You are on page 1of 4

Cảm nhận thơ trữ tình xét cho cùng là cảm nhận "cái tình" trong thơ và tâm

trạng của
nhân vật trữ tình trước thiên nhiên, vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca lãng mạn Việt Nam,
giai đoạn 1932 -1945"ta thoát lên trên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng
Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân
Diệu" (Hoài Thanh –Thi nhân Việt Nam). Đúng thế, bạn đọc đương thời và hôm nay yêu
thơ của Hàn Mặc Từ bởi chất "điên cuồng" của nó. Chính "chất điên" ấy đã làm nên
phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử. "Chất điên" trong
thơ ông chính là sự thay đổi của tâm trạng khó lường trước được. Nét phong cách đặc sắc
ấy đã hội tụ và phát sáng trong cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" đặc biệt là hai khổ thơ đầu
của nhà thơ rất tài hoa và cũng rất đỗi bất hạnh này. Từ đó ta cảm nhận được rõ nét hơn
những chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình.
"Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt,
Khép phòng đốt nến, nến rơi châu..."
Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? "
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi..."
Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn "say trăng" với tình yêu tha
thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ.Ông đã để lại cho hậu thế không biết bao nhiêu kiệt tác
văn chương. Và một trong số đó phải kể đến tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” được rút trong
tập “Thơ điên”, xuất bản năm 1940. Bằng lời thơ mộc mạc, giản dị, bài thơ không chỉ vẽ
ra một bức tranh xứ Huế với vẻ đẹp hài hòa giữa con người và thiên nhiên mà nó còn thể
hiện được tình cảm tha thiết của tác giả dành cho xứ Huế- nơi có một “nàng thơ” mà ông
đang thầm thương trộm nhớ. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu bài thơ ấy , ta dường như
được đắm chìm trong không gian tuyệt đẹp của bức tranh nơi thôn Vĩ cũng những cảm
xúc và tâm trạng rất riêng của nhà thơ.
Ngay từ khi mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình vô
cùng đằm thắm thông qua câu thơ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương
mong đợi. Câu đầu "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ
nhàng trách móc người thương biết bao thương nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm
và tình tứ cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Nhà thơ
cũng hết sức khéo léo khi sử dụng từ “về chơi” thay cho “thăm” bởi nó gợi sự xã giao, xa
cách, “về chơi” là cách nói thân mật, gần gũi của cô gái xứ Huế, cô gái ấy xem nhà thơ
như người bạn tâm giao, tri ân tri kỉ của mình.
Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ –một làng kề sát thành phố Huế bên bờ Hương Giang với những
vườn cây trái, hoa lá sum suê hiện lên thật nên thơ, tươi mát làm sao:
Nhìn nắng hàng cây nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lời thơ khen cây cối xanh tốt nhưng lại nhu huyền ảo, lấp lánh mới thấy hết cẻ đẹp của
“vườn ai”. Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây
đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình
ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươiđẹp, tràn đầy sức sống. “Nắng mới” là nắng sớm bắt
đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mìnhđón lấy những lia nắng sớm kia, và
tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắngmới lên sao lại gợi
một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới nhữngcâu
thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.
“Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu
Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quảnon trắng phếu
Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.”
Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đên thẫn
thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở
chiều rộng. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức
sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc.
Không phải xanh mượt, cũngkhông phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới
diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống củavườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh,
trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên.
Dưới ảnh nắng chan hòa cúng vẻ thanh tịnh mà rất đỗi tuyệt mĩ của thiên nhiên nơi
xứ Huế mộng mơ, Hàn Mặc Tử đã nhẹ nhàng phác họa lên đôi nét về vẻ đẹp con người
nơi đây :
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan
bất ngờ màđẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ
điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư
thực thực. Câu thơ đem lại ấn tượng về sự hoa quyện, quấn quít giữa con người và cảnh
vật trong những nét phác họa mang tính cách điệu : cảnh đơn sơ hiền hòa trong chiếc “lá
trúc”, người trung hậu, thấp thoáng trong gương mặt “chữ điền”. Hơn thế, hình ảnh con
người ẩn hiện sau lá trúc còn tạo nên một nét đẹp e lệ, kín đáo, một vẻ đẹp kín đáo rất
riêng của người xứ Huế.
Nếu như khổ thơ trước, Hàn Mạc Tử vẽ lên trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên
thôn Vĩ tràn đầy sức sống trong khoảnh khắc “năng mới lên”, thì đến khổ thơ thứ 2,
khung cảnh tuyệt đẹp ấy đã mờ dần, nhạt dần để nhường chỗ cho cảnh mây trời sông
nước xứ Huế trong màn đêm mộng ảo, nhuốm màu tâm trạng của thi nhân:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo
đường gió, mâyđi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành,
không thể gặp gỡ và sự xa cách củanhà thơ đối với người thương có thể là vĩnh viễn. Nỗi
buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi
niềm xao xác. Chúng ta không còn thấygiọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa,
chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử -một tâm hồn đau buồn, u uất.Dòng sông Hương hiện ra
mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm nhưmàu khói. Với
một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là
dòngsông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa hắp cũng lay nhè nhẹ trong
một nỗi buồn xavắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong
vòng đời tối lăm, bế tắc.
Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ
lãngmạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai
câu sau nhưng vớicách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánhsáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống
dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lunglinh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá,
thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá thànhdòng sông trăng
lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình
yêukhát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng.
Thơ lồng trongngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Vầng trăng
ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên
bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử
hiểu căn bệnhcủa mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng
không về kịp và Hàn Mặc Tửcũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau
ông vĩnh biệt cuộc đời. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánhtrăng khêu gởi, lả lơi:
Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.
“Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi phải có phong cách tức là
có cái gì đó rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình”. Viết “Đây thôn vĩ dạ”, Hàn Mặc
Tử không chỉ khiến người đọc dừng lại trên dòng thơ của ông bởi bức tranh thiên nhiên
xứ Huế, mà còn bởi những đặc sắc nghệ thuật mà nó mang theo. Trước hết, hai khổ thơ
đầu của bài thơ đã kế thừa thơ ca truyền thống với thể thơ thất ngôn đồng thời cũng thể
hiện nỗ lực cách tân thơ của Hàn Mặc Tử. Bên cạnh đó, bằng những hình ảnh thơ tuy rất
mộc mạc, giản dị nhưng giàu sức gợi, kết hợp với nghệ thuật liên tưởng so sánh và câu
hỏi tu từ, đã khắc họa lên bức tranh xứ Huế yên bình, tràn đấy nắng vàng cùng sắc xanh
tươi thắm. Nhưng ẩn sau vẻ đẹp nên thơ đó là những nỗi lòng thầm kín cùng chút nuối
tiếc của của thi nhân. Tất cả đã thêu nên bức tranh tâm tình bằng thơ đầy mới mẻ.
Đến với hai khổ thơ đầu của bài thơ, ta không chỉ được đắm mình trong bức
tranh thôn Vĩ tuyệt đẹp, tràn đầy sức sống cùng những nỗi lòng thầm kín của nhà thơ, mà
thấy được những bước chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình. Khổ thơ đầu vang
lên đã thể hiện niềm yêu đời, tình yêu cuộc sống, cùng khát khao được trở về với thôn Vĩ
của thi nhân. Yêu cuộc đời, khát vọng mãnh liệt được trở về với thôn Vĩ là thế, tuy nhiên
bệnh tật như hố sâu vô hình khiến thi nhân phải cách xa với cuộc tươi đẹp này. Thật đau
đớn biết bao! Để rồi đến khổ thơ thứ hai, nỗi cô đơn, tuyệt vọng, dự cảm lo âu về sự ngắn
ngủi của cuộc đời, về sự chia ly vĩnh viễn như bao trùm khắp không gian, đất trời, cảnh
vật cũng nhuốm màu sự li tán, chia lìa. Như vậy, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh
toàn bích về cảnh vật và con người thôn Vĩ. Ẩn sau bức tranh thiên nhiên ấy là niềm khát
khao giao cảm với cuộc đời trần thế bằng tình yêu tha thiết, mãnh liệt.
Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Thơ Hàn Mặc Tử có những câu thơ đẹp một cách
lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng lạng.” Quả thực vậy, với những biểu
hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, 2 khổ thơ đầu bài thơ
“Đây thôn Vĩ Dạ” đã khắc họa bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tuyệt đẹp, cùng tiếng lòng
của một tâm hồn thiết tha yêu đời, yêu người. Qua đó mang lại cho người đọc một triết lý
lạc quan sâu sắc: hãy biết yêu cuộc sống ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất. Như
chính nhà thơ “cất lên tiếng thơ từ sự hủy diệt để hướng về sự sống”.Có lẽ vì thế mà
những vần thơ này dù chỉ diễn tả riêng tâm trạng của một con người Hàn Mặc Tử nhưng
lại tạo được sự cộng hưởng lâu bền trong tâm hồn đọc giả.

You might also like