Professional Documents
Culture Documents
Năm 1936, John Maynard Keynes với tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và
tiền tệ” (The General Theory of Employment, Interest and Money) được xem là người đặt
“bàn tay hữu hình” cho các hoạt động của nhà nước điều hành chính trị, kinh tế và duy trì
sự ổn định xã hội. Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, vai trò nhà nước được xem là một
bộ phận của đối tượng nghiên cứu. Các trường phái kinh tế khác nhau có quan điểm khác
nhau về vai trò nhà nước nhưng dưới góc độ nào nhà nước vẫn giữ một vai trò nhất định
trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội nhất định. Trong hệ thống các học thuyết kinh tế
về vai trò nhà nước và thị trường, người ta nhận thấy có ba quan điểm: thứ nhất, quan
điểm nhà nước không can thiệp vào kinh tế; thứ hai, quan điểm đề cao vai trò nhà nước
trong kinh tế; thứ ba, quan điểm trung dung về vai trò nhà nước trong kinh tế.
I. Chủ nghĩa trọng thương
Chủ nghĩa trọng thương là trường phái kinh tế chính trị tư sản đầu tiên thể
hiện chính sách đặc biệt thời kỳ đầu tích lũy tư bản, đề cao vai trò của Nhà
nước cầm quyền trong hoạt động kinh tế và quyền lợi của giới doanh
thương. Có thể thấy rõ ràng lý thuyết này vai trò của Nhà nước lên hàng đầu, thể hiện ở
các điều sau:
Một quan điểm chủ đạo của chủ nghĩa trọng thương, cũng là sự thừa nhận truyền
thống quân chủ từ thời kỳ tiền trung cổ, xem người cầm quyền là tối cao, là phụ
mẫu của dân tộc, người có quyền điều hành các chính sách kinh tế với mục đích tạo
nên sự hùng mạnh của quốc gia. Chủ nghĩa trọng thương là hệ tư tưởng đầu tiên
xác định các chức năng lãnh đạo cho người đứng đầu nhà nước, nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc cổ xúy tinh thần dân tộc trong dân chúng.
Đặc điểm lý luận của CNTT là họ chưa biết và không thừa nhận quy luật kinh tế. Họ
đánh giá cao các chính sách kinh tế của nhà nước, dựa vào chính quyền nhà nước vì họ
cho rằng dựa vào Nhà nước mới có thể phát triển kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát
triển tốt đẹp nếu như có sự điều chỉnh và quản lý của nhà nước, . Thương nhân cần dựa
vào nhà nước và nhà nước phối hợp bảo vệ thương nhân, khuyến khích sự độc quyền
trong ngoại thương. .
CNTT rất đề cao vai trò của nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để phát triển kinh tế
vì tích lũy tiền tệ chỉ thực hiện được nhờ sự giúp đỡ của nhà nước. Họ đòi hỏi nhà nước
phải tham gia tích cực vào đời sống kinh tế để thu hút tiền tệ về nước mình càng nhiều
càng tốt, tiền ra khỏi nước mình càng ít càng phát triển
Chủ nghĩa trọng thương chủ trương chính sách bảo hộ mậu dịch (chế độ thuế
quan bảo hộ) nhằm bảo hộ cho giới doanh thương quốc nội trên thị trường nước
ngoài và tạo ra những hạn chế đối với giới giao thương ngoại quốc trên thị trường
trong nước. Chính sách bảo hộ mậu dịch làm tăng khả năng cạnh tranh của quốc
gia, ưu tiên mở rộng sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Kết quả khả quan của giao
thương được đánh giá bằng sự vượt trội lượng hàng xuất đối với lượng hàng nhập,
bằng lượng vàng ròng thu được, dẫn đến sự hình thành khái niệm cân đối thương
mại chủ động.
I. Chủ nghĩa trọng nông
Cũng như phái Trọng thương, phái Trọng nông xuất hiện trong thời kỳ mà chế độ
phong kiến chuyển dần sang xã hội tư bản, nhưng ở một giai đọan cao hơn, trưởng thành
hơn. Trọng nông cho rằng nguồn gốc của cải, sự giàu có của một quốc gia không phải là
vàng bạc mà là khối lượng lương thực, thực phẩm dồi dào để thỏa mãn nhu cầu dân
chúng.
Phần quan trọng của học thuyết này là tư tưởng rằng Nhà nước không nên
can thiệp của vào quá trình kinh tế. Nhà nước chỉ đặt ra các điều luật cần
thiết phù hợp với "quy luật tự nhiên" và sau đó các chức năng của Nhà
nước sẽ phai mờ dần
Nếu chủ nghĩa trọng thương biến nhà nước thành nhà kinh doanh và mở đường cho nhà
kinh daonh tư nhân hoạt động thì Chủ nghĩa trọng nôn chủ trương “tự do hành động”,
chống lại “nhà nước toàn năng”, tính tự do của tư nhân không bị luật pháp và nghiệp
đoàn làm suy yếu, họ coi rằng phát triển kinh tế là một trật tự tự nhiên, kinh tế học không
chỉ phục vụ cho kẻ hùng mạnh mà còn phục vụ cho những người sản xuất và cho các
công dân
Họ cho rằng nhà nước có vai trò tối cao đứng trên tất cả các thành viên xã hội, nhà nước
có xu thế toàn năng, bệnh vực quyền lợi cho quý tộc, địa chủ và nhà buôn
Trường phái trọng nông đã nêu ra những ý tưởng về việc phát triển ngành kinh
tế nông nghiệp phải có sự quan tâm của nhà nước để họ yên tâm làm ăn trên
đồng ruộng và có tích luỹ đầu tư cho phát triển nông nghiệp, đồng thời cũng
nêu nên vấn đề thay đổi hoạt động cá thể riêng lẻ trong làm ăn nông nghiệp
bằng việc tập trung đất đai để xây dựng thành các đồn điền, đưa nông nghiệp đi
vào làm ăn lớn để chuyển từ nông nghiệp tiểu nông mang tính chất phong kiến
sang nền nông nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa để có năng suất lao động nông
nghiệp ngày càng cao, lương thực thực phẩm ngày càng sản xuất ra được nhiều
hơn, đem lại sự giàu có cho đất nước.
II. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển
Trường phái Kinh tế học cổ điển hay Kinh tế chính trị cổ điển Anh là một
trong những xu hướng tư tưởng kinh tế tiến bộ, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch
sử phát triển các luận thuyết kinh tế. Nhiều quan điểm chủ đạo của trường phái
này vẫn còn lưu giữ ý nghĩa đến tận ngày nay.
Người đề xướng ra tư tưởng tự do kinh tế bắt đầu là các nhà kinh tế tư sản cổ
điển, bắt đầu là Wiliam Petty thừa nhận và tôn trọng các quy luật kinh tế, kết
quả được đưa ra hệ phụ thuộc, nhân quả giữa các hiện tượng. Ông đề xuất vô số đề nghị
đối với sự can thiệp của nhà nước ngay cả khi ông ủng hộ đề nghị tự do của sự bất can
thiệp. Trong cuốn “Trong cuộc sống là trong kinh tế”, Petty viết : phải tính đều những
quá trình tự nhiên, không nên dùng hành động để cưỡng bức lại quá trình đó,thừa nhận
quá trình tự do cá nhân và đổi tự do cạnh tranh.
Lý thuyết về “ con người kinh tế “ và : bàn tay vô hình” cả Adam Smit đã chứng tỏ các
quy luật kết quả tự điều tiết nền kinh tế mà không cần có sự can thiệt của Nhà nước.
Adam Smith cho rằng cần phải tôn trọng trật tự tự nhiên, tôn trọng "bàn tay vô hình".
Hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá được phát triển theo sự điều tiết của bàn tay vô
hình. Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế.
_Học thuyết “bàn tay vô hình” nghiên cứu cơ chế hoạt động của một cơ chế thị trường
cạnh tranh và nó cũng phản ánh quan điểm chung của các nhà kinh tế học cổ điển.
_ Nội dung chính của học thuyết được hiểu:
+A.Smith đánh đồng trật tự tự nhiên với tự do cạnh tranh: một xã hội hợp tự nhiên là xã
hội tự do cạnh tranh, giao lưu, trao đổi hàng hóa tự do
+ Trong xã hội tự do có quy luật thiên định là bàn tay vô hình điều khiển tất cả nên không
ai cần kế hoạch, không ai cần mệnh lệnh, thị trường sẽ tự động giải quyết tất cả.
+ Chính phủ không nên can thiệp vào kinh tế, chỉ can thiệp khi các doanh nghiệp ko thể
làm gì được nữa.
+ Con người hoạt động kinh tế bắt đầu từ ý thức, sự ích kỷ cá nhân nhưng sẽ có bàn tay
vô hình dẫn dắt họ để mang lại lợi ích cho cộng đồng, ý muốn này không theo ý muốn
chủ quan ban đầu của con người
Theo A.Smith1, nhà nước chỉ cần thực hiện được 3 chức năng cơ bản: bảo đảm môi
trường hoà bình, không để xảy ra nội chiến, ngoại xâm; tạo ra môi trường thể chế cho
phát triển kinh tế thông qua hệ thống pháp luật; và cung cấp hàng hoá công cộng. Ngoài
ba chức năng cơ bản đó, tất cả các vấn đề còn lại đều có thể được giải quyết một cách ổn
thoả và nhịp nhàng bởi “bàn tay vô hình.” Tư tưởng về “bàn tay vô hình” đã thống trị
trong các học thuyết kinh tế phương Tây đến đầu thế kỷ XX trong các trào lưu của học
thuyết Tân cổ điển
Ông phế phán chủ nghĩa trọng thương dựa vào nhà nước để cưỡng bức kinh tế, ông cho
rằng chức năng của nhà nước là đấu tranh chống bọn tội phạm, kẻ thù,.. nhà nước có thể
thực hiện chức năng kinh tế khi các chứng năng đó vượt quá sức của các chủ xí nghiệp
riêng lẻ như xẩy dựng đường sá, sông ngòi và các công trình lớn khác. Theo ông, sự phát
triển kinh tế bình thường không cần có sự can thiệp của nhà nước.
David Ricardo tiếp tục lí luận của Adam Smith khi phát hiện ra những quy luật kinh tế và
tự do kinh tế. David Ricardo là người cổ vũ thương mại tự do dựa trên lý luận với lợi thế
so sánh. Quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ “đường hai chiều” có lợi cho mọi nước tham
gia, vì bất kỳ nước nào cũng có lợi thế tương đối, tức là lợi thế có được trên cơ swor so
sánh với các nước khác. Mục đích cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại là tiết kiệm chi
phí lao động xã hội, tức là tăng năng suất lao động xã hội.
Trung thành với lý tưởng của Adam Smith, Jean Baptiste Say quan niệm nhà nước là một
doanh nhân kém, do đó nhà nước càng không tham gia vào công việc kinh doanh được
chừng nào càng hay, cố gắng giảm bớt kinh phí điều hành của nhà nước để giảm nhẹ thuế
khóa đánh vào nhà sản xuất. Ông còn chỉ rõ thêm rằng sự can thiệp của nhà nước càng
thêm có hại khi đi từ lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp, từ công nghiệp qua thương
mại.
Tóm lại: Những lý thuyết của nền kinh tế chính trị tư sản cổ điển có thái độ tiêu cực
với vai trò của nhà nước, khi họ cổ vũ mạnh mẽ cho sự phát triieenr tự do của kinh
tế thị trường và tuyệt đối hóa vai trò tự điều tiết của thị trường .
III. Kinh tế chính trị Mac-Lenin
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc biệt
của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức
năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị
của giai cấp thống trị trong xã hội.
Theo Ăng-ghen về bản chất Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này
dùng để trấn áp một giai cấp khác,[13] là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp
này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn xã hội, là
công cụ chuyên chính của một giai cấp
Theo chủ nghĩa Mác thì không có và không thể có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc
nhà nước chung cho mọi giai cấp. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về
kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần
chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các
giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước
theo nguyên nghĩa, tức nhà nước của giai cấp bóc lột. Theo bản chất đó, nhà nước không
thể là lực lượng điều hòa sự xung đột giai cấp, mà trái lại, nó càng làm cho mâu thuẫn
giai cấp ngày càng gay gắt. Cũng theo bản chất đó, nhà nước là bộ máy quan trọng nhất
của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp.
Bản chất giai cấp của nhà nước được thể hiện ở các chức năng của nó. Tùy theo góc độ
khác nhau, chức năng của nhà nước được phân chia khác nhau. Dưới góc độ tính chất của
quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng
xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, nhà nước có chức năng đối nội và
chức năng đối ngoại. Trong các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò
đặc biệt quan trọng, có tác dụng quyết định năng lực hiện thực hóa của một nền kinh tế vì
nó là lực lượng vật chất có sức mạnh kinh tế.