy mô lớn dựa trên nhu cầu và nguồn lực của xã hội phù hợp với xu
thế thời đại.
– Tạo điều kiện ứng dụng các thành tựu khoa học – kĩ thuật vào sản xuất…
– Thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa là qui
luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén,
biết tính toán,…
– Nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
– Giảm chi phí sản xuất đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng.
Thứ tư, sự phát triển của sản xuất, mở rộng và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân,
các vùng, các nước…
– Nâng cao đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần.
Bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng tồn tại nhiều mặt trái như phân
hóa giàu – nghèo, khủng hoảng kinh tế – xã hội, phá hoại môi trường sinh thái xã
hội,…
2.1.3.2 Nhược điểm.
- Phân hoá giàu nghèo
- Tiềm ẩn khả năng khủng hoảng,…

2.2. Nền sản xuất hàng hoá của nước ta hiện nay
Trong 6 tháng đầu năm 2021, tình hình thế giới và khu vực diễn biến rất
nhanh, phức tạp và khó lường, yếu tố thuận lợi và khó khăn đan xen. Trong
nước, với những thời cơ, thuận lợi và được kế thừa những kết quả quan trọng
đã đạt được của 35 năm đổi mới và của năm 2020, nền kinh tế nước ta tiếp
tục duy trì đà phục hồi trong những tháng đầu năm. Tuy nhiên, nền kinh tế
nước ta vẫn còn rất nhiều khó khăn, thách thức.

Diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 tiếp tục ảnh hưởng khá nặng nề đến
mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, nhất là, đợt bùng phát dịch vào cuối tháng 4
15
đến nay đã tác động tiêu cực đến các ngành, lĩnh vực, địa bàn quan trọng, có đóng
góp lớn đối với phát triển kinh tế; một số khu công nghiệp, nơi tập trung một
lượng lớn lao động, có các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị toàn cầu, đóng góp
nhiều cho phát triển kinh tế, thu ngân sách tại các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải
Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh… bị tạm dừng hoạt động, ảnh hưởng lớn tới các
chuỗi cung ứng và hoạt động sản xuất, xuất khẩu; trong khi đó, giá một số mặt
hàng nguyên vật liệu tăng cao, cước phí vận chuyển quốc tế tăng mạnh đã gây
nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trong bối cảnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã nhận định đúng tình hình,
quyết liệt chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra kịp thời, đúng hướng, hiệu quả; linh hoạt
trong điều hành để hài hòa các mục tiêu trước mắt và lâu dài; phát huy tính chủ
động, năng động, sáng tạo, quyết đoán để ngăn chặn, kiểm soát hiệu quả dịch
Covid-19 với tinh thần “chống dịch như chống giặc”. Đồng thời, tiếp tục nỗ lực
đổi mới, hành động quyết liệt hơn nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả “mục tiêu
kép” vừa phòng, chống dịch, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục hồi, phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Chủ trương “khoanh vùng hẹp” để bảo
đảm sản xuất, duy trì phát triển kinh tế được thực hiện đồng bộ ở các địa phương
đã giúp hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của dịch bệnh. Phấn đấu
hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ kế hoạch của năm 2021, tạo nền tảng vững
chắc cho việc thực hiện các mục tiêu, định hướng chiến lược phát triển đất nước
và hiện thực hoá khát vọng phát triển về tầm nhìn đến năm 2045 đưa Việt Nam
trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng,
Quốc hội.

Trên cơ sở quan điểm, định hướng chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ Công Thương đã quán triệt, cụ thể hóa trong chương trình, kế
hoạch hành động cụ thể, đặc biệt là bám sát diễn biến dịch bệnh để linh hoạt trong
điều hành, bảo đảm thực hiện “mục tiêu kép”; tập trung rà soát, tổ chức triển khai
16
thực hiện quyết liệt, nhanh chóng những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đề ra; kịp
thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát triển.

Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm
2021 tăng 8,91% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 6,29%; quý II tăng
11,45%), thấp hơn tốc độ tăng 9,13% của 6 tháng đầu năm 2019 nhưng cao hơn
tốc độ tăng 2,91% của 6 tháng đầu năm 2020, đóng góp 3,01 điểm phần trăm vào
tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế. Trong đó: Ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng
11,42% (quý I tăng 8,9%; quý II tăng 13,84%), thấp hơn mức tăng của cùng kỳ
các năm 2011 và 2018 trong giai đoạn 2011-2021, đóng góp 2,9 điểm phần trăm.
Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,16%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm.
Ngành khai khoáng giảm 6,61%, làm giảm 0,25 điểm phần trăm mức tăng tổng
giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế do sản lượng dầu thô khai thác giảm 7,3%
và khí đốt tự nhiên giảm 12,5%.

Sản xuất công nghiệp vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá do hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được duy trì và đang dần phục hồi.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 6/2021 ước tính tăng 0,5% so
với tháng trước và tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai
khoáng giảm 2,3% so với tháng trước và giảm 4,9% so với cùng kỳ; ngành chế
biến, chế tạo tăng 0,3% và tăng 8,1%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,6%
và tăng 8,2%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước
thải tăng 7,9% và tăng 6%.

17
Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, ước tính IIP tăng 9,3% so với cùng kỳ năm
trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 11,6% tiếp tục là động lực tăng
trưởng chính của ngành công nghiệp; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,6%;
ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,8%;
riêng ngành khai khoáng giảm 6%.

Chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2021 của một số ngành trọng điểm thuộc ngành
công nghiệp cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng
37%; sản xuất xe có động cơ tăng 33,1%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được
phân vào đâu tăng 17,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,9%;
sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 12,7%; sản
xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 11,2%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 10,6%;
sản xuất thiết bị điện tăng 10,1%. Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số giảm:
Khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,1%; khai thác than cứng và than
non giảm 4,4%;

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 6 tháng đầu năm 2021 tăng cao so
với cùng kỳ năm trước: Thép cán tăng 61,6%; ô tô tăng 50%; linh kiện điện thoại
tăng 38,8%; phân hỗn hợp NPK và điện thoại di động cùng tăng 18,1%; sắt, thép
thô tăng 16,6%; vải dệt từ sợi nhân tạo tăng 11,7%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng
10,3%; xe máy tăng 11,5%; giày, dép da tăng 11,4%; điện sản xuất tăng 8,8%.
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt thiên nhiên dạng khí
giảm 12,5%; phân u rê giảm 5,6%; dầu mỏ thô khai thác giảm 6,6%; than sạch
giảm 4,3%.

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6/2021 tăng 4,9%
so với tháng trước và tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng
đầu năm, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,3% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản
18
xuất xe có động cơ tăng 29,8%; sản xuất kim loại tăng 25,3%; sản xuất máy móc,
thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 24,1%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 16,1%;
chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 12,1%; sản xuất sản phẩm
từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 11,7%; sản xuất thiết bị điện tăng
10,9%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi
tính và sản phẩm quang học giảm 14%; sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế giảm
3,9%.

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm
30/6/2021 tăng 24,3% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm 2020
tăng 26,7%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức tăng
chung hoặc giảm: sản xuất trang phục tăng 15,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng
phi kim loại khác tăng 12,7%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 6,3%; sản xuất
kim loại tăng 4,3%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 0,4%;
sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 14,2%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa
được phân vào đâu giảm 15,1%.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 32,2%

Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 tiếp tục có những diễn biến phức tạp, lan rộng
ra nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước, đã tác động đến hoạt động sản xuất của một
số doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất, tuy nhiên kim ngạch xuất,
nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2021 vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao so với cùng
kỳ năm trước. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 6/2021 ước tính
đạt 54 tỷ USD, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm
nay, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 316,73 tỷ USD, tăng 32,2% so
với cùng kỳ năm trước.

19
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 6/2021 ước tính đạt 26,5 tỷ USD,
tăng 1,2% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,58 tỷ
USD, tăng 5,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 18,92 tỷ
USD, giảm 0,3%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng
6 tăng 17,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 14,2%, khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 18,6%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt
157,63 tỷ USD, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế
trong nước đạt 40,89 tỷ USD, tăng 16,8%, chiếm 25,9% tổng kim ngạch xuất
khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 116,74 tỷ USD, tăng
33%, chiếm 74,1%.

Cụ thể, 25 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 88,9% tổng
kim ngạch xuất khẩu (5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 58%). Trong
đó, mặt hàng điện thoại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 25,1 tỷ
USD, chiếm 15,9% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm
trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 23,7 tỷ USD, tăng 22,1%; máy móc thiết
bị, dụng cụ phụ tùng đạt 17 tỷ USD, tăng 63,4%; hàng dệt và may mặc đạt 15,2
tỷ USD, tăng 14,9%; giày dép đạt 10,4 tỷ USD, tăng 27,8%; gỗ và sản phẩm gỗ
đạt 8,1 tỷ USD, tăng 61,1%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 5,4 tỷ USD, tăng
42,8%.

Còn hoạt động nhập khẩu có sự gia tăng mạnh mẽ trong 6 tháng đầu năm 2021
nhờ sự mở rộng của lĩnh vực sản xuất đã thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu
đầu vào. Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước
tính đạt 159,1 tỷ USD, tăng 36,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực
kinh tế trong nước đạt 55,9 tỷ USD, tăng 30,2%; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 103,2 tỷ USD, tăng 39,5%.
20
Theo đó, cán cân thương mại hàng hóa 6 tháng/2021 nhập siêu 1,47 tỷ USD (cùng
kỳ năm trước xuất siêu 5,86 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập
siêu 15,01 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu
13,54 tỷ USD.

Dự báo hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tiếp tục khởi sắc trong thời gian tới khi mà
các hiệp định thương mại tự do đang dần được thực thi một cách toàn diện hơn,
hiệu quả hơn. Đặc biệt, các hiệp định: CPTPP, EVFTA, UKFTA… sẽ tiếp tục tạo
điều kiện để hàng hóa của Việt Nam thâm nhập vào các thị trường đối tác với thuế
quan ưu đãi, thông qua đó thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng mạnh trong thời gian
tới. Giá hàng hóa xuất khẩu cũng đang có xu hướng tăng, nhất là các mặt hàng thế
mạnh của Việt Nam sẽ là động lực quan trọng để gia tăng giá trị xuất khẩu. Bên
cạnh đó, ở các nước Mỹ và châu Âu đang dỡ bỏ dần hoặc hoàn toàn lệnh phong
tỏa khi đã tiêm đủ số lượng vắc xin, cầu hàng hóa trên thị trường thế giới đang
hồi phục trở lại, đây là cơ hội để Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng
công nghiệp tiêu dùng có thế mạnh.

Theo chu kỳ nhập khẩu hàng hóa nguyên liệu sản xuất thường tăng vào đầu năm
và giảm giai đoạn nửa cuối năm trong khi xuất khẩu đạt đỉnh điểm vào nửa cuối
năm. Nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng cao trong
nửa cuối năm 2021, đặc biệt là đối với ngành điện tử, máy móc thiết bị, đồ gỗ,
hàng dệt may và thủy sản… Vì vậy cán cân thương mại được dự báo sẽ cải thiện
trong thời gian tới.

Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi đợt bùng
phát dịch Covid-19 thứ 4 ở nhiều địa phương, nhất là một số tỉnh, thành phố là
khu vực sản xuất hàng hóa lớn như Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Hồ Chí Minh…
là những địa phương có quy mô kim ngạch xuất nhập khẩu đứng đầu của cả nước.
21
Còn trên thế giới, châu Á tiếp tục là tâm điểm với số ca nhiễm Covid-19 mới gia
tăng nhanh chóng, khiến hàng loạt quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản, Đài Loan,
Indonesia hay Thái Lan. Do đó, bản thân doanh nghiệp phải nỗ lực nâng cao năng
lực cạnh tranh cũng như khả năng thích ứng để vượt qua khó khăn, chủ động
chuyển hướng để nắm bắt hiệu quả những cơ hội từ bối cảnh mới.

Về phát triển thị trường trong nước

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 ước tính đạt
381,9 nghìn tỷ đồng, giảm 2% so với tháng trước và giảm 6,6% so với cùng kỳ
năm trước. Tính chung quý II/2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng ước tính đạt 1.177,6 nghìn tỷ đồng, giảm 8,4% so với quý trước và
tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt
956,8 nghìn tỷ đồng, giảm 7% và tăng 6%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt
101,1 nghìn tỷ đồng, giảm 17,8% và giảm 1,4%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 1,4
nghìn tỷ đồng, giảm 55,4% và giảm 5,7%; doanh thu dịch vụ khác đạt 118,3 nghìn
tỷ đồng, giảm 10,1% và tăng 4,2%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng đạt 2.463,8 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, nếu
loại trừ yếu tố giá tăng 3,55%.

Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đạt 1.985,4 nghìn
tỷ đồng, chiếm 80,6% tổng mức và tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Doanh
thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng đầu năm nay ước tính đạt 224 nghìn tỷ đồng,
chiếm 9,1% tổng mức và giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2020
giảm 20,3%). Doanh thu du lịch lữ hành 6 tháng ước tính đạt 4,5 nghìn tỷ đồng,
chiếm 0,2% tổng mức và giảm 51,8% so với cùng kỳ năm trước do Việt Nam
chưa mở cửa du lịch quốc tế để khống chế dịch Covid-19, đồng thời một số địa
22
phương thực hiện giãn cách xã hội nên du lịch nội địa kém sôi động. Doanh thu
dịch vụ khác 6 tháng ước tính đạt 249,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,1% tổng mức và
tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2020.

Mặc dù dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp, nhưng tâm lý người dân
trong mua sắm hàng hóa tương đối bình tĩnh, không có hiện tượng người dân đổ
xô đi mua hàng hóa tích trữ. Bộ Công Thương đã thường xuyên liên hệ với các
địa phương để tổng hợp và cập nhật tình hình bảo đảm nguồn cung hàng hóa thiết
yếu. Tại các địa phương có dịch bệnh, hoạt động thương mại vẫn diễn ra bình
thường; tình hình hàng hóa trên thị trường cơ bản ổn định; nguồn cung hàng hóa
vẫn đáp ứng tốt nhu cầu của người dân, giá cả ổn định, không xảy ra tình trạng
thiếu hàng, sốt giá.

Trước khó khăn trong tiêu thụ nông sản trong vùng dịch, Bộ Công Thương đã kết
nối các doanh nghiệp phân phối lớn phối hợp với các địa phương (thông qua Sở
Công Thương) để thúc đẩy tiêu thụ nông sản có sản lượng lớn, đã thu hoạch nhưng
gặp khó khăn về thị trường. Đồng thời tiếp tục bám sát, hướng dẫn địa phương để
có phương án hỗ trợ kịp thời, hạn chế tồn ứ nông sản, đảm bảo lưu thông thông
suốt, nông sản không bị ách tắc do khâu lưu thông.

Giải pháp trong thời gian tới

Kinh tế thế giới được dự báo sẽ tiếp tục khởi sắc. Tuy nhiên rủi ro, thách thức vẫn
còn đến từ:
(i) Các biến chủng mới của dịch Covid-19;
(ii) Lạm phát, giá cả có khả năng tăng cao đến hết năm 2021;
(iii) Chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, căng thẳng chính trị, thương mại giữa các
quốc gia lớn.

23
Trong nước, khó khăn, thách thức, rủi ro còn nhiều, nhất là khi tình hình dịch
Covid-19 diễn biến phức tạp, đe dọa trực tiếp tới sản xuất công nghiệp ở các tỉnh
khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng. Mùa du lịch đã qua tháng 6
trong khi mùa mưa bão đã đến, ảnh hưởng tới kích cầu tiêu dùng. Nhiệm vụ đạt
được mục tiêu tăng trưởng cả năm 2021 rất thách thức, đòi hỏi vừa kiểm soát tốt
dịch Covid-19 vừa bảo đảm sản xuất, kinh doanh, có giải pháp hỗ trợ phát triển
công nghiệp và thúc đẩy xuất khẩu.

Các doanh nghiệp, các Sở Công Thương và các đơn vị trực thuộc tập trung triển
khai nghiêm túc Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01 tháng 01 năm 2021 của Chính
phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày
01 tháng 01 năm 2021 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia năm 2021; Chương trình hành động của ngành Công Thương thực hiện Nghị
quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP được ban hành tại Quyết định số
163/QĐ-BCT; Quyết định số 164/QĐ-BCT ngày 19 tháng 01 năm 2021.

Theo đó, cần tập trung thực hiện các nội dung trong thời gian tới, bao gồm: Chủ
động xây dựng các phương án chống dịch bệnh, sẵn sàng đáp ứng với mọi tình
huống dịch bệnh có thể xảy ra; Tập trung triển khai thực hiện Quyết định số
1612/QĐ-BCT ngày 23 tháng 6 năm 2021 về Chương trình hành động của ngành
Công Thương thực hiện Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20 tháng 5 năm 2021 của
Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;

Theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả các mặt hàng thiết yếu để có biện pháp
điều tiết kịp thời, đảm bảo phân phối hàng hóa hợp lý giữa các vùng miền, ổn định
cung cầu - giá cả và lưu thông hàng hóa trên địa bàn cả nước. Đẩy mạnh công tác
24
phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất
lượng góp phần bảo vệ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước. Tăng cường
các hoạt động xúc tiến, kết nối giữa nhà sản xuất, cung ứng với các nhà phân phối,
các tổ chức xúc tiến thương mại trong nước ở các địa phương (thông qua Sở Công
Thương);

Đẩy mạnh quảng bá sản phẩm nông sản trên các kênh thương mại điện tử, hỗ trợ
các địa phương thúc đẩy tiêu thụ lượng nông sản lớn (đã, đang và sẽ vào vụ thu
hoạch) ở các địa phương trên các sàn giao dịch thương mại điện tử uy tín;

Chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường tại các địa phương tập trung triển khai các
kế hoạch kiểm tra, giám sát thị trường, kế hoạch cao điểm; kịp thời phát hiện và
xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giá, các hành vi đầu cơ, găm hàng
và lợi dụng dịch bệnh để thu lợi bất chính; kinh doanh hàng nông sản nhập lậu,
hàng giả, hàng kém chất lượng, không bảo đảm an toàn thực phẩm, an toàn dịch
bệnh và các hành vi gian lận thương mại khác;

Thúc đẩy xuất khẩu; tổ chức khai thác, tận dụng cơ hội từ các FTA để tìm giải
pháp phát triển thị trường và tháo gỡ rào cản để thâm nhập các thị trường mới.
Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa lợi thế từ các Hiệp định
thương mại tự do (FTA) đã có hiệu lực; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, nhập
khẩu; Đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh sản
phẩm xuất khẩu, phát triển thương hiệu.

25
KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận giúp ta hiểu sâu hơn về nguồn gốc lịch sử cũng như sự phát
triển của hàng hoá để từ đó có được cái nhìn tổng quan về tình hình kinh tế thị
trường thế giới nói chung và đặc biệt với Việt Nam nói riêng, giúp ta có cái nhìn
nhận, đánh giá trực tiếp về nền sản xuất hàng hoá ở Việt Nam ta hiện nay.Vận
dụng, nắm vững triết học Mác-Lênin giúp chúng ta trau dồi các quan điểm, kiến
thức về sự thay đổi phát triển của con người trong quá trình hình thành và phát
triển hàng hoá và sản xuất hàng hoá.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-
/2018/821033/view_content?fbclid=IwAR2ESb8rSH5pH03DnU3_y-
IzlLfmApE8N3Hiky0NQmYBqma-18s_oBYhgn4
2. https://cuuduongthancong.com/atc/38/de-cuong-on-tap-mac----le-
nin?fbclid=IwAR2Aj43vqFlGg3J1uMS73UaYoH75FO7ozi5IB3RgyOAuEZxjSZ0b
8TM44k0
3. https://timviec365.com/amp-blog/the-nao-la-san-xuat-hang-hoa-
new2834.html?fbclid=IwAR1V-
1PUZKnukFyzAVXOCBhX9T4ulnLLX9wxfDbYMKXjBHj8CPX-2W0k11s
4. https://luatminhkhue.vn/amp/ly-luan-hang-hoa-suc-lao-dong-theo-c-
mac.aspx?fbclid=IwAR1V-
1PUZKnukFyzAVXOCBhX9T4ulnLLX9wxfDbYMKXjBHj8CPX-2W0k11s
5. https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/tinh-hinh-san-xuat-cong-nghiep-va-hoat-dong-
thuong-mai-thang.html?fbclid=IwAR2iBoxW9Pj2q5crc6-cMlf3E_L9D978s-
8HDXoM6h0QzWNvMj7-l6TO6t4

26

You might also like