Professional Documents
Culture Documents
Đề Cương Ôt Hkii, Văn 8, Ltv, 2021- 2022
Đề Cương Ôt Hkii, Văn 8, Ltv, 2021- 2022
– LÍ CÔNG UẨN-
1. Những điều cần lưu ý về tác giả, tác phẩm:
1.1. Tác giả: Lí Công Uẩn
1.2. Hoàn cảnh sáng tác:
- Năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1010), Lí Công Uẩn viết bài
chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) ra thành Đại
La (tức Hà Nội ngày nay).
1.3. Thể loại:
- Chiếu là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh. Chiếu có thể viết bằng văn
vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuôi; được công bố và đón nhận một cách trang
trọng. Một số bài chiếu thể hiện tư tưởng chính trị lớn lao, có ảnh hưởng đến
vận mệnh của cả triều đại, đất nước.
1.4. Phương thức biểu đạt:
- Phương thức biểu đạt: Nghị luận
2. Kiến thức cơ bản:
2.1. Lí do dời đô là hợp với mệnh trời.
- Tác giả viện dẫn sử sách Trung Quốc nói về việc dời đô của các vua đời
Thương, Chu bên Trung Quốc. Mục đích dời đô của các triều đại này là nhằm
mưu toan việc lớn, xây dựng vương triều phồn thịnh, tính kế lâu dài cho con
cháu đời sau. Việc dời đô như vậy vừa thuận theo "mệnh trời" vừa thuận theo ý
dân, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Kết quả là vận nước được vững
bền, thịnh vượng.
- Viện dẫn sử sách nhằm tạo tiền đề, chỗ dựa chuẩn bị cho lí lẽ ở phần sau:
Trong lịch sử đã từng có chuyện dời đô và việc dời đô đó đã có những kết quả
tốt đẹp. Vì vậy, việc Lí Thái Tổ dời đô cũng không có gì khác thường, trái đạo,
trái quy luật, trái "mệnh trời".
- Theo tác giả, kinh đô cũ ở vùng núi Hoa Lư không còn thích hợp. Vì vậy,
không dời đô là phạm sai lầm: không theo mệnh trời, không phù hợp với quy
luật khách quan, không biết noi theo gương sáng của tiền nhân, khiến cho triều
đại ngắn ngủi, đời sống nhân dân khổ cực, vạn vật không thích nghi, vận nước
khó tốt tươi, thịnh vượng.
- Tác giả đã phê phán hai triều Đinh, Lê khinh thường mệnh trời, không noi
theo dấu cũ, cứ đóng đô ở Hoa Lư. Đến thời Lí, trong đà phát triển đi lên của
đất nước thì việc đóng đô ở Hoa Lư là không còn phù hợp nữa.
- Tác giả còn bộc lộ trực tiếp tình cảm của mình: “Trẫm rất đau xót vì việc
đó”. Đó là sự trăn trở vì vận nước, sự chăm lo và thương yêu muôn dân của vua
Lí Thái Tổ, người đứng đầu một đất nước, người luôn lấy đời sống của dân làm
thước đo sự vững mạnh và phồn thịnh của một triều đại.
2.2. Đại La xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương:
* Đại La qua lời miêu tả của vua Lí Công Uẩn quả thật là một vùng đất linh
thiêng, quý báu.
- Về lịch sử: Kinh đô cũ của Cao Vương.
- Về vị thế địa lí: thành Đại La ở nơi trung tâm trời đất, mở ra bốn hướng nam,
bắc, đông, tây, có núi lại có sông; đất rộng mà bằng phẳng, cao mà thoáng,
muôn dân tránh được nạn lụt lội, chật chội. Theo quan niệm phong thủy của
người xưa, Đại La quả là có thế đất sang quý, thịnh vượng.
- Về vị thế chính trị, văn hoá: thành Đại La là đầu mối giao lưu, chốn "tụ hội
trọng yếu" của bốn phương, có phong cảnh và địa thế đẹp,
- Về tiềm năng: Đây chính là vùng đất đồng bằng thuận tiện cho cư dân tập
trung sinh sống, thông thương thuận lợi, vạn vật phát triển tốt tươi, “là mảnh
đất hưng thịnh", muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt tươi".
* Mảnh đất này chính là thắng địa, sẽ là nơi trung tâm về KT, chính trị, văn hóa
của quốc gia muôn đời.
- Dời đô đến Đại La chính là biểu hiện của một khát vọng, một quyết tâm tự lực
tự cường của dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh. Dời chuyển kinh đô từ
nơi núi non hiểm yếu sang vùng đồng bằng rộng lớn, chứng tỏ dân tộc ta đã có
nội lực phát triển vững vàng.
- Thực tiễn lịch sử gần một nghìn năm qua đã cho thấy sự tiên đoán và khẳng
định của vua Lí Thái Tổ về kinh đô Thăng Long là hoàn toàn đúng đắn.
* Nghệ thuật:
- Lập luận chặt chẽ, phân tích toàn diện, thấu đáo.
- Câu văn biền ngẫu cân xứng, nhịp nhàng.
2.3. Kết thúc bài chiếu không phải là một mệnh lệnh mà là một câu hỏi: “Trẫm
muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy mà định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế
nào?”. Câu hỏi mang tính chất đối thoại, trao đổi, tâm tình không những không
ảnh hưởng đến chức năng của bài chiếu mà ngược lại, đã xoá bớt khoảng cách
vua - tôi; tạo sự đồng cảm, chia sẻ, sự đồng tâm nhất trí giữa người ra lệnh và
người nhận lệnh, giữa vua và thần dân, tạo nên hiệu quả cao trong hành động.