Professional Documents
Culture Documents
42.Bùi Thị Minh Nguyệt-21810810007-d16ktdn1-Mã Đề 02
42.Bùi Thị Minh Nguyệt-21810810007-d16ktdn1-Mã Đề 02
MÃ ĐỀ: 02
Lớp : D16KTDN1
Hà Nội, 01/2022
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
B. NỘI DUNG..................................................................................................................... 1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN...........................................................................................................1
1. Vị trí vài vai trò của quy luật........................................................................................1
2. Khái niệm và phân tích khái niệm................................................................................2
2.1. Khái niệm, đặc điểm về chất và phân biệt chất với thuộc tính..............................2
2.2. Khái niệm và đặc điểm của lượng.........................................................................2
3. Mối quan hệ giữa lượng và chất....................................................................................3
3.1. Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những sự chuyển hoá về chất.....................3
3.2. Sự tác động trở lại của chất đối với lượng...........................................................4
4. Ý nghĩa............................................................................................................................ 5
II. VẬN DỤNG................................................................................................................... 5
1. Giáo dục đại học ở nước ta hiện nay.............................................................................6
1.1. Mục tiêu của giáo dục đại học..............................................................................6
1.2. Phương pháp dạy học ở đại học...........................................................................6
1.3. Ý nghĩa của giáo dục đại học...............................................................................7
2. Thực trạng của sinh viên trong giáo dục đại học hiện nay ( đào tạo theo tích lũy tín
chỉ ) ..................................................................................................................................... 8
2.1. Khái niệm tín chỉ..................................................................................................8
2.2. Đặc điểm của tín chỉ.............................................................................................8
2.3. Những ưu nhược điểm của tín chỉ.........................................................................8
2.4. Thực trạng của sinh viên trong việc áp dụng học tín chỉ......................................9
3. Giải pháp khắc phục khó khăn ....................................................................................10
III. KẾT LUẬN..................................................................................................................12
C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................13
MỞ ĐẦU
Con người ai cũng muốn thành đạt trong cuộc sống nhưng con đường dẫn đến thành
công thường quanh co, khúc khuỷu, lắm chông gai. Để động viên con cháu vững chí phấn
đấu và tin tưởng vào thắng lợi nên ông cha ta đã có câu: “Có công mài sắt có ngày nên kim”.
Cây kim được làm bằng sắt thật là nhỏ bé nhưng cũng thật hoàn hảo. Bởi từ sắt nên
kim là cả một quá trình tôi luyện, mài dũa công phu. Thanh sắt và cây kim là hình ảnh sinh
động thể hiện cho mối quan hệ giữa lượng và chất, quá trình chuyển hoá từ thanh sắt thành
cây kim tức là quá trình thanh sắt tích luỹ về lượng và trong quá trình đó nhũng thuộc tính
mới ra đời cùng với một sự vật khác tức là cây kim. “Quy luật từ những thay đổi về lượng
thành sự thay đổi về chất và ngược lại.” là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy
vật, nó cho biết cách thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, quy luật này
có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống con người
Giống như sinh viên chúng ta, thi đỗ Đại học hẳn là niềm vui , là mục tiêu phấn đấu .
Nhưng khi đạt được nó , bước chân vào cánh cổng Đại học thì lại có biết bao dự tính , kế
hoạch được đặt ra. Có thể nói Đại học như là nơi chúng ta đặt nền móng cho những ước mơ
của mình. Tuy nhiên, không phải khi học Đại học không phải ai cũng có thể phát huy được
hết khả năng của mình giống như hồi học phổ thông. Bởi lẽ trong quá trình học tập và
nghiên cứu sinh viên phải tham gia vào rất nhiều hoạt động khác nhau. Do đó vấn đề đặt ra
là mỗi sinh viên cần phải xây dựng cho mình một phương pháp học tập , rèn luyện phù hợp
với bản thân , với điều kiện sống đống thời đáp ứng được những yêu cầu của nhà trường , xã
hội. Đó là lý do , em quyết định lựa chọn đề tài: “Quy luật từ những thay đổi về lượng thành
sự thay đổi về chất và ngược lại. Vận dụng quy luật này vào quá trình học tập của sinh viên
hiện nay” để làm tiểu luận của em.
NỘI DUNG
I CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Vị trí và vai trò của quy luật
Vị trí quy luật: Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển,
khi cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật , hiện tượng đã tích luỹ những thay đổi
về lượng đạt đến ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát
triển , khi cho thấy sự thay đổi về lượng của sự vật , hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự
thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật , hiện tượng vừa tiến bước tuần tự , vừa có những
bước đột phá vượt bậc. Ăngghen viết: “... trong giới tự nhiên thì những sự biến đổi về chất -
xảy ra một cách xác định chặt chẽ đối với từng trường hợp cá biệt - chỉ có thể có được do
thêm vào hay bớt đi một số lượng vật chất hay vận động”
2
nước (H2O) , lượng là số nguyên tử tạo thành nó , tức là 2 nguyên tử Hidro và 1 nguyên tử
Oxi.
Đặc điểm cơ bản của lượng là tính biến đổi.Ví dụ: Lượng kiến thức , kỹ năng của sinh
viên thay đổi qua từng ngày , tháng , kì ,…
Trong sự vật, hiện tượng có rất nhiều loại lượng khác nhau ; có lượng là quy định tính
bên trong ; có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng
của chúng thì cũng phức tạp theo. Ví dụ: Trong con người có số lượng các cơ quan như tuần
hoàn , hô hấp , chiều cao , cân năng ,..
Trong tự nhiên và phần nhiều trong xã hội,lượng có thể đo , đong , đếm , tính toán
được; nhưng trong một số trường hợp của xã hội và nhất là trong tư duy lượng khó đo được
bằng số liệu cụ thể mà chỉ có thể nhận biết được bằng năng lực trừu tượng hoá. Ví dụ: Về
nhận biết bằng năng lượng trừu tượng hoá là khi hỏi phong trào học tập , hoạt động Đoàn thể
của lớp như thế nào ? Thì chúng ta cũng chỉ có thể trả lời sôi nổi hay không thôi chứ chúng
ta không thể đưa ra được một con số cụ thể.
3.2. Sự tác động trở lại của chất đối với lượng
Chất mới ra đời đã tác động trở lại với lượng mới làm thay đổi kết cấu , quy mô , trình
độ , nhịp độ của sự vận động và phát triển của lượng mới. Chất là một yếu tố ổn định khi
lượng đổi trong phạm vi độ, chất chưa có sự biến đổi căn bản. Chất đổi bằng với việc nhảy
vọt tại điểm nút. Biến đổi về chất diễn ra nhanh chóng đột ngột và toàn diện dẫn đến chất cũ
mất đi chuyển hóa thành chất mới. Chất đổi sinh ra sự vật mới mang một lượng mới , mang
một thể thống nhất giữa chất và lượng mới và tiếp tục quá trình biện chứng giữa chất và
lượng trong sự tồn tại và phát triển của sự vật mới. Ví dụ khi trở thành cử nhân thì tốc độ
đọc , hiểu , giải quyết một vấn đề sẽ tốt hơn khi còn là sinh viên hay khi trở thành thạc sĩ
nhận thức , giải quyết vẫn đề sẽ toàn diện, tốt hơn cả cử nhân.
4. Ý nghĩa
4
Thứ nhất , trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích luỹ về lượng
để có biến đổi về chất ; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Bước nhảy làm
cho chất mới ra đời , thay thế chất cũ là hình thức tất yếu của sự vận động , phát triển của
mọi sự vật , hiện tượng ; nhưng sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy
ra khi lượng đã thay đổi đến giới hạn, tức là đến điểm nút , đến độ nên muốn tạo ra bước
nhảy thì phải thực hiện quá trình tích luỹ về lượng. Ví dụ như nhà phát minh Thomas Edison
từng nói “ Thiên tài một phần trăm là cảm hứng và chín mươi chín phần trăm là mồ hôi.” Vì
vậy chẳng có cái gì tự nhiên mà có , chẳng ai tự nhiên có bộ óc bách khoa mà nó phải trải
qua quá trình tích luỹ , học hỏi không ngừng nghỉ về lượng mới có thể thay đổi về chất được.
Giống như có một số bạn sinh viên muốn ra trường sớm hơn đăng kí quá nhiều tín chỉ trong
một kì trong khi năng lực thì hạn chế dẫn đến học lại , ra trường muộn hơn lãng phí thời gian
, công sức , của cải. Vì vậy phải biết mình , biết ta không được đua theo người khác , nôn
nóng đốt cháy giai đoạn.
Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan
của sự vận động của sự vật , hiện tượng; tư tưởng nôn nóng thường biểu hiện ở chỗ không
chú ý thỏa đáng đến sự tích luỹ về lượng mà cho rằng , sự phát triển của sự vật, hiện tượng
chỉ là những bước nhảy liên tục ; ngược lại, tư tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không
dám thực hiện bước nhảy , coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy , cần
khắc phục cả hai biểu hiện trên. Ví dụ: Học tín chỉ có thể rút ngắn thời gian đào tạo nhưng
nhiều bạn sinh viên thiếu tự tin , học ỷ lại gia đình có điều kiện , “quyết tâm” không ra
trường , lỡ mất nhiều cơ hội xin việc làm
Thứ ba , sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan , khoa học và
quyết tâm thực hiện bước nhảy ; tuy đều có tính khách quan, nhưng quy luật xã hội chỉ diễn
ra thông qua hoạt động có ý thức của con người ; do vậy , khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh
vực xã hội , tuy vẫn phải tuân theo điều kiện khách quan , nhưng cũng phải chú ý đến điều
kiện chủ quan. Ví dụ: Mỗi sinh viên cần dựa vào điều kiện , hoàn cảnh của mình , dựa vào
điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường để chúng ta phát triển nhanh về tri thức , kỹ năng ,
phương pháp học tập , thái độ ,.... vận dụng các bước nhảy nhanh, chậm.
Thứ tư , quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng ; do đó, phải biết lựa chọn
phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất,
quy luật của chúng.Ví dụ: Để trở thành một kỹ sư , cử nhân giỏi , mỗi sinh viên cần phải yêu
quý tri thức , say mê nghiên cứu , gắn kết chặt chẽ với thầy cô để học hỏi ; sử dụng hiệu quả
phòng thí nghiệm ; tham gia tích cực , năng nổ các phong trào của trường để nâng cao trình
độ chuyên môn , kỹ năng thực hành , kỹ năng giao tiếp ,…
7
2. Thực trạng của sinh viên trong giáo dục đại học hiện nay ( đào tạo theo tích lũy tín
chỉ)
2.1. Khái niệm tín chỉ
Tín chỉ là đại lượng dùng để đo khối lượng kiến thức , kĩ năng của một môn học mà
người học cần tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định thông qua các hình thức: học
tập trên lớp; học tập trong phòng thí nghiệm , thực tập hay làm các phần việc khác (có sự
hướng dẫn của giáo viên) ; và tự học ngoài lớp như đọc sách, nghiên cứu , giải quyết vấn đề
hay chuẩn bị bài. Tín chỉ còn được hiểu là khối lượng lao động của người học trong một
khoảng thời gian nhất định trong những điều kiện học tập tiêu chuẩn. Trong thực tế ở một số
Trương ĐH Việt nam hay cụ thể hơn là ở Trường chúng ta tín chỉ lại được hiểu gần giốn như
một đơn vị học trình và một môn học được đo bằng nhiều tín chỉ . Mỗi một môn học hoàn
thành thì sinh viên coi như đã tích l số tín chỉ theo quy định.
8
Tạo được sự mềm dẻo , linh hoạt trong các môn học.Tính linh hoạt và mềm dẻo là ưu
điểm nổi bật mà chương trình học tín chỉ đem lại. Cụ thể , nó bao gồm các khối kiến thức
chung , cũng như kiến thức chuyên ngành , cận chuyên ngành.
Sinh viên được linh hoạt về thời gian tốt nghiệp. Nếu như các phương thức đào tạo
truyền thống , sinh viên đúng hạn mới được ra trường thì khi học theo tín chỉ sinh viên có
thể quyết định thời gian tốt nghiệp. Nếu muốn ra trường sớm thì người học phải tích lũy
được nhiều tín hơn. Bạn có thể tốt nghiệp sau 3,5 năm ; 4 năm ; 5 năm, điều này chắc chắn
sẽ phụ thuộc vào chính bản thân bạn.
Được liên thông giữa các cấp đào tạo và giữa các ngành đào tạo .Phương pháp này sẽ tạo
được sự liên thông giữa các cấp đào tạo đại học hay giữa các ngành đào tạo khác nhau của
cùng một trường đại học. Thậm chí xa hơn nữa là giữa cơ sở đào tạo đại học của quốc gia
này với các quốc gia khác trên thế giới.
Thời gian học tập linh hoạt . Áp dụng hình thức đào tạo theo tín chỉ sẽ giúp sinh viên có
thể tự lựa chọn môn học , thời gian , thầy cô giảng dạy. Người học hoàn toàn có khả năng
sắp xếp lịch học để thực hiện được đồng thời các công việc khác như làm thêm,..
Giảm thiểu chi phí trong giảng dạy. Chi phí chắc chắn sẽ được tiết kiệm hơn bởi người
học sẽ chỉ phải trả tiền các tín chỉ mà mình đăng ký , chứ không theo năm học.
* Nhược điểm
Kiến thức không đầy đủ, cắt vụn kiến thức. Hiện nay hầu hết hình thức đào tạo theo tín
chỉ ở các trường thì môn học sẽ bị chia nhỏ: 2,3,4 tín. Đây là lý do mà giảng viên thường
không đủ thời gian để trình bày kiến thức đầy đủ , bài bản theo trình tự diễn biến liên tục cho
sinh viên. Nó sẽ rất bất lợi với những ai lười tự học hay lười nghiên cứu.
Sinh viên khó gắn kết với nhau. Vì sinh viên có thể tự do lựa chọn môn học nên đa phần
các lớp học theo danh sách không ổn định.
2.4. Thực trạng của sinh viên trong việc áp dụng học tín chỉ
Giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội vì nó quyết định tương lai của
mỗi người và của cả xã hội. Thực trạng nhức nhối của nền giáo dục hiện nay là nguyên nhân
làm trì trệ sự phát triển của Việt Nam.
Bàn về tính không hiệu quả của giáo dục ngày nay đặc biệt là giáo dục Đại học, người
ta thường đổ lỗi do thiếu trang thiết bị học tập, thương mại hóa giáo dục, phong cách giảng
dạy của giảng viên, việc học thiên về lý thuyết nhiều hơn thực tiễn ... mà quên đi thái độ của
sinh viên trong việc học của mình. Theo số liệu khảo sát của báo Tuổi trẻ thì chỉ 30% trong
số những sinh viên được hỏi có thái độ tích cực trong học tập, trong khi có đến 60% chọn
giải pháp học đối phó.Có một thực tế đáng buồn là sau bao năm học phổ thông vất vả, nặng
nhọc để giành được một chiếc ghế lên giảng đường đại học thì không ít sinh viên đã vội
vàng tự mãn, xem Đại học chỉ là nơi xả hơi để tụ tập gặp gỡ, ăn chơi đua đòi cùng chúng bạn
9
thay vì biết trân trọng thành quả của mình họ sẽ không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ
chuyên môn cho bản thân.
Là lực lượng tri thức trẻ, năng động, sáng tạo, là trụ cột của nước nhà, sinh viên có vai
trò to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Thế nhưng hiện nay, nhiều sinh viên không
nhận thức được điều đó. Vì thiếu chín chắn, bồng bột trong suy nghĩ và hành động, đặc biệt
trong tiếp thu, học hỏi cái mới nên dễ dàng tiếp nhận thiếu chọn lọc văn hóa không phù hợp
với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy mỗi sinh viên cần phải
có nhận thức rõ ràng, đúng đắn về vấn để này, phải tích đủ lượng tới giới hạn điểm nút thì
mới được thực hiện bước nhảy, không được nôn nóng, đốt cháy giai đoạn.
Hiện nay, kiểu học tín chỉ đã tạo điều kiện cho những sinh viên cảm thấy mình đủ
năng lực có thể đăng kí học vượt để ra trường sớm, để có thể đi làm kiếm tiền . Tuy nhiên
cũng có không ít sinh viên đăng kí học vượt nhưng không đủ khả năng để theo, dẫn đến hậu
quả là phải thi lại chính những môn đã đăng kí học vượt. Điều này cũng có nghĩa là các sinh
viên đó chưa tích lũy đủ về lượng đến giới hạn điểm nút mà đã thực hiện bước nhảy, đi
ngược lại với quy luật lượng – chất, và hậu quả tất yếu là sự thất bại.
Bên cạnh đó do số lượng tín chỉ ít tuần có học được 2, 3 ca điều đó khiến sinh viên học
trên đại học học thì ít mà chơi thì nhiều. Thay vì ở nhà cố gắng học tập để nâng cao kiến
thức tích luỹ về lượng từ đó có thể đăng kí thêm tín chỉ để được tốt nghiệp sớm thì họ lại đi
chơi, tụ họp cùng bàn bè. Điều đó không những ko giúp ích cho sinh viên mà nhiều khi còn
khiến sinh viên sa vào các tệ nạn của xã hội.
Hay việc học tín chỉ thì sinh viên ít trao đổi với giáo viên mà thường học một cách thụ
động không chịu tìm tòi, nghiên cứu bài giảng mỗi lần đi thi thường đi nhìn bài của bạn.Bởi
đơn giản họ nghĩ một tín chỉ có tầm 15 , 20 tiết thì chỉ cần đi học đầy đủ ngoan ngoãn không
nhất thiết phải tích luỹ quá nhiều về lượng là sẽ hết một tín chỉ , sẽ đủ điều kiện dự thi. Điển
hình như lớp em , là sinh viên năm nhất của đại học Điện Lực. Lớp em có 68 sinh viên mà
một môn thì có 2 , 3 tín chỉ thì hỏi khi học online trong thời kì đại dịch covid-19 như thế này
thì một tiết các thầy cô giảng bài còn không đủ thì lấy đâu có thể qua sát hết sinh viên mình
đang làm gì , có hiểu hết bài hay không . Nếu mà không chuẩn bị bài từ trước , học một cách
thụ động thì với kiến thức khá là khó ở đại học thì không thể hiểu hết nổi .
Ngoài ra, có thể do việc học đại học chưa tạo được nhiều hứng thú cho sinh viên , nhất
là sinh viên năm nhất mới vừa bỡ ngỡ bước vào cánh cổng đại học nên còn lười học, không
chú ý nghe giảng , coi việc học như là nghĩa vụ mình phải làm mỗi ngày.
Quy luật “Chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, cho biết phương thức của
sự vận động và phát triển của sự vật. Khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng, cần nhận
thức ý nghĩa của quy luật này trong thực tiễn.
Trong hoạt động thực tiễn để đạt được hiệu quả phải hiểu rõ phương thức vận động,
phát triển của sự vật. Cần sử dụng công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp đúng lúc, đúng
chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động, phát triển, đưa sự vật đi đúng quy luật và hợp lợi
12
ích của con người. Muốn có có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích lũy sự thay đổi về
lượng, ngược lại muốn duy trì sự ổn định của chất phải giữ được sự thay đổi về lượng trong
phải vi giới hạn độ; khi lượng thay đổi chưa đạt mức giới hạn độ không nên vội vàng thực
hiện bước nhảy; nhưng khi lượng thay đổi đạt giới hạn độ thì phải kiên quyết thực hiện bước
nhảy.
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận về việc học tập và rèn luyện của sinh
viên trong trường đại học như sau: Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra
bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để
chuyển về chất và việc học tập của sinh viên chúng ta cũng sẽ không thể nằm ngoài điều đó.
Để có một tấm bằng đại học chúng ta phải tích lũy đủ số lượng các học phần và để học phần
có kết quả tốt chúng ta cần phải tích lỹ đủ sống lượng đơn vị học trình của các môn học.
Như vậy các kỳ thi có thể coi thời gian học là độ, các kỳ thi là các điểm nút và kết quả kỳ thi
đạt yêu cầu là bước nhảy, bởi kết quả kỳ thi tốt - bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn tích
lỹ tri thức trong quá trình học tập rèn luyện của chúng ta. Do đó, trong hoạt động nhận thức,
hoạt động học tập sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng (tri thức) để làm biến đổi
về chất (Kết quả học tập) theo quy luật. Cũng như trong hoạt động của mình ông cho ta
chẳng thường có câu "tích tiểu thành đại". "năng nhặt, chặt bị". Những việc làm vĩ đại của
con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó.
Quy luật này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan trong học tập và trong hoạt động
thực tiễn hằng ngày.
13