You are on page 1of 70

Bài giảng Môi trường GTVT

Chương 1: Những vấn đề chung về môi trường


1.1. Môi trường
1.1.1. Định nghĩa
Môi trường là một khái niệm rất rộng và được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuỳ
thuộc vào từng đối tượng và mục đích nghiên cứu mà người ta đưa ra các khái niệm cụ thể về môi
trường. Đứng ở mọi phương diện, chúng ta thấy rằng môi trường là tập hợp tất cả các thành phần
của thế giới (các yếu tố vô sinh và hữu sinh, các dạng vật chất và phi vật chất) tác động đến sự tồn
tại và phát triển của sinh vật.
Đối với cuộc sống của con người, môi trường bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên, các
hệ thống do con người tạo ra và các điều kiện kinh tế - xã hội tác động đến sự sống và phát triển
của từng cá nhân, từng cộng đồng và toàn bộ loài người trên hành tinh.
Luật bảo vệ môi trường (2014) của Việt Nam, khái niệm môi trường được giải thích rõ:
"Môi trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và
phát triển của con người và sinh vật" (Điều 3, chương I).
Để thống nhất về mặt nhận thức và ngôn từ, chúng ta sử dụng khái niệm môi trường đã được
giải thích trong Luật bảo vệ môi trường.
1.1.2. Thành phần cơ bản của môi trường và tác động của con người
Theo giải thích trong Luật bảo vệ môi trường (2014) của Việt Nam: "Thành phần môi trường
là yếu tố vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ
sinh thái và các hình thái vật chất khác".
Thành phần môi trường cực kỳ phức tạp với sự có mặt của vô số các yếu tố vô sinh và hữu
sinh. Dựa trên các đặc trưng cơ bản, các nhà khoa học đã chia thành phần môi trường làm 5 quyển
là khí quyển, thạch quyển, thuỷ quyển, sinh quyển và trí quyển.
I.1.2.1. Khí quyển
Khí quyển là lớp khí bao phủ quanh bề mặt Trái đất với chiều cao từ 0 đến 100 km đóng vai
trò duy trì, bảo vệ cuộc sống của con người và sinh vật. Khí quyển được chia làm 5 tầng phân tách
từ mặt đất lên bao gồm: tầng đối lưu, tầng bình lưu, tầng trung gian, tầng nhiệt và tầng điện ly (hình
1.1). Ở tầng đối lưu, thành phần khí quyển gồm Nitơ, Oxi, khí Cacbonic, hơi nước và một số khí
khác như Acgon, Heli, Hydro… và bụi.

1
Bài giảng Môi trường GTVT

Hình 1.1. Cấu trúc khí quyển


Khí quyển duy trì sự sống bằng việc cung cấp O2 và CO2 cho quá trình hô hấp, quang hợp
của con người và sinh vật. Tham gia vào việc giữ cân bằng nhiệt lượng của Trái đất thông qua quá
trình hấp thụ tia tử ngoại từ mặt trời và phản xạ tia nhiệt từ mặt đất. Bên cạnh đó, khí quyển còn
ngăn chặn các tia tử ngoại, tia hồng ngoại và các tia nhìn thấy khác có những tác động nguy hại với
con người và hệ sinh thái.
I.1.2.2. Thạch quyển
Thạch quyển (hay còn gọi là địa quyển) là lớp vỏ rắn ngoài trái đất có độ dày thay đổi theo vị
trí địa lý từ 0 đến 100 km và có cấu tạo hình thái phức tạp. Thạch quyển là cơ sở cho sự sống trên Trái
đất với việc con người đang sống trong một phần rất mỏng manh, có thành phần phức tạp và rất linh
động là mặt đất.
Thành phần của thạch quyển gồm đất và các khoáng chất, chất hữu cơ, không khí và nước
xuất hiện trong quá trình phong hoá lớp vỏ Trái đất (hình 1.2). Lớp đất là thành phần quan trọng
nhất và bị biến đổi tự nhiên dưới tác động của nước, không khí, vi sinh vật và các điều kiện khí hậu
khác.

Hình 1.2. Thành phần của thạch quyển


I.1.2.3. Thuỷ quyển

2
Bài giảng Môi trường GTVT

Thuỷ quyển bao gồm các dạng nguồn nước có trên Trái đất như đại dương, biển, sông suối,
ao hồ, băng ở hai cực Trái đất, trong không khí, trong đất và trong các cơ thể sinh vật. Tổng lượng
nước trên hành tinh ước tính 1,38 tỷ km3 (chiếm khoảng 0,3% tổng khối lượng Trái đất).
Khoảng 97% nước của Trái đất là nước biển và đại dương (nước mặn), 2% nước tồn tại ở
dạng băng nằm ở hai cực Trái đất và 1% là nước ngọt mà con người có thể sử dụng được (hình
1.3). Nước là thành phần vô cùng quan trọng trong việc duy trì cuộc sống của con người và sinh
vật trên Trái đất.

Hình 1.3. Thành phần thuỷ quyển trên trái đất


I.1.2.4. Sinh quyển
Sinh quyển bao gồm tất cả các cơ thể sống tồn tại trong ba môi trường thạch quyển, thuỷ
quyển và khí quyển có quan hệ chặt chẽ với nhau và tương tác với các thành phần vô sinh tạo nên
môi trường sống của các cơ thể sống.
Khác với ba quyển trước đó, sinh quyển không có giới hạn rõ rệt vì nằm trong cả ba thành
phần môi trường kể trên và chỉ tồn tại và phát triển trong những điều kiện nhất định. Đặc trưng cho
các hoạt động của sinh quyển là các chu trình trao đổi chất và các chu trình năng lượng.
I.1.2.5. Trí quyển
Từ khi xuất hiện con người và xã hội loài người, cùng với tiếng nói và chữ viết, con người
đã ngày càng phát triển trí tuệ thông qua sự hoàn thiện não bộ. Sự phát triển của tri thức nhân loại
đã hình thành những nền văn minh và sản xuất ra những lượng của cải, vật chất to lớn làm thay đổi
diện mạo Trái đất.
Chính vì vậy, khoa học hiện đại thừa nhận sự tồn tại của môi trường tri thức bao gồm các
bộ phận trên trái đất mà tại đó có tác động của trí tuệ con người. Môi trường tri thức này được gọi
là trí quyển.
Sự phân chia thành phần của môi trường thành các quyển như trên cũng chỉ có tính chất
tương đối. Các yếu tố, thành phần trong môi trường luôn liên quan đến nhau, tác động lẫn nhau và
bổ xung cho nhau một cách chặt chẽ. Chính vì vậy, các tiêu chí phân loại cần được xác lập cho
từng đối tượng nghiên cứu trong từng hoàn cảnh cụ thể. Mối quan hệ giữa các quyển trong môi
trường được khái quát tại hình 1.4.

3
Bài giảng Môi trường GTVT

Hình 1.4. Mối quan hệ giữa các quyển trong môi trường
1.1.3. Chức năng cơ bản của môi trường
Đối với con người và sinh giới, môi trường có năm chức năng cơ bản sau:
- Môi trường là không gian sống của con người và thế giới sinh vật
Con người và thế giới sinh vật chỉ có thể tồn tại và phát triển trong một không gian môi
trường. Trong quá trình hình thành và phát triển của sinh giới, không gian sống không thay đổi về
độ lớn. Sự xuất hiện, phát triển hay tuyệt chủng của các loài đều nằm trong phạm vi không gian
hữu hạn của Trái đất.
Đối với con người, không gian sống có những đặc thù riêng vì con người có khả năng tạo
dựng, thay đổi không gian sống của mình theo nhu cầu phát triển. Càng phát triển, con người càng
đòi hỏi không gian sống có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu về tiện nghi sinh hoạt, sức khoẻ, thẩm
mỹ và trạng thái tâm sinh lý của con người. Mỗi ngày, con người cần tối thiểu 4m3 không khí sạch
để thở, 2,5 lít nước để uống và một lượng lương thực tương ứng với 20002500 calo.
Tuỳ thuộc nhu cầu tồn tại và phát triển mà không gian sống của con người được phân chia
thành các chức năng như: xây dựng, giao thông vận tải, các quá trình sản xuất, khu vực thương mại
- dịch vụ, khu vực lưu trữ và cung cấp tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên tri thức và khu vực sống
của con người. Con người có thể gia tăng không gian sống cần thiết cho mình bằng việc khai thác
và chuyển đổi chức năng sử dụng của các loại không gian khác như khai hoang, phá rừng, cải tạo
các vùng đất và nước mới.
Cũng như con người, các loài động thực vật trên Trái đất cũng cần những không gian để tồn
tại và phát triển. Tuỳ thuộc vào đặc điểm, tính chất và điều kiện sinh lý của các loài mà cần những
môi trường và không gian sống cụ thể.
Ví dụ: Cá chỉ sống ở trong môi trường nước, tuy nhiên cá nước ngọt chỉ sống trong môi
trường nước ngọt mà không thể sống trong biển, đại dương và ngược lại; các loại cây lá kim chỉ
sống trong khu vực có điều kiện khí hậu lạnh giá; sự di cư của các loài chim để tìm điều kiện khí
hậu sống phù hợp; sự khác biệt giữa những khu vực khí hậu dẫn đến các điều kiện sống cũng thay
đổi như cùng một loài gấu mà sống ở những điều kiện khác nhau từ nhiệt đới nóng ẩm đến những
vùng khí hậu ôn đới và cả ở Nam cực thì điều kiện và phương thức sống khác nhau…
- Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên
Môi trường là nơi cung cấp cho con người và các sinh vật khác nguồn tài nguyên thiên nhiên
bao gồm tài nguyên tái tạo và tài nguyên không có khả năng tái tạo. Bên cạnh đó, môi trường còn
chứa đựng các dạng thông tin trong tự nhiên mà con người cần khai thác. Các nguồn tài nguyên
4
Bài giảng Môi trường GTVT

thiên nhiên có trong khí quyển, thạch quyển, địa quyển và sinh quyển, còn nguồn tài nguyên tri
thức được hình thành và phát triển từ trí quyển.
Con người khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho các hoạt động sản xuất
và đời sống. Tài nguyên thiên nhiên là đầu vào trong hệ thống sản xuất - tiêu dùng (hệ thống kinh
tế) của xã hội loài người (hình 1.5). Từ thực tiễn sinh hoạt, sản xuất và phát triển, con người đã
thăm dò, phát hiện và khai thác tài nguyên trong lòng đất, dưới biển cả…

MÔI TRƯỜNG
Chất thải trong
Tài nguyên quá trình sản xuất
thiên nhiên và tiêu dùng

Đầu vào Đầu ra


HỆ THỐNG KINH TẾ

Hình 1.5. Mối quan hệ giữa môi trường và hệ thống kinh tế


Việc khai thác nguồn tài nguyên của con người đang có xu hướng làm tài nguyên không tái
tạo bị cạn kiệt, tài nguyên tái tạo không phục hồi, dẫn đến cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi
trường. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, con người ngày càng tăng cường
khai thác các dạng tài nguyên mới và gia tăng số lượng khai thác và tác động mạnh mẽ tới chất
lượng môi trường sống. Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng giúp con người có
những thành tựu to lớn trong việc nghiên cứu những vật chất nhân tạo thay thế tài nguyên thiên
nhiên. Ví dụ: con người đã phát minh ra các loại nguyên vật liệu nhân tạo mới thay thế các vật liệu
khai thác trong tự nhiên, sử dụng các dạng năng lượng mới nhằm mục đích thay thế những loại tài
nguyên không tái tạo như than đá, dầu mỏ, khí đốt… và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Đối với các sinh vật khác, nguồn tài nguyên có thể là thức ăn, điều kiện sống… để sinh vật
tồn tại và phát triển. Ví dụ: thực vật cần ánh sáng mặt trời để quang hợp, nước và muối khoáng để
phát triển. Các sinh vật sản xuất trong chuỗi thức ăn trở thành nguồn tài nguyên cho các sinh vật
tiêu thụ (hình 1.6.).

5
Bài giảng Môi trường GTVT

Hình 1.6. Chuỗi thức ăn - sinh vật sản xuất là tài nguyên của sinh vật tiêu thụ
- Môi trường là nơi chứa đựng chất thải
Bên cạnh chức năng cung cấp tài nguyên thiên nhiên, môi trường còn là nơi tiếp nhận và chứa
đựng những chất thải trong quá trình hoạt động của con người và các sinh vật khác.
Trong các hoạt động của con người, từ việc khai thác tài nguyên cho quá trình sản xuất đến
việc tiêu dùng sản phẩm đều sinh ra phế thải. Có nhiều loại hình chất thải nhưng đều tập trung ở
ba dạng chính là chất thải rắn, khí thải và chất thải lỏng. Các chất thải do con người tạo ra được
đưa trở lại môi trường, nơi cung cấp nguồn tài nguyên (hình 1.7).
Nhờ hoạt động của các vi sinh vật và các yếu tố môi trường khác, chất thải sẽ biến đổi trở
thành các dạng ban đầu trong một chu trình sinh địa hoá phức tạp. Khả năng tiếp nhận và phân huỷ
chất thải của môi trường (trong điều kiện chất lượng môi trường khu vực tiếp nhận không thay đổi)
được gọi là khả năng nền của môi trường. Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng nền hoặc thành
phần của chất thải khó phân huỷ và xa lạ, thậm chí có hại với sinh vật, thì chất lượng môi trường
sẽ bị suy giảm và môi trường bị ô nhiễm.

Tài nguyên Quá trình sản xuất Quá trình tiêu dùng

Chất thải

Tái sử dụng

Môi trường

Hình 1.7. Môi trường - nơi chứa đựng các chất thải
6
Bài giảng Môi trường GTVT

Đối với các loài sinh vật khác, các chất thải trong quá trình sinh trưởng và phát triển như gỗ,
lá... của các loài thực vật; phân, nước tiểu, thức ăn dư thừa... của các loài động vật được thải trực
tiếp vào môi trường và được phân huỷ trong môi trường. Sản phẩm của quá trình phân huỷ này lại
là nguồn dinh dưỡng cho quá trình sinh trưởng của nhiều loài động, thực vật khác. Ví dụ: phân của
động vật vừa là nguồn dinh dưỡng cho cây cối, môi trường sống của bọ hung và giúp làm tăng độ
xốp của đất.
- Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật
trên Trái đất
Sự phát sinh và phát triển trên Trái đất phụ thuộc vào các thành phần môi trường như khí
quyển, sinh quyển, thạch quyển, thuỷ quyển, trí quyển và các chức năng của chúng. Ví dụ: Khí
quyển giữ cho nhiệt độ Trái Đất ổn định, tránh khỏi các bức xạ quá cao làm tăng nhiệt độ ngoài
khả năng chịu đựng của con người, ngăn cản các tia nguy hại đến từ mặt trời...; Thuỷ quyển thực
hiện chu trình tuần hoàn nước, giữ cân bằng nhiệt độ, giảm nhẹ tác động có hại của thiên nhiên;
Thạch quyển cung cấp năng lượng, vật chất cho các quyển khác trên Trái Đất, giảm nhẹ các tác
động tiêu cực của thiên tai tới con người và sinh vật…
- Môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người
Môi trường là nơi cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử địa chất, lịch sử tiến hoá của vật
chất và sinh vật, lịch sử phát triển và văn hoá của con người. Môi trường cung cấp các chỉ thị không
gian và tạm thời mang tính chất báo động sớm các nguy hiểm đối với con người và sinh vật sống
trên Trái Đất như các tai biến, hiểm hoạ của thiên nhiên. Ví dụ: bão, động đất, núi lửa,...
Bên cạnh đó. môi trường là nơi lưu trữ và cung cấp cho con người sự đa dạng các nguồn
gien các loài động thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp và cảnh quan có giá
trị thẩm mỹ, tôn giáo và văn hoá khác.
1.1.4. Những đặc trưng chủ yếu của môi trường
Dưới ánh sáng của cách mạng khoa học - kỹ thuật – công nghệ hiện đại, môi trường cần
được xem xét như là một hệ thống mang đầy đủ những đặc trưng của hệ thống như:
- Tính cơ cấu (cấu trúc) phức tạp
Hệ thống môi trường (gọi tắt là hệ môi trường) bao gồm nhiều phần tử (thành phần) hợp
thành. Các phần tử đó có bản chất khác nhau (tự nhiên, kinh tế, dân cư, xã hội) và bị chi phối bởi
các quy luật khác nhau, đôi khi đối lập nhau.
Cơ cấu của hệ môi trường được thể hiện chủ yếu ở cơ cấu chức năng và cơ cấu bậc thang.
Theo chức năng có thể phân hệ môi trường ra vô số phân hệ. Tương tự như vậy, theo thang cấp
(quy mô) cũng có thể phân ra các phân hệ từ lớn đến nhỏ. Các phần tử cơ cấu của hệ môi trường
thường xuyên tác động lẫn nhau, quy định và phụ thuộc lẫn nhau (thông qua trao đổi vật chất -
năng lượng – thông tin) làm cho hệ thống tồn tại, hoạt động và phát triển.
Vì vậy, mỗi sự thay đổi của mỗi phần tử của cơ cấu trong hệ môi trường đều gây ra phản
ứng dây chuyền trong toàn hệ, làm suy giảm hoặc gia tăng số lượng, chất lượng của nó.
- Tính động
Hệ môi trường không phải là một hệ tĩnh mà luôn luôn có những biến đổi trong cấu trúc của
nó, trong quan hệ tương tác giữa các phần tử cơ cấu và trong từng phần tử cơ cấu. Bất kỳ một sự
thay đổi nào của hệ đều làm cho nó lệch khỏi trạng thái cân bằng trước đó và hệ lại có xu hướng

7
Bài giảng Môi trường GTVT

lặp lại thế cân bằng mới. Đó là bản chất của quá trình vận động và phát triển của hệ môi trường. Vì
thế cân bằng động là một đặc tính cơ bản của môi trường với tư cách là một hệ thống.
- Tính mở
Môi trường dù với quy mô lớn nhỏ như thế nào cũng đều là một hệ thống mở. Các dòng vật
chất, năng lượng, thông tin lien tục “chảy” trong hệ thống theo không gian và thời gian (từ hệ này
sang hệ khác, từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác,…)
Vì vậy, các vấn đề môi trường mang tính diện rộng, tính toàn cầu, tính lâu dài (viễn cảnh)
cần được giải quyết bằng sự nỗ lực của toàn thể cộng đồng, bằng sự hợp tác giữa các quốc gia trên
thế giới vì lợi ích của thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau.
- Khả năng tự tổ chức và tự điều chỉnh
Trong hệ môi trường, có các phần tử cơ cấu là vật chất sống (con người, giới sinh vật) hoặc
các sản phẩm của chúng. Các phần tử này có khả năng tự tổ chức lại hoạt động của mình và tự điều
chỉnh để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo quy luật tiến hóa nhằm hướng tới trạng thái
ổn định.
Đặc tính cơ bản này của hệ môi trường quyết định tính chất, mức độ, phạm vi can thiệp của
con người đồng thời tạo mở hướng giải quyết căn bản, lâu dài các vấn đề môi trường cấp bách hiện
nay (tạo khả năng tự phục hồi của các tài nguyên sinh vật đã suy kiệt, xây dựng các hồ chứa và các
vành đai cây xanh, nuôi trồng thủy hải sản,…)
1.2. Hệ sinh thái
1.2.1. Định nghĩa
Hệ sinh thái là một hệ thống bao gồm các quần xã sinh vật (thành phần hữu sinh) cùng các
điều kiện môi trường bao quanh nó (thành phần vô sinh), tương tác với nhau và với môi trường
bằng các dòng năng lượng tạo nên cấu trúc dinh dưỡng nhất định, sự đa dạng về loài và chu trình
tuần hoàn vật chất. Giữa chúng luôn xảy ra quá trình trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin liên
tục không ngừng mà kết quả của sự tác động đó quyết định chiều hướng phát triển của quần xã và
sinh cảnh của toàn hệ.
Hay nói một cách đơn giản hơn: “Hệ sinh thái là tổ hợp các quần xã sinh vật với môi trường
vật lý mà quần xã đó tồn tại. Ở đấy, các sinh vật tương tác với nhau và với môi trường để tạo nên
chu trình vật chất và sự chuyển hoá năng lượng”. Có thể minh hoạ hệ sinh thái bằng công thức đơn
giản sau:

Quần xã Môi trường Năng lượng


+ + = HỆ SINH THÁI
sinh vật xung quanh mặt trời

Hình 1.8 dưới đây mô tả cấu trúc của một hệ sinh thái với mối quan hệ giữa các yếu tố trong
quần xã sinh vật, giữa quần xã sinh vật với các yếu tố vật lý của môi trường xung quanh.

8
Bài giảng Môi trường GTVT

HỆ SINH THÁI

Mặt
trời
- Các chất vô cơ: (C, N, CO2, H2O,
O2…) tham gia vào chu trình
Sinh vật sản xuất
tuần hoàn vật chất
(sinh vật tự dưỡng): - Các chất hữu cơ: (Protein, Lipid,
Glucid…) liên kết giới vô sinh với
giới hữu sinh
- Chế độ khí hậu: (ánh sáng,
Sinh vật tiêu thụ nhiệt độ, độ ẩm và các yếu
Sinh vật phân huỷ:
Vi sinh vật, đất, tố vật lý khác)
(sinh vật dị dưỡng):
nấm…
Môi trường
Quần xã sinh vật vật lý

Hình 1.8. Minh hoạ cấu trúc một hệ sinh thái


1.2.2. Cấu trúc của hệ sinh thái
Trong mỗi hệ sinh thái đều có các thành phần sau:
- Sinh vật sản xuất (Producer): Là những sinh vật tự dưỡng (autotrophy) bao gồm các loài
thực vật có màu và một số nấm, vi khuẩn có khả năng quang hợp hoặc hoá tổng hợp. Chúng là thành
phần không thể thiếu được trong bất kỳ hệ sinh thái nào, là nguồn thức ăn ban đầu được tạo thành để
nuôi sống chính những sinh vật sản xuất sau đó nuôi sống cả thế giới sinh vật còn lại kể cả con người.
- Sinh vật tiêu thụ (Consumer): là những sinh vật dị dưỡng (heterotrophy) bao gồm các động
vật và vi sinh vật sử dụng các hợp chất hữu cơ lấy trực tiếp hay gián tiếp từ sinh vật sản xuất.
- Sinh vật phân huỷ (Reducer): bao gồm các vi khuẩn và nấm. Chúng phân huỷ các phế thải
và xác chết của các vật sản xuất và sinh vật tiêu thụ.
- Môi trường (Environment): Bao gồm tất cả các nhân tố sinh thái của sinh cảnh như đất,
nước, không khí, tiếng ồn. Môi trường đáp ứng tất cả các yêu cầu của sinh vật trong hệ sinh thái.
Trong môi trường cói các thành phần cơ bản sau:
+ Các chất vô cơ: C, N, H2O, CO2 ... tham gia vào chu trình vật chất
+ Các chất hữu cơ: chất đạm, bột đưòng, chất béo, chất mùn,... liên kết các phần tử hữu sinh
và vô sinh
+ Chế độ khí hậu: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,...
1.2.3. Các kiểu chính của hệ sinh thái (Phân loại hệ sinh thái)
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại hệ sinh thái theo mục đích nghiên cứu, đặc điểm
của đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, đứng ở mức độ vĩ mô, hệ sinh thái được phân loại gồm hệ tự
nhiên và hệ nhân tạo.
- Hệ sinh thái tự nhiên bao gồm hệ các sinh thái nguyên sinh như rừng nguyên sinh, sông,
hồ... hay hệ sinh thái tự nhiên đã được cải tạo. Ví dụ: Một hệ sinh thái vùng hồ bao gồm các quần
thể sinh vật: thực vật nước, động vật phù du, các động vật không xương sống, các loài cá, các động
9
Bài giảng Môi trường GTVT

vật lưỡng cư, các hệ thực vật quanh hồ...(xem hình 1.10) Môi trường sống trong hệ sinh thái hồ là
nước, bùn trong hồ, khu vực đất quanh hồ, môi trường không khí bao quanh khu vực hồ, ánh sáng
mặt trời, thức ăn... đã hình thành nên các hoạt động sống của các quần xã sinh vật trong hệ sinh
thái hồ.
- Hệ sinh thái nhân tạo: là hệ sinh thái do con người tạo ra và phục vụ các hoạt động sống
của con người và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Ví dụ: Một hệ sinh thái đô thị bao gồm nhà cửa,
nhà máy, khu vui chơi giải trí, truờng học, bệnh viện... và các hoạt động sản xuất, dịch vụ, du lịch
đi cùng sự phát triển hoặc suy thoái cuả đô thị đó.
1.3. Tài nguyên
1.3.1. Khái niệm
Tài nguyên có thể hiểu bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu - năng lượng, thông
tin có trên Trái đất mà con người và sinh vật có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát
triển.
Tài nguyên thiên nhiên được phân bố trong thành phần môi trường như khí quyển, thạch
quyển, thuỷ quyển và sinh quyển. Tài nguyên phân bố không đồng đều giữa các vùng trên Trái đất,
trên một vùng lãnh thổ hay một khu vực có nhiều loại hình tài nguyên khác nhau. Tuỳ thuộc vào
nhu cầu phát triển của con người mà các nguồn tài nguyên được khai thác ở các mức độ khác nhau.
Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được
khai thác ngày càng tăng.
Tài nguyên phi vật chất được tạo ra do con người và quay lại phục vụ cuộc sống của con
người.
Như vậy, khái niệm tài nguyên được khái quát như sau: "Tài nguyên là tất cả các dạng vật
chất, phi vật chất và tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất cho con người, là cơ sở tồn tại
và phát triển của sinh vật trên Trái đất".
1.3.2. Phân loại tài nguyên
Có nhiều quan điểm và tiêu chí khác nhau để phân loại tài nguyên. Sự phân loại cũng chỉ có
tính tương đối vì sự đa dạng của tài nguyên và tuỳ thuộc mục đích khai thác, sử dụng tài nguyên
của con người. Tuỳ thuộc vào bản chất của tài nguyên có thể phân loại thành hai dạng cơ bản là tài
nguyên thiên nhiên và tài nguyên con người.
- Tài nguyên thiên nhiên: là loại hình tài nguyên gắn liền với các yếu tố tự nhiên. Tài nguyên
thiên nhiên được phân theo dạng vật chất như tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên biển, tài
nguyên rừng, tài nguyên sinh học...
- Tài nguyên con người: hay tài nguyên nhân văn gắn liền với các nhân tố con người, xã hội
và các giá trị văn hoá - lịch sử (vật thể, phi vật thể) do con người tạo ra trong quá trình tồn tại và
phát triển. Tài nguyên con người có thể được phân thành tài nguyên lao động, tài nguyên tri thức,
tài nguyên thông tin...
Đối với tài nguyên thiên nhiên có thể phân loại thành các dạng sau:
+ Theo đặc tính hoá học của tài nguyên thiên nhiên mà phân thành tài nguyên vô cơ và tài
nguyên hữu cơ.
+ Theo mức độ sử dụng và bản chất của tài nguyên mà phân thành tài nguyên tái sinh và tài
nguyên không tái sinh. Từ các loại tài nguyên này, tuỳ thuộc vào bản chất, mục đích khai thác sử
dụng... mà phân loại thành các loại hình nhỏ hơn (hình 1.12).
10
Bài giảng Môi trường GTVT

Hình 1.12. Phân loại các nguồn tài nguyên thiên nhiên
1.3.3. Vị trí của tài nguyên trong phát triển kinh tế - xã hội
Tài nguyên là đối tượng sản xuất của con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại
hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng tang. Với các
giá trị có được, tài nguyên thiên nhiên có vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã
hội:
- Tài nguyên thiên nhiên là một nguồn lực cơ bản để phát triển kinh tế
- Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển
- Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng cho tích lũy để phát triển
Phát triển hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể cung cấp ổn định nguồn nguyên vật
liệu cho nhiều ngành công nghiệp chế biến và sản xuất trong nước, góp phần giảm nhẹ ảnh hưởng
của khủng hoảng năng lược và nguyên liệu từ bên ngoài.
1.4. Ô nhiễm môi trường
1.4.1. Khái niệm
Ô nhiễm môi trường đã và đang là hiểm hoạ đối với sinh giới và con người trên hành tinh.
Nguyên nhân của ô nhiễm chủ yếu là do các hoạt động sinh hoạt và sản xuất của con người, đặc
biệt là các hoạt động công nghiệp.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về ô nhiễm môi trường. Ô nhiễm môi trường được hiểu là
việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức
khoẻ con người, đến sự phát triển của các hệ sinh thái hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường.
Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải
rắn) chứa hoá chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, ánh sáng
mặt trời, bức xạ...
Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc
cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và môi
trường sinh thái.

11
Bài giảng Môi trường GTVT

Ở nước ta, khái niệm ô nhiễm môi trường được định nghĩa tại điều 3, chương 1 Luật bảo vệ
môi trường 2014, cụ thể như sau: “Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi
trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng
xấu đến con người và sinh vật”.
Để thống nhất về mặt nhận thức và ngôn từ, chúng ta sử dụng khái niệm môi trường đã được
giải thích trong Luật bảo vệ môi trường.
Các loại hình ô nhiễm môi trường được phân loại tuỳ vào các tác nhân gây ô nhiễm và nguồn
tiếp nhận các chất ô nhiễm, ví dụ như khí thải gây ô nhiễm không khí, nước thải gây ô nhiễm nước
và đất. Tuy nhiên, có thể gộp thành ba nhóm lớn là ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí và ô nhiễm
đất. Bên cạnh đó, còn có các loại hình ô nhiễm khác như ô nhiễm nhiệt, phóng xạ, tiếng ồn.
1.4.2. Ô nhiễm môi trường nước
a) Khái niệm
Ô nhiễm nước là sự thay đổi thành phần và tính chất lý hóa sinh học của nước, sự thay đổi này
ảnh hưởng đến hoạt động sống bình thường của con người và sinh vật.
Nguồn nước được xem là ô nhiễm khi nồng độ các chất gây ô nhiễm vượt quá mức quy định và
không đảm bảo yêu cầu chất lượng nước sử dụng cho các mục đích khác nhau.
b) Các nguồn gây ô nhiễm nước
 Theo nguồn gốc:
- Nguồn gốc tự nhiên: Do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ lụt,… đưa vào môi trường nước chất
thải bẩn, các sinh vật và vi sinh vật có hại kể cả xác chết của chúng.
- Nguồn gốc nhân tạo: Quá trình thải các chất độc hại chủ yếu dưới dạng lỏng như các
chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vào môi trường nước.
 Theo bản chất của các tác nhân ô nhiễm: Ô nhiễm vô cơ, ô nhiễm hữu cơ, ô nhiễm hóa chất,
ô nhễm vi sinh vật, cơ học hay vật lý (Ô nhiễm nhiệt hoặc do các chất lơ lửng không tan), ô
nhiễm phóng xạ.
 Theo vị trí không gian: Ô nhiễm nước mặt, ô nhiễm nước ngầm, ô nhiễm biển,…
 Theo phạm vi thải vào môi trường nước: Dạng điểm (ví dụ ô nhiễm từ một miệng cống thải
nhà máy), dạng diện (ví dụ ô nhiễm từ một vụ tràn dầu trên một vùng biển), …
c) Các tác nhân gây ô nhiễm nước
- Tác nhân và thông số ô nhiễm hóa lý học: màu sắc, mùi vị, độ đục, nhiệt độ, chất lơ lửng,
độ cứng, độ dẫn điện, độ pH, độ oxy hòa tan trong nước, nhu cầu oxy sinh hóa BOD,
nhu cầu oxy hóa học,…
- Tác nhân ô nhiễm hóa học: kim loại nặng (Hg, Cd, As, Cr, Cu, Zn, Mg,…), các anion
(NO3-, PO43-, SO42-,…), thuốc bảo vệ thực vật.
- Tác nhân ô nhiễm sinh học: các loại vi khuẩn, siêu vi khuẩn, ký sinh trùng gây bệnh như
tả, lỵ, thương hàn, sốt rét, giun sán,… Để đánh giá mức độ ô nhiễm sinh học người ta
thường dung chỉ số coliom. Đây là chỉ số phản ánh số lượng vi khuẩn E.coli trong nước,
thường không gây bệnh cho người và sinh vật.
d) Một số hình thức ô nhiễm nước
 Ô nhiễm nước mặt:

12
Bài giảng Môi trường GTVT

Các thuỷ vực nước mặt bao gồm nước mưa, ao hồ, đồng ruộng và nước các sông suối, kênh
mương. Trong đó, các sông và kênh tải nước thải, các hồ đô thị và đất trồng lúa nước là các đối
tượng thường có mức độ ô nhiễm trầm trọng.
Các dạng ô nhiễm nước mặt thường gặp là:
- Phú dưỡng
- Ô nhiễm kim loại nặng và các hóa chất nguy hại
- Ô nhiễm vi sinh vật
- Ô nhiễm thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón hóa học;
Nguồn gây ra ô nhiễm nước mặt là các khu dân cư tập trung như thành phố, thị trấn, các
hoạt động công nghiệp khai thác mỏ, cơ khí, luyện kim, hoạt động giao thong, thủy lợi, sản xuất
nông nghiệp,…
Một trong những tác động chủ yếu của nước thải lên hệ sinh thái thuỷ vực nước ngọt là làm
thay đổi nồng độ ôxy trong nước. Khi xả vào sông hồ, các loại nước thải có chứa các chất hữu cơ
dễ bị vi sinh vật ôxy hoá, quá trình này tiêu thụ một lượng ôxy rất lớn, làm cho hàm lượng ôxy hoà
tan trong sông hồ giảm mạnh.
Do sự thiếu hụt ôxy trong nguồn nước, nhiều loài thuỷ sinh như cá, tôm, động vật nguyên
sinh,... không sống được. Trong nước và trong lớp cặn lắng ở đáy sẽ diễn ra quá trình phân huỷ
yếm khí chất hữu cơ, giải phóng nhiều khí độc hại như H2S, CH4... gây ô nhiễm cho nguồn nước
và môi trường không khí.
Váng dầu từ nước thải thành phố cũng là nguyên nhân cản trở quá trình hòa tan oxy trong
nguồn nước.
Hiện tượng phú dưỡng: Các nguyên tố dinh dưỡng như N, P,… có trong nước thải thành
phố, trong nước thải ngành công nghiệp thực phẩm, trong nước chảy tràn từ khu chăn nuôi, khi vào
nguồn nước với lượng lớn sẽ làm cho phù du thực vật, nhất là các loại tảo phát triển cực mạnh, gọi
là hiện tượng phú dưỡng. Sau khi phù du thực vật chết đi, chúng sẽ làm ô nhiễm nghiêm trọng thủy
vực. Đó là do quá trình phân hủy hiếu khí xác chết của chúng làm giảm lượng oxy hòa tan trong
nước (vốn đã có hàm lượng rất nhỏ) gây ra hiện tượng thiếu oxy cho các sinh vật sống trong thủy
vực đó. Thiếu oxy làm tang các quá trình phân giải yếm khí và giải phóng một lượng đáng kể axit
và khí CO2 vào nguồn nước làm pH của nước giảm, nước có mùi hôi thối. Hiện tượng phú dưỡng
hồ đô thị và kênh thoát nước thải có tác động tiêu cực tới hoạt động văn hóa của dân cư đô thị, làm
biến đổi hệ sinh thái nước hồ, tăng thêm mức độ ô nhiễm.
Các thủy vực gần các khu công nghiệp, các thành phố lớn, các khu vực khai thác khoáng
sản thường bị ô nhiễm kim loại nặng và các hóa chất độc hại. Nguyên nhân chủ yếu do việc đổ
nước thải công nghiệp và nước thải không được xử lý hoặc xử lý không đạt yêu cầu vào môi
trường. Ô nhiễm kim loại nặng và các hóa chất độc hại có tác động tiêu cực mạnh mẽ tới môi trường
sống của sinh vật và con người. Kim loại nặng và các hóa chất độc hại tích lũy theo chuỗi thức ăn
xâm nhập vào cơ thể con người. Nước mặt bị ô nhiễm sẽ làm lan truyền các chất ô nhiễm vào nước
ngầm, vào đất và các thành phần môi trường khác có liên quan. Để hạn chế tác động tiêu cực của
ô nhiễm cần phải tăng cường biện pháp xử lý nước thải, quản lý tốt thực phẩm nuôi trồng trong
môi trường có nguy cơ bị ô nhiễm như nuôi cá, trồng rau bằng nguồn nước thải.
Ô nhiễm vi sinh vật nguồn nước mặt thường gặp trong các thủy vực tiếp nhận nước thải sinh
hoạt, đặc biệt là nước thải bệnh viện. Các loại vi sinh vật lan truyền trong môi trường nước, gây ra
13
Bài giảng Môi trường GTVT

các loại dịch bệnh cho dân cư sử dụng nguồn nước đó trong sinh hoạt. Để hạn chế tác động tiêu
cực của ô nhiễm vi sinh vật ngồn nước mặt cần nghiên cứu các biện pháp xử lý nước thải, cải thiện
tình trạng môi trường sống của dân cư, tổ chức tốt hoạt động y tế và dịch vụ công cộng.
Trong quá trình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học, có một lượng đáng kể
không được cây trồng tiếp nhận. Chúng sẽ lan truyền trong đất, nước và các sản phẩm nông nghiệp
dưới dạng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và nitrat NO3-. Tác động tiêu cực của sự ô nhiễm phân
bón và thuốc bảo vệ thực vật là làm suy thoái chất lượng môi trường đất canh tác nông nghiệp, làm
giảm tính đa dạng sinh học của khu vực nông thôn, tăng khả năng đề kháng của các loài sâu bệnh
đối với thuốc bảo vệ thực vật.
 Ô nhiễm và suy thoái nước ngầm:
Nước ngầm là nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu ở nhiều quốc gia và vùng dân cư trên
thế giới. Do vậy ô nhiễm nước ngầm có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng môi trường sống của con
người. Các tác nhân gây ô nhiễm và suy thoái nước ngầm gồm:
- Các tác nhân tự nhiên như nhiễm mặn, nhiễm phèn, hàm lượng sắt, mangan và một số kim
loại cao.
- Các tác nhân nhân tạo như nồng độ kim loại nặng cao, hàm lượng NO3-, NO2-, NH4+ ,
PO43-,... vượt tiêu chuẩn cho phép, ô nhiễm bởi vi sinh vật.
Suy thoái trữ lượng nước ngầm biểu hiện bởi giảm công suất khai thác, hạ thấp mực nước
ngầm, lún đất. Để hạn chế tác động ô nhiễm và suy thoái nước ngầm cần phải tiến hành đồng bộ
các công tác điều tra, thăm dò trữ lượng và chất lượng nguồn nước ngầm, xử lý nước thải và chống
ô nhiễm các nguồn nước mặt, quan trắc thường xuyên trữ lượng và chất lượng nước ngầm.
 Ô nhiễm biển và đại dương:
Biển và đại dương là nơi tiếp nhận phần lớn các chất thải từ lục địa theo các dòng chảy sông
suối, các chất thải từ các hoạt động của con người trên biển như khai thác khoáng sản, giao thông
vận tải biển. Trong nhiều năm, biển và đại dương còn là nơi đổ các chất thải phóng xạ của nhiều
nước trên trế giới. Các biểu hiện của sự ô nhiễm biển và đại dương khá đa dạng, có thể chia ra
thành một số dạng sau:
- Gia tăng nồng độ các chất ô nhiễm trong nước biển như: dầu, kim loại nặng, các hoá chất
độc hại.
- Gia tăng nồng độ các chất ô nhiễm tích tụ trong trầm tích biển ven bờ.
- Suy thoái các hệ sinh thái biển như san hô, hệ sinh thái rừng ngập mặn...
- Suy giảm trữ lượng các loài sinh vật biển và giảm tính đa dạng sinh học biển.
- Xuất hiện các hiện tượng như thuỷ triều đỏ, tích tụ các chất ô nhiễm trong thực phẩm lấy
từ biển.
Ô nhiễm không khí cũng có tác động mạnh mẽ tới ô nhiễm biển. Nồng độ CO2 cao trong
không khí sẽ làm cho lượng CO2 hoà tan trong nước biển tăng. Nhiều các chất độc hại và bụi kim
loại nặng được không khí mang ra biển. Sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển Trái Đất do hiệu ứng
nhà kính sẽ kéo theo sự dâng cao mực nước biển và thay đổi môi trường sinh thái biển. Bên cạnh
các nguồn ô nhiễm nhân tạo trên, biển có thể bị ô nhiễm bởi các quá trình tự nhiên như núi lửa
phun, tai biến bão lụt, sự cố rò rỉ dầu tự nhiên,...
1.4.3. Ô nhiễm không khí
a) Khái niệm
14
Bài giảng Môi trường GTVT

Ô nhiễm không khí là hiện tượng làm cho không khí sạch thay đổi thành phần và tính chất do
nhiều nguyên nhân, có nguy cơ gây tác hại tới thực vật và động vật, đến môi trường xung quanh,
đến sức khỏe con người.
Một cách khác, có thể hiểu rằng: Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến
đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi,
có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa...
b) Nguồn gây ô nhiễm không khí
- Nguồn thiên nhiên:
+ Núi lửa: Núi lửa phun ra nham thạch nóng và nhiều khói bụi giàu sunfua, mê tan và các loại khí
khác.
+ Cháy rừng: Các đám cháy rừng bởi các quá trình tự nhiên xảy ra do sấm chớp, cọ sát giữa các
thảm thực vật khô, thường lan truyền rộng, phát thải nhiều bụi và khí,…
+ Bão cát,…
- Nguồn nhân tạo:
+ Đốt nhiên liệu trong quá trình sản xuất công nghiệp phát thải ra nhiều chất độc hại.
+ Sự bốc hơi, rò rỉ, tổn hao trên dây chuyền sản xuất, trên các phương tiện dẫn tải.
+ Giao thong vận tải và các dịch vụ khác cũng là một nguồn gây ô nhiễm lớn cho môi trường không
khí.
c) Các tác nhân gây ô nhiễm không khí
Các chất gây ô nhiễm không khí thường để chỉ các phần tử bị thải vào không khí do kết quả hoạt
động của con người và gây tác hại đến sức khoẻ tới con người, các hệ sinh thái và các vật liệu khác
nhau.
Các chất ô nhiễm nhân tạo chính trong môi trường không khí bao gồm:
- Các loại oxit như: nitơ oxit (NO, NO2, NO2), SO2, CO, H2S và các loại khí halogen (clo, brom,
iôt)…
- Các hợp chất flo.
- Các chất tổng hợp (ete, benzen, acetic…).
- Các chất lơ lửng (bụi rắn, bụi lỏng, bụi vi sinh vật), nitrat, sunfat, các phân tử cacbon, sol khí,
muội, khói, sương mù, phấn hoa...
- Các loại bụi nặng, bụi đất, đá, bụi kim loại như đồng, chì, sắt, kẽm, niken, thiếc, cađimi...
- Khí quang hoá như ozôn, FAN, FB2N, NOX, andehyt, etylen...
- Các chất ô nhiễm phóng xạ, ô nhiễm nhiệt, ô nhiễm tiếng ồn.
Các chất ô nhiễm sinh ra chủ yếu do quá trình đốt cháy nhiên liệu và sản xuất công nghiệp.
Các tác nhân ô nhiễm không khí có thể phân thành hai dạng: dạng hơi khí và dạng phần tử nhỏ.
Tuy nhiên, phần lớn các tác nhân ô nhiễm đều gây tác hại đối với sức khỏe con người (bảng 1.4.).
Các chất ô nhiễm môi trường không khí được chia làm hai loại: ô nhiễm sơ cấp và ô nhiễm thứ
cấp. Ví dụ: Sunfua dioxit sinh ra do đốt cháy than đó là chất ô nhiễm sơ cấp. Nó tác động trực tiếp
tới đối tượng tiếp nhận. Khi nó liên kết với ôxy và nước của không khí sạch để tạo thành axit
sunfuric (H2SO4) rơi xuống đất cùng với nước mưa, làm thay đổi pH của đất và nước, tác động
xấu tới nhiều động thực vật và vi sinh vật thì trở thành chất nhân ô nhiễm thứ cấp.
Cũng có những trường hợp các chất không gây ô nhiễm liên kết quang hoá với nhau để tạo
thành tác nhân ô nhiễm thứ cấp mới, gây tác động xấu. Cơ thể sinh vật phản ứng đối với các tác
15
Bài giảng Môi trường GTVT

nhân ô nhiễm phụ thuộc vào nồng độ ô nhiễm và thời gian tiếp xúc với chất ô nhiễm. Các khí ô
nhiễm nhân tạo nguy hiểm đối với sức khoẻ con người và khí quyển trái đất, dưới đây là một số chất
điển hình:
- Cacbon dioxit (CO2): với hàm lượng 0,03% trong khí quyển là nguyên liệu cho quá trình
quang hợp để sản xuất năng suất sinh học sơ cấp ở thực vật. Lượng CO2 sản sinh một cách tự nhiên
cân bằng với lượng CO2 được sử dụng cho quang hợp. Việc đốt quá nhiều nhiên liệu hoá thạch và
phá rừng đã làm tăng lượng CO2 trên trái đất, gây tác động xấu tới khí hậu toàn cầu.
- Sunfua dioxit (SO2): là chất gây ô nhiễm không khí có nồng độ thấp trong khí quyển, tập
trung chủ yếu ở tầng đối lưu. SO2 sinh ra do hoạt động của núi lửa, do đốt nhiên liệu than, dầu, khí
đốt, sinh khối thực vật, quặng sunfua,... SO2 rất độc hại đối với sức khoẻ của người và sinh vật, gây
ra các bệnh về phổi khí phế quản. SO2 trong không khí khi gặp oxy và nước tạo thành axit, tập
trung trong nước mưa gây ra hiện tượng mưa axit. Mưa axit có tác động xấu tới hệ sinh thái rừng
và các thảm thực vật khác, ăn mòn kim loại, tác động xấu tới các vật liệu, công trình xây dựng...
- Cacbon monoxit (CO): được hình thành do việc đốt cháy không hết nhiên liệu hoá thạch
như than, dầu, một số chất hữu cơ và khí thải từ các động cơ xe máy. Hàng năm trên toàn cầu sản
sinh khoảng 600 triệu tấn CO. Đây là chất khí không độc với thực vật nhưng lại rất độc hại với
người và động vật, nó tác dụng mạnh với Hemoglobin, tạo thành cacboxyhemoglobin và ngăn ôxy
kết hợp với Hemoglobin, làm mất khả năng vận chuyển oxy của máu. Ở nồng độ thấp, thường gây
đau đầu, chóng mặt và rối loạn cảm giác, ở nồng độ khoảng 250 ppm sẽ gây tử vong đối với con
người.
- Nitơ oxit (NOx): phát sinh chủ yếu từ việc đốt nhiên liệu than, dầu, khí đốt, sinh khối thực
vật. Các Nitơ oxit gây các tác hại đối với hệ hô hấp của con người. Ví dụ: ở nồng độ 500 ppm, NO 2
có thể gây chết người trong vòng 48 giờ. Các Nitơ oxit cũng là nguyên nhân của các trận "mưa
axít", gây ra các tác hại tới đời sống, sinh hoạt của các động thực vật và con người.
- Clorofluorocacbon (CFC): là những hoá chất do con người tổng hợp để sử dụng trong nhiều
ngành công nghiệp và từ đó xâm nhập vào khí quyển. Chúng tồn tại cả ở dạng sol khí và không sol
khí làm tổn hại tầng ôzôn bảo vệ trái đất. Khi CFC đạt tới thượng tầng khí quyển chúng sẽ được
các tia cực tím phân huỷ. Tốc độ phân huỷ CFC sẽ rất nhanh nếu tầng ôzôn bị tổn thương và các
bức xạ cực tím tới được những tầng khí quyển thấp hơn.
- Metan (CH4): Metan là một loại khí gây hiệu ứng nhà kính. Nó được sinh ra từ các quá
trình sinh học như sự men, sự phân giải kỵ khí ở đất ngập nước, ruộng lúa, cháy rừng và đốt nhiên
liệu hoá thạch. CH4 thúc đẩy sự ôxy hoá hơi nước ở tầng bình lưu. Sự gia tăng hơi nước gây hiệu
ứng nhà kính mạnh hơn nhiều so với hiệu ứng trực tiếp của CH4. Hiện nay hàng năm khí quyển thu
nhận khoảng từ 400 đến 765x1012g CH4.
- Các chất hữu cơ bay hơi (VOCs): gồm nhiều hợp chất hữu cơ trong đó chủ yếu là hợp chất
của hydrocacbon, có hại cho sức khoẻ (nhiễm độc, kích thích, gây ung thư hay đột biến). Khi được
ánh sáng mặt trời chiếu, hợp chất hữu cơ bay hơi với các Nitơ oxit tạo thành ôzôn hoặc những chất
ôxy hoá mạnh khác. Ô nhiễm loại này có tác hại với sức khoẻ (gây rối loạn hô hấp, đau đầu, nhức
mắt), với cây cối và cả với vật liệu cũng đều bị ảnh hưởng.
- Các hạt lơ lửng (bụi, khói đen, hơi, mù, sương,...): các hạt nhỏ là dạng ô nhiễm khí quyển
dễ nhìn thấy nhất. Các hạt nhỏ gây dị ứng, ung thư, nhiễm trùng, xơ phổi và nhiễm độc chung,...
1.4.4. Ô nhiễm đất
16
Bài giảng Môi trường GTVT

a) Khái niệm:
Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm nhiễm bẩn môi trường đất bởi
các chất ô nhiễm.
Hay: Đất được xem là ô nhiễm khi nồng độ các chất độc tăng lên quá mức an toàn, vượt trên
khả năng tự làm sạch của môi trường đất.
Ngày nay, khi hoạt động của con người mở rộng ra nhiều lĩnh vực càng đa dạng thì chất thải và
ô nhiễm ngày càng phức tạp và càng nhiều. Môi trường đất có thể bị ô nhiễm do sự lan truyền từ
môi trường không khí, chất ô nhiễm không khí khi lắng tụ sẽ rơi vào môi trường đất.
Môi trường nước và đất có liên quan chặt chẽ với nhau do nước có trên mặt đất, nước trong
lòng đất. Khi môi trường nước bị ô nhiễm thì tất yếu làm ô nhiễm môi trường đất.
Ngoài ra môi trường đất còn bị ô nhiễm từ xác bã động thực vật, các chất thải độc hại bị chôn
vùi và sẽ lan tỏa vào trong môi trường đất.
b) Phân loại ô nhiễm đất:
Người ta có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo các nguồn gốc phát sinh hoặc theo các tác nhân
gây ô nhiễm.
- Theo nguồn gốc phát sinh có:
+ Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt.
+ Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp.
+ Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp.
Tuy nhiên, môi trường đất có những đặc thù và một số tác nhân gây ô nhiễm có thể cùng
một nguồn gốc nhưng lại gây tác động bất lợi rất khác biệt.
- Theo các tác nhân gây ô nhiễm:
+ Ô nhiễm đất do tác nhân hóa học: Bao gồm phân bón N, P (dư lượng phân bón trong đất), thuốc
trừ sâu (clo hữu cơ, DDT, linden, aldrin, photpho hữu cơ,…), chất thải công nghiệp và sinh hoạt
(kim loại nặng, độ kiềm, độ axit,..)
+ Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: Trực khuẩn lỵ, thương hàn, các loại ký sinh trùng (giun, sán,…)
+ Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý: Nhiệt độ (ảnh hưởng đến tốc độ phân hủy chất thải của sinh vật),
chất phóng xạ (Uran, Thori, Sr90, I131, Cs137).
Một số biểu hiện của ô nhiễm môi trường đất:
- Mất cân bằng sinh thái do sử dụng thuốc trừ sâu.
- Làm xói mòn và thoái hóa đất.
- Phá hủy cấu trúc của đất và các tổ chức sinh học của chúng do sử dụng các thiết bị, máy
móc nặng.
- Làm mặn hóa hay chua phèn do chế độ tưới tiêu không hợp lý.
c) Tác hại của ô nhiễm môi trường đất:
- Sự tồn tại của một số chất độc trong đất có tác dụng không tốt đến sự sinh trưởng của
cây.
- Suy kiệt dinh dưỡng, đất trở nên già cỗi, giảm diện tích đất canh tác.
- Suy giảm năng suất cây trồng, đời sống sinh vật không ổn định, gây sự bất ổn về xã hội.
- Tàn phá về mặt sinh thái môi trường.
- Có nguy hại cho sức khỏe cộng đồng qua chuỗi thực phẩm của hệ sinh thái.
1.4.5. Ô nhiễm tiếng ồn
17
Bài giảng Môi trường GTVT

a) Khái niệm
Tiếng ồn là tập hợp những âm thanh có cường độ và tần số khác nhau, sắp xếp không có trật tự,
gây cảm giác khó chịu cho người nghe, cản trở con người làm việc và nghỉ ngơi.
Tiếng ồn là khái niệm tương đối, phụ thuộc vào cường độ tiếng ồn, tần số (trầm hay bổng), độ
dài thời gian gây tiếng ồn và tính bất ngờ. Sự khó chịu do tiếng ồn gây ra phụ thuộc vào thời điểm
(ngày hay đêm), người nghe và âm thanh “nền” xung quanh.
b) Các nguồn gây tiếng ồn
- Tiếng ồn giao thông:
+ Tiếng ồn do giao thông đường bộ: Do sự bùng nổ của vận tải đường bộ bằng ô tô (cả vận tải hàng
hóa và hành khách) nên tiếng ồn do ô tô gây ra cũng tang nhanh. Tiếng ồn do xe ô tô hạng nặng
gây ra gấp 5 – 15 lần so với xe con. Ngoài tiếng ồn do động cơ và ống xả gây ra còn có tiếng ồn do
còi ô tô, còi báo hiệu, tiếng ồn do ma sát giữa lốp xe và mặt đường,…
+ Tiếng ồn do giao thông hàng không: Tiếng ồn của phương tiện vận tải hàng không gây ra ít hơn
so với phương tiện vận tải đường bộ; song đối với dân cư ở gần các sân bay thì cũng khó chịu như
ở gần các trục đường bộ,…
+ Tiếng ồn do giao thông đường sắt: Tiếng ồn dọc theo các tuyến đường sắt cũng chiếm tỷ lệ cao
trong tiếng ồn do giao thông gây ra.
- Tiếng ồn khu vực: Là những tiếng ồn từ các công trường, xưởng máy, tiệm ăn, tiệm rượu,
câu lạc bộ ca nhạc hoặc những tiếng ồn sinh hoạt,…
+ Tiếng ồn từ thi công xây dựng: Tiếng ồn từ các nơi thi công xây dựng nói chung là xấu hơn nhiều
so với tiếng ồn từ các nhà máy vì việc xây dựng đường xá, nhà cửa, cầu cống,… không thể điều
khiển, quản lý được và các thiết bị dùng trong thi công, xây dựng thường gây tiếng ồn lớn hơn. Bên
cạnh đó, tiếng ồn của từng thiết bị gây ra ở trong khu vực xây dựng còn được tăng lên so với khu
trống trải, vì có bổ sung âm phản xạ của các khu vực lân cận.
+ Tiếng ồn công nghiệp: Tiếng ồn công nghiệp được sinh ra từ quá trình va chạm, chấn động hoặc
chuyển động qua lại do sự ma sát của các thiết bị và hiện tượng chảy rối của các dòng không khí
và hơi.
+ Tiếng ồn trong nhà.
c) Tác hại của tiếng ồn đối với sức khỏe con người và sản xuất
Tiếng ồn là một trong những loại hình ô nhiễm gây tác động trực tiếp đến sức khoẻ con người.
Chống tiếng ồn đang là một trong những vấn đề chủ yếu để bảo vệ sức khoẻ con người, nhất là
những người sống ở đô thị, khu công nghiệp tiếp xúc với tiếng ồn mạnh.
Tất cả các thành phố lớn trên thể giới, tiếng ồn tăng lên nhiều, gây ảnh hưởng xấu cho sức khoẻ
con người. Ở NewYork (Mỹ) mức tiếng ồn vượt quá 85dB thường xuyên, nên người ở đó mới 30
tuổi mà đã bị giảm thính lực, những nơi khác thì đến 70 tuổi thính giác mới bị giảm mức như thế.
Tiếng ồn không những chỉ làm hại thính giác, mà còn ảnh hưởng tới các bộ phận khác của cơ thể,
gây rối loại sinh lí và bệnh lí như thần kinh, tim mạch, nội tiết, v.v… Tiếng ồn còn làm năng suất
lao động của con người giảm, từ 20 ÷ 40%, làm phát sinh hoặc tăng các tai nạn lao động. Ở Áo,
các nhà khoa học cho biết tiếng ồn đã làm cho người dân sống ở thành phố lớn rút ngắn cuộc đời 8
÷ 12 năm. Từ năm 20 của thế kỷ này, người ta đã nghiên cứu một cách có hệ thống tác hại của tiếng
ồn đối với con người và động vật. Nhiều nước đã có luật quy định mức cho phép của tiếng ồn ở

18
Bài giảng Môi trường GTVT

khu dân cư và nơi làm việc, quy định mức cho phép của tiếng ồn vào ban ngày và ban đêm ở thành
phố.
Ở Việt Nam, tiếng ồn ở thành phố và khu công nghiệp đã vượt quá mức cho phép, tỷ lệ công
nhân bị điếc nghề nghiệp lên tới 21,5%. Công nhân có tuổi nghề lớn hơn 20 năm tỷ lệ điếc là 34,3%.
Viện vệ sinh Erisman (Matxcơva) kết luận: Tiếng ồn 60 dBA chỉ gây giảm thính giác ở tần số
1.000 Hz, tiếng ồn 70 dBA gây giảm mức nghe ở các tần số 500 và 1.000 Hz, tiếng ồn 80 dBA gây
giảm mức nghe ở cả 4 tần số 250, 500, 1.000, 4.000 Hz. Do đó tiếng ồn ở mức 80 dBA không được
phép có ở những nơi thường xuyên có người. Mức ồn này còn làm giảm sự chú ý, dễ mỏi mệt, tăng
các quá trình ức chế ở hệ thần kinh trung ương, gây mạch chậm, giảm huyết áp tâm thu và tăng
huyết áp tâm trương.
Mức tiếng ồn từ 50 dBA trở lên ở các khu nhà ở có thể gây rối loạn thần kinh ở vỏ não. Mức
tiếng ồn 58 ÷ 60 ÷ 63 dBA ở trong nhà làm giảm sức nghe, gây bệnh huyết áp. Ở mức ồn 35 dBA
trở lên là đã gây những cảm giác không thoải mái, khó ngủ đối với con người. Đối với công nhân
làm việc ở môi trường tiếng ồn mạnh, thường mắc phải các bệnh nghề nghiệp như bị đau đầu dai
dẳng, chóng mặt, người mệt mỏi, cáu kỉnh, giảm trí nhớ, giảm khả năng lao động, ngủ không ngon
giấc, dễ bị suy nhược thần kinh, bệnh về tim mạch, ảnh hưởng cơ quan tiền đình, run mi mắt, run
các đầu chi, phản xạ xương khớp giảm, và một số bệnh về tuyến giám trạng (bảng 1.10).
Tiếng ồn ở mức 150 dBA hoặc lớn hơn có thể làm rách màng nhĩ, lệch vị trí các xương ở tai
giữa, làm tổn thương tai trong, làm chảy máu tai, gây đau nhức dữ dội ở tai và toàn thân.
d) Biện pháp chống tiếng ồn và kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn
- Quy hoạch kiến trúc xây dựng hợp lý:
Hạn chế sự lan tuyền tiếng ồn ngay trong nội bộ nhà máy và ra khu vực gần đó, cần có giải
pháp cụ thể để chống tiếng ồn và chấn động, giữa khu nhà máy và khu dân cư nên có khu đệm, có
giải cây xanh cách ly, hai bên đường phố nên có cây xanh để chống ồn, chống ô nhiễm không khí.
Các nguồn ồn nên bố trí vào một vùng ở cuối hướng gió để dễ xử lý, xung quanh vùng đó
nên có cây xanh. Các trung tâm điều khiển nên đặt riêng và được ngăn cách, cần thiết có thể làm
buồng riêng cho công nhân vận hành.
- Giảm tiếng ồn và chấn động tại nguồn
Đây là biện pháp chủ yếu, ta cần chú trọng làm tốt ngay từ khâu thiết kế, chế tạo, lắp đặt,
cho đến khâu vận hành sử dụng, bảo dưỡng các máy móc thiết bị theo phương hướng:
+ Hiện đại hoá thiết bị, hoàn thiện quá trình công nghệ;
+ Sắp xếp tổ chức thời gian hoạt động của các nguồn ồn cho hợp lý, bố trí hợp lý máy móc
thiết bị trong nhà máy, tự động hoá các khâu điều khiển và điều chỉnh, giảm bớt số lượng công
nhân làm việc trong môi trường ồn, giảm số thời gian lưu lại làm việc ở môi trường ồn;
- Cách âm, cách chấn động: Đối với máy móc thiết bị:
+ Sử dụng các gối đỡ bệ máy có lò xo, hoặc cao su có tính đàn hồi cao;
+ Sử dụng các kết cấu treo có lò xo đàn hồi;
- Giảm tiếng ồn trên đường lan truyền
Sau khi đã vận dụng các biện pháp trên, mà vẫn chưa đạt, thì ta cần giảm tiếng ồn trên đường
lan truyền, chủ yếu là hút âm và cách âm.

19
Bài giảng Môi trường GTVT

+ Nguyên lý hút âm là dựa vào sự biến đổi năng lượng âm thành năng lượng nhiệt, năng
lượng cơ hoặc dạng năng lượng khác. Khả năng hút âm của vật liệu và kết cấu đánh giá bằng hệ số
hút âm và phụ thuộc vào tính xốp của vật liệu, vật liệu càng xốp thì hút âm càng tốt.
+ Nguyên lý cách âm: khi sóng âm tới một bề mặt kết cấu, kết cấu này bị dao động cưỡng
bức, trở thành nguồn âm mới và bức xạ năng lượng sang không gian bên cạnh.
Để đánh giá mức độ cách âm của kết cấu ngăn cách, dùng khái niệm hệ số xuyên âm. Hệ số
xuyên âm τ là tỷ số năng lượng âm xuyên qua kết cấu, có kích thước vô hạn, đi sang phần không
gian phía bên kia, và năng lượng âm đi tới trên bề mặt kết cấu đó.
Khả năng cách âm của kết cấu phụ thuộc kích thước, trọng lượng, độ cứng của kết cấu, vào
lực ma sát trong của vật liệu và giải tần số của tiếng ồn.
Để chống ồn, thường phối hợp cả hút âm và cách âm.
- Chống tiếng ồn khí động: Tiếng ồn khí động chia ra:
+ Tiếng ồn không đồng nhất của dòng khí xả vào khí quyền theo chu kỳ (tua bin, máy quạt gió…);
+ Tiếng ồn do sự tạo thành xoáy ở mặt giới hạn của dòng;
+ Tiếng ồn chảy rối, khi dòng khí có tốc độ khác nhau chảy lẫn với nhau;
Việc giảm tiếng ồn khí động tại nguồn rất khó khăn, cho nên ta phải giảm tiếng ồn trên
đường lan truyền. Chủ yếu là dùng các buồng tiêu âm. Tiết diện ngang của buồng tiêu âm lớn hơn
nhiều so với tiết diện ngang của ống dẫn khí.
Để đảm bảo được độ ồn cho phép trong các công trình xây dựng, nhất là ở nhà hát, phòng
họp, nhà chiếu phim, phòng ghi âm, bệnh viện, … các hệ thống thông gió, điều tiết không khí có
trang bị các buồng tiêu âm trên đường hút, trên đường thổi không khí.
- Biện pháp tuyên truyền và giáo dục con người
Mở rộng tuyên truyền trong cộng đồng về tác hại của tiếng ồn, cũng như các biện pháp
chống ồn. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, tranh ảnh áp phích khẩu hiệu, phổ biến
các kiến thức đại cương trên báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình để mọi người hiểu được tác
hại của tiếng ồn và cách phòng chống ồn.
Khuyến khích mọi người tự giác, có ý thức tôn trọng người khác. Bảo đảm trật tự yêu tĩnh
trong mọi nơi mọi lúc nhất là những nơi có nhiều người sống chung nhưng lại sinh hoạt và làm
việc trong những điều kiện khác nhau, và những lúc người khác đang ngủ hoặc đang nghỉ ngơi
hoặc đang rất cần sự yên tĩnh để làm việc.
- Kiểm tra tiếng ồn, kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn
Cần phải tổ chức chặt chẽ công tác kiểm tra tiếng ồn, nhất là ở khu dân cư, nhà ở, nhà nghỉ,
các bệnh viện, trường học, công sở và những nơi sản xuất.
Công tác kiểm tra tiếng ồn có ý nghĩa quan trọng trong các biện pháp chống ồn. Các tài liệu
kiểm tra tiếng ồn là cơ sở khoa học để đề ra các biện pháp chống ồn, bảo vệ sức khoẻ cho con người
và đẩy mạnh sản xuất. Cần ban hành luật kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn, thiết lập cac cơ quan quản lý
kiểm soát ô nhiễm tiếng ồn, đề ra các quy định cụ thể, các tiêu chuẩn tiếng ồn cho phép, bắt buộc
mọi người, mọi ngành, mọi cơ quan đơn vị phải chấp hành nghiêm chỉnh.
1.4.6. Tai biến môi trường
a) Khái niệm: Tai biến môi trường là quá trình gây hại vận hành trong hệ thống môi trường.
Quá trình tai biến phản ánh tính nhiễu loạn, tính bất ổn định của hệ thống và thường gồm 3

20
Bài giảng Môi trường GTVT

giai đoạn. Với mỗi giai đoạn của quá trình tai biến sẽ có những chiến lược ứng phó thích
hợp và cần phải cân nhắc trong quá trình ra quyết định:
- Giai đoạn nguy cơ (hay hiểm họa): đã tồn tại các yếu tố gây hại nhưng chưa gây mất ổn
định cho hệ thống.
- Giai đoạn phát triển: tập trung và gia tăng các yếu tố tai biến, xuất hiện trạng thái mất ổn
định, nhưng chưa vượt qua ngưỡng an toàn của hệ thống môi trường.
- Giai đoạn sự cố: trạng thái mất ổn định đã vượt qua ngưỡng an toàn của hệ thống, gây ra
các thiệt hại không mong đợi cho con người (về sức khỏe, tính mạng, sản nghiệp) được
gọi là thiên tai hoặc sự cố môi trường. Là thiên tai nếu thiệt hại gây ra do quá trình tự
nhiên, là sự cố nếu thiệt hại gây ra do cả quá trình tự nhiên hoặc nhân tạo.
b) Nguyên nhân:
Tai biến môi trường có thể được gây ra do 3 nguyên nhân:
- Quá trình tự nhiên (hạn hán, lũ lụt, động đất,…)
- Hoạt động nhân sinh (khai thác quá mức, xả chất thải ô nhiễm, can thiệp thô bạo vào hệ
sinh thái,…)
- Hỗn hợp của hoạt động nhân sinh và quá trình tự nhiên - loại tai biến thường xảy ra.
1.5. Chất thải rắn và chất thải nguy hại
1.5.1. Khái niệm:
Chất thải là tất cả các vật liệu bị loại ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất, kinh doanh
và các hoạt động khác.
1.5.2. Phân loại:
Chất thải được phân loại theo nhiều cách khác nhau.
Theo hình thái vật chất, chất thải được phân thành các loại: chất thải rắn, chất thải lỏng, chất
thải khí.
Theo nguồn gốc phát sinh, chất thải rắn lại được phân thành chất thải sinh hoạt, chất thải
công nghiệp, chất thải xây dựng, chất thải nông nghiệp, chất thải bệnh viện.
- Chất thải sinh hoạt: Thành phần của chất thải rắn đô thị rất đa dạng nhưng đều có hai
thành phần đặc trưng:
+ Thành phần hữu cơ cao, chiếm khoảng 30-60%.
+ Thành phần đất đá, vật liệu xây dựng và các chất vô cơ khác chiếm khoảng 20-40%.
- Chất thải công nghiệp: Chất thải công nghiệp bao gồm các chất thải phát sinh từ quá
trình sản xuất khác nhau, trong đó bao gồm cả phế liệu và phế phẩm. Công nghệ sản xuất
càng lạc hậu thì lượng chất thải rắn tính trên đầu sản phẩm càng lớn. Có nhiều ngành sản
xuất công nghiệp nên chất thải rắn công nghiệp cũng có nhiều chủng loại khác nhau và
thành phần cũng rất phức tạp. Đặc biệt một số chủng loại chứa các chất nguy hại.
- Chất thải xây dựng: là chất thải như đất, cát, gạch ngói, bê tong vỡ do các hoạt động phá
dỡ, xây dựng công trình.
- Chất thải nông nghiệp, thực phẩm: Thành phần chất thải gồm: phế phụ phẩm ngành chăn
nuôi (phân), trồng trọt (rơm, thân cây, lá,…), nhà máy đường, rượu, bia, chế biến sữa,...
1.5.3. Tác hại của chất thải rắn
Nếu không xử lý hoặc xử lý không đúng phương pháp sẽ gây ra các tác động tới môi trường:
- Thải vào sông, suối, cống rãnh, biển và đại dương gây ô nhiễm nguồn nước.
21
Bài giảng Môi trường GTVT

- Thải vào đất gây suy thoái đất, các chất thải bị phân hủy, tạo ra khí độc, gây ô nhiễm
không khí.

1.5.4. Các biện pháp quản lý và xử lý chất thải rắn:


a) Quản lý chất thải rắn
- Xây dựng chiến lược, lập kế hoạch quản lý chất thải rắn;
- Tổ chức thu gom, phân loại chất thải rắn từ nguồn;
- Lựa chọn công nghệ xử lý, nơi đổ thải chất thải rắn thích hợp;
- Tái sử dụng chất thải rắn;
- Áp dụng các công cụ kinh tế để quản lý chất thải rắn.
b) Các phương pháp xử lý chất thải rắn
Mỗi phương pháp đều có đặc điểm riêng và thích hợp với từng điều kiện kinh tế - xã hội – môi
trường cụ thể. Khi lựa chọn phương pháp xử lý chất thải rắn cần xem xét các yếu tố sau:
+ Thành phần, tính chất chất thải rắn
+ Lượng chất thải rắn cần được xử lý
+ Khả năng thu hồi sản phẩm và năng lượng
+ Yêu cầu bảo vệ môi trường.
- Phương pháp chôn lấp chất thải hợp vệ sinh:
Chôn lấp thực chất là lưu giữ chất thải trong một bãi và phủ đất lên trên, vừa là phương pháp
tiêu hủy sinh học, vừa là biện pháp kiểm soát các thông số chất lượng môi trường trong quá trình
phân hủy chất thải khi chôn lấp. Chất thải rắn được chôn lấp tại bãi chôn lấp hợp vệ sinh là tất cả
chất thải không nguy hại, có khả năng tự phân hủy theo thời gian.
Phương pháp này đơn giản nhất, phổ biến nhất, được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước
trên thế giới. Phương pháp này có chi phí đầu tư ban đầu cũng như chi phí vận hành tương đối thấp,
chi phí bình quân ở các nước khu vực Đông Nam Á là 1-2 USD/tấn.
Nhược điểm của phương pháp này là tốn đất đai làm bãi chôn lấp, dễ gây ô nhiễm môi
trường cho dân cư xung quanh và nguồn nước ngầm. Do vậy, việc lựa chọn một bãi chôn lấp hợp
vệ sinh là hết sức quan trọng.

22
Bài giảng Môi trường GTVT

- Phương pháp chế biến chất thải rắn có nguồn gốc hữu cơ thành phân ủ hữu cơ
(compost):
Ủ sinh học (compost) có thể coi như là quá trình ổn định sinh hóa các chất hữu cơ để thành
các chất mùn.
Phương pháp này được nhiều nước đánh giá cao vì:
+ Tạo ra nguồn phân bón hữu cơ có giá trị cao, vừa có tác dụng cải tạo đất, vừa thu được
sản phẩm không có hóa chất tồn dư trong quá trình sinh trưởng.
+ Rẻ tiền, dễ làm, cho hiệu quả kinh tế cao.
+ Đảm bảo vệ sinh môi trường và sức khỏe cộng đồng.
Nhược điểm của phương pháp này là chu trình sản xuất dài, bình thường từ 2-3 tháng và tốn
diện tích. Một nhà máy sản xuất phân hữu cơ từ chất thải, công suất xử lý 100.000 tấn chất thải một
năm thì cần diện tích đất là 6ha.
- Phương pháp thiêu hủy:
Đốt rác là giai đoạn xử lý cuối cùng được áp dụng cho một số loại rác không thể xử lý bằng
phương pháp khác. Đây là một giai đoạn oxy hóa nhiệt độ cao với sự có mặt của oxy, trong đó rác
được chuyển thành khí và các chất thải rắn không cháy. Các chất khí được làm sạch hoặc không
được làm sạch thoát ra ngoài không khí. Chất thải rắn được chôn lấp.
Phương pháp đốt có các ưu điểm sau:
+ Xử lý triệt để các chỉ tiêu ô nhiễm của chất thải đô thị.
+ Tuy chi phí cao hơn thông thường là 20-23 USD/tấn, nhưng chu trình xử lý ngắn chỉ từ 3-
4 ngày, diện tích xây dựng chỉ bằng 1/6 nhà máy làm phân hữu cơ có cùng công suất.
Nhược điểm:
+ Vận hành dây chuyền phức tạp, đòi hỏi năng lực kỹ thuật và tay nghề cao.
+ Giá thành đầu tư lớn, chi phí tiêu hao năng lượng cao. Ngoài ra, khói thải của nhà máy có
tính nguy hại nên phải tiến hành xử lý khói thải với công nghệ cao để bảo vệ môi trường.
Vì giá thành đắt nên chỉ có các nước phát triển áp dụng nhiều, còn ở các nước đang phát
triển chỉ nên áp dụng phương pháp này ở quy mô nhỏ để xử lý chất thải độc hại như: chất thải bệnh
viện, chất thải công nghiệp,…
- Các kỹ thuật mới khác:
Tái chế, sử dụng lại một số loại chất thải. Ví dụ như chất thải là vỏ bào, vỏ trấu, mùn cưa
đem ép với áp lực cao và keo tổng hợp để làm thành tấm tường, trần nhà, tủ, bàn ghế hoặc xử lý
dầu cặn để dùng lại,…
1.5.5. Chất thải rắn nguy hại:
- Khái niệm:
Chất thải rắn nguy hại là chất thải có một trong năm đặc tính sau: dễ phản ứng, dễ bốc hơi,
ăn mòn, độc hại, phóng xạ,…
- Nguồn phát sinh chất thải rắn nguy hại:
+ Chất thải từ sinh hoạt và thương mại: bao bì đựng thuốc diệt ruồi, muỗi, diệt chuột, đựng
thuốc tẩy rửa, đồ điện tử hư hỏng, vật liệu bảo dưỡng ô tô, xe máy, dầu cặn,…
+ Chất thải từ bệnh viện: mô tế bào, xác động vật thí nghiệm, bông bang, các loại thuốc hóa
dược liệu hư hỏng, kim tiêm,… Đây là một trong những nguồn ô nhiễm, lan truyền bệnh, gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường sống của cộng đồng dân cư.
23
Bài giảng Môi trường GTVT

+ Chất thải từ sản xuất công nghiệp: phát sinh trong quá trình sản xuất công nghiệp. Ví dụ:
thủy ngân từ công nghiệp hóa, xianua, kẽm, crom từ công nghiệp mạ, dầu mỡ từ công nghiệp dầu
khí, chất thải phóng xạ trong ngành y tế, hóa chất, chất thải công nghệ từ các nhà máy điện nguyên
tử,…
+ Chất thải thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu: Theo thống kê của Cục Bảo vệ môi trường (2001)
thì tổng lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) tồn lưu ở 61 tỉnh thành khoảng 300 tấn, bao gồm:
Thuốc BVTV dạng lỏng: 97.374 lít
Thuốc BVTV dạng bột: 109.145 kg
Các bao bì chứa thuốc BVTV: 2.137.850 (hộp, bao, chai, lọ)
- Biện pháp xử lý:
Chất thải nguy hại cần phải được quản lý chặt chẽ từ nguồn phát sinh đến giai đoạn xử lý
cuối cùng.
Việc thu gom, vận chuyển, xử lý và hủy bỏ chất thải nguy hại thường có phương pháp riêng
và phí tổn cao hơn hủy bỏ chất thải rắn thông thường nhiều lần. Vì vậy, trước khi xử lý và hủy bỏ
cần phải tiến hành phân loại và chọn lọc để tách bớt các chất thải nguy hại có thể tái sử dụng hoặc
tái sinh làm nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, để giảm bớt lượng chất thải cần phải xử lý.
Người ta thường sử dụng các phương pháp xử lý và hủy bỏ chất thải nguy hại sau:
+ Phương pháp hóa học: dùng các chất hóa học để trung hòa, biến các chất thải nguy hại
thành chất không độc hại, áp dụng đối với các chất thải nguy hại từ các nhà máy hóa chất;
+ Phương pháp bê tông hóa, cố định các chất thải độc hại trong các khối bê tong, thường áp
dụng đối với các chất thải chứa kim loại nặng;
+ Phương pháp đốt trong các lò đốt nhiều tầng với nhiệt độ cao hơn 13000C, thường áp dụng
đối với các chất thải bệnh viện và các chất thải nguy hại khác có thể cháy được;
+ Chôn cất, lưu giữ trong các thùng chứa kiên cố, không để chất thải nguy hại rò rỉ, thẩm
thấu ra ngoài;
+ Phương pháp thu hồi: Các lớp đất đá được coi là thích hợp để chôn lấp chất thải như: Mỏ
muối, đất sét, granit và đá phiến. Đối với những chất thải mà thời gian phân hủy dài (có thể lên đến
hang nghìn năm) thì yêu cầu đối với bãi chôn lấp là tính ổn định và độ kín của tầng đất đá, tính
theo thời gian hình thành của địa chất.
1.6. Hiện trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam (Bài tập thảo luận)

24
Bài giảng Môi trường GTVT

Chương 2: Phát triển bền vững và bảo vệ môi trường


2.1. Những thách thức môi trường hiện nay trên thế giới
Báo cáo tổng quan môi trường Toàn cầu năm 2000 của Chương trình Môi trường Liên Hợp
Quốc (UNEP) viết tắt là "GEO - 2000" là một sản phẩm của hơn 850 tác giả trên khắp Thế giới và
trên 30 cơ quan môi trường và các tổ chức khác của Liên Hợp Quốc đã cùng phối hợp tham gia
biên soạn. Đây là một báo cáo đánh giá tổng hợp về môi trường Toàn cầu khi bước sang một thiên
niên kỷ mới. GEO - 2000 đã tổng kết những gì chúng ta đã đạt được với tư cách là những người sử
dụng và gìn giữ các hàng hoá và dịch vụ môi trường mà hành tinh cung cấp.
Báo cáo đã phân tích hai xu hướng bao trùm khi loài người bước vào thiên niên kỷ thứ 3.
Thứ nhất: Đó là các hệ sinh thái và sinh thái nhân văn Toàn cầu bị đe doạ bởi sự mất cân
bằng sâu sắc trong năng suất và trong phân bố hàng hoá và dịch vụ. Một tỷ lệ đáng kể nhân loại
hiện nay vẫn đang sống trong sự nghèo khó và xu hướng được dự báo là sự khác biệt sẽ ngày càng
tăng giữa những người thu được lợi ích từ sự phát triển kinh tế và công nghệ và những người không
bền vững theo hai thái cực: Sự phồn thịnh và sự cùng cực đang đe doạ sự ổn định của toàn bộ hệ
thống nhân văn và cùng với nó là môi trường Toàn cầu.
Thứ hai: Thế giới hiện đang ngày càng biến đổi, trong đó sự phối hợp quản lý môi trường ở
quy mô Quốc tế luôn bị tụt hậu so với sự phát triển kinh tế - xã hội. Những thành quả về môi trường
thu được nhờ công nghệ và những chính sách mới đang không theo kịp nhịp độ và quy mô gia tăng
dân số và phát triển kinh tế. Mỗi một phần trên bề mặt Trái Đất được thiên nhiên ban tặng cho các
thuộc tính môi trường của riêng mình, mặt khác, lại cũng phải đương đầu với hàng loạt các vấn đề
mang tính Toàn cầu đã và đang nổi lên. Những thách thức đó là:
2.1.1. Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần suất thiên tai gia tăng
Vào cuối những năm 1990, mức phát tán dioxit cacbon (CO2) hàng năm xấp xỉ bằng 4 lần
mức phát tán năm 1950 và hàm lượng CO2 đã đạt đến mức cao nhất trong những năm gần đây.
Theo đánh giá của Ban Liên Chính Phủ về biến đổi khí hậu thì có bằng chứng cho thấy về ảnh
hưởng rất rõ rệt của con người đến khí hậu Toàn cầu. Những kết quả dự báo gồm việc dịch chuyển
của các đới khí hậu, những thay đổi trong thành phần loài và năng suất của các HST, sự gia tăng
các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt và những tác động đến sức khoẻ con người. Các nhà khoa học
cho biết, trong vòng 100 năm trở lại đây, Trái Đất đã nóng lên khoảng 0,50C và trong thế kỷ này
sẽ tăng từ 1,5 - 4,50C so với nhiệt độ ở thế kỷ XX. Trái Đất nóng lên có thể mang tới những bất lợi
đó là:
- Mực nước biển có thể dâng lên cao từ 25 đến 140cm, do sự tan băng và sẽ nhấn chìm một
vùng ven biển rộng lớn, làm đất mất đi nhiều vùng sản xuất nông nghiệp, dẫn đến nghèo đói, đặc
biệt ở các nước đang phát triển.
- Thời tiết thay đổi dẫn đến gia tăng tần suất thiên tai như gió, bão, động đất, phun trào núi
lửa, hoả hoạn và lũ lụt. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sự sống của loài người một cách trực
tiếp và gây ra những thiệt hại về kinh tế mà còn gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng khác.
Ví dụ, các trận hoả hoạn tự nhiên không kiểm soát được vào các năm từ 1996 - 1998 đã thiêu huỷ
nhiều khu rừng ở Braxin,Canada, khu tự trị Nội Mông ở Đông Bắc Trung Quốc, Inđônêxia, Ý,
Mêhicô, Liên Bang Nga và Hoa Kỳ. Những tác động của các vụ cháy rừng có thể rất nghiêm trọng.
Các chuyên gia coi chỉ số ô nhiễm ở mức 100m/m3 là đã có tác động xấu đến sức khoẻ; Ở Malaixia,

25
Bài giảng Môi trường GTVT

chỉ số này đã đạt tới 800 m/m3. Chi phí ước tính do nạn cháy rừng đối với người dân Đông Nam
Á là 1,4 tỷ USD. Các vụ cháy rừng còn đe doạ nghiêm trọng tới đa dạng sinh học.
Trái Đất nóng lên chủ yếu do hoạt động của con người mà cụ thể là:
- Do sử dụng ngày càng tăng lượng than đá, dầu mỏ và phát triển công nghiệp dẫn đến gia
tăng nồng độ CO2 và SO2 trong khí quyển.
- Khai thác triệt để dẫn đến làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên rừng
và đất rừng, nước - là bộ máy khổng lồ giúp cho việc điều hoà khí hậu Trái Đất.
- Nhiều HST bị mất cân bằng nghiêm trọng ở nhiều khu vực trên Thế giới. Tất cả các yếu tố
này góp phần làm cho thiên nhiên mất đi khả năng từ điều chỉnh vốn có của mình.
Việt Nam, tuy chưa phải là nước công nghiệp, nhưng xu thế đóng góp khí gây hiệu ứng nhà kính
làm biến đổi khí hậu Toàn cầu cũng gia tăng theo năm tháng. Kết quả kiểm kê của dự án Môi
trường Toàn cầu (RETA), Việt Nam được đưa ra ở bảng sau.
Bảng 2.1. Kết quả kiểm kê khí nhà kính năm 1990 – 1993 (Tg - triệu tấn)
Năm
1990 1993
Nguồn phát thải
- Khu vực năng lượng thương mại (Tg CO2) 19,280 24,045
- Khu vực năng lượng phi thương mại (Tg 43,660 52,565
CO2) 0,347 2,417
- Sản xuất xi măng (Tg CO2) 1,135 0,394
- Chăn nuôi (Tg CH4) 0,950 3,192
- Trồng lúa nước (Tg CH4) 33,90 34,516
- Lâm nghiệp (Tg CO2)
Nhìn chung, lượng phát thải trong các lĩnh vực chính của những năm gần đây có xu hướng
tăng lên, đó chính là hệ quả của tốc độ phát triển và tỷ lệ tăng dân số ở nước ta hiện nay. Lượng
phát thải CO2 do tiêu thụ năng lượng và sản xuất xi măng của năm 1993 tăng hơn so với năm 1990.
Trong khi đó, lượng phát thải CO2 do các hoạt động lâm nghiệp tăng không đáng kể. Trong khu
vực nông nghiệp, lượng phát thải CH4 trong chăn nuôi đã có những sai khác nhiều so với năm
1990. CO2 và CH4 là 2 loại khí nhà kính chủ yếu ở nước ta hiện nay. Tính đến năm 1993, lượng
phát thải CO2 ở Việt Nam vào khoảng 27 - 28 triệu tấn do tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch từ các hoạt
động năng lượng và phát thải CH4 và 3,2 triệu tấn do sản xuất lúa nước. Các hoạt động trong ngành
lâm nghiệp phát thải khoảng 34,5 triệu tấn CO2 song lượng CO2 do đốt sinh khối cần được đánh
giá và xác định một cách chính thức.
Với những nguyên nhân trên, thiên tai không những chỉ xuất hiện với tần suất ngày càng gia
tăng mà quy mô tác động gây thiệt hại cho con người cũng ngày càng lớn. Ví dụ, tháng 12/1999,
hai trận mưa lớn ở Vênêzuêla đã làm cho 50.000 người chết và hơn 200.000 người không có nhà
ở. Cũng vào năm đó, một cơn bão lớn đã cướp đi mạng sống của 10.000 người ở Orissa (Ấn Độ)
và một trận động đất đã tàn phá đất nước Thổ Nhĩ Kỳ và đặc biệt gần đây, ngày 26/01/2001, thảm
hoạ động đất ở Ấn Độ đã làm cho khoảng 30.000 người chết và hàng vạn người bị thương gây thiệt
hại rất lớn về tiền của. Đầu tháng 9/2000, những cơn bão liên tiếp có kèm theo mưa lớn đã đổ xuống
khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) làm cho vùng đất rộng lớn bị chìm ngập trong biển
nước. Tính đến ngày 6/10/2000, tổng thiệt hại do lũ lụt gây ra tại các tỉnh ĐBSCL ước tính lên tới
3.125 tỷ đồng, 309 người chết trong đó có 232 trẻ em.
26
Bài giảng Môi trường GTVT

2.1.2. Sự suy giảm tầng Ozon


Vấn đề gìn giữ tầng Ôzôn có vai trò sống còn đối với nhân loại. Tầng Ôzôn có vai trò bảo
vệ, chặn đứng các tia cực tím có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của con người và các loài sinh
vật trên Trái Đất. Bức xạ tia cực tím có nhiều tác động, hầu hết mang tính chất phá huỷ đối với con
người, động vật và thực vật cũng như các loại vật liệu khác, khi tầng Ôzôn tiếp tục bị suy thoái,
các tác động này càng trở nên tồi tệ. Ví dụ, mức cạn kiệt tầng Ôzôn là 10% thì mức bức xạ tia cực
tím ở các bước sóng gây phá huỷ tăng 20%. Bức xạ tia cực tím có thể gây huỷ hoại mắt, làm đục
thuỷ tinh thể và phá hoại võng mạc, gây ung thư da, làm tăng các bệnh về đường hô hấp. Đồng
thời, bức xạ tia cực tím tăng lên được coi là nguyên nhân làm suy yếu các hệ miễn dịch của con
người và động vật, đe doạ tới đời sống của động và thực vật nổi trong môi trường nước sống nhờ
quá trình chuyển hoá năng lượng qua quang hợp để tạo ra thức ăn trong môi trường thuỷ sinh.
Ôzôn là loại khí hiếm trong không khí nằm trong tầng bình lưu khí quyển gần bề mặt Trái
Đất và tập trung thành một lớp dày ở độ cao từ 16 - 40 km phụ thuộc vào vĩ độ. Việc giao thông
đường bộ do các phương tiện có động cơ thải ra khoảng 30 - 50% lượng NOx ở các nước phát triển
và nhiều chất hữu cơ bay hơi (VOC) tạo ra Ôzôn mặt đất. Nếu không khí có nồng độ Ôzôn lớn hơn
nồng độ tự nhiên thì môi trường bị ô nhiễm và gây tác hại đối với sức khoẻ con người.
Ví dụ: Nồng độ Ôzôn = 0,2ppm: Không gây bệnh.
Nồng độ O3 = 0,3ppm: Mũi, họng bị kích thích và bị tấy.
Nồng độ O3 = 1 - 3ppm: Gây mệt mỏi, bải hoải sau 2 giờ tiếp xúc.
Nồng độ O3 = 8ppm: Nguy hiểm đối với phổi.
Bảng 2.2. Tác động của O3 đối với thực vật
Loại cây Nồng độ O3 (ppm) Thời gian tác Biểu hiện gây hại
động
- Củ cải 0,050 20 ngày (8h/ngày) 50% lá chuyển sang màu vàng
- Thuốc lá 0,100 5,5h Giảm 50% phát triển phấn hoa
- Đậu tương 0,050 - Giảm sinh trưởng từ 14,4 – 17%
- Yến mạch 0,075 19h Giảm cường độ quang hợp
Các chất làm cạn kiệt tầng Ôzôn (ODS - Ozon Depletion Substances) bao gồm:
Cloruafluorocacbon (CFC); mêtan (CH4); các khí nitơ ôxit (NO2, NO, NOx) có khả năng hoá hợp
với O3 và biến đổi nó thành ôxy. Các chất làm suy giảm tầng Ôzôn trong tầng bình lưu đạt ở mức
cao nhất vào năm 1994 và hiện đang giảm dần. Theo Nghị định thư Montreal và các văn bản sửa
đổi của Nghị định thư dự đoán rằng, tầng Ôzôn sẽ được phục hồi so với trước những năm 1980 vào
năm 2050.
2.1.3. Tài nguyên bị suy thoái
Rừng, đất rừng và đồng cỏ hiện vẫn đang bị suy thoái hoặc bị triệt phá mạnh mẽ, đất hoang
bị biến thành sa mạc. Sa mạc Sa-ha-ra có diện tích rộng 8 triệu km2, mỗi năm bành trướng thêm từ
5-7km2. Một bằng chứng mới cho thấy, sự biến đổi khí hậu cũng là nguyên nhân gây thêm tình
trạng xói mòn đất ở nhiều khu vực. Gần đây, 250 nhà Thổ nhưỡng học được Trung tâm Thông tin
và Tư vấn Quốc tế Hà Lan tham khảo lấy ý kiến đã cho rằng, khoảng 305 triệu ha đất màu mỡ (gần
bằng diện tích của Tây Âu) đã bị suy thoái do bàn tay của con người, làm mất đi tính năng sản xuất
nông nghiệp. Khoảng 910 triệu ha đất tốt (tương đương với diện tích nước Úc) sẽ bị suy thoái ở
mức trung bình, giảm tính năng sản xuất và nếu không có biện pháp cải tạo thì quỹ đất này sẽ bị
27
Bài giảng Môi trường GTVT

suy thoái ở mức độ mạnh trong tương lai gần. Theo Tổ chức Lương thực Thực phẩm Thế giới
(FAO) thì trong vòng 20 năm tới, hơn 140 triệu ha đất (tương đương với diện tích của Alaska) sẽ
bị mất đi giá trị trồng trọt và chăn nuôi. Đất đai ở hơn 100 nước trên Thế giới đang chuyển chậm
sang dạng hoang mạc, có nghĩa là 900 triệu người đang bị đe doạ. Trên phạm vi Toàn cầu, khoảng
25 tỷ tấn đất đang bị cuốn trôi hàng năm vào các sông ngòi và biển cả. Theo tài liệu thống kê của
Liên Hợp Quốc, diện tích đất canh tác bình quân đầu người trên Thế giới năm 1983 là 0,31ha/người
thì đến năm 1993 chỉ còn 0,26 ha/người và còn tiếp tục giảm trong tương lai.
- Sự phá huỷ rừng vẫn đang diễn ra với mức độ cao, trên Thế giới diện tích rừng có khoảng
40 triệu km2, song cho đến nay diện tích này đã bị mất đi một nửa, trong số đó, rừng ôn đới chiếm
khoảng 1/3 và rừng nhiệt đới chiếm 2/3. Sự phá huỷ rừng xảy ra mạnh, đặc biệt ở những nước đang
phát triển. Chủ yếu do nhu cầu khai thác gỗ củi và nhu cầu lấy đất làm nông nghiệp và cho nhiều
mục đích khác, gần 65 triệu ha rừng bị mất vào những năm 1990 - 1995.
Ở các nước phát triển, diện tích rừng tăng 9 triệu ha, con số này còn quá nhỏ so với diện tích rừng
đã bị mất đi. Chất lượng của những khu rừng còn lại đang bị đe doạ bởi nhiều sức ép do tình trạng
gia tăng dân số, mưa axit, nhu cầu khai thác gỗ củi và cháy rừng. Nơi cư trú của các loài sinh vật
bị thu hẹp, bị tàn phá, đe doạ tính đa dạng sinh học ở các mức độ về gen, các giống loài và các
HST.
- Với tổng lượng nước là 1386.106 km3, bao phủ gần 3/4 diện tích bề mặt Trái Đất, và như
vậy Trái Đất của chúng ta có thể gọi là "Trái Nước", nhưng loài người vẫn "khát" giữa đại dương
mênh mông, bởi vì với tổng lượng nước đó thì nước ngọt chỉ chiếm 2,5% tổng lượng nước, mà hầu
hết tồn tại ở dạng đóng băng và tập trung ở hai cực (chiếm 2,24%), còn lượng nước ngọt mà con
người có thể tiếp cận để sử dụng trực tiếp thì lại càng ít ỏi (chỉ chiếm 0,26%). Sự gia tăng dân số
nhanh cùng với quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, thâm canh nông nghiệp và các thói quen tiêu
thụ nước quá mức đang gây ra sự khủng hoảng nước trên phạm vi Toàn cầu. Gần 20% dân số Thế
giới không được dùng nước sạch và 50% thiếu các hệ thống vệ sinh an toàn. Sự suy giảm nước
ngọt ngày càng lan rộng hơn và gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng, đó là nạn thiếu nước ở nhiều
nơi và đối với các khu vực ven biển đó là sự xâm nhập mặn. Ô nhiễm nước uống là phổ biến ở các
siêu đô thị, ô nhiễm nitrat (NO3 -) và sự tăng khối lượng các kim loại nặng gây tác động đến chất
lượng nước hầu như ở khắp mọi nơi. Nguồn cung cấp nước sạch trên Thế giới không thể tăng lên
được nữa; ngày càng có nhiều người phụ thuộc vào nguồn cung cấp cố định này và ngày càng có
nhiều người bị ô nhiễm hơn. Mất đất, mất rừng, cạn kiệt nguồn nước làm cho hàng chục triệu người
buộc phải di cư, tị nạn môi trường,... gây xuống cấp các điều kiện sức khoẻ, nhà ở, môi trường. Có
khoảng 1 tỷ người không có đủ chỗ để che thân và hàng chục triệu người khác phải sống trên các
hè phố. Thật không thể tin được rằng, Thế giới ngày nay cứ mỗi năm có 20 triệu người dân chết vì
nguyên nhân môi trường, trong khi đó, số người chế trong các cuộc xung đột vũ trang của hơn nửa
thế kỷ tính từ sau năm 1945 tới nay cũng chỉ là 20 triệu người. Bài toán tăng 75% lượng lương thực
từ nay tới năm 2030 do FAO đề ra là bài toán khó vẫn chưa có lời giải vì dân số liên tục gia tăng
trong khi diện tích đất nông nghiệp không tăng mà còn có xu hướng giảm, độ màu mỡ của đất ngày
càng suy thoái.
2.1.4. Ô nhiễm môi trường đang xảy ra ở quy mô rộng
Sự phát triển đô thị, khu công nghiệp, du lịch và việc đổ bỏ các loại chất thải vào đất, biển,
các thuỷ vực đã gây ô nhiễm môi trường ở quy mô ngày càng rộng, đặc biệt là các khu đô thị. Nhiều
28
Bài giảng Môi trường GTVT

vấn đề môi trường tác động tương tác với nhau ở các khu vực nhỏ, mật độ dân số cao. Ô nhiễm
không khí, rác thải, chất thải nguy hại, ô nhiễm tiếng ồn và nước đang biến những khu vực này
thành các điểm nóng về môi trường. Khoảng 30 - 60% dân số đô thị ở các nước có thu nhập thấp
vẫn còn thiếu nhà ở và các điều kiện vệ sinh. Sự tăng nhanh dân số Thế giới có phần đóng góp do
sự phát triển đô thị. Bước sang thế kỷ XX, dân số Thế giới chủ yếu sống ở nông thôn, số người
sống tại các đô thị chiếm 1/7 dân số Thế giới. Nhưng đến cuối thế kỷ XX, dân số sống ở đô thị đã
tăng lên nhiều và chiếm tới 1/2 dân số Thế giới. Ở nhiều quốc gia đang phát triển, đô thị phát triển
nhanh hơn mức tăng dân số. Châu Phi là vùng có mức độ đô thị hoá kém nhất, nay đã có mức đô
thị hoá tăng hơn 4%/năm so với mức tăng dân số là 3%, số đô thị lớn ngày càng tăng hơn. Đầu thế
kỷ XX chỉ có 11 đô thị loại 1 triệu dân và phần lớn tập trung ở Châu Âu và Bắc Mỹ, nhưng đến
cuối thế kỷ đã có khoảng 24 siêu đô thị với số dân trên 24 triệu người.
Năm 1950, có 3 trong số 10 thành phố lớn nhất trên Thế giới là ở các nước đang phát triển
như: Thượng Hải (Trung Quốc); Buenos Aires (Achentina) và Calcuta (Ấn Độ). Năm 1990, 7 thành
phố lớn nhất là ở các nước đang phát triển. Năm 1995 và năm 2000 đã tăng lên 17 siêu đô thị (bảng)
Bảng 2.3. Dân số các siêu đô thị năm 1995 và dự tính đến năm 2000

Ở Việt Nam hiện nay, trong 500 thành phố và thị trấn chỉ có 2 thành phố trên 1 triệu dân
(Hà Nội khoảng 2,2 triệu người, kể cả ngoại thành; Thành phố Hồ Chí Minh khoảng hơn 4 triệu
người với 1/4 là ngoại thành) và 2 thành phố với số dân từ 350.000 đến 1 triệu người. Trong vòng
15 năm tới, nếu không có sự quy hoạch đô thị hợp lý, có khả năng TPHCM và cả Hà Nội sẽ trở
thành siêu đô thị với tất cả những vấn đề môi trường phức tạp về mật độ dân cư.
Đặc biệt, lượng nước ngọt đang khan hiếm trên hành tinh cũng bị chính con người làm tổn
thương, một số nguồn nước bị nhiễm bẩn nặng đến mức không còn khả năng hoàn nguyên. Hiện
nay, Đại Dương đang bị biến thành nơi chứa rác khổng lồ của con người, nơi chứa đựng đủ loại
chất thải của nền văn minh kỹ thuật, kể cả chất thải hạt nhân. Việc đổ các chất thải xuống biển đang
làm xuống cấp các khu vực ven biển trên toàn Thế giới, gây huỷ hoại các hệ sinh thái như đất ngập
nước, rừng ngập mặn và các dải san hô.
Hiện nay, trên Thế giới, nhiều vùng đất đã được xác định là bị ô nhiễm. Ví dụ, ở Anh đã
chính thức xác nhận 300 vùng với diện tích 10.000 ha bị ô nhiễm, tuy nhiên trên thực tế có tới
29
Bài giảng Môi trường GTVT

50.000 - 100.000 vùng với diện tích khoảng 100.000ha (Bridges, 1991). Còn ở Mỹ có khoảng
25.000 vùng, ở Hà Lan là 6.000 vùng đất bị ô nhiễm cần phải xử lý.
2.1.5. Sự gia tăng dân số
Con người là chủ của Trái Đất, là động lực chính làm tăng thêm giá trị của các điều kiện
kinh tế - xã hội và chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, xung lượng gia tăng dân số hiện nay ở một số
nước đi đôi với đói nghèo, suy thoái môi trường và tình hình kinh tế bất lợi đã gây ra xu hướng làm
mất cân bằng nghiêm trọng giữa dân số và môi trường.
Đầu thế kỷ XIX, dân số Thế giới mới có 1 tỷ người nhưng đến năm 1927 tăng lên 2 tỷ người;
năm 1960: 3 tỷ; năm 1974: 4 tỷ; năm 1987: 5 tỷ và năm 1999 là 6 tỷ người, trong đó trên 1 tỷ người
trong độ tuổi từ 15 - 24 tuổi. Mỗi năm dân số Thế giới tăng thêm khoảng 78 triệu người. Theo dự
tính đến năm 2015, dân số Thế giới sẽ ở mức từ 6,9 - 7,4 tỷ người và đến 2025 dân số sẽ là 8 tỷ
người và năm 2050 sẽ là 10,3 tỷ người. 95% dân số tăng thêm nằm ở các nước đang phát triển do
đó các nước này sẽ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng cả về kinh tế, xã hội đặc biệt là
môi trường, sinh thái. Việc giải quyết những hậu quả do dân số tăng của những nước này có lẽ còn
khó khăn hơn gấp nhiều lần những xung đột về chính trị trên Thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự gia tăng dân số trên Thế giới, nhiều Quốc gia đã phát
triển chương trình kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ), mức tăng trưởng dân số Toàn cầu đã giảm từ
2% mỗi năm vào những năm trước 1980 xuống còn 1,7% và xu hướng này ngày càng thấp hơn.
Theo dự tính, sau năm 2050, dân số Thế giới sẽ ngừng tăng và ổn định ở mức 10,3 tỷ. Tuy
nhiên, điều đó vẫn chưa đủ để tạo cân bằng giữa dân số và khả năng của môi trường. Các nước
chưa liên kết được KHHGĐ với quy hoạch phát triển, thì cũng chưa thể gắn vấn đề dân số với hành
động về môi trường. Một câu hỏi được đặt ra là liệu tài nguyên thiên nhiên và các HST của Trái
Đất có thể chịu đựng được sự tác động thêm bởi những thành viên cuối cùng của loài người chúng
ta hay không? Hơn nữa, điều gì sẽ xảy ra vào năm 2025, khi người thứ 8 tỷ của Trái Đất sẽ ra đời?
Nếu người thứ 6 tỷ sinh ra tại một nước phát triển, ví dụ như ở Mỹ thì người đó đương nhiên thuộc
vào dân số tầng lớp trên, ít nhất theo nghĩa là có nhà tốt, có nước sạch, có điều kiện vệ sinh và được
hưởng giáo dục, chăm sóc y tế thích đáng, có việc làm, có thời gian giải trí. Song người thứ 6 tỷ
cũng góp phần tiêu thụ những tài nguyên kỷ lục. Hàng năm, 270 triệu người Mỹ sử dụng khoảng
10 tỷ tấn nguyên liệu, chiếm 30% trữ lượng của toàn hành tinh; 1 tỷ người giàu nhất Thế giới, kể
cả người Châu Âu và người Nhật tiêu thụ 80% tài nguyên Trái Đất. Nếu người thứ 6 tỷ được sinh
ra tại một nước đang phát triển, nơi tập trung 3/4 dân số của Thế giới thì người đó chỉ có lâm vào
cơ hội nghèo đói và thiếu thốn; 1/3 dân số Thế giới (2 tỷ người) đang sống với khoảng 2 USD/ngày;
một nửa số người trên Trái Đất có điều kiện vệ sinh kém; 1/4 không được dùng nước sạch, 1/3 sống
trong những khu nhà ở không đủ tiện nghi; 1/6 không biết chữ và 30% những người lao động không
có được cơ hội có việc làm phù hợp; 5 tỷ người còn lại trên Trái Đất chỉ tiêu dùng vẻn vẹn 20% tài
nguyên Trái Đất. Việc tăng những kỳ vọng và nhu cầu thiết yếu để cải thiện điều kiện sống trong
những nước đang phát triển càng làm trầm trọng thêm sự tổn hại về môi trường. Một người Mỹ
trung bình hàng năm tiêu thụ 37 tấn nhiên liệu, kim loại, khoáng chất, thực phẩm và lâm sản. Ngược
lại, 1 người Ấn Độ trung bình tiêu thụ hàng năm ít hơn 1 tấn. Theo Liên Hợp Quốc, nếu toàn bộ
dân số của Trái Đất có cùng mức tiêu thụ trung bình như người Mỹ hoặc Tây Âu, thì cần phải có 3
Trái Đất để đáp ứng tài nguyên cần thiết. Rõ ràng, cần phải quan tâm hơn nữa tới sự tiến bộ của
con người và công bằng xã hội và phải coi đây là những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển nguồn
30
Bài giảng Môi trường GTVT

nhân lực và cải thiện môi trường. Mỗi Quốc gia phải đảm bảo sự hài hoà giữa: Dân số, hoàn cảnh
môi trường, tài nguyên, trình độ phát triển, kinh tế - xã hội.
2.1.6. Sự suy giảm tính đa dạng sinh học
Các loài động và thực vật qua quá trình tiến hoá trên Trái Đất hàng trăm triệu năm đã và
đang góp phần quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng môi trường sống trên Trái Đất, ổn định
khí hậu, làm sạch các nguồn nước, hạn chế xói mòn đất, làm tăng độ phì nhiêu đất. Sự đa dạng của
tự nhiên cũng là nguồn vật liệu quý giá cho các ngành công nghiệp, dược phẩm, du lịch, là nguồn
thực phẩm lâu dài của con người, và là nguồn gen phong phú để tạo ra các giống loài mới. ĐDSH
được chia thành 3 dạng: Đa dạng di truyền; đa dạng loài và đa dạng sinh thái.
- Đa dạng di truyền: Vật liệu di truyền của vi sinh vật, thực vật và động vật chứa đựng nhiều
thông tin xác định các tính chất của tất cả các loài và các cá thể tạo nên sự đa dạng của Thế giới
hữu sinh. Theo định nghĩa, thì những cá thể cùng loài có những đặc điểm giống nhau, những biến
đổi di truyền lại xác định những đặc điểm riêng biệt của những cá thể trong cùng loài.
- Đa dạng loài: Được thể hiện đối với từng khu vực, đa dạng loài được tính bằng số lượng
loài và những đơn vị dưới loài trong 1 vùng.
- Đa dạng HST: Sự phong phú về môi trường trên cạn và môi trường dưới nước của Trái
Đất đã tạo nên một số lượng lớn HST. Những sinh cảnh rộng lớn bao gồm rừng mưa nhiệt đới,
đồng cỏ, đất ngập nước, san hô và rừng ngập mặn chứa đựng nhiều HST khác nhau và cũng rất
giàu có về ĐDSH. Những HST riêng biệt chứa đựng các loài đặc hữu cũng góp phần quan trọng
cho ĐDSH Toàn cầu. Các sinh cảnh giàu có nhất của Thế giới là rừng ẩm nhiệt đới, mặc dù chúng
chỉ chiếm 70% tổng diện tích của bề mặt Trái Đất, nhưng chúng chiếm ít nhất 50%, thậm chí đến
90% số loài của động và thực vật.
Sự đa dạng về các giống loài động thực vật trên hành tinh có vị trí vô cùng quan trọng. Việc
bảo vệ ĐDSH còn có ý nghĩa đạo đức, thẩm mỹ và loài người phải có trách nhiệm tuyệt đối về mặt
luân lý trong cộng đồng sinh vật sống. ĐDSH lại là nguồn tài nguyên nuôi sống con người. Chúng
ta đã sử dụng sinh vật làm thức ăn, thuốc chữa bệnh, hoá chất, vật liệu xây dựng, năng lượng,... và
cho nhiều mục đích khác, khoảng 100 loài cây cung cấp phần lớn lượng thức ăn cho Toàn cầu,
chúng vô cùng quý giá và cần phải được bảo tồn và phát triển. Hơn 10.000 cây khác, nhất là ở các
vùng nhiệt đới có thể dùng làm thực phẩm nếu chúng ta biết sử dụng chúng tốt hơn. Cây cối và các
sinh vật khác còn là một "xí nghiệp" hoá - sinh tự nhiên. Sức khoẻ của hơn 60% dân số Thế giới
phụ thuộc vào các loài cây làm thuốc. Ví dụ, Trung Quốc đã sử dụng 5.000 trong số 30.000 loài
cây để làm thuốc. Mất ĐDSH chúng ta cũng mất đi các dịch vụ tự nhiên của các HST tự nhiên, đó
là: Bảo vệ các lưu vực sông ngòi, điều hoà khí hậu, duy trì chất lượng không khí, hấp thụ ô nhiễm,
sản sinh và duy trì đất đai. Tuy nhiên, nhân loại đang phải đối mặt với một thời kỳ tuyệt chủng lớn
nhất của các loài động và thực vật. Thảm hoạ này tiến triển nhanh nhất và có hậu quả rất nghiêm
trọng. Theo tính toán, trên Thế giới có 492 chủng quần thực vật có tính chất di truyền độc đáo đang
bị đe doạ tuyệt chủng. Sự đe doạ không chỉ riêng đối với động và thực vật hoang dại mà trong nhiều
thập kỷ gần đây với cuộc cách mạng xanh trong nông nghiệp, công nghiệp hoá đã làm biến mất
nhiều giống loài địa phương quý hiếm, 1.500 giống lúa địa phương đã bị tuyệt chủng trong 20 năm
qua ở Inđônêxia. Ở Việt Nam, việc áp dụng rộng rãi các giống lúa mới trong nông nghiệp,... đã dẫn
tới sự thu hẹp hoặc mất đi các HST dẫn tới nguy cơ tuyệt diệt 28% các loài thú, 10% các loài chim,
21% loài bò sát và lưỡng cư (Lê Quý An, 2000). Hiện tượng này cũng xảy ra tương tự đối với vật
31
Bài giảng Môi trường GTVT

nuôi trên Toàn cầu, đã có 474 giống vật nuôi được coi là quý hiếm và tổng cộng đã có 617 giống
vật nuôi đã tuyệt chủng. Nguyên nhân chính của sự mất ĐDSH là:
- Mất nơi sinh sống do chặt phá rừng và phát triển kinh tế.
- Săn bắt quá mức để buôn bán.
- Ô nhiễm đất, nước và không khí.
- Việc du nhập nhiều loài ngoại lai cũng là nguyên nhân gây mất ĐDSH.
Thế nào là sinh vật ngoại lai? Đó là những sinh vật lạ lọt vào một HST mà trước đó không
có do hoạt động vô tình hay hữu ý của con người, từ đó nảy sinh mối đe doạ cho các loài bản địa.
Điều này xảy ra chủ yếu do 2 nguyên nhân:
- Nhập nội các sinh vật lạ hoặc các sản phẩm sinh học mới mang tính thương mại nhưng
chưa được các cơ quan chuyên môn kiểm tra và đánh giá.
- Phóng thích các sinh vật được truyền gen vào môi trường tự nhiên nhưng chưa đánh giá
được đầy đủ ảnh hưởng của chúng đến các HST.
Liên quan đến vấn đề này, xuất hiện phạm trù về "An toàn sinh học trong quản lý môi
trường". Đó là các quy định pháp lý thống nhất trên lãnh thổ một Quốc gia về các hoạt động nghiên
cứu và ứng dụng công nghệ sinh học cao (công nghệ gen), nhằm đảm bảo an toàn cho người, các
HST và môi trường.
Đặc điểm chung của những sinh vật ngoại lai là:
+ Sinh vật sản xuất nhanh (bằng cả sinh sản vô tính và hữu tính).
+ Biên độ sinh thái rộng, thích ứng nhanh với những thay đổi của môi trường.
+ Khả năng cạnh tranh về nguồn thức ăn, nơi cư trú lớn.
+ Khả năng phát tán lớn.
Những tác hại do sinh vật ngoại lai gây nên: Các sinh vật lạ khi xâm nhập vào môi trường thích
hợp, chúng có thể tiêu diệt dần các loài bản địa bằng:
+ Cạnh tranh nguồn thức ăn (động vật)
+ Ngăn cản khả năng gieo giống, tái sinh tự nhiên của các loài bản địa (thực vật) do khả
năng phát triển nhanh với mật độ dày đặc
+ Cạnh tranh tiêu diệt dần các loài bản địa, làm suy thoái hoặc thay đổi tiến tới tiêu diệt luôn
cả hệ sinh thái bản địa.
Hậu quả của quá trình này không dễ khắc phục, không chỉ gây tổn thất về giá trị ĐDSH, mà
còn gây tổn thất không nhỏ về kinh tế.
Những nơi sinh vật ngoại lai dễ xâm nhập: Sự xâm nhập của các loài sinh vật ngoại lai thường bắt
đầu từ những vùng nhạy cảm, những HST kém bền vững như: Vùng cửa sông, bãi bồi, các vực
nước nội địa, các vùng đảo nhỏ, các HST nông nghiệp độc canh, vùng núi cao với các HST bản địa
thuần loài (thực vật). Ví dụ, Ốc bươu vàng (Pila sinensis) được nhập khẩu vào nước ta trong khoảng
hơn 10 năm nay, với khả năng sinh sản rất nhanh và thức ăn chủ yếu là lúa đã gây nên đại dịch phá
hoại lúa ở nhiều tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh thuộc miền Trung và miền Bắc
nước ta. Nạn dịch này không chỉ làm giảm sản lượng lúa của các địa phương mà hàng năm, nhà
nước đã phải chi ra hàng trăm triệu đồng để tiêu diệt loài ốc này.
Hầu hết các loài bị đe doạ đều là các loài trên mặt đất và trên một nửa sống trong rừng. Các
nơi cư trú nước ngọt và nước biển, đặc biển là các dải san hô là những môi trường sống rất dễ bị
thương tổn.
32
Bài giảng Môi trường GTVT

2.2. Phát triển bền vững và bảo vệ môi trường


2.2.1. Khái niệm:
a) Khái niệm phát triển
Phát triển là quá trình cải thiện chất lượng cuộc sống về vật chất, văn hóa và tinh thần của
con người.
Đối với mỗi quốc gia, quá trình phát triển trong mỗi giai đoạn cụ thể nhằm đạt được mục
tiêu nhất định về mức sống vật chất, tinh thần của người dân trong quốc gia đó, cũng như sức mạnh
về kinh tế, chính trị, quân sự,… Các mục tiêu này thường được cụ thể hóa bằng những chỉ tiêu về
kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội,…
b) Phát triển bền vững
“Phát triển bền vững” là khái niệm mới, xuất hiện trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm phát triển
của các quốc gia, để phản ánh xu thế của thời đại và định hướng tương lai của nhân loại.
Theo nhà kinh tế học Herman Daly ở Ngân hàng Thế giới thì: Một thế giới bền vững là một
thế giới không sử dụng các nguồn tài nguyên tái tạo (nước, thổ nhưỡng, sinh vật,…) nhanh hơn khả
năng tự tái tạo của chúng. Một xã hội bền vững cũng không sử dụng các tài nguyên không tái tạo
(khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch,…) nhanh hơn quá trình tìm ra những loại tài nguyên có thể thay
thế chúng và không thải ra môi trường các chất độc hại nhanh hơn quá trình Trái đất hấp thụ và vô
hiệu hóa chúng.
Trong báo cáo của Brundtland về môi trường và phát triển đã đưa ra định nghĩa: Phát triển
bền vững là một loại phát triển lành mạnh, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện tại lại vừa không xâm
phạm đến lợi ích của các thế hệ tương lai.
Trong cuộc họp nhóm các chuyên gia được tổ chức tại trụ sở của Trung tâm định cư của
Liên hợp quốc ở Nairobi từ 16-20/7/1990 đã công nhận định nghĩa về Phát triển bền vững do Ủy
ban thế giới về Môi trường và Phát triển đưa ra như sau: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm
đáp ứng các nhu cầu hiện tại của con người mà không làm tổn hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai”.
Điều đó chỉ ra rằng phát triển bền vững không phải là một sự hài hòa cố định mà là một quá
trình của sự thay đổi trong việc thăm dò tài nguyên, phương hướng đầu tư, định hướng phát triển
kỹ thuật và những thay đổi về thể chế, không mâu thuẫn với những nhu cầu của tương lai cũng như
hiện tại.
Như vậy, có thể thấy: Phát triển bền vững là phát triển lành mạnh, trong đó sự phát triển của
cá nhân này không làm thiệt hại đến lợi ích của cá nhân khác; sự phát triển của cá nhân không làm
thiệt hại đến lợi ích cộng đồng; sự phát triển của cộng đồng người này không làm thiệt hại đến lợi
ích của cộng đồng người khác; sự phát triển của thế hệ hôm nay không xâm phạm đến lợi ích của
các thế hệ mai sau và sự phát triển của loài người không đe dọa sự sống còn hoặc làm suy giảm nơi
sinh sống các loài khác trên hành tinh này.
2.2.2. Nội dung phát triển bền vững:
a) Các chỉ số phát triển bền vững:
Khái niệm phát triển bền vững là một khái niệm rất rộng, mang tính tổng hợp rất cao. Để đo
mức độ bền vững của sự phát triển, có thể dùng các chỉ số sau đây:
- Chỉ số phát triển con người (Human Developed Index – HDI).
- GNP (Gross National Product - Tổng sản phẩm quốc dân) bình quân trên đầu người.
33
Bài giảng Môi trường GTVT

- Chỉ số phản ánh trình độ dân trí (tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ người có học vấn các cấp, trình
độ tin học, văn hóa, thẩm mỹ,…)
- Chỉ số phản ánh sự tiến bộ xã hội về y tế: sức khỏe, tuổi thọ, hệ thống chăm sóc sức khỏe,…
- Ngoài ra, còn có các chỉ số tự do con người (Human Free Index – HFI) như: việc làm, tôn
trọng quyền con người, an ninh, không có bạo lực,…
Tuy nhiên, so với phát triển kinh tế đơn thuần, phát triển bền vững là một bài toán mà không
phải lúc nào cũng có thể giải quyết một cách tối ưu được. Bởi vì trong thực tế thường đứng trước
sự lựa chọn không dễ dàng, song xuất phát từ cách nhìn tổng thể, một chiến lược phát triển có tính
toán đầy đủ mọi khía cạnh từ kinh tế đến phi kinh tế và một khả năng dự báo tương lai có tính hiện
thực thì phát triển bền vững vẫn được đánh giá là một phương pháp phát triển lành mạnh, có giá trị
hơn cả.
b) Nội dung cụ thể:
Phát triển bền vững là một quá trình phát triển có tính hệ thống và tổng hợp cao. Theo quan
điểm tiếp cận này, Jacobs và Sadler trình bày mối quan hệ biện chứng giữa phát triển và môi trường
theo hình dưới đây:

Hình 2.1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, xã hội và môi trường
Mô hình này cũng được Mohan Munasingle (1993) phát triển theo hướng tiếp cận các mục
tiêu bền vững (hình 2.2).
*Về kinh tế:
- Giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác qua việc thay đổi công nghệ, sử
dụng tiết kiệm tài nguyên và thay đổi lối sống.
- Thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến ĐDSH và Môi trường
- Bình đẳng cùng thế hệ trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế và giáo
dục.
- Xoá đói, giảm nghèo tuyệt đối
- Công nghệ sạch và sinh thái hoá công nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải. Tái tạo năng
lượng đã sử dụng)

34
Bài giảng Môi trường GTVT

- Tăng trưởng
KINH TẾ
- Hiệu quả

- Ổn định

- Công bằng giữa các thế hệ - Đánh giá tác động môi trường

- Mục tiêu trợ giúp việc làm - Tiền tệ hoá tác động môi trường

- Giảm đói nghèo


XÃ HỘI MÔI TRƯỜNG - ĐDSH và thích nghi
- Xây dựng thể chế
- Bảo tồn TNTN
- Bảo tồn di sản - Công bằng giữa các thế hệ
văn hoá dân tộc - Ngăn chặn ô nhiễm
- Sự tham gia của quần chúng
Hình 2.2. Tiếp cận phát triển bền vững
* Về xã hội - nhân văn
- Ổn định dân số
- Phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị
- Giảm thiểu tác động xấu của môi trường đến đô thị hoá
- Nâng cao học vấn, xoá mù chữ
- Bảo vệ đa dạng văn hoá
- Bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích
- Tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình ra quyết định
* Về môi trường
- Sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo
- Phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái
- Bảo vệ đa dạng sinh học
- Bảo vệ tầng ôzôn
- Kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính
- Bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm
- Giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện
và khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm.
Trong mối tương tác, thoả hiệp giữa ba hệ thống trên, mỗi hệ thống lại xuất hiện các lĩnh
vực (hệ thống cấp hai) đòi hỏi phải đáp ứng được những yêu cầu phát triển riêng nhằm đạt được
mục tiêu phát triển bền vững:
+ Lĩnh vực chính trị: đảm bảo để công dân tham gia có hiệu quả vào các quá trình ra quyết
định.
+ Lĩnh vực kinh tế: có khả năng tạo ra các giá trị thăng dư trong mối quan hệ tự điều chỉnh.
+ Lĩnh vực xã hội: có các giaỉa pháp xử lý các xung đột nảy sinh do phát triển không hài
hoà.
+ Lĩnh vực sản xuất: gắn với duy trì và bảo tồn tài nguyên phục vụ cho sự phát triển.
35
Bài giảng Môi trường GTVT

+ Lĩnh vực công nghệ: liên tục tìm kiếm các giải pháp mới.
+ Lĩnh vực quốc tế: củng cố các mô hình thương mại và tài chính bền vững.
+ Lĩnh vực hành chính: mềm mại và thích ứng, có khả năng tự điều chỉnh.
2.3. Những nguyên tắc của phát triển bền vững
Năm 1972, Hội nghị Thế giới về Môi trường toàn cầu tại Stockholm (Thụy Điển) đã khẳng
định tầm quan trọng và tính cần thiết của việc bảo vệ môi trường không chỉ ở các nước phát triển
mà cả ở các nước đang phát triển.
Năm 1982, Chiến lược bảo vệ môi trường toàn cầu đã được công bố. Sau đó, chiến lược này
đã được thử nghiệm bằng cách soạn thảo những chiến lược quốc gia và dưới quốc gia ở trên 50
nước.
Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Quốc tế về môi trường
và phát triển đã nêu ra những quan niệm về sự phụ thuộc lẫn nhau trên toàn cầu, mối quan hệ giữa
kinh tế và môi trường. Nghị định thư Montreal (Canada) về các chất có thể gây suy thoái lớp ozone
là các hợp chất CFC (Chlorofluorocarbons) và Brom.
Cũng trong năm 1987, Chính phủ các nước đã chấp nhận “Triển vọng môi trường đến năm
2000 và sau đó”. Văn bản này đã xác định một khuôn mẫu rộng rãi để hướng dẫn hành động quốc
gia và hợp tác quốc tế về sự phát triển bền vững.
Tháng 6/1992, Hội nghị thượng đỉnh tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) để thống nhất văn
bản về các vấn đề kinh tế và môi trường những năm cuối thế kỷ XX và hướng tới sự phát triển bền
vững (cho thế kỷ XXI). Hội nghị đã ban hành hai hiệp ước quan trọng là Hiệp ước về đa dạng sinh
học và Hiệp ước về thay đổi khí hậu. Văn bản về thay đổi khí hậu được chính thức thực hiện vào
21/3/1994. Mục tiêu của Hiệp ước là “ổn định nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển ở mức độ
không gây hại tới hệ sinh thái tự nhiên và con người”.
Nghị định thư Kyoto (Nhật Bản) về thay đổi khí hậu (1997) đưa ra kế hoạch giảm sự khuếch
tán khí nhà kính, trong đó giảm khuếch tán khí CO2 ở các nước phát triển ít nhất bằng 55% của
năm 1990. Điểm chính của Nghị định thư Kyoto là: Giảm sự khuếch tán khí nhà kính có thể thay
đổi tùy theo nước (dưới 8% đối với Châu Âu, 7% với Mỹ và 6% với Nhật); Xác định các khí nhà
kính chủ yếu là CO2, CH4, N2O, CFC’s; Kỹ thuật sản xuất sạch ở các nước phát triển sẽ góp phần
giảm hiệu ứng nhà kính.
Hội nghị Trái Đất về phát triển bền vững lần 2 được tổ chức tại Johannesburg (Nam Phi) tập
trung thảo luận các vấn đề then chốt như: Tài chính cho phát triển; Tiếp cận thị trường công bằng;
Bảo vệ môi trường; Tiếp cận vệ sinh và nước sạch; Phục hồi nguồn năng lượng.
Trên cơ sở đó, các nguyên tắc về phát triển bền vững được thiết lập với các nội dung chính
như sau:
* Nguyên tắc 1: Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng
Đây là nguyên tắc vô cùng quan trọng. Nguyên tắc này nói lên trách nhiệm phải quan tâm
đến mọi người xung quanh và các hình thức khác nhau của cuộc sống trong hiện tại cũng như trong
tương lai. Đó là một nguyên tắc đạo đức với lối sống. Điều đó có nghĩa là, sự phát triển của nước
này không làm thiệt hại đến những nước khác, cũng như không gây tổn thất đến thế hệ mai sau.
Chúng ta phải chia sẻ công bằng những phúc lợi và chi phí trong việc sử dụng tài nguyên và bảo
vệ môi trường giữa các cộng đồng, giữa những con người và giữa thế hệ chúng ta với thế hệ mai
sau.
36
Bài giảng Môi trường GTVT

Tất cả dạng sống trên trái đất tạo thành một hệ thống lớn lệ thuộc lẫn nhau, tác động tương
hỗ lẫn nhau. Vì vậy, việc làm rối loạn một yếu tố nào đó trong tự nhiên sẽ ảnh hưởng đến cả hệ
thống từ tự nhiên cho đến xã hội loài người. Thế hệ tương lai phải chịu ảnh hưởng của những hành
động ngày nay của chúng ta, cũng như thế giới thiên nhiên luôn bị con người tác động. Trong các
mối quan hệ như vậy, chúng ta phải sử dụng thiên nhiên môi trường một cách khôn khéo, thận
trọng để đảm bảo sự sống còn của các loài khác hoặc không làm mất nơi sinh sống của chúng.
Hành động ưu tiên:
- Phát triển nền đạo đức thế giới vì sự sống bền vững qua các tổ chức tôn giáo tối cao, các nhà
chính trị, giới văn nghệ sĩ từng quan tâm đến đạo đức nhân loại.
- Đẩy mạnh hoạt động cấp quốc gia để xây dựng nền đạo đức thế giới. Đưa vào hệ thống pháp
chế nhà nước, vào hiến pháp các nguyên tắc đạo đức thế giới.
- Thực hiện nền đạo đức thế giới thông qua hành động của mọi thành viên và tổ chức xã hội:
gia đình, trường học, đoàn nghệ thuật, các nhà nghiên cứu chính trị, luật, kỹ sư, kinh tế, bác sĩ...
- Thành lập một tổ chức quốc tế giám sát việc thực hiện đạo đức thế giới vì sự sống bền vững,
ngăn chặn và đấu tranh chống những vụ vi phạm nghiêm trọng.
* Nguyên tắc 2: Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người
Mục đích cơ bản của sự phát triển là cải thiện chất lượng cuộc sống của con người. Con
người phải nhận biết khả năng của mình, xác lập một niềm tin vào cuộc sống. Việc phát triển kinh
tế là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển bền vững. Mỗi một dân tộc có những mục tiêu khác
nhau trong sự nghiệp phát triển, nhưng lại có một số điểm thống nhất. Đó là mục tiêu xây dựng
một cuộc sống lành mạnh, có một nền giáo dục tốt, có đủ tài nguyên đảm bảo cho cuộc sống không
những cho riêng mình mà còn cho cả thế hệ mai sau, có quyền tự do bình đẳng, được bảo đảm an
toàn và không có bạo lực, mỗi thành viên trong xã hội đều mong có cuộc sống ngày càng tốt hơn.
Hành động ưu tiên:
- Ở những nước có thu nhập thấp cần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế để gia tăng sự phát triển
toàn xã hội, trong đó có bảo vệ môi trường. Cần có những chính sách thích hợp tùy tình hình cụ
thể về thiên nhiên, văn hóa, chính trị.
- Ở các nước có thu nhập cao, cần điều chỉnh lại các chính sách và chiến lược phát triển
quốc gia nhằm đảm bảo tính bền vững như: chuyển dùng các năng lượng tái tạo hoặc vô tận, tránh
lãng phí khi sản xuất hàng tiêu dùng, phát triển quy trình công nghệ kín, tăng dùng thư từ, điện
thoại, fax và những phương tiện giao dịch khác thay cho đi lại; giúp đỡ những nước thu nhập thấp
đạt được sự phát triển cần thiết.
- Cung cấp những dịch vụ để kéo dài tuổi thọ và sức khỏe con người: Liên Hiệp Quốc và các
tổ chức quốc tế khác đã đề ra các mục tiêu cho năm 2000 là: hoàn toàn miễn dịch cho tất cả trẻ em,
giảm một nửa số trẻ sơ sinh bị tử vong (tức là khoảng 70/1000 cháu sinh ra), loại trừ hẳn nạn suy
dinh dưỡng trầm trọng, giảm 50% tình trạng suy dinh dưỡng bình thường, có nước sạch cho khắp
nơi.
- Giáo dục bậc tiểu học cho toàn thể trẻ em trên thế giới và hạn chế số người mù chữ.
- Phát triển những chỉ số cụ thể hơn nữa về chất lượng cuộc sống và giám sát phạm vi và
những chỉ số đó đạt được.
- Chuẩn bị đề phòng thiên tai và những thảm họa do con người gây ra. Ngăn chặn định cư ở
các vùng có sự nguy hiểm, quan tâm đến các vùng ven biển, tránh các nguy cơ do phát triển không
37
Bài giảng Môi trường GTVT

hợp lý như: phá rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn, bãi san hô… Giảm chi phí quân sự, giải quyết
hòa bình những tranh chấp biên giới, bảo vệ quyền của các dân tộc thiểu số trong một quốc gia.
* Nguyên tắc 3 :Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của trái đất
Sự phát triển trên cơ sở bảo vệ đòi hỏi phải có những hành động thích hợp, thận trọng để
bảo tồn chức năng và tính đa dạng của các hệ sinh thái. Đa dạng sinh học tích luỹ trong hệ thống
thiên nhiên của trái đất mà loài người chúng ta đều phải lệ thuộc vào đó. Vì vậy chúng ta phải có
trách nhiệm bảo vệ hệ thống nuôi dưỡng sự sống. Hệ thống này là những quá trình sinh thái đảm
bảo sự nuôi dưỡng và phát triển sự sống. Chính hệ thống này có vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc điều khiển khí hậu, cân bằng nước và làm cho không khí trong lành, điều hoà dòng chảy, chu
chuyển các yếu tố cơ bản, cấu tạo và tái tạo đất màu và phục hồi các hệ sinh thái .
Bảo vệ tính đa dạng sinh học có nghĩa là không chỉ bảo vệ tất cả các loài động, thực vật trên
hành tinh mà bao gồm về cả gen di truyền có trong mỗi loài.
Bảo vệ đa dạng sinh học là bảo vệ cuộc sống cho các thế hệ chúng ta và mai sau, vì đa dạng
sinh học giữ vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp và du lịch cũng
như bảo vệ môi trường, đồng thời bảo vệ đa dạng sinh học là góp phần vào việc nâng cao trí thức,
thúc đẩy tiến tới một xã hội văn minh.
Hành động ưu tiên:
- Thực hiện biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm: quản lý ô nhiễm và phát triển công nghệ kín.
- Giảm bớt việc làm lan tỏa các khí SOx, NOx, CO2, CO và CxHy, Chính phủ các nước Châu
Âu và Bắc Mỹ phải cam kết thực hiện các hiệp ước về chống ô nhiễm không khí lan qua biên giới
(giảm 90% khí SO2 so với năm 1980), tất cả các nước phải báo cáo hàng năm về việc làm giảm các
khí thải, các nước đang bị ô nhiễm không khí đe dọa phải tuân thủ những quy ước khu vực để ngăn
chặn ô nhiễm lan qua biên giới, hạn chế đến mức cao nhất ô nhiễm không khí do ô tô.
- Giảm bớt khí nhà kính (CO2 và CFC): Khuyến khích biện pháp kinh tế và quản lý nhằm
tăng sử dụng năng lượng sạch, gia tăng trồng cây xanh ở mọi nơi có thể, thực hiện nghiêm túc Nghị
định thư Montreal (1990) về các chất làm suy giảm tầng ozone, khuyến khích sử dụng phân bón
cải tiến trong nông nghiệp (nhằm giảm thải NO2).
- Chuẩn bị đối phó với sự biến đổi khí hậu: xem lại kế hoạch phát triển và bảo vệ cho phù hợp
với tình hình thay đổi khí hậu và nâng cao mực nước biển, điều chỉnh các tiêu chuẩn về đầu tư lâu
dài trong phân vùng, quy hoạch sử dụng đất, chuẩn bị giống cây trồng và phương thức canh tác thích
hợp, áp dụng biện pháp nghiêm ngặt bảo vệ vùng bờ biển thấp (đảo san hô, rừng ngập mặn, đụn cát).
- Áp dụng một phương án tổng hợp về quản lý đất và nước, coi cả lưu vực sông là một đơn
vị quản lý thống nhất.
- Duy trì càng nhiều càng tốt các hệ sinh thái tự nhiên và hệ sinh thái đã bị biến cải. Hệ tự
nhiên là những hệ sinh thái mà từ sau cách mạng công nghiệp (1750) tác động của con người chưa
nhiều hơn tác động các loài khác, chưa làm thay đổi cấu trúc của hệ sinh thái (không tính đến những
biến đổi khí hậu). Hệ biến cải là những hệ sinh thái chịu tác động của con người nhiều hơn, nhưng
không dùng để trồng trọt, ví dụ: như các khu rừng thứ sinh, đồng cỏ chăn thả súc vật. Các chính
phủ cần bảo vệ những hệ sinh thái tự nhiên còn sót lại trừ khi có lý do hết sức cần thiết để thay đổi
chúng. Cân nhắc lại mọi lợi hại trước khi biến đổi vùng đất tự nhiên thành ruộng đồng và đô thị,
sửa chữa hoặc khôi phục các hệ sinh thái suy thoái.

38
Bài giảng Môi trường GTVT

- Giảm nhẹ sức ép lên các hệ sinh thái tự nhiên hoặc đã biến cải cách bảo vệ những vùng đất
nông nghiệp tốt nhất và quản lý chúng một cách đúng đắn trên cơ sở sinh thái học, cải tạo đất đai
để trồng lương thực, hoa màu mà vẫn giữ được nước và đất màu, tránh bị chua mặn, bảo vệ nơi
sinh sống của các loài thụ phấn hoa và ăn sâu bọ.
- Chặn đứng ngay nạn phá rừng, bảo vệ những khu rừng già rộng lớn và duy trì lâu dài những
khu rừng biến cải.
- Hoàn thành và duy trì một hệ thống toàn diện các khu vực bảo tồn nhằm bảo vệ tính đa
dạng sinh học.
- Nâng cao hiểu biết và nhận thức về các loài vật và các hệ sinh thái.
- Kết hợp giữa biện pháp bảo vệ các chủng loại tại các nơi sinh sống tự nhiên, tại các khu
nuôi, vườn động - thực vật quốc gia và các nguồn gen.
- Sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững: Đánh giá nguồn dự trữ và
khả năng sinh sản của các quần thể và hệ sinh thái, giữ việc khai thác trong khả năng sinh sản đó,
bảo vệ nơi sinh sống và các quá trình sinh thái của các loài.
- Giúp đỡ các địa phương quản lý nguồn tài nguyên tái tạo và tăng cường mọi biện pháp
khuyến khích họ bảo vệ tính đa dạng sinh học.
* Nguyên tắc 4: Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm các nguồn tài nguyên không tái
tạo
Tài nguyên không tái tạo như quặng, dầu, khí đốt, than đá, trong quá trình sử dụng sẽ bị biến
đổi, không thể bền vững được. Theo dự báo, một số khoáng sản chủ yếu trên trái đất, với tốc độ
khai thác và sử dụng hiện nay sẽ bị cạn kiệt trong tương lai gần, ví dụ khí đốt khoảng 30 năm, dầu
mỏ khoảng 50 năm, than đá khoảng 150-200 năm...
Trong khi loài người chưa tìm được các loại thay thế, cần phải sử dụng tài nguyên không tái
tạo một cách hợp lý và tiết kiệm bằng các cách như: quay vòng tái chế chất thải, sử dụng tối đa các
thành phần có ích chứa trong từng loại tài nguyên, dùng tài nguyên tái tạo khác nếu có thể được để
thay thế chúng... Các biện pháp trên là cần thiết để trái đất có thể đáp ứng cho loài người nguồn tài
nguyên không tái tạo cần thiết cho tương lai.
* Nguyên tắc 5: Giữ vững trong khả năng chịu đựng được của trái đất
Như chúng ta đã biết, mức độ chịu đựng của trái đất nói chung hay của một hệ sinh thái nào
đó, dù là tự nhiên hay nhân tạo, đều có giới hạn. Con người có thể mở rộng giới hạn đó bằng kỹ
thuật truyền thông hay áp dụng công nghệ mới nhằm đáp ứng nhu cầu của mình. Nhưng nếu không
dựa trên quy luật phát triển nội tại của tự nhiên thì thường phải trả giá rất đắt bằng sự suy thoái,
nghèo kiệt đa dạng sinh học hoặc suy giảm chức năng cung cấp. Các nguồn tài nguyên không phải
là vô tận mà bị giới hạn trong khả năng tự phục hồi được của một hệ sinh thái, hoặc khả năng hấp
thụ các chất thải một cách an toàn.
Sự bền vững sẽ không thể có được nếu mức độ dân số thế giới ngày càng tăng. Do dân số
tăng, nhu cầu sử dụng các nguồn tài nguyên ngày càng lớn vượt khả năng chịu đựng của trái đất.
Muốn tìm giải pháp đúng đắn để quản lý, sử dụng bền vững các tài nguyên, chúng ta phải tạo ra
một dải an toàn giữa các toàn bộ các tác động của con người với ranh giới mà ta ước lượng môi
trường trái đất có thể chịu đựng được. Muốn vậy nguyên tắc thứ 5 đề xuất:

39
Bài giảng Môi trường GTVT

- Những người sống trong các nước thu nhập thấp thường bị các bệnh suy dinh dưỡng, đói
nghèo, không có điều kiện học tập. Vì vậy họ phải cố gắng phát triển kinh tế để nâng cao điều kiện
sống.
- Những người sống ở các nước có thu nhập cao, thích sống xa hoa, tiêu thụ nhiều tài nguyên
cần phải giảm bớt chi tiêu và nên tiết kiệm.
- Các quốc gia giàu có phải có trách nhiệm giúp đỡ các nước nghèo.
Muốn đứng vững trong khả năng chịu tải của trái đất và đảm bảo điều kiện để cải thiện chất
lượng cuộc sống của con người, các dân tộc trên thế giới không phân biệt màu da, dân tộc, thu nhập
cần có những hành động ưu tiên như:
- Nâng cao nhận thức về ổn định dân số và mức tiêu thụ tài nguyên.
- Đưa vấn đề tiêu thụ tài nguyên và vấn đề dân số vào các chính sách và kế hoạch phát triển
của quốc gia.
- Xây dựng thử nghiệm và áp dụng những biện pháp và kỹ thuật có hiệu qủa đối với tài
nguyên: Khuyến khích các sản phẩm tốt và có hiệu qủa cao đối với việc bảo vệ môi trường, giúp
đỡ vốn và kỹ thuật cho các nước thu nhập thấp trong việc sử dụng năng lượng sạch hơn.
- Đánh thuế vào năng lượng và các nguồn tài nguyên khác ở những nước có mức tiêu thụ
cao.
- Động viên phong trào “Người tiêu thụ xanh”.
- Cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
- Tăng gấp đôi các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.
* Nguyên tắc 6: Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân
Trước đây và ngay cả hiện nay nhiều người trong chúng ta không biết cách sống bền vững.
Sự nghèo khổ buộc con người phải tìm mọi cách để tồn tại như: phá rừng làm nương rẫy, săn bắn
chim thú... Những hoạt động đó xảy ra liên tục đã gây tác động xấu đến môi trường sinh thái, làm
nghèo kiệt quỹ đất, suy giảm tài nguyên. Nạn đói nghèo thường xuyên xảy ra với các nước có thu
nhập thấp. Còn những nước có thu nhập cao thì nhu cầu sử dụng tài nguyên ngày càng cao, ở đó
họ dùng một cách lãng phí quá mức chịu đựng của thiên nhiên, nên đã làm ảnh hưởng đến các cộng
đồng. Vì lẽ đó con người nhất thiết phải thay đổi thái độ và hành vi của mình không những để cho
các cộng đồng biết sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên mà còn để thay đổi các chính sách hỗ
trợ về kinh tế và buôn bán trên thế giới.
Mọi người trên hành tinh này, không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, tuổi tác đều
cần phải quan niệm đúng đắn giá trị của nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện có trên trái đất và những
tác động của con người đối với chúng.
Việc thay đổi thái độ và hành vi của con người đòi hỏi phải có một chiến dịch tuyên truyền
đồng bộ. Cần có chương trình giáo dục trong các nhà trường, từ cấp học mẫu giáo, phổ thông tới
đại học để mọi người ý thức được rằng: Nếu con người có thái độ hành vi đúng đắn với môi trường
thiên nhiên thì tất nhiên con người sẽ được tận hưởng những vẻ đẹp của thiên nhiên và chính bản
thân thiên nhiên sẽ phục vụ lợi ích của con người tốt hon, lâu bền hơn. Nhưng nếu con người có
thái độ tàn nhẫn với thiên nhiên, thì lúc nào đó con người sẽ gặp phải những bất hạnh do chính bản
thân mình gây ra. Vì lẽ đó mà bất cứ kế hoạh hành động nào trong cuộc sống cũng phải dựa trên
sự hiểu biết kiến thức đúng đắn về môi trường.
Chương trình hành động ưu tiên:
40
Bài giảng Môi trường GTVT

- Trong chiến lược quốc gia về cuộc sống bền vững phải có những hành động thúc đẩy, giáo
dục và tạo điều kiện cho mỗi cá nhân có thể sống bền vững.
- Xem xét lại tình hình giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục chính quy ở tất cả các
cấp.
- Định rõ những nhu cầu đào tạo cho một xã hội bền vững và kế hoạch thực hiện: Đào tạo
nhiều chuyên gia về sinh thái học, về quản lý môi trường, kinh tế môi trường và luật môi trường.
Tất cả các ngành chuyên môn phải có những hiểu biết sâu rộng về hệ sinh thái và xã hội, những
nguyên tắc của một xã hội bền vững.
* Nguyên tắc 7: Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình
Môi trường là ngôi nhà chung, không phải riêng của một cá nhân, cộng đồng nào. Vì vậy, việc
“cứu lấy trái đất” và xây dựng một cuộc sống bền vững phụ thuộc vào niềm tin và sự đóng góp mỗi cá
nhân. Khi nào nhân dân biết tự mình tổ chức cuộc sống bền vững trong cộng đồng của mình, họ sẽ có
một sức sống mạnh mẽ cho dù cộng đồng của họ là giàu hay nghèo, thành thị hay nông thôn.
Một cộng đồng muốn được sống bền vững, thì trước hết phải quan tâm bảo vệ cuộc sống
của mình và không làm ảnh hưởng đến môi trường của cộng đồng khác. Họ cần biết cách sử dụng
tài nguyên của mình một cách tiết kiệm, bền vững và có ý thức về việc thải các chất phế thải độc
hại và xử lý chúng một cách an toàn. Họ phải tìm cách bảo vệ hệ thống nuôi dưỡng sự sống và tính
đa dạng của hệ sinh thái ở địa phương. Chúng ta nên nhớ rằng, chính nhân dân hoàn toàn có khả
năng thực hiện được công việc quản lý môi trường sống của họ, nếu được giao đầy đủ quyền lực
và trách nhiệm. Tất nhiên chính phủ phải quan tâm đến nhu cầu kinh tế và xã hội của họ cũng như
giúp đỡ hướng dẫn họ. Muốn thực hiện được mục tiêu quan trọng đó, cần phải tổ chức giáo dục,
tuyên truyền và đào tạo, đồng thời phải có những hành động ưu tiên sau đây:
- Cho phép cộng đồng có thể điều khiển toàn bộ cuộc sống của mình bao gồm việc được
hưởng sử dụng nguồn tài nguyên, đồng thời có trách nhiệm quản lý nguồn tài nguyên ở địa phương
mình, cũng như được tham gia bàn bạc thảo luận các dự án bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và bảo
vệ môi trường.
- Cho phép cộng đồng sử dụng tài nguyên trong vùng thoả mãn một số nhu cầu trong cuộc
sống.
- Tạo mọi điều kiện giúp đỡ cộng đồng bảo vệ môi trường sống của mình. Nếu mỗi cộng
đồng tự quản lý được nguồn tài nguyên và phân phối phù hợp với lợi ích đa số người sử dụng thì
công việc sẽ được thuận lợi.
Khái niệm cộng đồng được dùng với ý nghĩa là những người trong cùng một đơn vị hành
chính, hoặc những người có chung một nền văn hoá dân tộc, hay những người cùng chung sống
trong một lãnh thổ đặc thù, chẳng hạn như một vùng thung lũng, cao nguyên, v.v…
Hành động ưu tiên:
- Đảm bảo cho các cộng đồng và các cá nhân được bình đẳng trong việc hưởng thụ tài
nguyên và quyền quản lý.
- Lôi cuốn sự tham gia của nhiều người vào việc bảo vệ và phát triển.
- Củng cố chính quyền địa phương: Chính quyền địa phương phải có đầy đủ những phương
tiện để đáp ứng các nhu cầu của nhân dân về cơ sở hạ tầng, thực thi kế hoạch sử dụng đất và luật
chống ô nhiễm, cung cấp nước sạch đầy đủ, xử lý nước thải và rác phế thải.
- Hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các hoạt động BVMT của cộng đồng.
41
Bài giảng Môi trường GTVT

* Nguyên tắc 8: Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và
bảo vệ
Một xã hội muốn bền vững phải biết kết hợp hài hoà giữa phát triển và bảo vệ môi trường,
phải xây dựng được một cuộc sống bền vững trong các cộng đồng. Các chính quyền trung ương
cũng như địa phương phải có cơ cấu thống nhất về quản lý môi trường, bảo vệ các dạng tài nguyên.
Hiện nay, trên thế giới có hơn 100 cơ quan chuyên trách về công tác bảo vệ môi trường. Bên cạnh
hệ thống quyền lực cũng cần phải có luật bảo vệ môi trường một cách toàn diện vì luật là công cụ
quan trọng để đảm bảo thực hiện những chính sách, đảm bảo cuộc sống bền vững, bảo vệ và khuyến
khích mọi người tuân theo luật pháp.
Khi luật được ban hành, tất cả mọi người trong xã hội phải nhắc nhở nhau để thi hành. Tất
cả các cấp chính quyền dù ở Trung ương hay địa phương phải thực hiện nghiêm túc. Muốn có một
cơ cấu quốc gia thống nhất, phải thống nhất kết hợp nhân tố con người, sinh thái và kinh tế. Điều
này rất quan trọng đối với việc xây dựng cuộc sống tốt đẹp về mọi mặt.
Muốn có chương trình hành động thực sự có hiệu quả, điều quan trọng là phải biết chọn lựa
những mục tiêu và chương trình ưu tiên như cơ chế hoạt động thống nhất, chính sách hữu hiệu và
hợp pháp để bảo vệ quyền lợi con người, chính sách kinh tế kỹ thuật hợp lý.
Hành động ưu tiên:
- Ứng dụng một phương pháp tổng hợp khi đề ra chính sách về môi trường, với mục đích
bao trùm là tính bền vững: Kết hợp mục tiêu về cuộc sống bền vững cùng với những phạm vi chức
trách của cơ quan chính phủ và lập pháp, thành lập một đơn vị quyền lực mạnh đủ khả năng phối
hợp việc phát triển và bảo vệ.
- Soạn thảo và thực hiện chiến lược về tính bền vững thông qua các kế hoạch của từng khu
vực và địa phương.
- Đánh giá tác động môi trường và ước lượng về kinh tế của các dự án, các chương trình và
chính sách về phát triển.
- Đưa những nguyên tắc về một xã hội bền vững vào hiến pháp hoặc các luật cơ bản khác
của chính sách quốc gia.
- Xây dựng một hệ thống luật môi trường hoàn chỉnh và thúc đẩy để thực hiện bộ luật đó.
- Đảm bảo các chính sách, các kế hoạch phát triển, ngân sách và quyết định đầu tư của quốc
gia phải quan tâm đầy đủ đến những hậu quả của việc mình làm đối với môi trường.
- Sử dụng các chính sách và công cụ kinh tế để đạt đuợc tính bền vững: Chính sách giá cả,
tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, định giá tài nguyên môi trường, kế toán môi trường quốc gia. Các
công cụ kinh tế như: thuế môi trường, giấy phép chuyển nhượng, v.v……
- Nâng cao kiến thức cơ sở và xút tiến việc phổ biến rộng rãi các thông tin liên quan đến
môi trường.
* Nguyên tắc 9: Xây dựng một khối liên minh toàn cầu
Như đã nêu trên, muốn bảo vệ môi trường bền vững chúng ta không thể làm riêng lẻ được
mà phải có một sự liên minh giữa các nước. Bầu khí quyển và các đại dương tác động qua lại lẫn
nhau tạo ra khí hậu trên trái đất, nhiều con sông lớn là chung của nhiều quốc gia. Vì vậy, bảo vệ
trong sạch của dòng sông là trách nhiệm chung của nhiều nước. Sự bền vững trong mỗi nước luôn
luôn phụ thuộc vào các hiệp ước quốc tế để quản lý các nguồn tài nguyên chủ yếu. Do đó, các quốc
gia phải nhận thức được quyền lợi chung của mình trong môi trường chung trên trái đất này. Các
42
Bài giảng Môi trường GTVT

quốc gia cần tích cực tham gia ký kết và thực hiện các công ước quốc tế quan trọng về môi trường
như công ước CITES, công ước bảo vệ tầng ozon, công ước RAMSA, công ước luật biển...
Hành động ưu tiên:
- Đẩy mạnh việc thực hiện những hiệp ước quốc tế hiện có nhằm bảo vệ hệ nuôi dưỡng sự
sống và tính đa dạng sinh học như:
+ Về khí quyển: có công ước Viên bảo vệ tầng ozone và Nghị định thư Montroreal về những
tính chất có liên quan đến việc suy giảm tầng ozone. Công ước Giơnevơ về ô nhiễm không khí trên
một vùng rộng qua nhiều biên giới.
+ Về đại dương: Công ước Liên hiệp quốc về luật biển, một loạt các văn kiện quốc tế và
khu vực về bảo vệ các đại dương khỏi bị ô nhiễm vì tàu thủy, công ước về đại dương IOM (
International Organization for Migration), về vứt bỏ phế thải (công ước Luân Đôn, Ôslô)v.v….
+ Về nước ngọt: công ước về vùng bờ của hồ lớn (Canada - Hoa Kỳ), hiệp ước về các dòng
sông chung (Ranh, Đanuýp).
+ Về chất phế thải: công ước Basle về những hoạt động hạn chế chất phế thải độc hại và
cách xử lý. Công ước Bamako cấm việc nhập khẩu chất phế thải độc hại vào Châu Phi và kiểm soát
việc nhập qua biên giới và quản lý chất phế thải độc hại ở Châu Phi.
+ Về việc bảo vệ tính đa dạng sinh học: công ước Ramsa về việc bảo vệ những vùng đất ngập
nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt là những vùng sinh sống của chim nước. Công ước liên quan
đến bảo vệ di sản thiên nhiên và văn hóa thế giới (UNESCO, Paris), công ước quốc tế về buôn bán các
loài có nguy cơ bị tiêu diệt (CITES, Washington), công ước bảo vệ các loài hoang dã di cư.
- Ký kết những hiệp ước quốc tế mới để đạt được tính bền vững trên thế giới: về sự thay đổi
khí hậu, bảo vệ an toàn các khu rừng thế giới.
- Xây dựng một chế độ bảo vệ tổng hợp và toàn diện đối với Châu Nam Cực và Biển Nam
Cực.
- Soạn thảo, thông qua bản công bố chung và Hiệp ước về tính bền vững.
- Xóa hẳn những món nợ công, giảm nợ thương mại cho các nước thu nhập thấp để hồi phục
sự tiến bộ về kinh tế của họ.
- Nâng cao khả năng tự cường của những nước có thu nhập thấp: bãi bỏ hàng rào thương
mại cho các nước này về các hàng hóa không liên quan đến môi trường, hỗ trợ và giúp ổn định giá
cả hàng hóa, khuyên khích đầu tư.
- Tăng cường viện trợ cho sự phát triển, tập trung giúp các nước xây dựng một xã hội và
một nền kinh tế bền vững
- Nhận thức được giá trị và đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức phi chính phủ trong nước
và thế giới: IUCN, UNEP, WWF là những tổ chức bao gồm các thành viên chính phủ và phi chính
phủ, đã có những đóng góp xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ môi trường toàn cầu; cần mở rộng
phạm vi hoạt động, cũng như gia tăng thêm các tổ chức tương tự.
- Tăng cường hệ thống Liên hiệp quốc để trở thành một lực lượng mạnh mẽ đảm bảo cho
tính bền vững trên toàn cầu.
2.5. Các mục tiêu của phát triển bền vững
2.5.1. Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
- Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất (The Earth Summit) họp tại Rio de Janeiro Brazil vào tháng
6/1992 là một sự kiện lớn mang ý nghĩa toàn cầu và thế kỷ. Tại đây đã hội tụ những người đứng
43
Bài giảng Môi trường GTVT

đầu và đại diện của 179 quốc gia để bàn về các chính sách môi trường và phát triển của Trái đất.
Cùng tham gia còn có hang tram các quan chức khác từ các tổ chức Liên hợp quốc, các chính quyền
thành phố, các tổ chức kinh doanh và khoa học, các tổ chức phi chính phủ và nhiều nhóm khác.
- Chương trình Nghị sự thế kỷ XXI - một chương trình hành động có quy mô toàn cầu – đã
xác định kế hoạch hành động cho mỗi quốc gia, nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững, cụ
thể tập trung chủ yếu bào: sử dụng hợp lý tài nguyên và tính bền vững; duy trì đa dạng sinh học và
tính bền vững; phương thức tiêu thụ trong phát triển bền vững và vai trò của khoa học công nghệ
trong phát triển bền vững.
2.5.2. Sử dụng hợp lý tài nguyên và tính bền vững
Nhu cầu sử dụng tài nguyên của con người ngày càng gia tăng đang làm nảy sinh những
cạnh tranh và mâu thuẫn. Nếu muốn thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi của con người một cách bền vững,
cần phải giải quyết các mâu thuẫn đó và tìm cách sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên.
- Quản lý bền vững tài nguyên đất và tài nguyên rừng:
Để sử dụng nguồn tài nguyên đất lâu dài và bền vững, cần phải tính tới các khu bảo tồn,
quyền sở hữu, các chính sách bảo vệ rừng lâu dài.
Hoang mạc hóa và hạn hán là quá trình suy thoái đất do các thay đổi của khí hậu và tác động
của con người. Để ngăn chặn quá trình hoang mạc hóa, việc sử dụng đất (bao gồm cả trồng trọt và
chăn thả) phải vừa bảo vệ được đất, vừa có thể chấp nhận được về mặt xã hội và khả thi về mặt
kinh tế.
- Bảo vệ và quản lý tài nguyên nước:
+ Bảo vệ và quản lý đại dương: Đại dương – bao gồm cả vùng biển kín và nửa kín – là một
bộ phận thiết yếu của hệ thống duy trì đời sống toàn cầu. Tuy nhiên, môi trường đại dương đang bị
sức ép ngày một tăng do ô nhiễm, đánh bắt quá mức, sự phá hủy bờ biển và các rạn san hô. Ngăn
chặn sự tiếp tục suy thoái môi trường biển, giảm các nguy cơ ảnh hưởng lâu dài và bất khả kháng
tới đại dương là một yêu cầu cấp thiết.
+ Bảo vệ và quản lý nước ngọt: Nước ngọt có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con
người. Ở nhiều nơi trên thế giới, nguồn nước ngọt đang bị khan hiếm và ô nhiễm gia tăng. Vấn đề
quản lý tài nguyên nước phải được đặt ở cấp thích hợp, phải huy động được sự tham gia của công
chúng (bao ồm cả phụ nữ, thanh niên, cộng đồng bản địa) vào việc quản lý và ra các quyết định về
nước.
2.5.3. Duy trì đa dạng sinh học và tính bền vững:
Hàng hóa và dịch vụ thiết yếu trên hành tinh của chúng ta phụ thuộc vào sự đa dạng và biến
động của các nguồn tiền, các loài, số lượng các loài và các hệ sinh thái. Tuy nhiên, sự suy giảm đa
dạng sinh học đang diễn ra nhanh chóng, chủ yếu là do sự phá hủy môi trường sống, khai thác quá
mức, ô nhiễm và việc đưa vào môi trường các động, thực vật ngoại lai không thích hợp. Cần phải
có hành động khẩn cấp và mang tính quyết định để bảo vệ và duy trì các nguồn tiền, các loài và các
hệ sinh thái.
Các quốc gia đều có quyền đối với nguồn tài nguyên sinh học của mình, song cũng phải có
trách nhiệm bảo vệ đa dạng sinh học của mình và sử dụng các nguồn tài nguyên sinh học của mình
một cách bền vững.

44
Bài giảng Môi trường GTVT

Nhiều cộng đồng, địa phương bị ràng buộc chặt chẽ vào các nguồn tài nguyên sinh học. Các
quốc gia phải có khuyến khích về lợi ích đối với các cộng đồng này, cũng như việc huy động các
kiến thức bản địa vào bảo vệ đa dạng sinh học.
2.5.4. Phương thức tiêu thụ trong phát triển bền vững
Nguyên nhân chính dẫn đến sự suy thoái ngày càng tang của môi trường toàn cầu là do các
nhu cầu quá lớn và lối sống thiếu tính bền vững trong tầng lớp những người giàu hơn. Trong khi
đó, tầng lớp nghèo hơn thì không được thỏa mãn các nhu cầu về lương thực, thực phẩm, chăm sóc
y tế, nhà ở và giáo dục.
Để giải quyết mâu thuẫn trầm trọng này, điều cốt yếu là phải có được các mẫu hình tiêu thụ
mang tính bền vững. Điều này, có thể phải đưa ra các chỉ số mới gắn với phúc lợi của mỗi quốc gia
thường xuyên và lâu dài.
Tất cả các nước đều phải phấn đấu để tăng cường các mẫu hình tiêu thụ bền vững, và các
nước phát triển phải đóng vai trò tiên phong. Còn các nước đang phát triển phải cố gắng thiết lập
cho được các mẫu hình tiêu thụ bền vững. Họ cần đảm bảo thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của người
nghèo, trong khi vẫn tránh được các mẫu hình tiêu thụ không bền vững, không hiệu suất và lãng
phí. Sự phát triển như vậy đòi hỏi phải có sự trợ giúp từ các nước công nghiệp hóa.
2.5.5. Vai trò của khoa học công nghệ trong phát triển bền vững
Từ trước tới nay, vai trò của công nghệ đối với sự phát triển đã được rất nhiều học giả, nhiều
nhà doanh nghiệp cũng như các nhà hoạch định chính sách xem xét, bàn bạc và phân tích. Trong
số đó, nổi lên hai xu hướng chính:
- Công nghệ gây nhều tác hại hơn là ích lợi cho nhân loại thì cần phải bị loại bỏ;
- Công nghê, tuy có hại trong một số lĩnh vực (ví dụ như có hại cho môi trường, vấn đề
công ăn việc làm và chất lượng cuộc sống) nhưng vẫn đem lại những lợi ích kinh tế rõ
ràng thì nên sử dụng nhưng với điều kiện phải định ra những giới hạn để loại trừ hoặc ít
nhất là hạn chế được các tác hại và phải tuân theo những kế hoạch đã định cho phát triển
bền vững.
Thực tế cho thấy, khoa học công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng và không thể thiếu
trong quá trình phát triển. Với nhận thức về bảo vệ môi trường vì một xã hội phát triển bền vững,
khoa học công nghệ đã dần dần thể hiện được vai trò có ích đối với môi trường, thân thiện hơn với
môi trường. Chẳng hạn như:
a) Công nghệ có thể tạo ra các nguồn tài nguyên mới, năng lượng mới
Con người ngày nay đang tiếp tục phát hiện ra những nguồn tài nguyên cần thiết cho họ. Và
công nghệ vẫn có thể giúp họ tạo ra tài nguyên và năng lượng mới. Theo cách này, có lẽ chúng ta
sẽ bỏ qua được khái niệm về một hành tinh chỉ có hữu hạn các nguồn tài nguyên khai thác được.
Ví dụ:
- Uranium, mãi cho tới khi phản ứng phân hạch hạt nhân được phát minh ra mới trở thành
một nguồn năng lượng.
- Tiến bộ trong phản ứng tổng hợp hạt nhân cũng làm cho Lithium và Đơteri có thể sản
sinh năng lượng.
Trong cả hai trường hợp này, chính công nghệ chứ không phải nguyên liệu thô là yếu tố tạo
ra năng lượng.

45
Bài giảng Môi trường GTVT

- Silicon là nguyên liệu thô cơ bản trong công nghiệp vì điện tử nên có ý nghĩa sống còn
với mọi quốc gia trên thế giới. Nó được coi là nguồn năng lượng vì là yếu tố quan trọng
trong tin học và trong bộ chuyển đổi năng lượng từ bức xạ mặt trời.
- Các nguyên liệu khác như gốm, chất dẻo công nghiệp có sức chịu đựng cao và sợi tổng
hợp chất lượng cao đều được tạo ra sau một thời gian dài tìm tòi dựa trên cơ sở những
kiến thức khoa học về bản chất và cấu trúc của chất rắn.
b) Công nghệ giúp con người khai thác các nguồn tài nguyên truyền thống rất khó tiếp cận,
góp phần làm tăng số lượng, nguồn nguyên liệu thô.
Trước đây, đá phiến chứa dầu và cát chứa hắc ín chỉ là nguồn hyđrôcacbon thừa, không
được coi là khoáng sản. Qua phát triển công nghệ chế biến theo yêu cầu, người ta đã thấy được giá
trị kinh tế của nó. Hiện nay, giá sản xuất hyrôcacbon lỏng từ đá phiến dầu và cát hắc ín đạt 35 – 50
USD/thùng, tương đương với giá trị một thùng dầu.
Ngoài ra, trong lĩnh vực chất đất, người ta đã hóa lỏng hoặc hóa khí than đá trên bề mặt hoặc
trong lòng đất. Đặc biệt, công nghệ này còn tận dụng cả than chất lượng kém. Giá thành sản xuất
với công nghệ hiện nay đạt 35-45USD/thùng.
Vấn đề này cũng đúng với các nguồn tài nguyên tái tạo được. Ví dụ: việc áp dụng công nghệ
sinh học trong chế biến thực phẩm tiêu dùng.
c) Công nghệ làm giảm lượng nguyên liệu và năng lượng tiêu dùng trong sản xuất
Trong vòng 8-10 năm vừa qua, các nhà máy xi măng tiên tiến nhất trên thế giới (Ở Nhật,
Mỹ, Áo và Đức) đã nhanh chóng thay đổi hệ thống sản xuất, thiết bị và bước sang một thế hệ công
nghệ mới. Nhờ thiết kế lại bộ phận trộn, làm khô, bộ phận nung và lò sấy quay trong quy trình ướt
đã giảm được một nửa chi phí cho năng lượng điện và nhiệt; tổng sản lượng lên tới mức có thể thu
hồi được toàn bộ vốn đầu tư trong vòng 2-3 năm. Về mặt năng lượng, bộ phận làm khô và nung đã
được cải tiến rất nhiều, đặc biệt là thiết bị, các nguyên vật liệu sử dụng và điều kiện tiến hành sản
xuất. Quan trọng hơn là những thay đổi trên máy sấy quay sử dụng loại sợi gốm mới trong lò đúc
và đưa ra thiết kế cho hệ thống đốt nóng và bộ phận quay. Một số tiến bộ nữa cũng có ý nghĩa
tương đương nếu xét về lượng, thậm chí còn cao hơn nếu xét về chất và về công nghệ, đó là việc
sử dụng quy trình “nửa khô” dù quy trình này cần nhiều nguyên liệu thô hơn (tro nhẹ, tro pyrit,…).
d) Công nghệ sinh học hứa hẹn sẽ loại trừ nạn đói do ngày càng được thử nghiệm và áp
dụng rộng rãi trong lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi.
Các kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi nhất trong công nghệ sinh học nông nghiệp gồm có:
nhân giống, thụ tinh trong phòng thí nghiệm (invitro), bảo quản giống cây (phôi), đông lạnh nguyên
sinh chất, nuôi cấy mô từ bao phấn, sinh sản vô tính, chọn lọc trong phòng thí nghiệm, biến đổi
gen, phân tách riêng các hình thái.
e) Nhiều “công nghệ sạch” mới đã và đang được phát triển thay vì ngăn chặn tận gốc, hay
cố gắng làm giảm hậu quả của ô nhiễm.
Chẳng hạn trong ngành công nghiệp sản xuất gạch lát, nguyên liệu thủy tinh thô chứa no và
chì vẫn được sử dụng trong nhiều năm nay để sản xuất gạch gốm. Các nguyên tố này khi bị thải ra
môi trường theo nước thải là mối nguy hại cho sức khỏe cộng đồng và làm ô nhiễm nguồn nước.
Các công ty sản xuất gạch lát đã phát hiện ra là việc làm trong sạch nguồn nước thải ở cuối quy
trình tốn kém và không hiệu quả bằng việc sử dụng nguyên liệu thủy tinh không có flo và chỉ thay
thế cho loại nguyên liệu cũ.
46
Bài giảng Môi trường GTVT

Ngoài ra, để khắc phục các hậu quả môi trường đang tồn tại thì không thể thiếu vai trò của
khoa học công nghệ, đặc biệt là các công nghệ xử lý chất thảu “cuối đường ống”.

47
Bài giảng Môi trường GTVT

Chương 3: Tác động của ngành giao thông vận tải tới môi trường
3.1. Một số đặc điểm của dự án giao thông vận tải
Hiểu rõ các đặc điểm của dự án sẽ cho ta phân tích đúng các tác động có lợi và không có lợi,
đồng thời đề ra các giải pháp khả thi để giảm thiểu các tác động xấu của chúng tới môi trường trong
quá trình thi công, vận hành và khai thác nó.
- Đối với dự án đường bộ, đường sắt thường trải dài trên lãnh thổ hướng tới phạm vi liên tỉnh,
đôi khi xuyên quốc gia, nên khi dự án tác động đến chế độ thủy văn, địa hình của cả một vùng rộng
lớn sẽ gây nên úng lụt, hạn hán, bồi lắng,… ảnh hưởng đến cả hệ thống thủy lợi, thoát nước cả khu
vực. Việc xây dựng các công trình vượt dòng nước (cầu, cống) là một sự xâm phạm đến môi trường
và có thể đảo lộn các điều kiện tự nhiên trên địa bàn. Do vậy dòng nước có thể rơi vào tình trạng
mất cân bằng, làm xuất hiện các biến đổi về mặt vật lý, sinh học và do đó làm biến đổi cả khung
cảnh sống của con người.
- Diện tích sử dụng đất nhiều, do vậy ảnh hưởng đến hiện trạng sử dụng đất và hoạt động kinh
tế của khu vực có dự án như: Công tác giải phóng mặt bằng khó khăn, phức tạp; công tác di dân,
tái định cư, đền bù thiệt hại về kinh tế nhiều.
- Trong giai đoạn xây dựng sẽ sử dụng một khối lượng rất lớn vật liệu xây dựng như: đất, đá,
cát, sỏi,… ảnh hưởng rất lớn đến tài nguyên khu vực. Hậu quả của việc đào đắp với khối lượng lớn
sẽ ảnh hưởng tới cảnh quan thiên nhiên, gây xói lở, ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm.
- Trong giai đoạn khai thác sẽ tạo ra sự phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa tạo điều kiện
cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là tài nguyên rừng (khai thác gỗ, săn bắt thú trái
phép) khi đường qua rừng, làm mất thảm thực vật do phá rừng.
- Dự án xây dựng công trình hạ tầng GTVT là dự án gây ra nhiều chất thải gây ô nhiễm môi
trường như bụi (đặc biệt là bụi chì), khí thải độc: CO, NO 2, SO2, HC… hơi chì, hơi xăng dầu, các
hóa chất độc hại trong quá trình vận chuyển.
- Các dự án gây tác động xấu đến môi trường mạnh trong giai đoạn thi công, đôi khi lớn hơn các
tác động gây ra trong quá trình vận hành dự án. Tuy nhiên tác động trong thi công chỉ xảy ra trong
thời gian ngắn. Vì vậy cần thiết phải có kế hoạch quan trắc, kiểm soát các yếu tố môi trường cẩn
thận trong cả hai giai đoạn xây dựng và vận hành dự án.
3.2. Tác động tới môi trường trong giai đoạn lựa chọn địa điểm thực hiện dự án
Lựa chọn địa điểm thực hiện của dự án đường bộ, đường sắt có tác động rất lớn và lâu dài đối
với môi trường tự nhiên và kinh tế - xã hội của khu vựa tiếp nhận dự án. Những tác động đó bao
gồm:
- Bản thân sự có mặt của các kết cấu hạ tầng giao thông (cầu, cống) có thể ảnh hưởng tiêu cực,
đôi khi trầm trọng đối với môi trường và đặc biệt là môi trường nước.
- Việc xây dựng công trình vượt dòng nước là một sự xâm phạm tới môi trường và có thể làm
đảo lộn các điều kiện tự nhiên trên địa bàn. Do vậy, dòng nước có thể rơi vào tình trạng mất cân
bằng, làm xuất hiện những biến đổi về mặt vật lý, sinh hoạt và do đó biến đổi các khung cảnh sống
cảu con người. Thông thường các cầu này không cản trở hoặc cản trở ít đến hoạt động của các loài
thủy sinh (trừ lúc xây dựng cầu), ngược lại cống lại gây ra các tác động thường xuyên.
- Các kết cấu hạ tầng GTVT có thể ảnh hưởng xấu tới đất, khí, giới động và thực vật. Sự hiện
diện của một công trình không được quy hoạch thích hợp có thể tạo nên các tình trạng sau:

48
Bài giảng Môi trường GTVT

+ Xói mòn ở lòng sông, bờ sông do việc chọn vị trí, thiết kế hay thi công công trình không
được tốt.
+ Làm thay đổi chế độ thủy văn.
+ Làm mất thảm thực vật do phá rừng hay phá trụi dải đất giành cho đường, chia cắt sự giao
lưu của các loài thực vật, động vật hoang dã, ảnh hưởng xấu đến cảnh quan môi trường, đến các di
sản văn hóa, lịch sử.
+ Đời sống cộng đồng, dân tộc thiểu số và hoạt động kinh tế của khu vực tuyến đi qua bị xáo
trộn do chiếm dụng đất làm đường, thu hẹp đất canh tác…
Để quyết định lựa chọn địa điểm thực hiện dự án phù hợp, cần xem xét, đánh giá cân nhắc để
giảm thiểu các ảnh hưởng trên một cách thấp nhất.
3.3. Tác động tới môi trường trong quá trình xây dựng các công trình hạ tầng giao thông vận
tải
3.3.1. Tác động tới chế độ thủy văn
Sự xuất hiện của một tuyến đường sẽ cắt ngang chiều sông, suối, đồng ruộng làm thay đổi chế
độ thủy văn của nước mặt. Dòng chảy tự nhiên bị ngăn cản và tập trung dòng chảy vào một phía
đường gây úng lụt cục bộ, làm xói mòn bờ sông. Mặt khác còn làm thay đổi sự thẩm thấu của nước
trong đất, ảnh hưởng đến mực nước ngầm ở hai phía của con đường, hạn chế nguồn nước cấp cho
sinh hoạt và tưới tiêu.
Biện pháp phòng ngừa và giảm tác động:
- Chọn vị trí tuyến không làm thay đổi đáng kể dòng chảy nước mặt bằng cách:
+ Chọn tuyến cắt ít các sông, suối tránh làm biến đổi hệ thống thủy lợi, thoát nước.
+ Tại các vị trí cắt dòng chảy phải bố trí số lượng và kích thước cống đủ lớn đảm bảo thoát
nước qua đường, cân bằng nước hai phía đường.
+ Các cầu nên bố trí khẩu độ lớn không làm ảnh hưởng đến dòng chảy của sông, suối.
- Hạn chế sự lắng đọng bùn cát nhờ các kỹ thuật khống chế xói mòn, khống chế chất thải tại trạm
trộn và các nguồn thải chất rắn, lỏng khác.
- Công trường xây dựng và các nguồn ảnh hưởng phụ phải được bố trí phù hợp và được cung
cấp hệ thống thoát nước thải, đảm bảo các nguồn nước tiếp nhận chất thải từ các hoạt động của dự
án không bị suy giảm về chất lượng.
- Giám sát chất lượng nước ngầm theo TCVN 5944 – 1995.
3.3.2. Tác động xói lở và bồi lắng
Nguyên nhân của việc xói lở, bồi lắng là do các hoạt động đào, đắp với khối lượng lớn làm
thay đổi điều kiện tự nhiên, địa hình trong khu vực tiếp nhận dự án. Đào, đắp sẽ làm mất sự ổn định
của mái dốc, xói mòn sẽ tạo ra bồi lắng ở sông ngòi, cống, rãnh thoát nước.
Các vùng đất lộ do phát quang lớp phủ thực vật để khai thác vật liệu xây dựng phục vụ thi
công dễ gây ra xói lở. Xói lở taluy âm, dương xảy ra ở những đoạn đường đi qua vùng đồi, núi, đèo
và vực sâu, đặc biệt những đoạn đi qua một bên là sườn núi, một bên là sông, suối.
Điều nguy hiểm hơn nữa là trượt lở các sườn núi sẽ tạo nên các đập chắn tạm thời ngăn nước
lũ và sau đó bị vỡ tạo nên lũ quét phá hủy trên diện rộng.
Biện pháp phòng ngừa và giảm tác động:
- Hạn chế phát quang lớp phủ thực vật, trồng lại cây, hồi phục nhanh chóng thảm thực vật ở
những vùng đất đã mất.
49
Bài giảng Môi trường GTVT

- Khống chế tốc độ và lưu lượng nước tại khu vực gần kề các vùng đất lộ và mái dốc bằng
phương pháp gom dòng, điều chinh dòng, tẩy rãnh, cống thoát nước thích hợp tại đỉnh và chân mái
dốc, ngăn không cho các khối có khả năng trượt, bão hòa nước nhanh và ngâm nước lâu, tạo bậc
để giảm độ dốc, kè đá, chèn đá xen lẫn trồng cây. Xây dựng tường gia cố mặt mái dốc có neo sâu
vào đất.
- Phun bê tông, vải địa kỹ thuật để bảo vệ, giữ ổn định, tránh xói lở mái dốc.
3.3.3. Tác động môi trường nước mặt
a) Các tác nhân gây ô nhiễm bao gồm:
 Nước mưa chảy tràn gây xói lở mang theo đất đá, chất thải chứa dầu, chất thải sinh hoạt của
công nhân... gây hiện tượng bồi lấp, ô nhiễm các dòng chảy mặt và lưu vực trong khu vực
thi công.
 Đất dùng để đắp nền đường có thể bị lẫn các hóa chất, sâu bệnh... gây ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn nước và cây trồng
 Chất lượng nước bị thay đổi là do tăng hàm lượng các chất vô cơ như bụi, chất lơ lửng, gây
đục
 Các hiện tượng úng ngập cục bộ là nguyên nhân dẫn đến việc thay đổi chất lượng nước mặt
và nước ngầm.
b) Các tác động môi trường nước do thi công công trình giao thông:
• Nước thải trong giai đoạn xây dựng phát sinh bởi công tác đào đắp đất, rửa các máy móc
xây dựng và ô tô vận chuyển, nước thải sinh hoạt từ các lán trại công nhân và nước thải bề
mặt khác từ xói mòn đất, tích tụ chất thải xây dựng do san ủi và bồi lấp.
• Do công nhân thường ở trong các khu nhà tạm, thiếu thốn các điều kiện vệ sinh cần thiết
nên nước thải nói riêng và chất thải sinh hoạt nói chung thường có ảnh hưởng rất xấu tới
môi trường sống và môi trường nước xung quanh.
• Các hoạt động thi công làm xáo trộn mặt đất, biến đổi địa hình. Việc đào đắp làm rãnh, tạo
taluy đều trực tiếp làm thay đổi chế độ dòng chảy và chất lượng nước. Tại các dòng chảy
gần nơi công trường thi công, hàm lượng chất lơ lửng trong nước có thể tăng cao gấp 10 lần
so với bình thường.
• Chất thải chứa dầu mỡ là nguy cơ lớn nhất gây ô nhiễm nguồn nước mặt. Việc tập trung các
loại máy móc thi công và phương tiện vận tải là nguyên nhân chính gây ô nhiễm dầu mỡ.
• Nước mặt bị ô nhiễm ngấm xuống đất sẽ gây ra ô nhiễm nước ngầm. Bên cạnh đó, quá trình
thi công, đào hố, khoan... gây thủng tầng đất mặt, tạo ra sự trao đổi trực tiếp giữa nước mặt
và nước ngầm dẫn đến ô nhiễm nước ngầm.
Biện pháp phòng ngừa và giảm tác động:
- Giảm thiểu nguồn phát thải, tìm hiểu môi trường xung quanh, tạo điều kiện cho sinh vật
nước chung sống hoà bình với dự án.
- Dùng két tự hoại, tiến tới dùng thiết bị xử lý nước thải, thu hồi dầu mỡ đưa đi xử lý, không
được phép đổ ra nền hoặc xung quanh.
- Lựa chọn vật liệu ít xói mòn, giảm độ dốc taluy và tạo thảm thực vật, hệ thống thoát nước
hợp lý.
- Bảo vệ, che phủ các bề mặt đất ở những nơi có thể bị xói mòn; trồng cây cỏ, lát đá.
- Không làm gián đoạn nguồn nước, không làm suy thoái chất lượng nguồn nước.
50
Bài giảng Môi trường GTVT

- Giảm tối đa các tác động tới nguồn nước như khống chế xói mòn, khống chế đổ thải.
- Cải tạo, nạo vét hệ thống thoát nước thường xuyên.
- Ở những nơi có thể, các hoạt động xây dựng và các công trình nên đưa xa bờ sông tạo điều
kiện cho việc lưu thông dòng chảy tại những nơi hiểm yếu, làm những đệm ngăn xói mòn bằng các
vật liệu nhẹ sẽ tạo ra các chiếc bẫy cặn và lâu dài cặn dược tích luỹ sẽ làm vững chắc bờ sông, đem
lại hiệu quả lâu dài.
- Phủ đáy và thành rãnh bằng các vật liệu hạt ổn định hay bằng cây cỏ để chống xói mòn.
- Thiết kế phù hợp với yêu cầu của hệ thống thuỷ lợi, khôi phục hệ thống tưới tiêu sau khi
thi công xong công trình nếu có yêu cầu.
3.3.4. Tác động tới môi trường đất bị khai thác, đào đắp
• Đất canh tác khi bị xáo trộn lên dễ bị biến thành đất sỏi đá, không còn trồng trọt được nữa
và phải bỏ hoang. Ngoài ra, vật liệu để làm cầu đường như bêtông, cát, sỏi hoặc nhựa đường
bị rơi vãi xuống hai bên tuyến đường cũng gây tác hại lớn tới đất trồng.
• Môi trường đất có thể bị nhiễm bẩn, thoái hoá bởi chất thải sinh học, chất thải rắn, dầu mỡ
của máy móc thi công; bị xáo trộn bề mặt tại khu vực công trường xây dựng;…
• Lượng chất thải lớn nhất là cát, đá, sỏi, đất nhiễm dầu,... không còn sử dụng được nữa. Việc
đổ thải bừa bãi các phế liệu này thường gây cản trở cho việc đi lại và gây lãng phí. Do đó
phải có khu vực tập kết phân loại riêng cho từng loại. Các phế thải cần phải được tái sử
dụng, không nên dồn xuống hai bên tuyến đường vì dễ gây ô nhiễm cho đất nông nghiệp.
• Chất thải do sinh hoạt của công nhân xây dựng thường gây ô nhiễm môi trường đất và nước.
• Loại chất thải phổ biến là dầu mỡ bôi trơn đã qua sử dụng. Khi thay dầu mỡ bôi trơn mới
cho các phương tiện vận tải và máy móc thi công thì dầu thải phải được thu gom để đưa đi
xử lý. Nếu đổ xuống nền đường hoặc đổ ra khu vực xung quanh sẽ gây ra ô nhiễm môi
trường đất và nước nghiêm trọng.
Biện pháp phòng ngừa và giảm tác động:
- Giảm tối đa lượng chất thải, chôn lấp chất thải rắn.
- Thu hồi dầu mỡ đưa đi xử lý, không được phép đổ ra nền hoặc môi trường xung quanh.
- Giảm tối đa vùng tác động.
- Bố trí đủ và hợp lý những đường và cửa thoát nước từ các rãnh gom nước, dùng đá hoặc
bêtông lát các rãnh nước.
- Xử lý tốt việc thoát nước trên cơ sở khảo sát kỹ điều kiện tại khu vực công trình. Nắn tuyến
để tránh những khu vực địa chất không ổn định và dùng các biện pháp ổn định taluy.
- Bố trí nơi đổ và thu gom, ban hành và thực hiện các quy định thu gom, đổ bỏ, chôn lấp
chất thải rắn.
- Các vị trí khai thác nguồn nguyên vật liệu sử dụng trong thi công phải được cơ quan quản
lý tài nguyên cấp phép.
- Hạn chế phát quang lớp phủ thực vật, trồng lại cây, phục hồi nhanh chóng thảm thực vật
tại những vùng đất đã bóc chúng. Tái tạo và khôi phục cảnh quan đã mất nếu có yêu cầu.
3.3.5. Tác động tới môi trường không khí
Ô nhiễm do các khí độc:
• Ô nhiễm không khí do hoạt động của các thiết bị thi công và phục vụ thi công bao gồm
nguồn cố định là các hoạt động của các xe cơ giới chuyên chở vật liệu gồm đất, đá, ximăng,
51
Bài giảng Môi trường GTVT

nhựa đường,... và nguồn tương đối cố định là các khu mỏ khai thác vật liệu, trạm trộn bê
tông, nhựa, các máy đóng cọc, máy khoan, xe lu... Quá trình thi công làm tăng nồng độ thành
phần một số khí độc hại như CO, SO2, NOx, Hydrocacbon...
• Ô nhiễm không khí do đốt các chất thải có chứa dầu mỡ, hoá chất;
• Ô nhiễm không khí từ các khu vực đốt nhựa đường; vv...
Ô nhiễm do bụi:
• Các xe tải chở đất ra vào do bụi bẩn dính trên các lốp xe, bụi do ma sát giữa lốp xe với mặt
đường, nguyên vật liệu bị rơi vãi;...
• Hoạt động của các ô tô vận chuyển sẽ làm các tuyến đường bị bụi bẩn vào những ngày nắng
ráo và bị bùn lầy vào những ngày mưa;
• Bụi từ hoạt động xây dựng phát sinh khi: phá dỡ, đào đắp, san lấp và sử dụng vật liệu;
Biện pháp phòng ngừa và giảm tác động:
- Tránh vận chuyển các loại vật liệu xây dựng qua các đường phố trong nội thành vào những
giờ cao điểm.
- Thời gian thi công phải được lựa chọn (không vào mùa mưa) để tránh xói mòn, cỏ sẽ được
trồng trên đất mới càng sớm càng tốt. Xói mòn còn có thể được giảm nhẹ bằng cách giảm tối đa
chiều dài, độ dốc và diện tích các mặt đất lộ ra. Lớp thảm thực vật che phủ được chọn có tốc độ
lớn nhanh và là giống cỏ phù hợp với điều kiện tự nhiên ở khu vực.
- Trong giai đoạn thi công, phải bố trí công nhân phun nước để tránh gây bụi. Số lần tưới nước
tùy thuộc vào thời tiết. Thông thường việc tưới nước được thực hiện vào buổi sáng (7:008:00),
buổi trưa (12:0013:00) và buổi tối (17:3019:00).
- Các phương tiện vận chuyển phế thải, vật liệu xây dựng phải tuân thủ nghiêm ngặt theo quy
định. Phủ kín xe tải chở đất đá, tưới nước những bề mặt đang thi công.
- Việc trộn bê tông sẽ được tiến hành ở các khu vực cách ly. Lựa chọn vị trí đặt trạm trộn asphalt
khu vực khai thác và các thiết bị gây ô nhiễm không khí một cách hợp lý.
- Không đốt ngoài trời những chất thải có chứa dầu mỡ, hoá chất hoặc các chất hữu cơ.
- Chú ý đến tốc độ và hướng gió để có biện pháp tránh cho cát bụi về phía công trường hay khu
nhà cửa của dân cư.
- Sử dụng thiết bị kiểm soát ô nhiễm, bảo dưỡng và kiểm tra xe cộ định kỳ.
- Đối với máy móc, thiết bị thi công trên công trường gây bụi làm ảnh hưởng đến sức khoẻ
người lao động, gây tác hại đến môi trường xung quanh và tài sản, nhất là đối với môi trường nông
thôn, nhà thầu sẽ áp dụng các biện pháp phòng tránh cần thiết như khoanh vùng thi công, tưới nước
thường xuyên... Các máy trộn bê tông không gây bụi có nồng độ tập trung cao hơn 50 mg/m3.
Không sử dụng các loại máy móc, thiết bị thi công lạc hậu, cũ, có thể gây ô nhiễm môi trường khu
vực.
- Trồng cây xanh hai bên đường: Khả năng giữ bụi trên cành lá của cây là tương đối tốt, khả
năng này phụ thuộc vào đặc thù của lá cây (càng nhám càng bắt bụi), lá to hay nhỏ, dày hay thưa,
lùm hay tán cây và phụ thuộc vào thời tiết. Cây xanh cũng như thảm cỏ còn có tác dụng hạn chế
nguồn bụi bay lên từ mặt đất (bảng 3.4). Theo tính toán, cây xanh có thể làm giảm nồng độ bụi
trong không khí từ 20-65%.

52
Bài giảng Môi trường GTVT

Bảng 3.1. Khả năng làm giảm bụi của một số loại cây
TT Loại cây Tổng diện tích lá Tổng lượng bụi giữ trên cây (kg)
1 Phượng 86 4
2 Du 66 18
3 Liễu 157 38
4 Phong 171 20
5 Tần bì 195 30
6 Bụi cây đinh hương 11 1.3
3.3.6. Tác động do ồn và chấn động
• Các hoạt động xây dựng gây tiếng ồn bao gồm: Các xe vận chuyển vật liệu xây dựng như
xe tải nặng, tiếng ồn từ máy nén khí ...đặc biệt là máy đóng cọc, trạm trộn bê tông và các
công việc nổ khá khai thác vật liệu xây dựng.
• Tiếng ồn gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của người, ảnh hưởng trực tiếp đến công nhân xây
dựng, các trường học, bệnh viện dọc theo tuyến đường. Sự rung động gây ra do sự cộng
hưởng tiếng ồn có thể gây ra những bất lợi cho công trình.
Biện pháp phòng ngừa và giảm tác động:
- Xây dựng các công trình giảm tiếng ồn, bảo dưỡng xe cộ thường xuyên để giảm tiếng ồn
từ xe cộ.
- Giám sát tiếng ồn và rung động trên tuyến và đường biên thi công. Sử dụng các phương
tiện, thiết bị hoàn thiện đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định.
- Các nguồn gây tiếng ồn lớn được bố trí xa lán trại và khu dân cư.
- Đối với các thiết bị và máy hạng nặng được sử dụng ở trạng thái tốt đảm bảo tiếng ồn phát
ra là nhỏ nhất. Trong trường hợp công trình phải thi công vào buổi tối hoặc ban đêm, hạn chế những
công việc gây tiếng ồn lớn như sử dụng búa hơi, máy nén khí, máy đóng cọc.
- Bố trí hình thức và thời gian thi công hợp lý để giảm hoặc tránh các hoạt động gây ồn xảy
ra vào các thời điểm nhậy cảm như đêm, giờ học, giờ làm việc và các hoạt động tại bệnh viện khi
có thể. Nghiêm cấm sử dụng các thiết bị gây tiếng ồn lớn vào ban đêm (22:00~6:00) như là máy
đóng cọc, máy nghiền, máy ủi, máy phát điện, máy cưa điện và máy khoan điện, xe đổ vật liệu, v.v
- Sử dụng thiết bị có tiếng ồn thấp hoặc các thiết bị được trang bị bộ phận giảm âm hoặc che
phủ để hạn chế tiếng ồn như máy phát điện sử dụng trên công trường xây dựng với bộ phận giảm
âm hoặc hoạt động phải phụ thuộc vào điều kiện tình trạng môi trường khu vực xung quanh.
- Khi xây dựng các hạng mục cần thời gian thi công dài như các kết cấu lớn, các kết cấu lớn
nên được đúc sẵn bên ngoài công trường xây dựng và sau đó chuyển đến công trường để lắp ráp.
- Sắp xếp mặt bằng công trường xây dựng, cố gắng đặt các máy móc thiết bị gây rung động
xa các toà nhà nhạy cảm.
- Tránh thực hiện các hoạt động gây ồn và rung động vào ban đêm;
- Cố gắng sử dụng các thiết bị xây dựng gây tiếng ồn và rung động nhỏ trong giai đoạn xây
dựng.
- Nếu có thể, sử dụng phương pháp đào lỗ và khoan nhồi khi xây dựng nền móng các cầu
vượt và tránh sử dụng máy đóng cọc khi xây dựng nền móng.
- Yêu cầu các nhà thầu phải thông báo cho cộng đồng thường xuyên trước khi thực hiện các
hoạt động gây rung động lớn để nhận sự thông cảm và ý kiến cộng đồng.
53
Bài giảng Môi trường GTVT

3.3.7. Tác động ô nhiễm môi trường từ các lán trại công nhân
Khi xây dựng một tuyến đường hay một cây cầu sẽ thu hút một lực lượng công nhân rất lớn.
Lán trại là nơi cư trú tạm thời của công nhân nên điều kiện vệ sinh, sinh hoạt rất kém. Rác thải và
nước sinh hoạt được thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng. Bên cạnh đó thì các tệ
nạn xã hội cũng như các dịch bệnh lan truyền nhanh chóng.
Biện pháp phòng ngừa và giảm tác động:
- Xây dựng nội quy, quy chế sinh hoạt cụ thể, đầy đủ, tổ chức quản lý công nhân chặt chẽ.
- Triển khai các chương trình nhằm khống chế các bệnh truyền nhiễm trong và ngoài lán
trại.
- Bảo đảm đầy đủ các công trình vệ sinh ở khu lán trại như: cống, rãnh, nhà vệ sinh, hố rác,
nhà tắm… cung cấp đầy đủ chất đốt cho công nhân.
- Có đội ngũ phục vụ người thi công nhằm giải quyết các trường hợp cấp cứu. Tăng cường
sử dụng nhân lực là người địa phương.
3.3.8. Tác động đối với hệ sinh thái cạn và dưới nước
• Phá huỷ hoặc gây thiệt hại cho hệ thực vật, động vật và hệ sinh thái khu vực nói chung. Đặc
biệt gây ảnh hưởng tới các hệ sinh thái nhạy cảm, các loài động, thực vật đang bị đe doạ
tuyệt diệt.
• Việc xây dựng các tuyến đường mới sẽ lấn chiếm dần các khu vực đất dành để trồng cỏ, cây
xanh và các bụi cây. Các tuyến đường trồng cây xanh sẽ bị ảnh hưởng theo nhiều mức khác
nhau. Đặc biệt, sẽ có một số lượng lớn cây bị chặt đi để phục vụ cho việc mở rộng đường
và xây dựng các tuyến đường mới. Điều này làm thay đổi hệ sinh thái và cảnh quan khu vực.
Biện pháp phòng ngừa và giảm tác động:
- Sử dụng phối hợp các biện pháp ở phần trên. Kết hợp giữa các biện pháp kỹ thuật và giáo
dục nâng cao kiến thức về môi trường đối với những người có trách nhiệm và công nhân xây dựng
đường.
- Hạn chế phát quang thảm thực vật ngoài diện tích đường.
- Tránh săn bắn, chặt cây gây tổn thất môi trường sinh thái.
3.3.9. Tác động của chất phế thải từ công trường xây dựng
• Cát, đất, sỏi lẫn đất không sử dụng được nữa gây xáo trộn bề mặt đất tại khu vực công trường
xây dựng.
• Phế thải đăc biệt nguy hiểm là dầu mỡ bôi trơn đã qua sử dụng làm thoái hóa đất.
• Bụi phát sinh từ hoạt động xây dựng làm suy giảm chất lượng không khí; làm tăng nồng độ
một số thành phần khí độc (SO2, Nox, CO, HC…).
• Chất thải rắn từ quá trình thi công làm giảm chất lượng nước.
• Tăng độ ồn và rung động do các hoạt động thi công và phục vụ thi công: nổ mìn, đóng ép
cọc, khoan đào…
• Ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của cán bộ, công nhân thi công trên công trường do ô nhiễm
không khí, nước, tiếng ồn và rung động.
Biện pháp phòng ngừa và giảm tác động:
- Tận dụng đất, đá, sỏi, phế thải làm nền đường, không đổ dồn đống hai bên đường làm ô
nhiễm đất canh tác.

54
Bài giảng Môi trường GTVT

- Các chất thải sinh hoạt, đặc biệt là dầu mỡ thải phải được thu gom xử lý, không được đổ ra
nền đường hoặc xung quanh công trường xây dựng.
3.3.10. Tác động do công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư
• Tác động do công tác giải phóng mặt bằng như di rời nhà cửa, các công trình công cộng,
văn hoá...
• Việc lấy đất để xây dựng các tuyến đường mới buộc người có liên quan phải mất đất một
phần hoặc toàn bộ, dẫn đến phải di chuyển khỏi chỗ sinh sống cũ. Điều đó gây mất nhà ở,
tài sản, thiết bị công cộng, mất các địa điểm văn hóa, thương mại. Do đó cần phải có những
biện pháp đền bù và khôi phục thích hợp.
Biện pháp phòng ngừa và giảm tác động:
- Ngay từ khi lựa chọn tuyến nên cố gắng tránh khu đông dân cư, đặc biệt là vùng có dân
tộc thiểu số sinh sống.
- Tổ chức tốt công tác giải phóng mặt bằng. Thực hiện hoàn chỉnh mặt bằng trước khi tiến
hành thi công càng sớm càng tốt sau khi đã đạt được sự thỏa thuận và được phép thi công. Xác định
các mức đền bù hợp lý, xác định khu vực tái định cư, xây dựng tốt cơ sở hạ tầng cho khu tái định
cư như: giao thông, trường học, bệnh viện, chợ, điện nước, vệ sinh,…hỗ trợ tạo điều kiện cho các
gia đình chính sách.
3.4. Tác động tới môi trường trong quá trình khai thác vận tải
3.4.1. Ô nhiễm tiếng ồn và chấn động do hoạt động của dòng xe
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, lưu lượng dòng xe tương lai trên tuyến
không ngừng gia tăng gây ra tiếng ồn rất lớn ảnh hưởng tới các khu vực dân cư dọc tuyến đường,
nhất là các khu vực nhạy cảm như: trường học, bệnh viện, khu đông dân cư,… Ngoài ra còn gây
rung nứt các công trình kiến trúc gần đường.
- Tác động của tiếng ồn giao thông phụ thuộc vào loại xe, tốc độ chạy, lưu lượng xe, chất
lượng mặt đường, công trình kiến trúc hai bên đường và khoảng cách từ đường tới các khu vực
nhạy cảm. Nguồn chấn động gây ra chủ yếu là các xe tải nặng, chuyển động của đoàn tàu hỏa.
- Tác động tiếng ồn là tác động lớn nhất trong giai đoạn khai thác đường. Nó làm giảm thính
giác, ảnh hưởng đến hệ thần kinh, tim mạch do mất ngủ, ảnh hưởng tới chất lượng làm việc và nghỉ
ngơi. Tác động này cần được quan trắc, dự đoán cẩn thận, thường xuyên đề xuất các biện pháp
giảm thiểu thích hợp.
3.4.2. Ô nhiễm không khí
- Sau khi đường được xây dựng và nâng cấp xong, số lượng phương tiện vận tải sử dụng
đường tăng lên theo thời gian. Như vậy, chất lượng không khí tại khu vực dự án sẽ xấu đi so với
hiện tại, đó là điều không thể tránh khỏi.
- Ô nhiễm không khí chủ yếu từ:
+ Bụi lơ lửng trên đường giao thông sinh ra do tương tác giữa các bề mặt như lốp xe và mặt
đường. Ngoài ra, bụi còn có trong khí xả của động cơ phương tiện vận tải. Nồng độ bụi trên đường
còn phụ thuộc vào số lượng bụi có trên đường cuốn lên do xe chạy.
+ Các khí thải độc của các phương tiện giao thông như: SO2, NO2, CO, CO2, CH… Riêng ô tô
còn thải ra bụi chì, hơi chì, hơi xăng dầu, các khí này gây tác hại trực tiếp cho sức khỏe con người
tại các khu vực ven đường.
3.4.3. Ô nhiễm đất
55
Bài giảng Môi trường GTVT

Nguồn gây ô nhiễm đất và nước mặt hai bên đường giao thông là do nước mưa chảy tràn
cuốn theo xăng, dầu mỡ rò rỉ hoặc thải của ô tô, dầu máy, nước thải vệ sinh trên tàu hỏa xả xuống
đường ray.
Sau khi tuyến đường được cải tạo xong, cần phải trả lại không gian và mặt bằng hai bên
đường. Tuyến đường mới hoàn tất sẽ tạo ra giá trị sử dụng đất bên đường cao lên nhiều lần. Các
diện tích này có thể được sử dụng để xây dựng các công trình phục vụ du lịch, sửa chữa, ăn uống,
xây dựng văn phòng làm việc hay nhà máy mới. Do vậy, chính quyền địa phương cần có kế hoạch
trước để việc xây dựng được đưa vào quy hoạch, tạo cảnh quan cho tuyến đường và đạt hiệu quả
kinh tế cao.
3.4.4. Tác động đến hệ thống thủy văn
Khi cải tạo xong tuyến đường, hệ thống thuỷ văn chắc chắn sẽ được cải thiện hơn, vì thế
việc úng lụt cục bộ tại từng đoạn đường sẽ được cải thiện tốt hơn. Điều này làm cho người dân hai
bên đường chủ động hơn trong canh tác nông nghiệp.
3.4.5. Ảnh hưởng tới chất lượng nước
Tuyến đường sau khi thi công và đưa vào sử dụng sẽ có mật độ phương tiện vận tải cao,
điều đó gây tác động xấu tới môi trường nước mặt hai bên tuyến đường. Các chất thải (đặc biệt là
các loại xăng, dầu, mỡ...) do sự cố giao thông hoặc rơi vãi trên đường sẽ gây ô nhiễm cho nước
mặt, gây ô nhiễm đất và nước ngầm. Một vấn đề khác là sau khi tuyến đường hoàn thành, các khu
dân cư mới cũng hình thành và sẽ gây ô nhiễm nguồn nước bởi nước thải và rác thải sinh hoạt.
3.4.6. Ảnh hưởng đến động thực vật
Khi tuyến đường được đưa vào sử dụng thì động thực vật hai bên đường ít bị ảnh hưởng.
Chỉ khi có sự cố tai nạn, hóa chất hoặc xăng dầu chảy tràn xuống đường, hệ thực vật sẽ bị ảnh
hưởng, nhưng cũng chỉ cục bộ từng vùng nhỏ, không thể gây xáo trộn cho từng vùng.
Tuy nhiên, khi xe chạy trên đường, phát thải khí độc trong đó có bụi xăng. Do vậy, việc
trồng rau xanh và cây ăn quả hai bên đường là không nên. Tốt nhất nên cách xa tuyến hai bên
>300m.
Nói chung việc nâng cấp tuyến về cơ bản chỉ ít ảnh hưởng tới hệ động thực vật có sẵn dọc
tuyến đường.
3.4.7. Xói mòn đất
Xói mòn đất cũng là một vấn đề trong khai thác đường bộ. Tại những đầu cầu mới được xây
dựng lại rất dễ xảy ra tình trạng xói mòn đất hai đầu cầu gây sụt lở ở các đầu cầu.
3.4.8. Tác động kinh tế - xã hội của dự án
Sau khi tuyến đường mới được đưa vào khai thác sử dụng, chất lượng giao thông cũng như
chất lượng môi trường khu vực được cải thiện đáng kể , kéo theo một loạt các tác động tích cực về
mặt kinh tế xã hội như :
- Cải thiện môi sinh tại khu vực;
- Giá thành đất dọc hai bên đường mới được xây dựng sẽ tăng nhanh do việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất;
- Giao lưu kinh tế ở khu vực tăng nhanh;
- Tốc độ đô thị hoá được đẩy mạnh;
- Vấn đề an toàn giao thông: Tuyến đường hoàn thành sẽ góp phần làm tăng lưu lượng dòng
xe, tốc độ của xe cũng sẽ tăng lên do vậy vấn đề an tòan giao thông cũng cần được chú ý.
56
Bài giảng Môi trường GTVT

* Biện pháp giảm thiểu tác động ô nhiễm trong quá trình khai thác các công trình GTVT:
- Khống chế thời gian hoạt động của các phương tiện. Thiết kế các tường chống ồn, đặt các
biển báo cấm sử dụng còi, hạn chế còi trong khu vực nhạy cảm (trường học, bệnh viện,...)
- Hạn chế sử dụng các phương tiện quá cũ không đảm bảo tiêu chuẩn về tiếng ồn và rung
động.
- Đảm bảo khoảng không lưu an toàn của tuyến đường.
- Thay thế các nhiên liệu sạch như gas, điện, xăng không chì.
- Lắp đặt các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm không khí từ ống xả của các phương tiện giao
thông, ví dụ như hệ thống hoàn lưu khí xả, bộ cảm ứng lamda...
- Hạn chế sử dụng các phương tiện quá cũ không đảm bảo tiêu chuẩn khí thải quy định. Đảm
bảo tốc độ xe chạy trên đường như thiết kế vì nếu xe thay đổi tốc độ và đứng yên thì lượng khí thải
ra càng lớn.
- Xây dựng và khuyến khích sử dụng các phương tiện giao thông công cộng như xe bus.
- Cấm các phương tiện vận chuyển nguyên liệu, chất thải, phế thải xây dựng chạy qua đường
mà không có biện pháp giảm bụi.
- Phun nước rửa đường hàng ngày để giảm bụi.
- Trồng cây xanh, thảm cỏ dọc theo tuyến đường giao thông, vửa chắn bụi, làm đẹp cảnh
quan môi trường và có tác dụng như hàng rào ngăn tiếng ồn. Sóng âm thanh khi truyền qua các lùm
cây sẽ bị phản xạ qua lại nhiều lần và năng lượng âm sẽ giảm đi rõ rệt. Dải cây xanh dầy đặc rộng
10 - 15m có khả năng làm giảm tiếng ồn từ 15 - 18 dB.
3.5. Tác động tới môi trường do giao thông đô thị
3.5.1. Đặc điểm đường giao thông đô thị ở nước ta
Các đô thị lớn ở nước ta đang phát triển cùng với sự phát triển và đổi mới của nền kinh tế. Vấn
đề bức xúc hiện nay là quản lý giao thông đô thị nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững giữa kinh
tế và môi trường. Tuy nhiên hệ thống giao thông đô thị của nước ta đang bị quá tải trước sự gia
tăng dân số đô thị và phát triển về số lượng, chủng loại của các phương tiện tham gia giao thông.
Đường giao thông đô thị ở nước ta có đặc điểm là:
- Mật độ đường thấp, chiều rộng hẹp, ngắn không đáp ứng được lưu lượng thông qua của phương
tiện.
- Giao thông hỗn tạp gồm: Xe thô sơ, cơ giới hai bánh, cơ giới bốn bánh cùng hoạt động chung
trên một làn đường gây ùn tắc giao thông, gây tai nạn và ô nhiễm môi trường không khí.
- Tỷ lệ xe máy quá cao làm giảm tốc độ xe cơ giới (có lúc chỉ đạt <=10km/h).
- Xu hướng sử dụng xe hai bánh vẫn là phương tiện giao thông chính trong đô thị vì kinh tế và
phù hợp.
- Đường không có dải phân cách nên thường xảy ra tắc nghẽn giao thông, đặc biệt tại các nút
giao.
3.5.2. Tác động chủ yếu của giao thông đô thị tới môi trường
a) Tác động:
- Ô nhiễm môi trường không khí: Bụi, ồn, khí độc hại ảnh hưởng tới sức khỏe con người và làm
tăng khí nhà kính. Ô nhiễm khí thải đặc biệt cao tại các nút giao thông và khi tắc nghẽn giao thông
trong giờ cao điểm.
- Ô nhiễm tại các bến tàu, bến xe do vệ sinh không đảm bảo.
57
Bài giảng Môi trường GTVT

- Tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều.


b) Biện pháp giảm thiểu:
- Dùng loại ô tô có hiệu suất năng lượng cao, giảm số lượng xe ô tô trên đường.
- Phát triển mạng lưới giao thông công cộng vận tải hành khách bằng xe buýt. Trợ cấp cho vận
tải hành khách bằng xe buýt.
- Hạn chế xe máy lưu thông trên đường.
- Trồng dải cây xanh hai bên đường để hấp thụ khí CO2.
- Nâng cấp mở rộng cơ sở đường nội đô, quy hoạch xây dựng hệ thống đường vành đai để giảm
số lượng xe vào thành phố.
- Tăng cường hệ thống đèn thông tin, tín hiệu.
- Quản lý tốt vỉa hè, lòng đường.
- Tách dòng giao thông (cơ giới và thô sơ) để tăng năng lực thông qua các tuyến và ngăn chặn
tai nạn giao thông.
- Giáo dục, truyền thông thực hiện luật giao thông.
- Tăng cường xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm luật lệ giao thông.
3.5.3. Ô nhiễm môi trường gây ra tại các bến xe, bến tàu, ga đường sắt và biện pháp giảm thiểu
a) Các yếu tố gây ô nhiễm tại các bến xe, bến tàu, ga đường sắt:
- Rác thải các loại: chủ yếu là các bao bì thực phẩm thừa do hành khách thải ra.
- Ô nhiễm nước do nước thải sinh hoạt và đặc biệt do rơi vãi nhiên liệu, dầu mỡ bôi trơn của ô
tô, đầu máy toa xe,…
- Ô nhiễm không khí do tập trung nhiều ô tô, ô tô chạy ở tốc độ thấp. Nhiều ô tô chờ hành khách
trong khi máy vẫn làm việc chế độ không tải, do bay hơi nhiên liệu,…
- Mùi khó chịu do điều kiện vệ sinh kém ở nơi công cộng.
- Tiếng ồn do còi xe, tập trung nhiều ô tô, ô tô dừng trong khi động cơ vẫn làm việc, tập trung
đông người. Rung động do tiếng còi, va đập của bánh xe đoàn tàu với ray.
b) Biện pháp giảm thiểu:
- Bố trí các biện pháp thu gom rác trên toa tàu hành khách, tàu thủy; quy hoạch vệ sinh tại bến
tàu, bến xe; tổ chức tốt các đội vệ sinh tại các bến tàu, bến xe.
- Bố trí nước thường xuyên để phục vụ vệ sinh ở các nơi vệ sinh công cộng. Không thải trực tiếp
nước thải sinh hoạt, vệ sinh trên tàu xuống đường ray, sông, biển…
- Quy hoạch nơi bán hàng trong nhà ga, bến tàu xe.
- Tăng cường trồng cây xanh tại bến xe, bến tàu tạo cảnh quan môi trường.

58
Bài giảng Môi trường GTVT

Chương 4: Quản lý môi trường và cơ sở pháp lý bảo vệ môi trường trong giao thông
vận tải
4.1. Quản lý môi trường
4.1.1. Khái niệm quản lý môi trường (QLMT)
Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế, kỹ thuật, công
nghệ và xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế -
xã hội Quốc gia.
Như vậy, quản lý môi trường hướng đến các mục tiêu:
- Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh.
- Phát triển bền vững kinh tế - xã hội Quốc gia.
- Xây dựng các công cụ QLMT hiệu quả cho từng Quốc gia và từng khu vực, phù hợp với
từng ngành, từng địa phương và công đồng dân cư.
4.1.2. Mục tiêu của quản lý môi trường
Mục tiêu của quản lý môi trường là phát triển bền vững, giữ cho được sự cân bằng giữa phát
triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường. Nói cách khác, phát triển kinh tế xã hội tạo ra tiềm lực
kinh tế để bảo vệ môi trường, còn bảo vệ môi trường tạo ra các tiềm năng tự nhiên và xã hội mới
trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội trong tương lai. Tùy thuộc vào các điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội, hệ thống pháp lý, mục tiêu phát triển ưu tiên của từng quốc gia, mục tiêu quản lý
môi trường có thể thay đổi theo thời gian và có những ưu tiên đối với mỗi quốc gia.
Một số mục tiêu cụ thể của công tác quản lý môi trường Việt Nam hiện nay là:
- Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong các hoạt động
sống của con người.
- Xây dựng các công cụ hữu hiệu về quản lý môi trường quốc gia, các vùng lãnh thổ riêng
biệt (luật pháp, kinh tế, kỹ thuật công nghệ, chính sách xã hội,…).
4.1.3. Nội dung và nguyên tắc quản lý môi trường
4.1.3.1. Nội dung quản lý Nhà nước về môi trường
Điều 139 Luật Bảo vệ môi trường 2014 đã quy định chi tiết về nội dung quản lý Nhà nước
về bảo vệ môi trường bao gồm:
- Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách, chương trình, đề án, quy hoạch, kế
hoạch về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc; định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường,
dự báo diễn biến môi trường.
- Xây dựng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường; thẩm định báo cáo
đánh giá môi trường chiến lược; thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường
và kiểm tra, xác nhận các công trình bảo vệ môi trường; tổ chức xác nhận kế hoạch bảo vệ môi
trường.
- Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học; quản lý
chất thải; kiểm soát ô nhiễm; cải thiện và phục hồi môi trường.
- Cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về môi trường.

59
Bài giảng Môi trường GTVT

- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường; thanh tra trách nhiệm
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường; xử lý
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Đào tạo nhân lực khoa học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến
thức, pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường.
- Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện ngân sách nhà nước cho các hoạt
động bảo vệ môi trường.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
4.1.3.2. Nguyên tắc quản lý môi trường
Tiêu chí chung của công tác quản lý môi trường là đảm bảo quyền được sống trong môi
trường trong lành, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần gìn giữ môi trường chung
của loài người trên trái đất. Các nguyên tắc chủ yếu của công quản lý môi trường bao gồm:
* Đảm bảo tính hệ thống: Môi trường cần được hiểu như một hệ thống động, phức tạp, bao
gồm nhiều phần tử hợp thành. Vì thế QLMT cần phải có tính hệ thống chặt chẽ dựa trên cơ sở thu
thập, tổng hợp và xử lý thông tin trong hệ thống môi trường nhằm đưa ra các quyết định quản lý
phù hợp, đảm bảo mục tiêu, chiến lược phát triển đề ra.
* Đảm bảo tính tổng hợp: Nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở tác động tổng hợp của
các hoạt động phát triển (sản xuất, tiêu thụ, thương mại, dịch vụ, cộng đồng, xã hội...) lên hệ thống
môi trường.
* Đảm bảo tính liên tục và nhất quán: Môi trường là một hệ thống liên tục, tồn tại, hoạt
động và phát triển thông qua chu trình trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin. Do đó các hoạt
động của hệ thống môi trường không phân ranh giới theo thời gian và không gian, điều này qui
định tính nhất quán và tính liên tục của tác động quản lý lên môi trường.
* Đảm bảo tập trung dân chủ: Quản lý môi trường được thực hiện ở nhiều cấp khác nhau,
vì thế cần đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân chủ trong quản lý môi
trường với sự bình đẳng cho mọi ngành, mọi cấp, mọi địa phương cũng như giáo dục và nâng cao
nhận thức môi truờng cho cá nhân và cộng đồng.
* Kết hợp quản lý theo ngành và vùng lãnh thổ: Các thành phần môi trường thường do một
ngành nào đó quản lý, nhưng thành phần môi trường này lại được phân bố, khai thác và sử dụng
trên một địa bàn cụ thể với sự quản lý của một cấp chính quyền địa phương tương ứng. Do đó, cần
kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và vùng lãnh thổ để tăng hiệu quả quản lý môi trường và
khai thác tài nguyên thiên nhiên.
* Kết hợp hài hoà các lợi ích: Kết hợp hài hoà các lợi ích giữa cá nhân, hộ gia đình, doanh
nghiệp, ngành, Nhà nước và xã hội. Kết hợp hài hoà các lợi ích còn bao hàm kết hợp lợi ích quốc
gia, lợi ích khu vực, lợi ích quốc tế nhằm mục tiêu phát triển bền vững kinh tế - xã hội - môi trường
trên toà Thế giới.
* Kết hợp hài hoà, chặt chẽ giữa quản lý tài nguyên - môi trường với quản lý kinh tế - xã
hội: Để đạt tới mục tiêu phát triển bền vững, cần phải kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa quản lý tài
nguyên - môi trường với quản lý kinh tế - xã hội thông qua việc hoạch định chính sách, chiến lược
đúng đắn ở mọi cấp quản lý của Nhà nước.
60
Bài giảng Môi trường GTVT

4.1.4. Tổ chức công tác quản lý môi trường


Tùy theo cơ cấu, bộ máy quản lý nhà nước, mỗi nước có cơ quan quản lý tài nguyên và môi
trường khác nhau, nhưng đại thể có ba cơ quan chủ yếu sau đây:
a) Cơ quan chủ trì hoạt động phát triển:
Bao gồm việc xây dựng dự án hoạt động, thực hiện hoạt động và theo dõi việc phát huy
hiệu quả hoạt động sau khi đã hoàn thành. Trong thực tế, trách nhiệm chủ trì hoạt động có khi còn
được phân ra cho nhiều cơ quan thuộc nhiều ngành, nhiều cấp khác nhau. Tất cả những cơ quan đó
đều thuộc vào loại cơ quan chủ trì hoạt động phát triển. Trong một Chính phủ, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, các Tổng cục,… thuộc loại cơ quan chủ trì hoạt động phát triển.
Cơ quan chủ trì hoạt động phát triển có trách nhiệm xây dựng báo cáo Đánh giá tác động
môi trường (ĐTM), kết hợp nó với việc xây dựng luận chứng kinh tế - kỹ thuật của hoạt động phát
triển do họ đề xuất.
Báo cáo ĐTM do họ xây dựng có thể là một văn bản riêng kèm theo luận chứng kinh tế -
kỹ thuật của hoạt động phát triển hoặc có thể là một phần trong luận chứng đó.
Trong các giai đoạn thiết kế, thi công hoạt động phát triển cũng cần có văn bản ĐTM tương
ứng nhằm làm sáng tỏ và chính xác hóa những nội dung đã được trình bày trong Báo cáo ĐTM do
các cơ quan chủ trì hoạt động phát triển xây dựng; sau khi hoàn thành phải được chuyển tới cơ
quan ra quyết định. Đến lượt mình, cơ quan ra quyết định lại chuyển các văn bản đó tới cơ quan
quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường để lấy ý kiến về chuyên môn.
b) Cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường
Trong Chính phủ, các Bộ hay Ủy ban Môi trường, Hội đồng Môi trường (Ở Việt Nam là Bộ
Tài nguyên và Môi trường) là cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường.
Cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường có trách nhiệm xem xét, thẩm tra
báo cáo ĐTM về mặt pháp lý và nội dung khoa học. Họ phải đưa ra nhận xét về sự phù hợp của
Báo cáo với các luật lệ, quy định của nhà nước về bảo vệ tài nguyên và môi trường đã ban hành,
trước hết là sự tuân thủ các quy định về ĐTM.
Đồng thời, họ cũng phải đánh giá tính chính xác, tính khách quan về mặt khoa học của các
kết luận và đề xuất nêu trong báo cáo ĐTM
c) Cơ quan ra quyết định thực hiện các hoạt động phát triển
Cơ quan ra quyết định thực hiện các hoạt động phát triển là cơ quan đứng đầu Chính phủ
mỗi nước, hoặc các địa phương. Ngoài ra một số bộ, ngành cũng có thẩm quyền quyết định nếu
được các cơ quan nói trên ủy quyền.
Cơ quan ra quyết định về hoạt động phát triển có trách nhiệm xem xét ý kiến của cơ quan
chủ trì hoạt động phát triển cũng như của cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
và trên cơ sở đối chiếu 2 loại ý kiến của hai cơ quan nói trên, căn cứ vào các khía cạnh kinh tế - kỹ
thuật – môi trường để đề ra quyết định về việc thực hiện các hoạt động phát triển.
Dựa trên nguyên tắc phân công trách nhiệm nêu trên, cả 3 cơ quan phải cộng tác chặt chẽ
với nhau để thực hiện việc quản lý tài nguyên và môi trường, đặc biệt thực hiện các bước cần thiết
trong ĐTM cũng như trong xét duyệt kết quả của nó.
4.1.5. Công cụ quản lý môi trường
4.1.5.1. Các công cụ pháp lý
a) Luật môi trường
61
Bài giảng Môi trường GTVT

Luật môi trường là cơ sở pháp lý trong công tác quản lý môi trường. Ở mỗi nước đều có hệ
thống luật môi trường riêng. Thông thường hệ thống luật bảo vệ môi trường của một quốc gia bao
gồm hai thành phần chính là luật chung và luật về các thành phần môi trường hoặc bảo vệ môi
trường cụ thể ở một địa phương. Luật chung gọi là luật bảo vệ môi trường, còn luật biển, luật rừng,
luật đất đai, tài nguyên, khoáng sản,…là luật về các thành phần môi trường.
Ở một số nước, luật môi trường là khung pháp lý chung, từ đó đưa ra các quy định, chế định
trong công tác bảo vệ môi trường.
Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 01/07/2014 giao trách
nhiệm cho chính quyền các cấp, các cơ quan và mọi công dân trong việc bảo vệ môi trường, tuân
thủ các nguyên tắc bảo vệ môi trường.
b) Chính sách và chiến lược bảo vệ môi trường
Chính sách bảo vệ môi trường là công cụ chỉ đạo toàn bộ hoạt động bảo vệ môi trường trên
một phạm vi lãnh thổ rộng lớn như một bang, tỉnh hoặc quốc gia, trong thời gian 10-15 năm trở
lên.Chính sách phải nêu lên mục tiêu và các định hướng lớn để thực hiện mục tiêu phải hợp lý, có
cơ sở vững chắc về khoa học và thực tiễn.
c) Quy hoạch môi trường
Quy hoạch môi trường là sắp xếp tổ chức không gian và sử dụng các thành phần môi trường
và các yếu tố tài nguyên phù hợp với chức năng môi trường và điều kiện thiên nhiên, kinh tế - xã
hội của vùng lãnh thổ theo định hướng phát triển bền vững. Quy hoạch và kế hoạch là hai phạm trù
độc lập nhưng thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau. Quy hoạch môi trường mang tính không gian
nhưng gán với mục tiêu và thời gian của kế hoạch. Kế hoạch môi trường mang tính thời gian nhưng
gắn với không gian của quy hoạch môi trường. Quy hoạch và kế hoạch môi tường là bước đi tiếp
theo chiến lược môi trường trong công tác bảo vệ môi trường, là một biện pháp hữu hiệu trong
công tác quản lý, bảo vệ môi trường.
d) Kế hoạch hóa môi trường
Bảo vệ môi trường là công tác có quy mô lãnh thổ lớn, thời gian dài, quan hệ đến nhiều
ngành, nhiều người thuộc nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội vì vậy chỉ có thể thực hiện được
tốt khi tiến hành kế hoạch hóa.
Nội dung cơ bản của kế hoạch hóa môi trường là:
- Điều tra cơ bản về chất lượng môi trường, thu thập số liệu để làm cơ sở cho kế hoạch dài
hạn, trung hạn hoặc ngắn hạn.
- Bảo vệ môi trường là phải duy trì môi trường cơ bản, nhằm tạo điều kiện tái tạo lại môi
trường, phát huy đặc điểm tự điều chỉnh hệ thống môi trường. Vì vậy phải dặt các mục tiêu phts
triển kinh tế - xã hội trong kế hoạch chung phù hợp với điều kiện bảo vệ và duy trì môi trườngcơ
bản nhằm huóng tới sự phát triển bền vững.
- Kế hoạch hóa môi trường phải bảo đảm tính đồng bộ, cân đối mục tiêu và nguồn lực, gắn
chặt với chính sách vốn đầu tư. Tái sản xuất chất lượng môi trường rất tốn kém, lợi ích thu được
có khi còn thấp hơn chi phí, và thời gian thu hồi vốn thường lâu. Vì vậy việc tạo vốn cho kế hoạch
hóa môi trường là rất quan trọng.
e) Tiêu chuẩn môi trường
Tiêu chuẩn môi trường xác định các mục tiêu và đặt ra các giới hạn về số lượng hay nồng
độ cho phép của các chất thải được thải vào môi trường (đất, nước, không khí,…) hoặc được phép
62
Bài giảng Môi trường GTVT

tồn tại trong các sản phẩm tiêu dung; giới hạn chịu đựng của con người và sinh vật với các yếu tố
môi trường xung quanh.
Bao gồm các loại tiêu chuẩn:
- Tiêu chuẩn chất lượng môi trường xung quanh;
- Tiêu chuẩn xả thải các nguồn ô nhiễm;
- Tiêu chuẩn về quy cách kỹ thuật và thiết kế của các máy móc, thiết bị môi trường;
- Tiêu chuẩn về quy trình công nghệ;
- Các tiêu chuẩn vận hành;
- Tiêu chuẩn sản phẩm.
4.1.5.2. Các công cụ kinh tế
a) Thuế môi trường
Thuế môi trường là khoản thu do nhà nước định ra và thu về cho ngân sách, dung để chi cho
mọi hoạt động của Nhà nước.
Thuế môi trường dùng để khuyến khích bảo vệ và nâng cao hiệu suất sử dụng các yếu tố
môi trường gây ra ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn quy định, trực tiếp làm giảm lợi nhuận của họ.
Nguyên tắc đánh thuế phải lớn hơn chi phí để giải quyết chất phế thải và khắc phục ô nhiễm. Biện
pháp đánh thuế sẽ gây sức ép, buộc nhà sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu suất sử dụng
nguyên nhiên liệu hoặc thay thế bằng nguyên nhiên liệu ít ô nhiễm hơn, áp dụng kỹ thuật giảm ô
nhiễm môi trường.
Các sắc thuế môi trường chủ yếu:
- Thuế ô nhiễm bầu không khí;
- Thuế ô nhiễm tiếng ồn;
- Thuế ô nhiễm các nguồn nước;
- Thuế ô nhiễm đất.
Chính phủ các nước còn áp dụng các biện pháp miễn giảm thuế nhằm khuyến khích các hoạt
động có lợi cho môi trường, như miễn giảm thuế cho các ngành sản xuất phân bón vi sinh thay cho
phân bón hóa học, các công nghệ xử lý nước thải, rác thải, sản xuất “sản phẩm xanh” không gây ô
nhiễm môi trường.
b) Các loại phí
- Phí xả thải: Dựa trên số lượng, chất lượng chất ô nhiễm xả thải vào môi trường và tác hại
của chất ô nhiễm đó. Như vậy, người gây ô nhiễm phải chi trả một khoản tiền (phí) tương ứng với
chất và lượng thải ra. Lượng ô nhiễm lớn, tính nguy hại cao phải trả phí cao. Loại phí này có thể
áp dụng tốt đối với nước thải, khí thải và tiếng ồn, trong các điều kiện nguồn phát thải cố định, có
thể giám sát được. Đối với một số loại chất thải khó kiểm soát thì khó tính phí.
- Phí sản phẩm: Là khoản phí được cộng thêm vào giá sản phẩm hay đầu vào của sản phẩm.
Tùy theo chi phí mà sản phẩm đó gây thiệt hại đến môi trường sẽ xác định được mức phí sản phẩm.
- Phí không tuân thủ: Là loại phí thu từ những người gây ô nhiễm khi họ xả thải ô nhiễm
vượt quá mức quy định, theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.
c) Giấy phép xả thải
Các nhà chức trách sẽ xác định tổng lượng chất ô nhiễm cho phép được xả thải trong một
khoảng thời gian và không gian nhất định. Từ đó chia thành các giấy phép xả thải quy định một

63
Bài giảng Môi trường GTVT

đơn vị chất ô nhiễm cho phép các nhà sản xuất được phép thải vào môi trường. Giấy phép xả thải
có thể chuyển nhượng từ nguồn này sang nguồn khác.
d) Ký quỹ - Hoàn trả
Tiền ký quỹ là số tền phải trả thêm cho sản phẩm có tiềm năng gây ô nhiễm (bao bì, chất
thải, …). Khi người sử dụng trả những sản phẩm này lại các cơ sở thu hồi, tái chế thì tiền ký quỹ
của họ sẽ được hoàn trả.
Các cam kết bảo đảm, cam kết thực hiện cũng giống như ký quỹ - hoàn trả. Đây là khoản
tiền phải trả cho các hoạt động có tiềm năng gây ô nhiễm (các xí nghiệp, cơ sở sản xuất, …). Khi
các nhà sản xuất có các biện pháp ngăn chặn, xử lý ô nhiễm thích hợp thì họ sẽ được trả lại khoản
tiền cam kết trước đó đã đóng.
e) Đền bù thiệt hại
Bên gây ô nhiễm và bên bị ô nhiễm thỏa thuận với nhau về mức bồi thường, đền bù. Trường
hợp không tự thỏa thuận được thì sẽ giải quyết theo pháp luật.
Các biện pháp ký quỹ - hoàn trả, đền bù thiệt hại, giấy phép xả thải có ưu điểm ở chỗ nó
ràng buộc các nhà sản xuất trước khi bước vào hoạt động phải tìm cách ngăn ngừa ô nhiễm hoặc
sau khi khai thác phục hồi đối tượng bị khai thác.
f) Bảo hiểm môi trường
Trước các rủi ro tiềm tang, các nguy cơ chịu phạt vì các tổn thất môi trường, chủ các hoạt
động có thể mua bảo hiểm cho các loại rủi ro đó để xử lý khi chúng xảy ra.
Có thể tạo ra khuyến khích bằng việc giảm phí bảo hiểm đối với các hoạt động an toàn hơn
hoặc trong trường hợp xảy ra rủi ro với tổn thất ít hơn.
Trong thực tế để thực hiện tốt việc quản lý môi trường, các nhà quản lý thường sử dụng tổng
hợp các công cụ pháp lý và công cụ kinh tế tạo thành biện pháp quản lý tổng hợp.
g) Quỹ bảo vệ môi trường
Trên thế giới, loại hình quỹ môi trường đã được phát triển từ lâu. Quỹ môi trường toàn cầu
(GEF) ra đời từ năm 1991; Quỹ Bảo vệ và Bảo tồn môi trường Châu Âu thành lập năm 1998. Ở
Việt Nam, ngày 26/6/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 82/2002/QĐ – TTg
thành lập Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam. Bước đầu quỹ được Ngân sách Nhà nước cấp 200 tỷ
đồng vốn điều lệ. Ngoài ra, quỹ kêu gọi và tiếp nhận vốn từ các nguồn khác. Theo nguyên tắc, quỹ
được trích 10% kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động quản lý nhà nước về bảo
vệ môi trường hàng năm.
4.2. Cơ sở pháp lý về bảo vệ môi trường giao thông vận tải
4.2.1. Khái quát chung về Luật bảo vệ môi trường
Chiến lược, kế hoạch, thể chế và luật pháp là những yếu tố cơ bản không thể thiếu được
trong mọi lĩnh vực hoạt động của bất kỳ quốc gia nào.
Hiện nay môi trường là vấn đề toàn cầu. Bảo vệ môi trường bằng pháp luật ở Việt Nam đưa
ra từ năm 1987 trong cuộc hội thảo bảo vệ môi trường bằng pháp luật do Ủy ban khoa học và kỹ
thuật Nhà nước (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức.
Trong tình hình của Việt Nam, biện pháp này đã nhanh chóng được áp dụng và đạt được
nhiều kết quả quan trọng.

64
Bài giảng Môi trường GTVT

Việt Nam tuy bắt đầu Luật Bảo vệ Môi trường (BVMT) khá muộn so với nhiều nước nhưng
nhờ có những định hướng đúng đắn mà các hoạt động BVMT của Việt Nam nhanh chóng đạt được
những kết quả khả quan sau một thời gian ngắn.
4.2.2. Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam
Luật BVMT của Việt Nam được Quốc hội phê chuẩn ngày 01/07/2014.
- Cấu trúc của Luật BVMT bao gồm 20 chương và 170 điều.
Chương 1: Những quy định chung gồm 7 điều (từ điều 1 đến điều 7).
Chương 2: Quy hoạch bảo vệ môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường và kế hoạch bảo vệ môi trường, gồm 27 điều (từ điều 8 đến điều 34).
Chương 3: Bảo vệ môi trường trong khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, gồm 4 điều
(từ điều 35 đến điều 38).
Chương 4: Ứng phó với biến đổi khí hậu, gồm 10 điều (từ điều 39 đến điều 48)
Chương 5: Bảo vệ môi trường biển và hải đảo, gồm 3 điều (từ điều 49 đến điều 51).
Chương 6: Bảo vệ môi trường nước, đất và không khí, gồm 13 điều (từ điều 52 đến điều
64).
Chương 7: Bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, gồm 15 điều
(từ điều 65 đến điều 79).
Chương 8: Bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư, gồm 5 điều (từ điều 80 đến điều 84).
Chương 9: Quản lý chất thải, gồm 19 điều (từ điều 85 đến điều 103).
Chương 10: Xử lý ô nhiễm, phục hồi và cải thiện môi trường, gồm 9 điều (từ điều 104 đến
điều 112).
Chương 11: Quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi trường, gồm 8 điều (từ điều
113 đến điều 120).
Chương 12: Quan trắc môi trường, gồm 7 điều (từ điều 121 đến điều 127).
Chương 13: Thông tin môi trường, chỉ thị môi trường, thống kê môi trường và báo cáo môi
trường, gồm 11 điều (từ điều 128 đến điều 138).
Chương 14: Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, gồm 5 điều
(từ điều 139 đến điều 143).
Chương 15: Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội - nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường, gồm 3 điều (từ 144 đến điều
146).
Chương 16: Nguồn lực về bảo vệ môi trường, gồm 9 điều (từ 147 đến điều 155).
Chương 17: Hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường, gồm 3 điều (từ 156 đến điều 158).
Chương 18: Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp. khiếu nại, tố cáo về
môi trường, gồm 4 điều (từ điều 159 đến điều 162).
Chương 19: Bồi thường thiệt hại về môi trường, gồm 5 điều (từ điều 163 đến điều 167).
Chương 20: Điều khoản thi hành, gồm 3 điều (từ điều 168 đến điều 170).
- Luật BVMT quán triệt các nguyên tắc chính của hoạt động BVMT. Có thể nêu ra một số nguyên
tắc sau:
+ BVMT là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của từng người.
+ Phòng ngừa ô nhiễm là chính.
+ Người nào gây ra ô nhiễm, người đó phải trả giá.
65
Bài giảng Môi trường GTVT

- Tính hệ thống của BVMT cũng tuân thủ các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh các hoạt động chung
của xã hội như các luật khác.
- Để điều chỉnh một số hành vi của xã hội, Luật BVMT đưa ra các mức độ yêu cầu cá nhân, tổ chức
thực hiện, trong đó có mức độ cấm.
- Luật BVMT có hẳn một chương nói về quan hệ Quốc tế trong lĩnh vực BVMT. Đây là một yêu
cầu khách quan của sự nghiệp bảo vệ môi trường ở Việt Nam không thể tách rời với bảo vệ môi
trường của thế giới: “Ngôi nhà chung của chúng ta”. Chúng ta cam kết tôn trọng pháp luật BVMT
của Việt Nam, cho phép Nhà nước, chính phủ ta tham gia vào tất cả các công ước và Hiệp định
quốc tế quan trọng về BVMT.
4.2.3. Một số chính sách về môi trường
a) Hội nhập chính sách ngành và liên ngành trong kế hoạch hóa quốc gia nhằm mục tiêu bảo
vệ môi trường
Thực tiễn quản lý vĩ mô đòi hỏi phải giải quyết tổng hợp các chính sách có quan hệ tương
tác liên ngành chặt chẽ, có như vậy mới đạt kết quả quản lý vĩ mô mong muốn.
Hệ thống chính sách liên ngành cần được xem xét và sửa đổi bao gồm:
- Các chính sách liên ngành đến tài sản, tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên tái tạo và tài
nguyên không tái tạo.
- Các chính sách liên quan đến việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường như:
+ Các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả
+ Các chính sách phát triển vùng và lãnh thổ
- Sự thay đổi trong chính sách ngành và môi trường, hướng tới hình thành và phát triển một
ngành mới: ngành môi trường.
- Nhưng chính sách khuyến khích về tài chính.
b) Chính sách bảo vệ môi trường ở các đô thị và khu công nghiệp
- Chính sách bảo vệ môi trường chất thải rắn công nghiệp của Việt nam giai đoạn 2000-2020.
- Chính sách bảo vệ môi trường trong quản lý chất thải nguy hại.
c) Chính sách bảo vệ đa dạng sinh học và nguồn gen quý hiếm
Đa dạng sinh học và các nguồn gen quý hiếm trên hành tinh nói chung và mỗi quốc gia nói
riêng là tài sản vô giá với cộng đồng, là nền tảng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội.
Ngay từ thuở sơ khai đến khi ngành đại công nghiệp phát triển, trải qua hàng trăm triệu năm
tiến hóa, các nguồn gen đó không những góp phần duy trì sự cân bằng hóa học trên trái đất và làm
ổn định khi mà còn cung cấp trực tiếp hoặc gián tiếp các sản phẩm cần thiết phục vụ cho mọi phúc
lợi xã hội. Ngoài ra, đa dạng sinh học còn có vai trò quan trọng trong chiến lược phòng chống ô
nhiễm môi trường, bảo vệ sự phì nhiêu của các loại đất góp phần chống đỡ và giảm nhẹ thiên tai…
Chính sách về đa dạng sinh học đã được xác định trong chiến lược bảo tồn quốc gia với các
mục tiêu sau:
- Đáp ứng nhu cầu cơ bản về văn hóa, tinh thần và vật chất của người dân Việt Nam (cả thế
hệ hiện tại cũng như tương lai) thông qua việc quản lý các nguồn tài nguyen thiên nhiên.
- Xác định và xây dựng chính sách kế hoạch, tổ chức và hành động sao cho việc sử dụng ổn
định các nguồn tài nguyên thiên nhiên hoàn toàn thống nhất với mọi phương diện phát triển kinh
tế xã hội của đất nước.
66
Bài giảng Môi trường GTVT

d) Chính sách đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường Việt Nam
- Các công cụ kinh tế: Hình thức thu thuế và các loại phí.
- Các chương trình thương mại: Tiền đóng bảo hiểm, tỷ lệ lãi suất,…
4.2.4. Quy chế bảo vệ môi trường trong ngành giao thông vận tải
QUY CHẾ
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI
(Ban hành kèm theo Quyết định số 2242 QĐ/KHKT-PC ngày 12 tháng 9 năm 1997 của Bộ Giao
thông vận tải)
Chương 1
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1: Quy chế này quy định các nguyên tắc cơ bản về bảo vệ môi trường áp dụng cho mọi tổ
chức, cá nhân khi tiến hành xây dựng, bảo dưỡng, sửa chữa công trình giao thông, vận hành khai
thác phương tiện giao thông vận tải và tiến hành sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong lĩnh vực giao
thông vận tải (GTVT).
Điều 2: Mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực giao thông vận tải phải có trách nhiệm bảo
vệ môi trường và có các biện pháp phòng chống, khắc phục những tác hại xấu đến môi trường do
các hoạt động của mình gây ra.
Điều 3: Trong quy chế này các thuật ngữ sau đây được hiểu như sau:
1."Công trình giao thông" là các loại cầu, cống, hầm, đường sá, nhà ga, bến xe, bến cảng, bến phà
và các công trình phụ trợ sử dụng cho hoạt động giao thông vận tải.
2. "Phương tiện giao thông cơ giới" là các loại tầu, thuyền đầu máy kéo theo toa xe, ô tô ray, ô tô,
xe máy và các thiết bị chuyên dùng tự di chuyển bằng động cơ trên đường biển, đường sông, đường
sắt và đường bộ.
3. "Cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ giao thông vận tải" là các nhà máy, xí nghiệp, công ty và
cơ sở dịch vụ hoạt động trong lĩnh vực giao thông vận tải.
4. "Chất thải sản xuất" là các chất rắn, lỏng và khí được thải ra trong quá trình xây dựng, bảo dưỡng,
sửa chữa công trình giao thông, vận hành khai thác phương tiện giao thông cơ giới và từ hoạt động
của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong lĩnh vực giao thông vận tải.
5. "Chất thải sinh hoạt" là các chất rắn, lỏng được thải ra do sinh hoạt của con người hoạt động
trong lĩnh vực giao thông vận tải.
Chương 2
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG XÂY DỰNG BẢO DƯỠNG SỬA CHỮA CÔNG
TRÌNH GIAO THÔNG
Điều 4. Khi tiến hành các dự án xây dựng công trình giao thông (bao gồm xây dựng mới, mở rộng,
nâng cấp, cải tạo, khai thác vật liệu xây dựng), chủ đầu tư phải lập báo cáo đáng giá tác động môi
trường (ĐTM) và trình cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường thẩm định theo đúng quy định tại
Nghị định 175/CP ngày 18/10/1994 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường.
Điều 5.
Trong quá trình xây dựng các công trình giao thông, tổ chức cá nhân phải chịu trách nhiệm:
1. Thu gom và xử lý các chất thải; đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật về xử lý chất độc hại,
không thải ra môi trường xung quang các chất thải độc hại vượt quá tiêu chuẩn môi trường cho
phép.
67
Bài giảng Môi trường GTVT

2. Việc tổ chức thi công các công trình giao thông phải theo đúng nội dung báo cáo ĐTM đã được
phê chuẩn nhằm ngăn ngừa đến mức tối đa những tác hại xấu đến môi trường ở khu vực xây dựng.
Điều 6. Cấm sử dụng các chất liệu có chứa chất độc hại (cao su, chất dẻo...) làm nhiên liệu đốt tự
nhiên tại khu vực xây dựng, bảo dưỡng, sửa chữa công trình giao thông.
Điều 7. Tổ chức, cá nhân khi khai thác vật liệu (đất, cát, đá, sỏi) để xây dựng công trình giao thông
phải có biện pháp phòng, chống, khắc phục ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, suy thoái môi
trường. Sau khi khai thác xong, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thu dọn, khôi phục lại cảnh quan
môi trường ở khu vực khai thác theo đúng yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền.
Điều 8. Việc gây nổ để xây dựng công trình giao thông hoặc khai thác vật liệu xây dựng do các tổ
chức, cá nhân thực hiện được quy định như sau:
1. Chỉ được tiến hành gây nổ theo đúng các quy định về sử dụng vật liệu nổ và phù hợp với nội
dung báo cáo ĐTM đã được phê chuẩn.
2. Trước khi tiến hành gây nổ phải xin phép chính quyền địa phương. Sau khi được phép, phải
thông báo cho các tổ chức, cá nhân đang hoạt động ở những vùng có liên quan đến khu vực gây nổ
biết và khi tiến hành gây nổ phải có biển báo hiệu đặt tại các nơi thích hợp.
3. Phải đền bù đầy đủ mọi thiệt hại do các hoạt động gây nổ gây ra cho người, nhà cửa, công trình
xây dựng, các hệ sinh thái, cảnh quan môi trường.
Chương 3
PHÒNG CHỐNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG
CƠ GIỚI
Điều 9. Tất cả các phương tiện giao thông cơ giới được thiết kế chế tạo ở trong nước hoặc nhập
khẩu phải đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. Cụ thể như sau:
1. Tầu biển: quy phạm ngăn ngừa ô nhiễm biển do tầu gây ra TCVN 4044-85.
2. Tầu sông: quy phạm ngăn ngừa ô nhiẽm sông do tầu gây ra 22TCN 213-93.
3. Ô tô, xe máy: tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện cơ giới đường
bộ 22TCN 224-95.
4. Toa xe khách chạy trên đường sắt phải có thiết bị thu gom chất thải sinh hoạt trên toa để tập
trung xử lý tại địa điểm được quy định.
Điều 10. Cấm lưu hành các phương tiện giao thông cơ giới không đảm bảo một trong các tiêu chuẩn
về môi trường sau đây:
1. Tiêu chuẩn khí thải của phương tiện giao thông cơ giới.
2. Tiêu chuẩn về mức ồn của phương tiện giao thông cơ giới.
3. Tiêu chuẩn về mức rung của phương tiện giao thông cơ giới.
Điều 11. Các phương tiện giao thông chuyên chở các chất độc hại, dễ cháy nổ phải có giấy phép
của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Việc chuyên chở các chất này phải tuân thủ theo
các quy định hiện hành.
Điều 12. Nghiêm cấm chuyên chở trên các phương tiện giao thông chở khách các loại chất độc hại,
dễ gây cháy nổ, súc vật và các chất có mùi hôi thối làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của hành khách.
Điều 13. Các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ hoạt động trong đô thị hoặc khi vận chuyển
vật liệu xây dựng, chất thải sản xuất, sinh hoạt phải tuân thủ theo các quy định về bảo vệ môi trường
tại Nghị định 36/CP ngày 29/5/1995 của Chính phủ và các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường
liên quan khác.
68
Bài giảng Môi trường GTVT

Điều 14. Các tầu biển hoạt động trong vùng nước thuộc chủ quyền của Việt Nam phải tuân thủ các
quy định về bảo vệ môi trường tại Điều 23 Luật Hảng hải Việt Nam năm 1990 và tuân thủ theo các
Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển do tầu gây ra mà Việt Nam công nhận hoặc tham gia.
Chương 4
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH DỊCH VỤ GIAO THÔNG
VẬN TẢI
Điều 15. Các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ hoạt động trong lĩnh vực giao thông vận tải phải
lập báo cáo đánh giá tác động môi trường theo đúng quy định và trình các cơ quan quản lý Nhà
nước về môi trường thẩm định. Đối với các cơ sở thuộc đối tượng quy định khi được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cấp giấy phép về môi trường mới được phép tiếp tục hoạt động .
Điều 16. Các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ GTVT trong quá trình hoạt động không được thải
các chất khí, lỏng, rắn, bụi, khói có chứa độc hại vượt quá tiêu chuẩn cho phép và phải đảm bảo
mức độ ồn theo đúng quy định. Phải thu gom, xử lý các chất thải sản xuất và sinh hoạt tại các cơ
sở của mình.
Điều 17. Tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ GTVT thuộc đối tượng quy định
phải nộp lệ phí bảo vệ môi trường theo đúng quy định tại Điều 34 Nghị định 175/CP ngày
28/10/1994 của Chính phủ.
Điều 18. Các cảng biển, cảng sông, nhà ga, bến xe có tiếp nhận, tàng trữ và cấp phát các sản phẩm
dầu mỏ phải có phương án ứng phó sự cố dầu tràn, phương án phòng chống cháy, nổ được cơ quan
quản lý Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Khi xảy ra sự cố dầu tràn hoặc cháy, nổ, tổ chức cá
nhân quản lý, khai thác cảng, nhà ga, bến xe phải khẩn trương thực hiện các biện pháp ứng cứu cần
thiết đồng thời thông báo ngay cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ Giao thông Vận tải và các cơ quan hữu quan khác để xử
lý theo đúng kế hoạch đã được phê duyệt.
Điều 19. Các chất thải (dầu, mỡ, hoá chất...) được thải ra trong quá trình bảo dưỡng, sửa chữa
phương tiện giao thông cơ giới tại các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ GTVT phải được thu
gom và xử lý đúng quy định. Cấm thải trực tiếp các chất nói trên ra sông, hồ, biển và mặt đất.
Chương 5
THANH TRA, KHEN THƯỞNG, XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 20.
1. Mọi tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực GTVT phải chịu sự thanh tra, giám sát của các
cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trong các hoạt động của mình.
2. Tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại với thủ trưởng cơ quan ra quyết định thanh tra về kết luận
và biện pháp xử lý của Đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên về bảo vệ môi trường.
Điều 21. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực
GTVT gây ra suy thoái môi trường và sự cố môi trường phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
và chịu mọi phí tổn làm sạch môi trường theo đúng quy định hiện hành.
Điều 22. Tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh Luật Bảo vệ môi trường và những quy định của
Quy chế này sẽ được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Điều 23. Tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định trong Quy chế này tuỳ theo tính chất, mức độ vi
phạm và hậu quả gây ra sẽ bị xử lý hành chính theo Nghị định 26/CP ngày 24/6/1996 về "Quy định
xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường" hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
69
Bài giảng Môi trường GTVT

Chương 6
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 24. Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật chịu trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện
Quy chế này.
Điều 25. Cục trưởng các Cục quản lý chuyên ngành, Tổng giám đốc Liên Hiệp đường sắt Việt
Nam, Tổng giám đốc các ban quản lý dự án chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản hướng dẫn có
liên quan đến phạm vi quản lý của mình trình Bộ ban hành và tổ chức triển khai thực hiện quy chế
này.

70

You might also like