You are on page 1of 53

Câu 1: Giá trị, hạn chế của tư tưởng XHCN trước Mác.

Ý nghĩa của
việc nghiên cứu tư tưởng XNCN không tưởng.
1. Những giá trị, hạn chế của tư tưởng XHCN trước Mác
a. Các giá trị lịch sử
Chủ nghĩa xã hội không tưởng trước chủ nghĩa Mác đã có một quá trình phát
triển lâu dài, từ thời cổ đại đến những năm 30 của thế kỷ XIX. Từ những câu
chuyện huyền thoại, viễn tưởng đã trở thành hệ thống quan điểm, học thuyết xã hội
chủ nghĩa; từ những mơ ước, khát vọng đã trở thành cương lĩnh, dự án về cải cách
xã hội, phong trào đấu tranh mang tính chất cách mạng. Chủ nghĩa xã hội utopia -
phê phán thực sự có một giá trị lịch sử to lớn trong sự phát triển tư tưởng nhân loại,
đặc biệt với sự xuất hiện và đóng góp to lớn của ba nhà chủ nghĩa xã hội utopia -
phê phán vĩ đại đầu thế kỷ XIX: Xanh Xi-mông, S.Phu-ri-ê và R.Ô-oen. Những giá
trị lý luận quan trọng mà chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán để lại cho hậu thể
được thể hiện tập trung ở những nội dung dưới đây:
Thứ nhất, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã phê phán một cách sâu sắc
xã hội tư bản, phần nào phản ánh được tiếng nói của những người lao động trước
tình trạng bị đối xử bất công và bị áp bức trong xã hội. Sự phê phán không chỉ
miêu tả chi tiết những hiện tượng tội ác phơi bày trên bề nổi của xã hội, mà còn bắt
đầu đi vào khám phá bí ẩn trong xã hội và đi tới phủ nhận sự tồn tại của cái xã hội
vô lý ấy.
Tìm lại trong di sản học thuyết chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán nửa đầu
thế kỷ XIX đã cho thấy, xã hội tư bản hiện ra với đầy biến động do sự kích thích
thường xuyên của cạnh tranh dẫn tới xung đột làm khánh kiệt của cải xã hội, đạo
đức xã hội bị băng hoại, một xã hội mà “những người vô đạo đức có nhiệm vụ dạy
đức hạnh cho công dân, những kẻ phạm tội lớn có nhiệm vụ trừng phạt những lỗi
lầm nhỏ, trong xã hội ấy “nghèo khổ được sinh ra chính từ sự thừa thãi”. 
Sự phê phán đó đã thể hiện tinh thần nhân đạo chủ nghĩa tuy vẫn còn chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân đạo tư sản, nhưng trên nhiều phương diện đã vượt
khỏi giới hạn của chủ nghĩa nhân đạo tư sản để vươn tới giá trị nhân đạo nhân dân
- hướng vào mục tiêu giải phóng những người lao dộng và thực hiện sự bình đẳng
xã hội.
Thứ hai, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa utopia - phê phán đã để lại trong
di sản học thuyết của mình những quan điểm, tư tưởng sâu sắc về quá trình phát
triển của lịch sử, những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai, mà về sau nhờ có chủ
nghĩa Mác nhiều luận điểm, quan điểm, tư tưởng và dự đoán đã được chứng minh
là đúng.
H. Xanh Xi-mông quan sát sự vận động của các tầng lớp trong xã hội mỗi
khi có những biến động chính trị. Từ đó đã hình thành quan niệm về giai cấp và
đấu tranh giai cấp trong sự tiến triển của xã hội. Từ đó, ông cũng nêu lên tư tưởng
giải phóng toàn xã hội trên sở một niềm tin sâu sắc rằng, chủ nghĩa tư bản nhất
định sẽ bị thay thế bằng một xã hội tốt đẹp hơn. Trong xã hội ấy mọi người đều
được lao động - làm theo năng lực hưởng theo lao động.
 S.Phu-ri-ê, với một tài năng xuất sắc đã phác họa nên bức tranh về sự phát
triển của lịch sử loài người qua các giai đoạn kế tiếp nhau như những “nấc thang
đầy gai góc” để đi lên “một chế độ xã hội tốt đẹp nhất”. Chủ nghĩa tư bản giữ vai
trò quan trọng “trong dãy liên tiếp các nấc thang vận động” của lịch sử, bởi vì “nó
tạo ra nền sản xuất lớn, các khoa học “mà loài người có thể và cần sử dụng để bước
lên nấc thang cao hơn nữa của sự phát triển xã hội. Ông còn cho rằng, trình độ giải
phóng phụ nữ là thước đo trình độ giải phóng chung của xã hội, là biểu hiện trình
độ tiến bộ của xã hội đó.
R.Ô-oen sinh ra và lớn lên ở một nước công nghiệp phát triển mạnh nhất
thời đó thì tin tưởng rằng, cuộc cách mạng công nghiệp đang diễn ra là điều kiện
thuận lợi để thực hiện lý tưởng nhân đạo. Công lao quan trọng nhất của ông là đã
đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự phát triển lực lượng sản xuất trong thời đại cách
mạng công nghiệp - lực lượng vật chất đang chín muồi trong lòng xã hội, cuối
cùng sẽ dẫn tới sự cải tạo xã hội. Trong quan niệm của ông về xã hội tương lai, sự
tiến bộ của công nghiệp và khoa học kỹ thuật là nét chủ yếu và nổi bật nhất, đặc
biệt vai trò giải phóng con người của máy móc chỉ có thể phát huy khi sự tiến bộ
về kinh tế phục vụ một mục tiêu hợp lý, đó là hạnh phúc của con người. Như vậy
có thể khẳng định, R.Ô-oen đã tiệm cận được với quan niệm cho rằng sự phát triển
của lịch sử gắn liền với những thay đổi trong phương thức sản xuất.
Thứ ba, trong giai đoạn lịch sử tương đối dài, với tư tưởng và bằng hoạt
động của mình, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa utopia đã góp phần thức tỉnh
tinh thần đấu tranh của quần chúng lao động.
Song, giá trị lịch sử nổi bật nhất của chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán đầu
thế kỷ XIX đã được C.Mác và Ph.Ăng-ghen thừa nhận là một trong ba tiền đề tư
tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Ph.Ăng-ghen khẳng định rằng, chủ nghĩa xã
hội lý luận Đức sẽ không bao giờ quên rằng nó đứng trên vai của Xanh Xi-mông,
S.Phu-ri-ê và R.Ô-oen, ba con người - mặc dầu tất cả tính chất ảo tưởng và utopia
trong các học thuyết của họ thuộc về những trí tuệ vĩ đại và đã tiên đoán được một
cách thiên tài về một số những chân lý mà ngày nay chúng ta đang chứng minh sự
đúng đắn của chúng một cách khoa học.
b. Những hạn chế
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán đã không thể chỉ ra được con
đường, phương thức và phương pháp cách mạng có thể từng bước tạo lập các tiền
đề, cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ mới: chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa.
Ra đời từ thời cổ đại, trải qua hàng nghìn năm phát triển cho đến nửa đầu thế
kỷ XIX, chủ nghĩa xã hội utopia đã có những bước tiến dài. Từ chỗ mới là những
mầm mống tư tưởng sơ khai phản ánh khát vọng, ước mơ của nhân dân lao động,
bị áp bức về một xã hội công bằng và bình đẳng, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa đã phát triển, trở thành những học thuyết về chủ nghĩa xã hội
utopia và phê phán, với tên tuổi của các nhà tư tưởng vĩ đại: H. Xanh Xi-mông,
S.Phu-ri-ê và R.Ô-oen. Một trong những nội dung cơ bản, xuyên suốt của chủ
nghĩa xã hội ấy là những luận điểm về con đường, phương thức đấu tranh khả dĩ có
thể đưa nhân loại bước vào xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Cho đến đầu thế kỷ XIX, những luận điểm cơ bản cấu thành nội dung ấy
cũng đã dần định hình. Tư tường xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đầu thế
kỷ XIX đều đã dần khẳng định sự cần thiết phải thủ tiêu chế độ tư hữu, phải xây
dựng một xã hội phù hợp lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động
nghèo khổ, bị áp bức và bị bóc lột. Nhưng để đi đến xã hội ấy, để mở ra kỷ nguyên
bắt tay vào xây dựng xã hội như vậy bằng con đường nào? Hòa bình hay bạo lực?
Cách mạng hay cải lương?... Tất cả đều chưa thể có lời giải đáp. Đúng hơn là
những giải đáp được tưởng tượng ra từ trong đầu óc của những thiên tài giàu lòng
vị tha, có tinh thần nhân văn nhân đạo, những lãnh tụ tư tưởng tinh thần của cuộc
đấu tranh chống áp bức bất công và bóc lột. 
 Thứ hai, chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán đã không thể chỉ ra được các
lực lượng xã hội cơ bản của cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản cũng như không thể chỉ ra được lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch
sử lãnh đạo, đi tiên phong trong cuộc đấu tranh ấy.
Luận chứng cho những động lực xã hội cơ bản của quá trình đấu tranh chống
áp bức bất công, đấu tranh cho các giá trị xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản
của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ còn bế tắc, trông chờ vào các lực lượng thần
bí siêu nhiên trong thời kỳ mầm mống sơ khai, chủ nghĩa xã hội utopia đã đần dần
hướng đến tìm kiếm, từng bước chỉ ra các lực lượng là động lực xã hội của đấu
tranh cho chủ nghĩa xã hội từ hiện thực xã hội. Trong lý luận chủ nghĩa xã hội
utopia - phê phán đầu thế kỷ XIX, quan niệm về vai trò quần chúng nhân dân đã
dần được định hình như là động lực xã hội cơ bản của quá trình đấu tranh ấy.
Nhưng những quan niệm về vai trò của quần chúng nhân dân, về các giai cấp, tầng
lớp xã hội hợp thành quần chúng nhân dân, về quan hệ lợi ích giữa các giai cấp
tầng lớp xã hội trong nhân dân cũng chưa thật xác định. Đặc biệt là các tư tưởng về
lực lượng đi tiên phong, đảm nhận vai trò lãnh đạo quá trình đấu tranh ấy càng hết
sức chưa rõ ràng. Nhưng chính sự chưa rõ ràng ấy trong tư tưởng xã hội chủ nghĩa
đương thời lại là sự phản ánh và thể hiện một hiện thực xã hội chưa rõ ràng, một cơ
cấu xã hội - giai cấp mới đang hình thành, chưa định hình.
Thứ ba, chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán không thể chứng minh được các
tệ nạn xã hội, những sự áp bức, bất công xã hội được sinh ra từ chế độ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất như thế nào và bằng cách nào, dù đã chỉ ra chính xác
chế độ tư hữu là nguồn gốc chủ yếu, cơ bản của những tệ nạn và bất công xã hội
ấy.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng
Hầu như phần lớn các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ T.Mo-re...
dẫu bằng cách này hay cách khác, với những mức độ khác nhau, đều đã hướng đến
sự khẳng định rằng mọi áp bức, tệ nạn và bất công xã hội có nguồn gốc từ chế độ
tư hữu. Do đó đa số họ đều cho rằng cần thiết phải thủ tiêu chế độ tư hữu, với tính
cách là thủ tiêu nguồn gốc của những tệ nạn, áp bức và bất công xã hội ấy.
Nhưng tất cả các đại biểu tư tưởng xã hội chủ nghĩa, kể cả S.Phu-ri-ê, người
lên án mạnh mẽ nhất chế độ tư hữu và những bất công, bất bình đẳng do nó gây ra,
cũng đều chưa thể chứng minh được vì sao chế độ tư hữu lại sinh ra những bất
công, những tệ nạn xã hội ấy và nó sinh ra như thế nào và bằng cách nào? Một
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới manh nha chưa phát triển, một chế độ
thống trị của giai cấp tư sản đang trong thời kỳ hình thành, xác lập... Các quan hệ
xã hội của nền kinh tế và của xã hội ấy đang dần định hình chưa thể cho phép một
tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn ảnh hưởng nặng nề của các trào lưu triết học duy
tâm, các lý luận kinh tế và kinh tế chính trị chưa chín muồi, có thể nhận biết được
những quy luật đang dần manh nha và đang hình thành, xuất hiện. Vì vậy, chỉ riêng
những phê phán mạnh mẽ của chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán đối với những tệ
nạn bất công ấy của xã hội đương thời, chỉ riêng việc các nhà tư tưởng đã chỉ ra
đúng nguồn gốc của những tệ nạn, áp bức bất công ấy là chế độ tư hữu, cũng đã đủ
đưa các ông lên tầm các vĩ nhân của nhân loại. 
Những trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa utopia ra đời trong
điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa phát triển đầy đủ. Công
nghiệp lớn mới chỉ bắt đầu rõ nét ở nước Anh. Do đó, mâu thuẫn giữa tư sản và vô
sản chưa chín muồi, những cách thức, thủ đoạn để giải quyết mâu thuẫn cũng chưa
thể xuất hiện đầy đủ. Cho nên lý luận đó cũng chưa chín muồi, chưa thoát khỏi
những quan niệm duy tâm về lịch sử, nên chưa thể khám phá ra bản chất và quy
luật vận động của xã hội tư bản và sự xuất hiện xã hội tương lai. Đối với họ, chủ
nghĩa xã hội được quan niệm như là biểu hiện của lý tính, của chân lý, của chính
nghĩa tuyệt đối có sẵn ở đâu đó, chỉ cần người ta phát hiện ra rồi dựa vào đó mà
thuyết phục mọi người có thể cải tạo và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn một cách
ôn hòa, hy vọng dựa vào lòng tốt của những người giàu và những kẻ đang cầm
quyền, để làm biến đổi chế độ tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa.
Khi nền công nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa ra đời và tạo ra những biến đổi
căn bản trong đời sống kinh tế, chính trị của xã hội, các hạn chế lịch sử trên đây
của chủ nghĩa xã hội utopia - phê phán càng được bộc lộ đầy đủ. Đến đây, nhu cầu
tất yếu phải có sự phát triển mới, có tính chất cách mạng trong tư tưởng xã hội chủ
nghĩa đã chín muồi. Chỉ có một lý luận kế thừa một cách sáng tạo, xuất sắc đối với
các giá trị, khắc phục được một cách căn bản những hạn chế lịch sử của chủ nghĩa
xã hội utopia-phê phán mới đáp ứng đòi hỏi của chính thực tiễn và làm cho các học
thuyết lý luận xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa không còn là utopia và không
chỉ mang tinh thần phê phán, làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành một khoa học.
Câu 2. Những điều kiện, tiền đề khách quan để chủ nghĩa xã hội từ
không tưởng thành khoa học. Vai trò của C. Mác và Ăng ghen (điều kiện chủ
quan) để chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học.
1. Tiền đề khách quan
+ Đến gần giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở một số nước châu Âu đã đạt
được những bước tiến rất quan trọng. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất đã
thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ làm cho cuộc
cách mạng công nghiệp ở nước Anh về cơ bản đã hoàn thành và bắt đầu phát triển
sang một số nước khác (Pháp, Đức).
+ Cách mạng công nghiệp phát triển đã tạo ra một lực lượng sản xuất mới,
đó là nền đại công nghiệp. Nó thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển
mạnh mẽ cả về năng suất lao động, kinh nghiệm  quản lý và kinh tế thị trường.
Nhờ đó, chỉ trong vòng một trăm năm, từ khi xuất hiện, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra
khối lượng của cải khổng lồ bằng cả quãng thời gian trước đó loài người tích luỹ
được (C.Mác). Đây chính là điều kiện vật chất, kinh tế quan trọng thúc đẩy xã hội
loài người phát triển lên nấc thang cao hơn chủ nghĩa tư bản. Mặt khác, lực lượng
sản xuất (đại công nghiệp) không ngừng phát triển và ngày càng có tính chất xã hội
hoá cao dẫn tới mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Để giải quyết mâu thuẫn này cần phải
thay đổi quan hệ sản xuất cũ (tư bản chủ nghĩa), bằng một quan hệ sản xuất mới
phù hợp hơn – quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: Đại công nghiệp ra đời đã phá sập ngay dưới
chân giai cấp tư sản cái nền tảng mà nó đã dựng nên là chế độ tư hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất.
Điều kiện chính trị – xã hội:
+ Cách mạng công nghiệp cũng đồng thời tạo ra một lực lượng xã hội mới,
đó là giai cấp vô sản (giai cấp công nhân). Giai cấp vô sản từ khi ra đời đã bị giai
cấp tư sản bóc lột nặng nề và bị bần cùng nên đã dẫn tới mâu thuẫn giữa giai cấp
vô sản với giai cấp tư sản ngày càng trở lên gay gắt, biểu hiện thành những biến
động chính trị lớn (Phong trào Hiến chương ở nước Anh: 1838 - 1848; phong trào
đấu tranh của công nhân dệt thành phố Lyông (Pháp): 1831 - 1834; phong trào đấu
tranh của công nhân dệt thành phố Xilêdi (Đức): 1844). Sự xuất hiện các phong
trào công nhân đã cho C.Mác và Ph.Ăngghen  có cơ sở thực tiễn khẳng định: giai
cấp vô sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, có khả năng trở thành lực
lượng xã hội quan trọng, có vai trò cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Tuy
nhiên, các phong trào nêu trên đều thất bại mà nguyên nhân chủ yếu của nó, sau
này được C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ là do chưa có một lý luận cách mạng dẫn
đường, chưa chỉ ra được mục tiêu của cuộc đấu tranh, chưa có con đường, biện
pháp đấu tranh đúng đắn.
Nghiên cứu thực tiễn phong trào đấu tranh và nhất là sự thất bại của nó,
CMác và Ph.Ăngghen nhận thấy rằng, muốn cho phong trào công nhân giành được
thắng lợi phải có lý luận cách mạng soi đường. Vì vậy, hai ông đã tập trung nghiên
cứu xây dựng học thuyết cho phong trào công nhân, đó là lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học.
 Tiền đề tư tưởng - lý luận:
+ Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản là sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học, kỹ thuật. Tiêu biểu là các phát minh lớn trên lĩnh vực khoa học tự nhiên
và khoa học xã hội
- Trên lĩnh vực khoa học tự nhiên: thời kỳ này đã xuất hiện Định luật bảo
toàn và chuyển hoá năng lượng; học thuyết tế bào và học thuyết tiến hoá. Sự ra đời
của những phát minh này đã giúp cho C.Mác và  Ph.Ăngghen có cơ sở khoa học để
vận dụng, nghiên cứu các hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực xã hội và quy luật vận
động của xã hội. Trên cơ sở đó, hai ông xây dựng học thuyết duy vật lịch sử của
mình.
+ Trên lĩnh vực khoa học xã hội: thời kỳ này các lĩnh vực triết học, kinh tế
chính trị học và tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã phát triển rực rỡ. Tiêu biểu là Triết
học cổ điển Đức với hai nhà triết học nổi tiếng là Hêghen và Phoi-ơ-bắc; Kinh tế
chính trị học cổ điển Anh với hai nhà tư tưởng là A.Xmith và D.Ricácđô ; đặc biệt
là lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Xi-mông, Phu-riê, Ô-Oen với
những giá trị to lớn mà nó đã đạt được.
Như vậy, gắn liền với sự xuất hiện ở mức độ đầy đủ những tiền đề kinh tế -
xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa học còn dựa trên sự chín muồi của các tiền đề văn
hoá - tư tưởng. Đó là kết quả của sự kế thừa những tinh hoa của trí tuệ loài người,
phát triển qua các thời đại mà đầu thế kỷ XIX đã đạt tới đỉnh cao.
Tóm lại: Sự xuất hiện những tiền đề nêu trên đã tạo ra những điều kiện kinh
tế, chính trị – xã hội, văn hoá,- tư tưởng khách quan ở mức độ đầy đủ để chủ nghĩa
xã hội thực sự trở thành khoa học do C.Mác và  Ph.Ăngghen xây dựng và được
đánh dấu bằng sự ra đời của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” tháng 2
năm 1848.
CMác và Ph.Ăngghen coi những điều kiện nêu trên là mảnh đất hiện thực,
cơ sở hiện thực để hai ông xây dựng học thuyết của mình.
2. Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc phát triển chủ nghĩa xã
hội từ không tưởng đến khoa học
- C.Mác (1818 - 1883) và Ph.Ăngghen (1820 - 1895) là hai nhà triết học vĩ
đại của nhân loại, là lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân quốc tế, đã cống hiến
toàn bộ cuộc đời của mình cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và những
người lao động bị áp bức trên toàn thế giới. Hai ông đã xây dựng học thuyết khoa
học, cách mạng cho giai cấp công nhân - học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Trong quá trình xây dựng học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, ở C.Mác,
Ph.Ăngghen đã có quá trình chuyển biến mạnh về lập trường, quan điểm: từ chủ
nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật; từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập
trường xã hội chủ nghĩa (hai ông vốn là học trò của Hêghen và xuất thân từ tầng
lớp trên).
- Với sự uyên bác về trí tuệ, lòng nhiệt tình và trung thành với phong trào
công nhân, hai ông đã gặp nhau ở Paris vào năm 1841 và bắt đầu có những hoạt
động chung cả về lý luận và thực tiễn. Hai ông nhận thức đúng được quy luật phát
triển của xã hội loài người, nhất là quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản; đồng
thời hai ông đã phát hiện ra một lực lượng xã hội có thể chuyển xã hội sang một
giai đoạn mới. Vì vậy, hai ông đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử loài
người, trong quá trình ấy C.Mác và  Ph.Ăngghen đã có những phát hiện lớn, đóng
góp đặc biệt quan trọng cho quá trình phát triển của xã hội loài người nói chung,
quá trình giải phóng quần chúng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột, bất
công. Đó là:
Học thuyết duy vật lịch sử:
-  CMác và Ph.Ăngghen cho rằng: "tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội",
do đó, muốn đi tìm nguyên nhân cơ bản của sự vận động và phát triển xã hội phải
đi tìm nó trong lòng xã hội. 
- C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội loài người. Khi quan
hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, đòi hỏi phải phá vỡ quan hệ sản xuất
hiện tại và xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn. Sự phá vỡ này đã dẫn tới
sự thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác phù
hợp và tiến bộ hơn. 
- Hai ông, đồng thời cũng chỉ rõ: mâu thuẫn cơ bản trong xã hội có giai cấp
là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là động lực để thúc
đẩy xã hội phát triển. Trong chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và
giai cấp công nhân gay gắt tất yếu sẽ dẫn tới cuộc đấu tranh giai cấp và giai cấp
nào đại diện cho phương thức sản xuất mới sẽ đóng vai trò thống trị trong xã hội.
Đó chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Học thuyết giá trị thặng dư: 
Vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm duy vật về lịch sử vào việc
phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và  Ph.Ăngghen đã đi tới kết luận:
việc giai cấp tư sản chiếm đoạt phần lao động không được trả công của người vô
sản làm thuê là hình thức cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của
sự bóc lột công nhân do phương thức ấy đẻ ra. Dù cho nhà tư bản có mua sức lao
động của công nhân đúng với giá trị của nó chăng nữa thì trên thực tế, nhà tư bản
vẫn thu được nhiều giá trị hơn so với số tiền mà họ đã bỏ ra để mua sức lao động
của công nhân. Tổng số tiền này rút cuộc biến thành tư bản ngày càng lớn lên và
thuộc quyền sở hữu của nhà tư bản.
- Nhờ những phát kiến khoa học trọng đại này, CMác và Ph.Ăngghen có căn
cứ vững chắc để khẳng định rằng: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển được biểu hiện trong đời sống xã
hội thành mâu thuẫn không thể điều hoà giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.
Mâu thuẫn này nhất định sẽ dẫn đến kết cục là lực lượng sản xuất do giai cấp công
nhân là người đại biểu phải phá vỡ quan hệ sản xuất do giai cấp tư sản bảo vệ. Giai
cấp công nhân là lực lượng cách mạng được lịch sử giao phó sứ mệnh là thủ tiêu
chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Làm sáng tỏ
sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là phát hiện lớn thứ ba của C.Mác và
Ph.Ăngghen. 
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học được C.Mác và Ph.Ăngghen trải
nghiệm qua quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn, được phản ánh qua hàng loạt
các tác phẩm của hai ông từ 1843 đến 1848 (Phê phán triết học pháp quyền Hêghen
– Lời nói đầu; Hệ tư tưởng Đức, Luận cương về Phoi-ơ-bắc, Những nguyên lý
cộng sản…) và được đánh dấu bằng tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản"
2/1848.

Câu 3. Làm rõ những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân và những
biểu hiện mới của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay.
1) Khái niệm giai cấp công nhân:
- Giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động được hình thành và
phát triển cùng với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao;
là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong
thời đại hiện nay; có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức nhân dân lao động các
nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa.
2) Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân:
- Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân, giai cấp
vô sản, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân công nghiệp… là những từ
đồng nghĩa, họ là con đẻ (sản phẩm) của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, đại
diện cho lực lượng sản xuất hiện đại và phương thức sản xuất tiên tiến.
Khi nghiên cứu về giai cấp công nhân đầu thế kỷ XIX ở các nước tư bản
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công nghiệp
sản sinh ra. Nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa và được
tuyển mộ trong tất cả các giai cấp, tầng lớp của dân cư. Họ là những người không
có tư liệu sản xuất (chủ yếu), phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản để
kiếm sống và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Do vậy, giai cấp công nhân có
lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản; Là giai cấp có
tinh thần cách mạng triệt để;  có tinh thần quốc tế, tinh thần đoàn kết giai cấp và có
tính tổ chức kỷ luật cao.
- Với sự phát triển của nền đại công nghiệp và trình độ khoa học công nghệ,
cùng với sự trưởng thành và phát triển của giai cấp công nhân hiện nay, giai cấp
công nhân trên toàn thế giới có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Lao động sản xuất vật chất là chủ yếu (với trình độ trí tuệ ngày càng cao,
đồng thời cũng ngày càng có những sáng chế, phát minh lý thuyết được ứng dụng
ngay trong sản xuất). Vì thế giai cấp công nhân vẫn có vai trò quyết định nhất sự
tồn tại và phát triển của xã hội.
+ Có lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản (giai cấp
công nhân: xoá bỏ chế độ tư hữu; xoá bỏ áp bức bóc lột; giành chính quyền và làm
chủ xã hội. Giai cấp tư sản không bao giờ tự rời bỏ những vấn đề cơ bản đó). Do
vậy, giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để.
+ Có ý thức tổ chức kỷ luật cao, do lao động trong môi trường công nghiệp
ngày càng hiện đại và do được tôi luyện trong quá trình tham gia vào các cuộc đấu
tranh do giai cấp tư sản tổ chức chống lại giai cấp phong kiến.
+ Có hệ tư tưởng riêng của giai cấp mình: đó là chủ nghĩa Mác - Lênin phản
ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời hệ tư tưởng đó dẫn dắt quá
trình giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình nhằm giải phóng xã
hội, giải phóng con người. Giai cấp công nhân có Đảng tiên phong của mình là
Đảng Cộng sản (Đảng Mác - Lênin).
Từ những đặc điểm cơ bản – chung nhất đó giai cấp công nhân có những
đặc điểm riêng do những điều kiện lịch sử cụ thể ở từng quốc gia tạo ra.
3) Những biểu hiện mới của giai cấp công nhân hiện nay:
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp và cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, giai cấp công nhân đã có những biến
đổi quan trọng, có thêm nhiều đặc điểm mới:
- Họ không chỉ bao gồm những người lao động làm thuê (ở các nước tư bản)
mà một bộ phận không nhỏ trở thành những người làm chủ, nắm quyền lãnh đạo
xã hội (ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa).
- Lao động với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại;
- Nhiều lĩnh vực công nghiệp mới ra đời nên cơ cấu xã hội của giai cấp công
nhân ngày càng đa dạng; trình độ học vấn, khoa học công nghệ, tay nghề ngày
càng được nâng cao (trí thức hoá);
- Họ không chỉ bao gồm những người lao động chân tay, trực tiếp điều khiển
máy móc cơ khí, mà còn bao gồm những người lao động sản xuất với trình độ trí
tuệ cao (công nhân – trí thức), nghiên cứu, sáng chế
- Họ không chỉ bao gồm những người lao động công nghiệp trực tiếp tạo ra
các giá trị vật chất cho xã hội, mà còn bao gồm những người lao động dịch vụ công
nghiệp, lao động của họ gắn liền với sản xuất công nghiệp, có tính chất công
nghiệp.
- ở các nước tư bản, phần đông họ không còn vô sản trần trụi như trước kia
mà đã có ít nhiều tư liệu sản xuất (tuy nhiên, họ vẫn là những người đi làm thuê và
bị bóc lột). ở các nước giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, cùng với
nhân dân lao động, họ đã làm chủ tư liệu sản xuất, làm  chủ nhà nước và xã hội.
Câu 4. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế
giới của giai cấp công nhân. Phê phán những quan điểm sai trái xung quanh
vấn đề này.
1. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Sứ mệnh lịch sử của một giai cấp là toàn bộ những nhiệm vụ lịch sử giao
phó cho một giai cấp để nó thực hiện bước chuyển cách mạng từ một hình thái
kinh tế – xã hội đã lỗi thời sang một hình thái kinh tế – xã hội mới cao hơn, tiến bộ
hơn.
Phân tích một cách khách quan địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công
nhân, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu một cách khái quát nội
dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là: xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, không có người bóc lột người trên cơ sở công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, giải phóng giai cấp mình và giải phóng toàn xã hội
khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công.
Cụ thể có 3 nội dung cơ bản sau đây:
1. Thông qua Đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ
chức để nhân dân lao động giành chính quyền về tay mình, xoá bỏ chính quyền của
các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột, xoá bỏ giai cấp tư sản (và mọi giai cấp áp bức
bóc lột khác); giải tán chính quyền Nhà nước của các chế độ cũ, xây dựng chính
quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nội dung này có thể thực hiện
bằng biện pháp bạo lực là chủ yếu, tuy nhiên tranh thủ tối đa biện pháp hoà bình
khi có điều kiện thuận lợi để tránh đổ máu không cần thiết.
2. Thông qua Đảng tiên phong của mình, giai cấp công nhân lãnh đạo, tổ
chức nhân dân lao động xây dựng và bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất nước và đồng
thời tổ chức xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh
vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, con người…, để từng bước hình thành xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên thực tế ở mỗi nước và trên toàn thế
giới. 
Đây là nội dung cơ bản quyết định cuối cùng sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân và cũng là nội dung rất khó khăn, phức tạp, vì nó rất mới mẻ và là quá
trình cải biến cách mạng căn bản, toàn diện, triệt để trên phạm vi quốc gia, quốc tế.
Do đó cần phải trải qua từng bước, lâu dài với yêu cầu ngày càng cao đối với giai
cấp công nhân, nhân dân lao động, nhất là đối với Đảng cộng sản, với Nhà nước cả
về trí tuệ lẫn bản lĩnh và lập trường chính trị. Không thể nóng vội, giản đơn, chủ
quan duy ý chí… mà hoàn thành được nội dung này.
3. Trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm công nghiệp ngày càng hiện đại để
xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở kinh tế cho tất cả các nước theo xu hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển ngày càng cao. Không có giai cấp công
nhân lớn mạnh, không một nước nào (kể cả các nước phát triển nhất hiện nay) có
thể tồn tại và phát triển trong thời đại hiện nay. Nội dung này là nội dung thường
xuyên và thực hiện suốt trong các giai đoạn cách mạng của giai cấp công nhân ở tất
cả các nước.
2. Những điều kiện khách quan qui định cho giai cấp công nhân có sứ
mệnh lịch sử trên, đó là:
2.1. Do những địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân:
- Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất trong các
bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất của xã hội tư bản. Họ đại diện cho lực lượng
sản xuất tiên tiến có trình độ xã hội hoá ngày càng cao, họ tạo ra phần lớn của cải
cho xã hội, lao động thặng dư của họ là nguồn gốc chủ yếu đem lại sự giàu có cho
xã hội.
- Do bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất trong xã hội tư bản, họ phải bán sức lao
động để kiếm sống và bị giai cấp tư sản tước đoạt hết giá trị thặng dư, họ bị bóc lột
nặng nề và bị lệ thuộc hoàn toàn vào sản phẩm của họ làm ra, họ có lợi ích cơ bản
đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Do đó, giai cấp công nhân là giai
cấp có vai trò đi đầu trong cải tạo các quan hệ xã hội, muốn xoá bỏ giai cấp tư sản
và mọi giai cấp bóc lột khác.
2.2. Do đặc điểm chính trị – xã hội của giai cấp công nhân:
- Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất: do yêu cầu khách quan của
việc không ngừng đổi mới công nghệ, giai cấp công nhân ngày càng được bổ sung
thêm những công nhân có trình độ chuyên môn và học vấn ngày càng cao; môi
trường lao động công nghiệp với kỹ thuật ngày càng hiện đại đã mở mang trí tuệ
cho giai cấp công nhân; cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ đã cung cấp những tri
thức chính trị – xã hội cần thiết để giai cấp công nhân trở thành một giai cấp tiên
tiến.
- Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng độc lập, được vũ trang bởi lý luận tiền
phong là chủ nghĩa Mác – Lênin và có chính đảng của mình là Đảng cộng sản, do
đó, có khả năng tổ chức, lãnh đạo các giai cấp, tầng lớp khác trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản vì lợi ích của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của
nhân dân lao động.
- Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để do bị áp bức bóc lột
nặng nề dưới chủ nghĩa tư bản và các chế độ áp bức bóc lột khác; đồng thời sứ
mệnh lịch sử của họ chỉ giành được thắng lợi hoàn toàn khi xã hội thoát khỏi tình
trạng áp bức, bất công, do vậy, muốn tự giải phóng mình, giai cấp công nhân phải
đồng thời tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn xã hội.
- Giai cấp công nhân là giai cấp có tổ chức kỉ luật cao, do được tôi luyện
trong môi trường lao động công nghiệp ngày càng hiện đại và trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp phong kiến trước đây cũng như chống giai cấp tư sản ngày nay.
- Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế do địa vị kinh tế - xã hội của họ
trên toàn thế giới giống nhau, họ có khả năng đoàn kết để thực hiện được mục tiêu
chung: xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.3. Trong chủ nghĩa tư bản đã có những mâu thuẫn cơ bản hình thành
một cách khách quan, gồm 2 mặt:
- Mặt kinh tế: là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hoá
cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
- Mặt chính trị - xã hội: là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư
sản.
Cả 2 mặt của mâu thuẫn cơ bản này không thể giải quyết triệt để trong
khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa do
giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức. Đó là sự qui định khách quan cho sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. 
- Trí thức, nông dân và các tầng lớp khác là lực lượng tham gia vào cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa chứ không thể là lực lượng lãnh đạo và tổ chức cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì họ không đại biểu một phương thức sản xuất
riêng trong lịch sử; không có một hệ tư tưởng riêng. Vả lại, trong chủ nghĩa tư bản,
mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư
sản, do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là cuộc cách mạng của giai cấp công
nhân lãnh đạo để lật đổ giai cấp tư sản nhằm giải phóng giai cấp công nhân, đồng
thời giải phóng cho cả nông dân, trí thức và nhân dân bị áp bức bóc lột
Câu 5. Những nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện được
sứ mệnh lịch sử của mình. Liên hệ với vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam
trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1) Những nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp là tất yếu khách quan, tức là không phụ thuộc
vào ý muốn của bất kì ai. Nhưng, cũng như các qui luật xã hội khác, nó không “tự
động" diễn ra như các qui luật tự nhiên mà nó chỉ diễn ra khi có những hoạt động
chủ quan của số đông con người: ở đây là của bản thân cả giai cấp công nhân,
Đảng Cộng sản, toàn thể nhân dân. Có 3 yếu  tố chủ quan cơ bản nhất để thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đó là:
a/ Bản thân giai cấp công nhân phải trưởng thành về số lượng và chất lượng
ngay trong quá trình sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và trong các hoạt
động chính trị - xã hội: có trình độ văn hoá, khoa học công nghệ, tay nghề ngày
càng cao để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất; đời sống vật chất,
tinh thần ngày càng tốt hơn. Giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin,
có lập trường giai cấp vững vàng; tích cực hoạt động nghiệp đoàn, công đoàn có
chất lượng cao, tham gia tích cực xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ…
Đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, mọi âm mưu của kẻ thù. Thực sự đi đầu
trong quá trình sản xuất hiện đại, xây dựng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
b/ Đảng Cộng sản: 
- Giai cấp công nhân muốn giành được thắng lợi phải nhận thức được vai
trò, vị trí của mình, đề ra được mục tiêu, con đường, biện pháp giải phóng mình,
giải phóng xã hội.
- Muốn nhận thức được những vấn đề trên, giai cấp công nhân phải được
trang bị lý luận tiền phong - đó là chủ nghĩa Mác. Khi chủ nghĩa Mác thâm nhập
vào phong trào công nhân dẫn đến sự hình thành chính đảng của mình - đội tiền
phong của giai cấp công nhân.
- Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, lãnh đạo cả giai
cấp và cả dân tộc. Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa phong trào công
nhân với chủ nghĩa Mác - Lênin, (ở Việt Nam còn kết hợp với phong trào yêu
nước). Chỉ từ khi có Đảng, giai cấp công nhân mới chuyển từ tự phát lên tự giác và
trở thành giai cấp thực sự cách mạng
Đảng là nhân tố chủ quan hàng đầu, lãnh đạo và tổ chức quá trình thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân để giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội,
giải phóng con người. Vì thế, Đảng Cộng sản phải luôn luôn được xây dựng, củng
cố, phát triển vững vàng về chính trị (đường lối cách mạng…), về tư tưởng (chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…) và về tổ chức (nguyên tắc tập trung
dân chủ; sinh hoạt Đảng để có các quyết định đúng; cán bộ, đảng viên, cấp uỷ và tổ
chức cơ sở đảng vững mạnh, trong sạch, có uy tín với nhân dân và có khả năng
lãnh đạo tốt).
c/ Mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với Đảng cộng sản:
+ Đảng Cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân, là bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân, bao gồm những người con ưu tú nhất, trung kiên
nhất của giai cấp công nhân. Đảng mang bản chất của giai cấp công nhân, đại diện
về trí tuệ, lợi ích cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thay mặt giai cấp
công nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, giành độc lập và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. 
+ Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng
cho Đảng. Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối liên hệ hữu cơ, không thể tách
rời. 
+ Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công nhân,
nhưng phải là người giác ngộ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên
lập trường của giai cấp công nhân.
+ Giai cấp công nhân và Đảng của nó phải là trung tâm đoàn kết toàn dân
tộc, đoàn kết quốc tế: ý chí, nhận thức và hành động thống nhất. Đồng thời đấu
tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực và mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù của nhân
dân, của chủ nghĩa xã hội
2) Liên hệ với vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân  Việt Nam:
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930, là sản phẩm của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã giữ vai trò lãnh đạo giai cấp công
nhân và lãnh đạo xã hội trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin nhằm mục
tiêu xây dựng Việt Nam thành một quốc gia độc lập, thống nhất, mọi người được
bình đẳng và có điều kiện để phát triển toàn diện.
Hơn 70 năm qua, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam
vượt qua mọi thử thách và giành được nhiều thắng lợi to lớn, được giai cấp công
nhân, nhân dân tin tưởng, ủng hộ. Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam thể hiện cụ
thể như sau:
- Đảng cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân Việt Nam
hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành chính quyền
về tay mình và nhân dân lao động; giành độc lập cho dân tộc; thực hiện thắng lợi
hai cuộc kháng chiến vĩ đại; đánh đổ tận gốc chế độ thực dân kiểu cũ và kiểu mới;
giành thống nhất đất nước và đưa cả nước bước vào thời kỳ xây dựng xã hội mới -
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Hiện nay, Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân
Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và đã giành được thắng lợi (tuy là
bước đầu); đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng quan hệ, hợp tác với các quốc gia trên thế giới;
thực hiện từng bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đến năm
2020 đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Vì vậy, Đảng cộng sản và giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ mật
thiết và khăng khít với nhau. Giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mênh
lịch sử của mình khi được một chính đảng tiên phong, có đủ năng lực trí tuệ, bản
lĩnh chính trị dẫn dắt, tổ chức và lãnh đạo. Ngược lại, Đảng cộng sản Việt Nam chỉ
có thể thực hiện được vai trò lãnh đạo của mình khi đứng vững trên lập trường của
giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng; lấy giai cấp
công nhân là cơ sở vật chất để tồn tại và phát triển.
Câu 6. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Leenin về đặc trưng của
xã hội chủ nghĩa. Làm rõ quan điểm của Đảng ta về đặc trưng của xã hội xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011
1) Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Leenin về đặc trưng cơ bản
của xã hội xã hội chủ nghĩa:
Giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa, là kết quả trực tiếp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, khi đã xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế, chính trị, tư tưởng - văn
hoá của xã hội này. Tuy vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn là xã hội cộng sản chủ
nghĩa chưa đầy đủ, do vẫn còn chứa đựng những dấu vết của xã hội cũ, nguyên tắc
phân phối theo lao động chưa cho phép mọi người có quyền ngang nhau trong việc
hưởng thụ những sản phẩm do xã hội làm ra, do đó, ở mức độ nào đó, tình trạng
bất bình đẳng xã hội vẫn còn tồn tại. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là:
- Trên lĩnh vực chính trị:
Vẫn còn sự khác biệt giai cấp (trong đó có cả giai cấp bóc lột), do đó, nhà
nước vẫn còn tồn tại - nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân do Đảng cộng
sản lãnh đạo và có chức năng cưỡng bức, kể cả trấn áp bằng bạo lực đối với giai
cấp bóc lột (nhà nước chuyên chính vô sản). Đó là nhà nước của đại đa số nhân
dân lao động đảm bảo quyền làm chủ cho nhân dân. 
- Trên lĩnh vực kinh tế:
+ Cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất công nghiệp
hiện đại.
+ Chủ nghĩa xã hội là xã hội xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
+ Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới:
chặt chẽ, có kế hoạch và kỷ luật tự giác, tự nguyện.
+ Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: Làm theo
năng lực, hưởng theo lao động.
- Trên lĩnh vực xã hội:
+ Chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, thực hiện
sự bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện
2) Đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Tại Đại hội X, Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu 8 đặc trưng của xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng , đó là:
1

- Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
- Do nhân dân làm chủ
- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, phát triển toàn diện
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
3. Cương lĩnh 2011
Về đặc trưng của xã hội XHCN ở nước ta, Cương lĩnh 2011 đã khẳng định:
“Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên LLSX hiện đại và quan hệ sản xuất (QHSX) tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” .
1

Như vậy, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 bổ sung 2 đặc trưng
mới.
Đặc trưng thứ nhất: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đây vừa là mục tiêu, vừa là đặc trưng tổng quát, đặc trưng bản chất của CNXH
Việt Nam. CNXH phải làm cho dân giàu, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Nghèo đói không phải là CNXH. Dân giàu là giàu cả đời sống vật chất và văn hóa,
tinh thần; dân giàu nhưng phải làm cho nước mạnh, dân có giàu nước mới mạnh,
phải nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia; dân giàu nhưng phải đảm bảo công
bằng xã hội... Đây là thể hiện tính ưu việt của CNXH. Trong Cương lĩnh 2011,
cụm từ “dân chủ” được đưa lên trước cụm từ “công bằng” so với Văn kiện Đại hội
X của Đảng. Sự thay đổi này không đơn thuần là sắp xếp lại thứ tự mà phản ánh sự
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn của Đảng ta đối với mục tiêu dân chủ. Dân chủ là
bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực phát
triển đất nước. Dân chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân là chủ, dân làm chủ, dân
là gốc; dân chủ là chìa khóa vạn năng. Do đó, dân chủ phải được đặt ở một vị trí
tương xứng với tầm vóc, giá trị của nó trong Cương lĩnh và khi đề cao dân chủ,
chúng ta không hề coi nhẹ kỷ luật, kỷ cương là cái hiện nay chúng ta còn nhiều yếu
kém. Càng coi trọng dân chủ càng phải coi trọng kỷ luật, pháp luật, kỷ cương trong
quản lý đời sống xã hội. Cả dân chủ và kỷ luật đều là những mặt chúng ta còn
nhiều hạn chế, cần phải phấn đấu nâng cao.
Đặc trưng mới thứ hai là: “có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Đặc trưng này là kế thừa
của Văn kiện Đại hội X của Đảng, phản ánh đường lối xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là chủ thể của
quyền lực nhà nước, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại. Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, song Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, để tránh hiểu lầm hoặc
sự xuyên tạc của một số người khi cho rằng “dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”
nghĩa là Đảng ta đứng trên Nhà nước và pháp luật, nên trong Cương lĩnh đã thay từ
“dưới” sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng từ “do” Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Kế thừa Văn kiện Đại hội X, trong Cương lĩnh 2011, Đảng ta khẳng định lại
đặc trưng “do nhân dân làm chủ” (bỏ cụm từ “lao động” trong Cương lĩnh 1991).
Sự khẳng định đó nhằm phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; mỗi
người dân Việt Nam đều là người chủ đất nước, có trách nhiệm xây dựng đất nước,
dù sinh sống ở trong nước hay ngoài nước.
Về đặc trưng kinh tế của CNXH, kế thừa Văn kiện Đại hội X, Cương lĩnh
xác định: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ
phù hợp” (thêm từ “tiến bộ“ so với Văn kiện Đại hội X và không có cụm từ “chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” như trong Cương lĩnh 1991). Trong
đặc trưng về kinh tế của CNXH, nếu như đặc trưng về LLSX có ý kiến khá thống
nhất, thì đặc trưng về QHSX vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau cần phải tiếp tục đi
sâu nghiên cứu. Tuy nhiên, ở đây có thể hiểu QHSX tiến bộ phù hợp là QHSX
được xét trong chỉnh thể trên cả ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan
hệ phân phối và sự phù hợp không chỉ với trình độ phát triển của LLSX mà còn với
chế độ xã hội, với từng điều kiện lịch sử - cụ thể, với đặc thù dân tộc... QHSX tiến
bộ phù hợp ở nước ta chính là QHSX theo định hướng XHCN (trong thời kỳ quá
độ) và là QHSX XHCN (trong CNXH). Đến khi chúng ta xây dựng xong CNXH,
QHSX tiến bộ phù hợp đó phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu.
Trong đặc trưng về con người, trên cơ sở kế thừa Cương lĩnh 1991, song
tách đặc trưng về phân phối ra, Cương lĩnh xác định “con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Muốn có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, tất yếu phải giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất
công, coi sự phát triển con người là mục tiêu cao nhất của CNXH. Tất cả vì con
người và do con người; con người là trung tâm của chiến lược phát triển và là chủ
thể phát triển.
Trong đặc trưng về quan hệ dân tộc, Cương lĩnh khẳng định: “Các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển”. Việc bổ sung cụm từ “tôn trọng” so với Cương lĩnh 1991 là rất có ý nghĩa,
bởi vì tôn trọng là một trong những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề dân tộc
trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, nhất là sự tôn trọng của dân tộc đa số
đối với các dân tộc thiểu số; không tôn trọng thì không thể có bình đẳng, đoàn kết
thực sự giữa các dân tộc.
Về đặc trưng hợp tác quốc tế, trên cơ sở kế thừa Cương lĩnh 1991, song mở
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác không chỉ với nhân dân mà với cả các Nhà nước,
các Đảng Cộng sản và công nhân, các phong trào xã hội tiến bộ, các đảng cánh tả,
đảng cầm quyền và các đảng khác... nên Cương lĩnh 2011 khẳng định: “có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Đặc trưng này phản ánh xu thế
lớn của tình hình thế giới là hòa bình, hợp tác và phát triển, xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế. Đó cũng là nguyện vọng chân thành của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta. Chúng ta thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế; Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Các đặc trưng của CNXH nêu trong Cương lĩnh là một hệ thống chỉnh thể
bao quát các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, chúng có quan hệ biện chứng
với nhau, tác động lẫn nhau - thể hiện các mối quan hệ hợp quy luật giữa LLSX và
QHSX, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế và chính trị, kinh
tế và văn hóa-xã hội, kinh tế và quốc phòng-an ninh-đối ngoại, giữa nội lực và
ngoại lực, giữa mục đích và phương tiện...; trong đó, mục tiêu cao nhất của CNXH
là giải phóng con người thoát khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, bất công, con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, thể hiện
phẩm giá của mình. Đó là giá trị cao cả, nhân văn, nhân đạo của CNXH theo đúng
tư tưởng của C.Mác và Hồ Chí Minh.
Các đặc trưng của xã hội XHCN nêu trong Cương lĩnh 2011 vừa thể hiện
tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, vừa là mục tiêu phấn đấu
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Các đặc
trưng này của CNXH không phải bỗng nhiên mà có, mà là kết quả của quá trình
phấn đấu gian khổ, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để xây dựng nên.
Các đặc trưng của CNXH có quá trình hình thành, vận động, phát triển, ngày càng
chín muồi tùy thuộc vào các điều kiện khách quan và sự nỗ lực của nhân tố chủ
quan. Đó cũng là quá trình vừa định hướng và từng bước định hình trong hiện
thực. Vì vậy, cần phải xem xét CNXH và các đặc trưng của CNXH bằng quan
điểm động, nó có quá trình sinh thành, phát triển theo quy luật khách quan.
Để thực hiện các mục tiêu của CNXH, điều có ý nghĩa quyết định nhất là
phải kiên định con đường XHCN, lý tưởng XHCN, tức phải “nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH” - bài học lớn số một mà Đảng ta đã rút ra trong Cương
lĩnh 2011 qua hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng. Gắn kết độc lập dân tộc và CNXH
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân
tộc. Cương lĩnh 2011 khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử” . Hiện tại, tuy CNTB còn tiềm năng phát
2

triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Vì vậy,
đúng như Cương lĩnh 2011 khẳng định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới CNXH” . Sự lựa chọn con đường XHCN của Đảng ta
3

cũng chính là sự lựa chọn của lịch sử để thực hiện khát vọng của nhân dân ta: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong Cương lĩnh 2011, Đảng ta không chỉ vạch ra các đặc trưng của CNXH
mà còn chỉ ra con đường để thực hiện những đặc trưng đó với lộ trình, bước đi phù
hợp. Chúng ta phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, để đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN và đến khi kết thúc thời
kỳ quá độ ở nước ta xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến
trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở
thành một nước XHCN ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Câu 7. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Leenin về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Phân tích những phương hướng cơ bản xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tinh thần của Cương lĩnh bổ sung và
phát triển năm 2011
1. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội
Về mặt lý luận: 
- Chủ nghĩa Mác – Lênin đã luận giải sự ra đời của 5 hình thái kinh tế – xã
hội từ thấp đến cao là “lịch sử tự nhiên” xét theo toàn bộ lịch sử nhân loại, do lực
lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, đối với mỗi nước, thực
tế lịch sử nhân loại cũng cho thấy: không phải nước nào cũng lần lượt trải qua 5
hình thái đó, do lịch sử cụ thể mỗi nước gắn với những điều kiện của thời đại. Ví
dụ đã có những nước “bỏ qua” một vài chế độ để lên chế độ cao hơn như: Nga, Ba
Lan, Đức… từ nguyên thuỷ “bỏ qua chế độ nô lệ” lên chế độ phong kiến. Nước
Mỹ, “bỏ qua chế độ phong kiến” mà từ chế độ nô lệ “lên thẳng” CNTB v.v… Do
vậy, chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội cũng không phải
nằm ngoài lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Về mặt thực tiễn:
- Trước khi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, đã có một số sĩ phu yêu nước
cũng đã ra đi tìm đường cứu nước (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh). Tuy nhiên,
chưa có ai tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, do con đường họ lựa chọn không
phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử Việt Nam. Chỉ khi Hồ Chí Minh
tìm được Luận cương về vấn đề dân tộc của V.I.Lênin, được vũ trang bởi chủ
nghĩa Mác – Lênin thì con đường giải phóng dân tộc mới đem lại kết quả - giải
phóng dân tộc khỏi mọi áp bức bất công. Do vậy, sự lựa chọn con đường phát triển
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là đúng đắn.
- Chủ nghĩa tư bản, tuy đã có nhiều điều chỉnh về mặt lợi ích, giải quyết có
hiệu quả về phát triển kinh tế, cũng như một số vấn đề xã hội. Tuy nhiên, bản chất
của chế độ áp bức bóc lột thì không thay đổi. Quyền lực kinh tế nằm trong tay các
tập đoàn tư bản, quyền lực chính trị chỉ giành cho thiểu số. Nền kinh tế vẫn dựa
trên chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; khoảng cách giàu nghèo vẫn tiếp tục
doãng ra; phân biệt màu da, chủng tộc chưa được khắc phục; nhiều tệ nạn xã hội
chưa được giải quyết; khủng bố, gây chiến tranh vẫn đang là vấn đề nan giải… Do
vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là một xã hội mà tương lai của loài người muốn
đạt tới.
- Từ khi chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, khủng hoảng kinh
tế, xã hội ở các nước này diễn ra ngày trầm trọng hơn. Đời sống nhân dân không
được cải thiện, mafia gia tăng, xã hội rối loạn, nhiều giá trị tốt đẹp bị đảo lộn; an
ninh, trật tự không được đảm bảo… cũng đang là bài học cho chúng ta khi lựa
chọn con đường phát triển và tất yếu đây không phải là con đường mà nhân dân ta
lựa chọn.
Điều kiện để lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam:
 Điều kiện cần thiết cho phép chúng ta lựa chọn con đường lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đó là: chúng ta đã có Đảng cộng sản lãnh đạo,
nhà nước của dân, do dân, vì dân, khối liên minh công – nông – trí thức. Chúng ta
đã xây dựng được một số cơ sở kinh tế nhà nước và tập thể; nhân dân Việt Nam
cần cù, yêu nước và yêu chuộng hoà bình.
Hiểu như thế nào là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa  ?
- Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta chỉ rõ: “Con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt về
khoa học, công nghệ để phát triển phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại”.
Đảng ta chỉ rõ cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như sau:
+ Không phủ nhận sạch trơn tất cả những gì mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa. Cần phải xác định rõ cái gì cần bỏ qua, cái gì cần phải kế
thừa có chọn lọc.
+ Cần phải hiểu thực chất của bước quá độ “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”
không phải là sự nhảy cóc, đốt cháy giai đoạn và phủ nhận sạch trơn yêu cầu khách
quan của sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, kế thừa những yếu tố
hợp lý của chủ nghĩa tư bản không có nghĩa là đi lên chủ nghĩa tư bản, bởi vì mục
đích của chúng ta là sử dụng các yếu tố kinh tế tư bản chủ nghĩa nhằm phục vụ
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời khi sử dụng các yếu tố này phải giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, không để cho các yếu tố của chủ nghĩa tư bản
chi phối đời sống xã hội.
- Thực chất của việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” là bỏ qua:
+ Sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản, sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội; bỏ qua việc xác lập kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, bởi vì những yếu tố này sẽ sinh ra áp bức, bóc lột, phân hoá giàu nghèo.
+ Phải tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lý
kinh tế, trình độ giáo dục… mà loài người đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Bởi
vì, đây không phải là thành tựu của riêng chủ nghĩa tư bản mà là của chung nhân
loại. Mặt khác, sinh thời, khi bàn về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội,
V.I.Lênin đã chỉ rõ: chủ nghĩa xã hội = chính quyền Xô viết + trật tự ở đường sắt
Phổ + kỹ thuật và cách thức tổ chức quản lý kiểu các tơrớt ở Mỹ + ngành giáo dục
quốc dân Mỹ +. +… và Người nhấn mạnh: người cộng sản phải biết sử dụng các
chuyên gia tư sản.
Như vậy, quan điểm “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” của Đảng ta chính là
sự kế thừa và phát triển lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội mà học thuyết Mác –
Lênin đã đề cập và được vận dụng, bổ sung trong điều kiện thực tiễn hiện nay
2. Phân tích những phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam theo tinh thần của Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011
a. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình
thức phân phối. 
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân
là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau
hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường
được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa
tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ
nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản
xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu
sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo
động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà
nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật
chất.
 
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường;
xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp
nặng, công nghiệp chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế;
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng
cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển
hài hoà giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
 b. Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời
sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển. 
Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với
trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Phát triển, nâng cao
chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị
chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những
biểu hiện phản văn hoá. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của
công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông
tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi
ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy
đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và
cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu
nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động
giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia
đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi
trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản
xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm
việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình
đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt Nam.
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá
và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư
phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát
triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi
công dân được học tập suốt đời.
 Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học
và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
phát triển kinh tế tri thức, vươn lên
c. Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo
đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại
mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân, trong đó
Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc.
Phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học
an ninh nhân dân. Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.
 Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền
tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng
cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng -
an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn.
 Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà
nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Xây dựng Quân đội nhân dân với số
quân thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao; lực lượng dự bị động viên hùng
hậu, dân quân tự vệ rộng khắp. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững mạnh
toàn diện; kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách, các cơ quan bảo vệ
pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Chăm lo nâng cao phẩm
chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ các
lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần phù hợp với tính chất hoạt
động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong điều kiện mới. Xây dựng
nền công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm cho các lực lượng vũ trang được
trang bị kỹ thuật từng bước hiện đại.
 Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản
lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh.
 4. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
 Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
 Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào
tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại; mở rộng
quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo
đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển.
 Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với
nhân dân các nước trên thế giới.
Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây
dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn
vinh.
  Câu 8. Đặc điểm của liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
1. Khái niệm liên minh giai cấp
Trong mỗi thời đại cách mạng xã hội đều xuất hiện những hình thức liên
minh giữa giai cấp tiên phong, có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chế độ xã hội cũ, xây
dựng chế độ xã hội mới. Tính quy luật này xuất phát từ bản chất sứ mệnh lịch sử
của giai cấp tiên phong của mỗi cuộc cách mạng xã hội, đồng thời còn do yêu cầu
cơ bản của mọi cuộc cách mạng là đấu tranh giành chính quyền, là cần thiết phải
tập hợp lực lượng.
 Liên minh giai cấp trong các cuộc cách mạng xã hội là một hình thức liên
kết giữa một bên là giai cấp cách mạng, có sứ mệnh lịch sử... với một bên là các
giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị thống trị trong xã hội, nhằm mục tiêu chung đấu
tranh thủ tiêu bộ máy của giai cấp thống trị, thiết lập quyền thống trị của chế độ
xã hội mới phù hợp với lợi ích của giai cấp là trung tâm, hạt nhân của khối liên kết
đó. 
Liên minh giai cấp được thiết lập trên cơ sở các giai cấp, tầng lớp có chung
mục tiêu đấu tranh xóa bỏ một chế độ xã hội cũ, xác lập một chế độ xã hội mới phù
hợp với các quy luật phát triển của lịch sử. Các giai cấp có sứ mệnh lịch sử trong
mỗi cuộc cách mạng xã hội đều có nhu cầu và lợi ích liên kết với các giai cấp, tầng
lớp bị thống trị khác, hợp thành động lực xã hội căn bản của cách mạng.
Liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là một
hình thức liên kết, hợp tác giữa giai cấp công nhân với các giai cấp và tầng lớp
nhân dân lao động trong cơ cấu xã hội - giai cấp của một quốc gia dân tộc cụ thể,
trong những giai đoạn cụ thể của tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. 
Do địa vị kinh tế - xã hội và địa vị chính trị - xã hội của mình, giai cấp công
nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử đi tiên phong trong cuộc đấu tranh thủ tiêu chủ
nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Nhưng để thực hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử ấy, giai cấp công nhân cần phải và có thể thực hiện liên minh với các giai
cấp và tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội... Liên minh của giai cấp công nhân
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa với các giai cấp, các tầng lớp nhân dân... là một
quy luật chính trị - xã hội của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2. Đặc điểm của liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
- Liên minh của giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là liên minh giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội có lợi ích chính trị thống nhất
về cơ bản và lâu dài
Cũng như các hình thức liên minh giai cấp trong các cuộc cách mạng xã hội
khác, liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa được
thiết lập trên cơ sở giai cấp công nhân - giai cấp có sứ mệnh lịch sử trong thời đại
và các giai cấp và tầng lớp lao động khác đều có chung mục tiêu đấu tranh xóa bỏ
ách thống trị của giai cấp tư sản. Nhưng, liên minh của giai cấp công nhân trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa lại còn có mục tiêu lâu dài cuối cùng là xóa bỏ mọi sự
thống trị, áp bức giai cấp nói chung. Trong khi đó, liên minh của giai cấp quý tộc,
chúa đất với nô lệ trong thời đại cách mạng xã hội lần thứ nhất, cũng như liên minh
của giai cấp tư sản với nông dân... trong thời đại cách mạng lần thứ hai chỉ là
những liên minh tạm thời, không cơ bản, bởi sự thống nhất lợi ích giữa các giai cấp
ấy chỉ là sự thống nhất tạm thời và không cơ bản.
Các giai cấp và tầng lớp lao động tham gia vào liên minh của giai cấp công
nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa có lợi ích, hơn thế có lợi ích cơ bản thống
nhất. Vì vậy, liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là
vấn đề chiến lược lâu dài. Trong khi đó, liên minh giai cấp trong các cuộc cách
mạng xã hội khác chỉ mang tính chất tạm thời, trước mắt; sau khi chế độ cũ bị thủ
tiêu, chế độ mới được xác lập, liên minh ấy về cơ bản không thể tồn tại.
- Liên minh giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
liên minh trên lập trường của giai cấp công nhân, do đảng cộng sản - đội tiên
phong của giai cấp công nhân lãnh đạo
Trong mọi cuộc cách mạng xã hội, để đảm bảo thực hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử của mình, giai cấp lãnh đạo, đi tiên phong trong cuộc cách mạng ấy luôn
phải thực hiện liên minh với các giai cấp và tầng lớp bị áp bức, bị thống trị khác
trong xã hội. Khối liên minh đó luôn được thực hiện trên cơ sở lập trường chính trị
của giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là liên
minh giữa một bên là giai cấp công nhân - giai cấp lãnh đạo mà lợi ích cơ bản của
nó đóng vai trò chi phối các quan hệ, nội dung cơ bản của toàn bộ khối liên minh
ấy, với một bên là toàn thể các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động, có lợi ích
chính trị phù hợp một cách cơ bản, lâu dài với lợi ích chính trị của giai cấp công
nhân.
- Liên minh giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
hình thức liên minh rộng rãi nhất và là liên minh giai cấp cuối cùng trong lịch sử 
Liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là hình
thức liên minh giai cấp rộng rãi nhất trong lịch sử và ngày càng được mở rộng. Đối
tượng các giai cấp và tầng lớp xã hội có thể và cần phải tham gia vào liên minh của
giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là tùy thuộc vào đặc điểm
tình hình lịch sử cụ thể trong cơ cấu xã hội - giai cấp của mỗi quốc gia, mỗi giai
đoạn cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Câu 9. Nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Phương hướng tăng cường khối liên minh
Liên minh công - nông - trí thức là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác… của công
nhân, nông dân, trí thức nhằm thực hiện lợi ích của họ, đồng thời góp phần vào sự
phát triển chung của dân tộc, của chủ nghĩa xã hội.
1. Nội dung của liên minh giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a- Nội dung kinh tế của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong số các nội dung của liên minh, đây là nội dung cơ bản và có ý nghĩa
quyết định nhất. Nội dung kinh tế của liên minh được biểu hiện ở những điểm cơ
bản sau:
- Xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế của công nhân, nông
dân, trí thức và toàn xã hội, từ đó mới có hướng đầu tư và tổ chức hoạt động kinh
tế đúng, tránh sự đầu tư không có hiệu quả và lãng phí.
- Xác định đúng cơ cấu kinh tế (của cả nước, của ngành, địa phương, cơ sở
sản xuất …). Ví dụ Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của cả nước hiện nay là:
công - nông nghiệp - dịch vụ. Từ đó, các địa phương, cơ sở… vận dụng linh hoạt
và phù hợp vào địa phương mình, ngành mình. Đồng thời, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức. Điều này thể hiện rõ nội dung kinh tế của
liên minh công – nông - trí thức, là môi trường và điều kiện để gắn kết chặt chẽ
giữa công nghiệp với nông nghiệp và khoa học - công nghệ, từ đó tăng cường hơn
nữa khối liên minh công – nông - trí thức.
- Tổ chức các hình thức giao lưu, hợp tác, liên kết kinh tế giữa công nghiệp -
nông nghiệp – khoa học, công nghệ; giữa các ngành kinh tế; các thành phần kinh
tế, các vùng kinh tế; giữa trong nước và quốc tế để phát triển sản xuất kinh doanh,
nâng cao đời sống cho công nhân, nông dân, trí thức và toàn xã hội.
- Đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong công nghiệp, nông nghiệp, khoa
học và công nghệ. Từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong
đó, thực hiện công hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu và kinh tế Nhà nước phải
vươn lên giữ vai trò chủ đạo và cùng kinh tế tập thể trở thành nền tảng kinh tế của
nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chú trọng mối quan hệ giữa Nhà nước và nông dân thông qua hệ thống cơ
quan nhà nước; hệ thống pháp luật và chính sách khuyến nông; hệ thống kinh tế
nhà nước và hệ thống tổ chức hỗ trợ khuyến nông.
b- Nội dung chính trị của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, mục tiêu, lợi ích cao nhất của
giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức là xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, thực hiện sự giải phóng triệt để con người. Đây là nội dung chính trị cơ bản
của liên minh. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, nội dung chính trị của liên minh
được thể hiện cụ thể như sau:
+ Liên minh giữa công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức nhằm
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, xây dựng chế độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
+ Xây dựng, củng cố khối liên minh giữa công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí nhằm bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của
Đảng chính là ở mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Liên minh giai cấp
được củng cố cũng chính là tạo cơ sở cho đường lối chính sách của Đảng được
thực hiện, góp phần tăng cường công tác xây dựng Đảng từ phía nhân dân.
+ Xây dựng, củng cố khối liên minh giữa công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức trên cơ sở của hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê-nin.
Ở Việt Nam hiện nay, nội dung chính trị cơ bản, xuyên suốt của liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa cho công cuộc đổi mới, là việc xác lập hệ tư tưởng Mác-
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống tinh thần của xã hội, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, từng bước thực hiện
đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. 
c- Nội dung văn hóa, xó hội của liờn minh giai cấp cụng nhõn trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội,
xóa bỏ dần sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược
là nội dung xã hội chủ yếu của liên minh giai cấp công - nông - trí thức. Nội dung
xã hội của liên minh giai cấp được tiến hành từng bước và trong suốt quá trình phát
triển, thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối kết
quả sản xuất, ở việc tạo ra cho mọi người có cơ hội bình đẳng trong sản xuất kinh
doanh và sử dụng tốt năng lực của mình.
Thực hiện công bằng trong phân phối đòi hỏi phải đa dạng hóa các hình thức
phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động.
Thực hiện khuyến khích làm giàu một cách hợp pháp đi đôi với chăm lo xóa đói
giảm nghèo, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”,
“Đền ơn đáp nghĩa”, nhân hậu, thủy chung.
Trong giai đoạn hiện nay của cách mạng Việt Nam, nội dung xã hội của liên
minh giai cấp công nhân với nông dân và trí thức thể hiện ở việc giải quyết những
vấn đề xã hội sau:
+ Giải quyết việc làm và tạo việc làm có thu nhập cao cho người lao động
nhằm giảm tình trạng thất nghiệp ở thành thị, thiếu việc làm ở nông thôn.
+ Thực hiện xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo trợ xã hội và các
hoạt động nhân đạo, từ thiện.
+ Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho nhân dân.
+ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thực hiện bình
đẳng giữa nam và nữ và sự giải phóng về mặt xã hội giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, thu hẹp khoảng cách giữa các miền dân cư, trên cơ sở phát triển
mạnh khoa học - công nghệ.
+ Đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, thực hiện gia đình
hạnh phúc, bình đẳng và xây dựng gia đình văn hóa, thực hiện bình đẳng giới trong
nhân dân lao động và trong xã hội.
+ Đẩy lùi tệ nạn xã hội, thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, kinh tế,
hành chính và pháp luật, đề phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội, nhất là tệ
trộm cướp, cờ bạc, ma túy, mại dâm.
Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội các liên minh giai cấp có quan hệ
mật thiết với nhau, tác động và quy định lẫn nhau, tạo tiền đề, điều kiện cho nhau,
chỉ trên cơ sở thực hiện tốt các nội dung này thì khối liên minh giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức mới được củng cố, tăng cường, nhà nước xã hội chủ
nghĩa và toàn bộ hệ thống chính trị mới được kiện toàn, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa mới được hoàn thiện, quyền lực mới thuộc về nhân dân lao động.
2. Phương hướng củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức ở Việt Nam hiện nay
a. Thực trạng việc thực hiện liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức ở Việt Nam thời gian qua
- Về chính trị, với mục tiêu đổi mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội, sự kết hợp
lợi ích chính trị của các giai tầng trong xã hội đã được thực hiện từng bước. Quá
trình giải quyết nhiệm vụ chiến lược gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội đã
đáp ứng được nguyện vọng, lý tưởng của các giai tầng trong xã hội. Bởi vậy, trước
sự khủng hoảng dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu, làm cho chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, song không làm ảnh
hưởng đến con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; trái lại, thông qua việc
thực hiện nghị quyết các kỳ từ Đại hội VI đến Đại hội XI của Đảng, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ. Điều đó khẳng định sự trưởng
thành của Đảng ta, vai trò quản lý xã hội của Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân được phát huy, quyền làm chủ của nhân dân được đảm bảo. Sự thống
nhất về chính trị và tinh thần ngày càng tăng, hệ tư tưởng Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh ngày càng được xác lập vững chắc trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, ở
một số địa phương, do việc thực hiện chính sách của Nhà nước, nhất là chính sách
về ruộng đất, chính sách khuyến nông không nghiêm đã làm nảy sinh một số “điểm
nóng”, gây ảnh hưởng đến quan hệ nhà nước và nông dân.
- Về kinh tế, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI với việc đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa trên cơ sở thực hiện ba chương trình: lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, và thực hiện chính sách kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
nội dung kinh tế của liên minh giai cấp đã từng bước được thực hiện. Tiếp theo,
trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, VIII về lĩnh vực kinh tế, nền kinh tế
thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục
được khẳng định và cùng với việc thực hiện chính sách mở cửa, quốc tế hóa đời
sống kinh tế, sự kết hợp lợi ích kinh tế giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội bảo
đảm cho khối liên minh giai cấp được tăng cường. Song, cũng do nhận thức chưa
đầy đủ về đường lối phát triển kinh tế của Đảng, nên việc chăm lo hoàn thiện quan
hệ sản xuất còn chưa tốt, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chưa thật sự đúng định
hướng... quan hệ công - nông nghiệp chưa gắn bó; việc ứng dụng tiến bộ khoa học
- công nghệ còn chậm.
- Về mặt xã hội, từ Đại hội VI đến nay, với việc thực hiện chính sách xã hội
đúng đắn vì hạnh phúc con người đã tạo nên động lực to lớn phát huy mọi tiềm
năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với
phương châm gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, từng bước
chúng ta đã giải quyết tốt vấn đề việc làm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân, thực hiện xóa đói giảm nghèo, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội một
cách có hiệu quả. Đó chính là việc giải quyết đúng đắn sự kết hợp giữa lợi ích xã
hội của các giai cấp và tầng lớp trong xã hội, góp phần củng cố khối liên minh giai
cấp thêm vững chắc. Bên cạnh những thành tựu to lớn, trên lĩnh vực xã hội vẫn còn
tồn tại một số hạn chế như: sự phân hóa giàu nghèo, khoảng cách giữa nông thôn
và thành thị ngày càng có xu hướng mở rộng; mặt trái của cơ chế thị trường có xu
hướng phát triển, chưa bị ngăn chặn; việc thực hiện chế độ dân chủ, công khai,
công bằng còn nhiều thiếu sót, lòng tin của nhân dân nói chung, nông dân nói riêng
vào đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bị giảm sút.
b. Phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu tăng cường khối liên minh của giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức ở Việt Nam hiện nay
- Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện
nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần
Suy đến cùng, nội dung kinh tế đóng vai trò quyết định việc xây dựng, củng
cố khối liên minh giai cấp. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay đối với việc
củng cố khối liên minh là phải tập trung sức phát triển lực lượng sản xuất nhằm tạo
ra những bảo đảm kinh tế - kỹ thuật cho liên minh.
Văn kiện Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển kinh tế, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam cần và có thể rút ngắn so với các nước đi
trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, mở cửa
đã mở ra khả năng gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, tạo điều kiện
cho việc kết hợp khoa học - công nghệ với công, nông nghiệp, thúc đẩy quá trình
nâng cao trình độ “dân trí” cho nhân dân. 
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành
phần chính là phương thức kết hợp lợi ích kinh tế - chính trị giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
- Đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hóa xã hội
Đổi mới hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới các chủ thể cấu thành hệ
thống chính trị. Đổi mới Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới, có đủ năng
lực, bản lĩnh hình thành đường lối, chính sách phù hợp với quy luật, xu thế, lợi ích
của nhân dân và điều kiện cụ thể của xã hội; đủ năng lực để tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới Đảng gắn liền
với đổi mới nhà nước, đổi mới nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đồng thời góp phần tích cực đổi
mới các tổ chức quần chúng nhằm phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.
Đổi mới các chủ thể trong hệ thống, nhằm bảo đảm sự hoạt động nhịp nhàng, có
hiệu quả của hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân.
- Nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân lao động
Quá trình xây dựng, củng cố khối liên minh của giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức là quá trình cách mạng đòi hỏi tính tự giác cao
của Đảng, Nhà nước và các giai tầng trong xã hội. Tính tự giác trong quá trình
cách mạng, phần quan trọng tùy thuộc vào trình độ dân trí của nhân dân - trình độ
tư duy lý luận, trình độ nắm bắt quy luật, nhu cầu thực tiễn, năng lực hoạt động
sáng tạo và năng lực ứng xử có văn hóa, trình độ nhận thức pháp luật, ý thức công
dân, tri thức về khoa học - công nghệ và chuyên môn nghiệp vụ...
Để nâng cao trình độ dân trí, đòi hỏi quán triệt sâu rộng, toàn diện quan
điểm giáo dục - đào tạo khoa học công nghệ là quốc sách, là nền tảng cho chiến
lược phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao trình độ dân trí góp phần nâng cao tính
tích cực chính trị - xã hội, tích cực lao động cho nhân dân, không chỉ đáp ứng nhu
cầu nhận thức của nhân dân mà nhằm thực hiện lợi ích tinh thần trong xã hội.
Kết hợp việc nâng cao dân trí là việc đổi mới thực hiện các chính sách xã hội
nhằm xóa bỏ dần khoảng cách giàu nghèo, từng bước trên cơ sở phát triển sản
xuất, tăng phúc lợi cho nhân dân, tạo điều kiện để các giai tầng xích lại gần nhau
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đây chính là phương hướng quan trọng để
củng cố, tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí
thức. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đã hội nhập ngày càng sâu, ngày càng
đầy đủ vào đời sống kinh tế, chính trị của thế giới, phương hướng cụ thể, cơ bản
trong nâng cao dân trí cho các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động được Đảng ta
xác định như sau:
Thứ nhất, “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công
nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động; đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo
vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân”1.
Thứ hai, “... nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp, tạo điều kiện hỗ trợ, khuyến
khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến
bộ khoa học, công nghệ; nâng cao chất lượng cuộc sống để giai cấp nông dân thực
sự là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông
thôn mới”2.
Thứ ba, “Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất,
năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng
những cống hiến của trí thức. Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.
Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu
khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các
dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước
với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước”1. 
- Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của khối đoàn kết
dân tộc
Dân chủ là bản chất của chế độ ta. Mở rộng và thực hiện dân chủ vừa là mục
tiêu, vừa là động lực cho cách mạng, cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Trước yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, để khơi dậy, phát huy mọi tiềm
năng nguồn lực trong đó quan trọng nhất là nguồn lực con người, điều có ý nghĩa
quyết định nhất là phải tạo ra cơ chế, điều kiện để phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Đây cũng chính là mắt khâu cơ bản để đấu tranh có kết quả đối với hành
động tham nhũng, cửa quyền của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Điều đó góp
phần củng cố, tăng cường liên minh công - nông - trí thức và niềm tin của dân đối
với Đảng.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cần phải được
tiếp tục mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong khối đại đoàn kết dân tộc ấy,
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập
hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển
đoàn viên, hội viên, tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu
quả thiết thực...; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực
vào những thành tựu của đất nước”1.
Câu 10. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Leenin về dân chủ và bản chất
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Liên hệ với việc xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969, Người viết: Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Đổi mới hệ thống chính trị và phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ mật thiết quy định và thúc đẩy lẫn
nhau. Đây là vấn đề cốt yếu và có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển ở
Việt Nam, đảm bảo thắng lợi của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa .
Dân chủ bắt nguồn từ chữ Hy Lạp "Demokratia", nghĩa là mọi quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ những vấn đề có liên
quan đến cuộc sống của mình.
- Có 3 đặc trưng cơ bản của dân chủ: một là thừa nhận nguyên tắc thiểu số
phụ tùng đa số, hai là thừa nhận quyền bình đẳng giữa các công dân, mà chủ yếu là
bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, nam hay
nữ… nếu vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh; ba là thừa nhận cội nguồn
của quyền lực thuộc về nhân dân.
- Dân chủ là một phạm trù chính trị, là sản phẩm của mối quan hệ giai cấp,
là một trong những hình thức tổ chức bộ máy nhà nước của xã hội, thực thi quyền
lực của giai cấp thống trị.
Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, đã trải qua các xã hội khác nhau
từ thấp đến cao. Nhưng trong các chế độ bóc lột, chỉ các giai cấp thống trị như: giai
cấp chủ nô, giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản mới là “ dân” , mới có quyền dân
chủ, còn hầu hết các giai cấp quần chúng nhân dân lao động - những người sáng
tạo và làm nên lịch sử, động lực thúc đẩy lịch sử phát triển - thì không được thực
hiện dân chủ đúng với bản chất của nó, nói cách khác dân chủ chỉ thuộc về giai cấp
thống trị.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ mà ở đó dân chủ với nghĩa là
quyền lực thuộc về nhân dân. Điều đó trở thành mục tiêu của sự phát triển xã hội
và thực hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bản chất của dân chủ XHCN;
- Bản chất chính trị:
+ Được thiết lập sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền về tay
mình và nhân dân lao động thông qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
hoặc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối
với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho
giai cấp công nhân. Mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn ghể
nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân bởi vì  có sự thống nhất giữa tính giai cấp
công nhân với tính dân tộc và tính nhân dân, do lợi ích của giai cấp công nhân phù
hợp với lợi ích của dân tộc và của đại đa số nhân dân lao động.
+ Do Đảng cộng sản lãnh đạo - yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực thực
sự thuộc về nhân dân, bởi vì, Đảng cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với nghĩa này, dân chủ xã hội
chủ nghĩa mang tính nhất nguyên về chính trị.
+Dân chủ XHCN là dân chủ cho đa số nhân dân lao động, phục vụ cho lợi
ích của đa số, khác với nền dân chủ tư bản là nền dân chủ cho thiểu số, phục vụ
cho lợi ích của thiểu số.
- Bản chất kinh tế:
+ Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu đáp ứng sự phát triển cao của lực lượng sản xuất hiện đại nhằm thỏa
mãn ngày càng cao nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
+ Bản chất kinh tế đó chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình phát triển ổn
định về kinh tế và chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Mác-Lênin và sự quản lý,
hướng dẫn của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
+ Kinh tế xã hội chủ nghĩa là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu mà nhân
loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hậu, tiêu cực, kìm
hãm của các chế độ kinh tế trước, nhất là bản chất tư hữu, áp bức bóc lột, bất công
đối với đa số nhân dân lao động.
c) Bản chất tư tưởng - văn hoá:
+ Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin - hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân làm nền tảng; đồng thời là sự kế thừa, phát huy những tinh
hoa văn hoá truyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá trị tiến bộ, văn minh mà
nhân loại đã đạt được. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ
những giá trị văn hoá tinh thần; được nâng cao trình độ văn hoá, có điều kiện để
phát triển cá nhân.
Đời sống tư tưởng - văn hóa của nền dân chủ XHCN rất phong phú, đa dạng,
toàn diện và ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu, thành mục tiêu
và động lực cho quá trình xây dựng CNXH
Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, thể hiện mối quan hệ gắn bó g iữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân
Liên hệ với việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở VN hiện nay
* Thực trạng dân chủ ở VN:  Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: "Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước". Vì vậy, xây dựng nền dân chủ XHCN là vấn đề quan
trọng xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta. 
Ngay từ khi Đảng ra đời (1930), trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã nhất
quán chủ trương, đường lối trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc phải xây
dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân mà mục tiêu cốt lõi của nó là “Độc lập
dân tộc, người cày có ruộng” và thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu trong lĩnh
vực chính trị. Khi chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN dựa trên cơ sở kế thừa
nền dân chủ nhân dân đã có, phải tiến hành ngay việc xây dựng, phát triển nền dân
chủ XHCN mà mục tiêu xuyên suốt là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Sự phát triển dân chủ XHCN ở nước ta rất ổn định, có hiệu quả. Nguyên
nhân chính là do Đảng và Nhà nước ta luôn tuân thủ những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi
hành động. Trọng điểm công cuộc phát triển dân chủ XHCN là thường xuyên củng
cố, phát triển dân chủ trong Đảng, coi dân chủ trong Đảng là “hạt nhân” của dân
chủ XHCN và lấy dân chủ trong Đảng thúc đẩy dân chủ trong toàn xã hội và quán
triệt sâu sắc quan điểm dân biết, dân bàn, dân thực hiện, dân kiểm tra.
Mặt khác, dân chủ XHCN ở nước ta cơ bản đã thể hiện rõ quan điểm: vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những nguyên tắc
cơ bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN xã
hội chủ nghĩa. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII thông qua năm 1991 đã ghi: Dân chủ
XHCN là bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Hiến pháp năm 1992 cũng
khẳng định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phải được thể chế hóa
quyền lực đó bằng pháp luật, được pháp luật bảo hộ. Dân chủ gắn liền với kỷ luật,
kỷ cương và công bằng xã hội đòi hỏi phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trải qua 25 năm đổi mới và 20 năm
thực hiện Cương lĩnh 1991 nền dân chủ XHCN ở Việt Nam đã có những bước tiến
quan trọng và được thế giới thừa nhận. Về cơ bản nước ta đã chuyển đổi thành
công từ mô hình kinh tế quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và tiến từ dân chủ nhân dân lên dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay đang từng bước phát triển và hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa để tiến lên kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và xây dựng, phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa hướng tới tương lai tốt đẹp.
Đặc biệt, trong quá trình đổi mới từ năm 1986 đến nay các cơ chế và
chính sách mới đã mở rộng quyền tự chủ và phát huy tiềm năng của các thành phần
kinh tế, trong sinh hoạt tư tưởng, người dân được tự do thảo luận nhiều vấn đề; sự
thảo luận và đối thoại trong Quốc hội thẳng thắn, công khai; nhân dân được tham
gia trực tiếp vào những vấn đề trọng đại của đất nước. Nhiều chủ trương, chính
sách, pháp luật quan trọng đã được nhân dân tham gia góp ý kiến trước khi quyết
định... Nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị
được đổi mới theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân,
tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan dân cử, nâng cao hiệu lực
quản lý của chính quyền các cấp.  
Một số kinh nghiệm đượ Đảng ta rút ra đó là: trong quá trình mở rộng
dân chủ phải luôn luôn đề phòng và chủ động ngăn chặn dân chủ hình thức, dân
chủ cực đoan; xác định rõ dân chủ phải đi liền với tập trung, với kỷ luật, pháp luật,
với ý thức trách nhiệm công dân. Một mặt phát huy dân chủ, mặt khác cần có sự
lãnh đạo đúng đắn, lãnh đạo để ổn định chính trị - xã hội và phát huy dân chủ tốt
hơn. Nhất là hiện nay, các thế lực chống đối chủ nghĩa xã hội đang lợi dụng vấn
đề dân chủ để thực hiện chiến lược thay đổi chế độ chính trị ở nước ta nhằm bài
bác vai trò lãnh đạo của Ðảng - nhân tố quyết định việc thực hiện quá trình dân chủ
hóa.     
Với sự thẳng thắn và ý thức tự phê bình nghiêm túc, chúng ta thấy rằng việc
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay cũng có những khó
khăn, hạn chế, thiếu sót đó là:
- Một số tổ chức và cấp ủy đảng còn có biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ, quan liêu, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức, không chấp hành
nghiêm nghị quyết, không thực hiện tốt việc phê bình và tự phê bình trong Ðảng.
- Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, nặng nề; hệ thống
pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ; thực hiện cải cách hành chính còn chậm trễ
gây nhiều phiền hà cho nhân dân; một số bộ, ngành không thực hiện đúng chức
năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực được giao phó.
- Tổ chức các đoàn thể nhân dân nhìn chung khắc phục chưa tốt tình trạng
hành chính hóa trong hoạt động dẫn đến không nắm chắc được tâm tư, nguyện
vọng và vướng mắc của quần chúng để kịp thời giải quyết hoặc báo cáo với tổ
chức đảng, chính quyền phối hợp giải quyết.
- Một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ của Ðảng, Nhà nước và các
đoàn thể còn bộc lộ nhiều bất cập, yếu kém so với yêu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn
cách mạng mới; một bộ phận không nhỏ cán bộ sa sút về phẩm chất chính trị, về
đạo đức lối sống, lợi dụng chức quyền dẫn đến quan liêu, tham nhũng, sa vào chủ
nghĩa cá nhân.
- Trình độ dân trí, năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của quần chúng
nhân dân tuy đã được nâng lên một bước, nhưng vẫn còn nhiều biểu hiện non yếu.
Tình trạng coi thường pháp luật, kỷ cương, kỷ luật, quy tắc sinh hoạt xã hội vẫn
còn tiếp tục diễn ra.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân chưa được phát huy đầy đủ. Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi,
trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình
thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối,
ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội… Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu
hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc vận động của MTTQ, các đoàn thể
nhân dân còn hạn chế…”
Ðứng trước tình hình đó, để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững,
thực hiện thành công mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” của Đảng đề ra là một nhiệm vụ to lớn đặt ra cho tất cả các cấp, các ngành.
Trước mắt, để làm tốt được nhiệm vụ đó, theo chúng tôi cần phải nắm vững một số
vấn đề có tính giải pháp sau đây:
- Phải luôn luôn quán triệt quan điểm dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển xã hội. Bảo đảm quyền lực chính trị của nhân dân để tránh
tình trạng người dân thờ ơ, lãnh đạm đối với xã hội. Khi dân chủ được bảo đảm,
con người và các quan hệ xã hội sẽ trở nên cởi mở và năng động hơn - động lực
sâu xa cho mọi sự phát triển chính là nhân tố con người.
- Phải thực hiện dân chủ trong Ðảng, trong bộ máy nhà nước và các đoàn thể
xã hội; đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả vận hành của cả hệ thống chính
trị. Phải thực hiện dân chủ hóa và xóa bỏ bệnh hình thức. phải luôn đổi mới nội
dung, phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị, mà trong đó cơ bản nhất là
đối với nhà nước.  
 - Phải bảo đảm các thể chế dân chủ được chế định bằng nguyên tắc, luật
pháp và các chuẩn mực văn hóa đạo đức. Việc thực hiện dân chủ điều quan trọng
là phải hoàn thiện các chế định dân chủ để buộc các chủ thể cầm quyền dù muốn
hay không cũng phải tuân theo. 
- Phải bảo đảm tính toàn diện trong quá trình mở rộng và phát huy dân chủ.
Quá trình dân chủ hóa phải được triển khai trên tất cả các lĩnh vực của đời sống từ
kinh tế, chính trị, văn hóa tinh thần, tư tưởng hành động của con người đến các
thiết chế xã hội.
- Phải đẩy mạnh dân chủ ở cơ sở: cần phải xây dựng chế độ dân chủ bắt đầu
từ cơ sở, từ nền tảng của hành chính với sự tham gia thật sự của quần chúng vào tất
cả đời sống của nhà nước.
- Phải không ngừng nâng văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ và năng lực
thực hành dân chủ của quần chúng nhân dân lao động.
- Trong xã hội hiện đại cần phát huy vai trò là cầu nối thông tin giữa dân với
Ðảng của truyền thông đại chúng để làm cơ sở cho các cuộc tranh luận, thảo luận,
trưng cầu ý kiến qua đó nâng cao văn hóa dân chủ trong xã hội. Ðây là một kênh
quan trọng để hình thành dư luận xã hội nhằm thực hiện chức năng góp phần mở
rộng dân chủ XHCN.  
Tóm lại: Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện thành
công mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của Đảng đề
ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vì nó là một
mục tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến lượt nó, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa được phát triển và hoàn thiện lại trở thành động lực mạnh mẽ thúc
đẩy xã hội không ngừng phát triển. Chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ chỗ chưa chín
muồi đến chín muồi, từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, từ chỗ chưa phát triển
đến phát triển. Quá trình này cần có thời gian và môi trường ổn định, đặc biệt là ổn
định chính trị, nếu không có sự ổn định thì không thể làm được việc gì. Muốn duy
trì ổn định xã hội để tiến lên phải phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và lấy đó làm
động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện xã hội./.

Câu 11. Vị trí, chức năng của gia đình. Các yếu tố tác động và những
vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay. Phương hướng xây dựng gia
đình Việt Nam hiện nay.
1) Khái niệm gia đình:
Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng
đồng của con người, một thiết chế văn hoá - xã hội đặc thù, được hình thành, tồn
tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ
nuôi dưỡng và giáo dục…giữa các thành viên. Các thành viên trong gia đình có
chung những giá trị về vật chất và tinh thần; có quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm
về tài sản, về người thân và cùng hướng tới mục tiêu cao nhất là phát triển kinh tế,
nuôi dưỡng các thành viên và xây dựng gia đình bền chặt.
2) Vị trí của gia đình
a) Gia đình là tế bào của xã hội: 
Gia đình là tế bào của xã hội, là thiết chế cơ sở đầu tiên của xã hội. Với việc
sản xuất ra những tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và tái sản xuất ra con người,
gia đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị cơ sở để tạo nên “cơ thể” xã hội. Nói
cách khác, giữa gia đình và xã hội có mối quan hệ gắn bó khăng khít, thúc đẩy lẫn
nhau cùng phát triển. Xã hội tốt đẹp, tiến bộ sẽ là tiền đề cho các gia đình phát
triển lành mạnh. Các gia đình hạnh phúc, đầm ấm sẽ có tác động tích cực trở lại
cho sự phát triển của xã hội.
b) Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội: 
Mỗi cá nhân không chỉ là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của
xã hội. Mỗi cá nhân muốn hoà nhập và phát triển trong xã hội đều phải qua cái cầu
trung gian - đó là gia đình. Thông qua gia đình, cá nhân đến với xã hội và ngược
lại, xã hội đến với cá nhân thông qua gia đình.
c) Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời
sống của mỗi cá nhân
Gia đình là tổ ấm của mỗi con người, mà ở đó mỗi người có thể nhận được
sự yêu thương, chăm sóc, chia sẻ những tình cảm đặc biệt, nhận được sự chăm sóc
cả về mặt vật chất và tinh thần.
Sự yên ổn, hạnh phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho
sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người.
3) Các chức năng cơ bản của gia đình
a) Chức năng tái sản xuất ra con người: 
Đây là chức năng đặc thù nhất của gia đình. Chức năng này được thực hiện
nhằm duy trì nòi giống; đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người; đồng
thời cung cấp nguồn nhân lực mới cho xã hội, từ đó đảm bảo sự trường tồn của xã
hội loài người. 
Việc thực hiện chức năng này như thế nào sẽ có tác động trực tiếp đến sự
phát triển dân số của quốc gia (như mật độ dân cư, số lượng và chất lượng dân số
của quốc gia). Do vậy, việc thực hiện chức năng này không chỉ là việc riêng của
gia đình mà còn là vấn đề quan trọng của quốc gia và của toàn nhân loại.
b) Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình: 
Hoạt động kinh tế của gia đình bao gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh
và hoạt động tiêu dùng. Đây là chức năng cơ bản của gia đình nhằm đảm bảo đời
sống vật chất và tinh thần cho các thành viên trong gia đình. Đồng thời, việc thực
hiện chức năng này sẽ góp phần vào việc phát triển kinh tế của quốc gia.
c) Chức năng giáo dục của gia đình: 
Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và lâu dài trong cuộc đời của mỗi
con người. Việc thực hiện chức năng này góp phần tạo ra thế hệ con người có ích
cho gia đình và cho xã hội, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, thực hiện
tốt chức năng này vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ của gia đình đối với sự phát
triển của xã hội. 
d) Chức năng thỏa mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm 
Với chức năng này, gia đình trở thành hệ thống bảo trợ tốt nhất cho con
người cả về mặt vật chất và tinh thần. Chỉ trong gia đình, những nhu cầu tình cảm,
những khát vọng tâm - sinh lý của cá nhân mới được bộc lộ, chia sẻ và được thoả
mãn một cách an toàn nhất. Khi thực hiện tốt chức năng này, gia đình trở thành tổ
ấm của mỗi người.
Việc thực hiện tốt các chức năng nêu trên, gia đình đã có những đóng góp
đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và xã hội.
4. Các yếu tố tác động và vấn đề đặt ra với gia đình ở nước ta hiện nay
a. Những giá trị tích cực và những nhân tố tiêu cực của gia đình Việt
Nam truyền thống
- Những giá trị tích cực
+ Tư tưởng coi trọng gia đình.
Việt Nam là một nước nông nghiệp ở phương Đông, gia đình từ xưa tới nay
vẫn có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cá nhân và xã hội. Với nền văn minh
lúa nước, người dân Việt Nam về cơ bản là sống định cư, lấy gia đình là đơn vị
gốc. Tình cảm, tâm lý của người Việt gắn với gia đình rất sâu nặng, bền chặt. Gia
đình lại không tách rời họ hàng và làng xóm, cho nên, gia đình Việt Nam đã trải
qua nhiều biến động cùng với sự phát triển của đất nước.
Gia đình truyền thống vẫn được coi là kiểu gia đình điển hình của văn hóa
Việt Nam, nó có nhiều mặt tích cực và đang ảnh hưởng tới gia đình Việt Nam hiện
nay. Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng phong kiến, Nho giáo, gia đình
được coi là rường cột của xã hội.
+ Tư tưởng trọng hiếu, trọng nghĩa.
Trong gia đình truyền thống Việt Nam đề cao nghĩa tình, sự thủy chung
chồng - vợ; thờ phụng tổ tiên, biết ơn cha mẹ, chữ hiếu được coi trọng hàng đầu;
tôn trọng người già; con cái phải hiếu học, lễ nghĩa, sống có trật tự, kỷ cương...
+ Đề cao đạo đức, bổn phận.
Với gia đình truyền thống ở Việt Nam, mọi thành viên phải ứng xử theo một
tôn ti trật tự, có khuôn phép chặt chẽ và nó chỉ đạo mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình và hệ thống thân tộc; mỗi người đều có bổn phận riêng và phải
thực hiện đầy đủ bổn phận của mình; kính trên nhường dưới, lợi ích cá nhân phục
tùng lợi ích gia đình, lợi ích dòng họ.
Như vậy, gia đình Việt Nam truyền thống là loại gia đình gắn liền với dòng
họ, với làng xóm, với xã hội; coi trọng thờ cúng tổ tiên, thành hoàng; đề cao nghĩa
tình, hiếu thảo, thủy chung... Những giá trị đó đã làm cho độ cố kết của gia đình
bền chặt, ít có sự chia ly, phân tán; người già được quan tâm, chăm sóc. Mặt khác,
trong gia đình truyền thống, mọi hành vi cá nhân phải phù hợp với lợi ích không
chỉ của gia đình mà còn của dòng họ, của làng xã, các thành viên trong gia đình có
trách nhiệm gìn giữ truyền thống của gia đình, làng, xóm. Mọi hành vi trái với
truyền thống gia đình, với truyền thống dòng họ và làng xóm đều không có cơ hội
tồn tại. Nhờ đó, môi trường gia đình thường lành mạnh, trong sạch, ít có tệ nạn xã
hội, hoặc trẻ em hư.
Đây là những giá trị tích cực đối với việc xây dựng gia đình nói chung và
đối với vấn đề dân số và phát triển nói riêng, cần được giữ gìn, phát triển trong giai
đoạn hiện nay.
- Những yếu tố tiêu cực của truyền thống tác động đến gia đình Việt Nam
hiện nay
Do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo sâu sắc, gia đình truyền thống
Việt Nam cũng là kiểu gia đình Nho giáo phong kiến, có nhiều mặt hạn chế sau
đây:
+ Tư tưởng trọng nam, khinh nữ, bất bình đẳng giữa chồng và vợ khá rõ rệt.
Gia đình truyền thống Việt Nam là kiểu gia đình phụ quyền gia trưởng.
Người đàn ông, người chồng, người cha được coi trọng, có uy tín tuyệt đối trong
gia đình; là người lo việc xã hội, sản xuất, kiếm tiền và có quyền quyết định những
công việc lớn như làm nhà, dựng vợ, gả chồng cho con cái, đối ngoại... Tư tưởng
trọng nam khinh nữ còn khá nặng nề trong xã hội. Trong gia đình đề cao vai trò
của con trai hơn con gái, nhất là con trai trưởng. Người con gái, con dâu, người mẹ
thường chịu thiệt thòi, phải đảm nhận hầu hết công việc hàng ngày trong sinh hoạt
gia đình, không được tham gia ra quyết định công việc gia đình, không được thừa
kế tài sản ngang với anh em trai, không được ghi tên vào gia phả. “Nữ nhi ngoại
tộc”, người phụ nữ có vị trí thứ yếu trong gia đình và ngoài xã hội.
+ Tư tưởng cổ hủ lạc hậu.
Trong các gia đình Việt Nam trước đây, nạn đa thê được chấp nhận theo tư
tưởng: “trai năm thê, bảy thiếp; gái chính chuyên một chồng”, chỉ cần đảm bảo lợi
ích cho người đàn ông hoặc cho dòng họ mà không tính đến lợi ích của người phụ
nữ; mặt khác, coi việc có nhiều con là phúc, lộc của gia đình với quan niệm: trời
sinh voi, trời sinh cỏ. Hơn nữa, trong gia đình có nhiều thế hệ cùng sinh sống (tam,
tứ, đại đồng đường)...
Những tư tưởng tập quán cũ, lạc hậu trong các gia đình truyền thống đang có
ảnh hưởng lớn tới vấn đề dân số và phát triển cũng như sức khỏe sinh sản như: nạn
đa thê, nhiều con và tâm lý phải có con trai đang là những nguyên nhân chính cản
trở việc thực hiện chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam. Mặt
khác, do phải sinh đẻ nên sức khỏe của người phụ nữ không được đảm bảo an toàn;
do có nhiều con các gia đình không có điều kiện tốt cho việc ăn học, phát triển của
con cái; do tư tưởng trọng nam khinh nữ nên trẻ em gái được quan tâm ít hơn trẻ
em trai về ăn, mặc, học hành, tài sản...; vị trí người phụ nữ thấp kém nên họ ít có
điều kiện để phát triển, luôn bị tụt hậu, tự ti, an phận; nạn đa thê càng làm tăng sức
ép dân số cũng như chất lượng dân số của quốc gia.
b. Những tác động của kinh tế thị trường, mở cửa, giao lưu và hội nhập
đến gia đình Việt Nam hiện nay
- Những tác động tích cực
Từ khi thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam có rất nhiều đổi thay theo hướng tích cực có
ảnh hưởng trực tiếp tới việc xây dựng gia đình, đó là:
+ Nền kinh tế phát triển nhanh, thu nhập và đời sống vật chất của đại đa số
các gia đình đã được cải thiện đáng kể. Nhiều gia đình đã vươn lên làm ăn kinh tế
và trở nên giàu có, thậm chí trở thành tỷ phú.
+ Sự năng động, dám nghĩ, dám làm của các cá nhân tạo điều kiện cho họ
mở rộng tầm nhìn, tiếp thu những giá trị mới, tiến bộ, phù hợp để phát triển, như:
tự do, dân chủ, bình đẳng...
Có thể nói, cơ chế thị trường, sự giao lưu, hội nhập đã tạo nhiều cơ hội cho
các gia đình phát triển kinh tế, nhờ đó, các thành viên của gia đình được chăm sóc
về vật chất, sức khỏe, được giao lưu để nâng cao hiểu biết. Đây cũng chính là điều
kiện để nâng cao chất lượng dân số, sức khỏe sinh sản và góp phần phát triển
nguồn lực con người của Việt Nam.
- Những yếu tố tiêu cực
Tuy nhiên, cơ chế thị trường, giao lưu, hội nhập cũng đem đến nhiều yếu tố
tiêu cực đối với việc xây dựng gia đình văn hóa, qua đó ảnh hưởng trực tiếp tới vấn
đề dân số và phát triển, cũng như sức khỏe sinh sản.
+ Một số gia đình quá đề cao chức năng kinh tế, xem nhẹ các chức năng
khác, nhất là chức năng giáo dục, chức năng cân bằng tâm sinh lý, tình cảm... do
đó, trẻ em ít được quan tâm, giáo dục đầy đủ. Có gia đình phó mặc con cái cho nhà
trường hoặc người giúp việc, cho xã hội, trong khi đó, môi trường xã hội hiện nay
hết sức phức tạp. Sự thiếu hụt trong quan tâm, giáo dục của cha mẹ đối với trẻ em
ở một số gia đình đã đẩy các em tới gần hơn với các tệ nạn xã hội như nghiện hút,
cờ bạc, mại dâm, trộm cướp. Một nghịch lý đang diễn ra trong xã hội ta là, tỷ lệ trẻ
em hư của gia đình giàu có ngày càng tăng cao hơn so với gia đình nghèo.
+ Một số giá trị của gia đình truyền thống bị đảo lộn, một số người coi
trọng kinh tế, coi trọng và đề cao quyền lực vật chất, xem nhẹ, thậm chí bất chấp
các quan hệ tình cảm khác. Mọi mối quan hệ trong gia đình, dòng họ, làng xóm đối
với họ đều được đem chiếu qua lăng kính đồng tiền; đạo lý thông thường và những
giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình truyền thống nhiều khi bị chà đạp.
+ Lối sống thực dụng xuất hiện ngày càng tăng nhiều, đề cao lợi ích cá
nhân, coi trọng sự hưởng thụ cá nhân, đòi hỏi nhiều hơn cống hiến bất chấp điều
kiện và đặc điểm của gia đình gây nên những mâu thuẫn lớn giữa thế hệ già và thế
hệ trẻ.
+ Các thành viên trong gia đình ít được quan tâm, chăm sóc (nhất là người
già và trẻ em), do đó, độ cố kết trong gia đình lỏng lẻo. Quan hệ cha mẹ - con cái;
quan hệ vợ - chồng không bền chặt như trước đây và đôi khi bị chi phối bởi giá trị
vật chất; tình nghĩa vợ chồng, sự thủy chung chồng vợ; lòng kính trọng, biết ơn; sự
hiếu thảo, sự nhường nhịn giữa các thành viên trong gia đình có xu hướng giảm
dần.
+ Lối sống, cách ứng xử của phương Tây tràn vào các gia đình và xã hội ta;
nhiều hiện tượng xã hội trước đây bị lên án gay gắt thì nay dường như trở thành xu
hướng phổ biến: nghiện hút, mại dâm, ngoại tình...
Như vậy, cơ chế thị trường, giao lưu hội nhập cũng đang đem lại những mặt
trái, mặt tiêu cực cho gia đình Việt Nam, cần phải được quan tâm để hạn chế, tìm
biện pháp khắc phục. Những yếu tố trên đang ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng
dân số quốc gia, nhất là thế hệ trẻ - nguồn lực quan trọng của đất nước, đòi hỏi
trong quá trình xây dựng gia đình Việt Nam phải coi đó là những yếu tố cản trở lớn
và có hướng giải quyết kịp thời
5. Phương hướng xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay
Xây dựng gia đình Việt Nam theo tiêu chí của gia đình văn hóa: no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Những tiêu chí này dựa trên những định hướng cơ bản
sau:
- Xây dựng gia đình trên cơ sở kế thừa các giá trị truyền thống và kết hợp
những yếu tố mới, tiến bộ.
- Thực hiện hôn nhân tiến bộ một vợ, một chồng trên cơ sở tự nguyện.
- Xây dựng mối quan hệ bình đẳng yêu thương gắn bó giữa các thành viên
trong gia đình.
- Đảm bảo quyền tự do ly hôn và tiếp tục sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã chỉ rõ phương hướng xây
dựng gia đình Việt Nam như sau: “Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của
gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ
ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình
thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa
truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”
Câu 12. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Leenin về vấn đề dân
tộc và nội dung cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Leenin. Liên hệ với
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết mối quan hệ dân
tộc ở Việt Nam hiện nay.
Vấn đề dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng XHCN
và  hiện nay cũng đang là một vấn đề thực tiễn nóng bỏng. Hàng ngày, hàng giờ
qua các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta luôn được nghe, được thấy các
cuộc chiến tranh đã, đang và nhiều nơi trên thế giới có nguy cơ xảy ra chiến tranh
giữa các dân tộc, sắc tộc. Những vấn đề về chiến tranh dân tộc đang đặt ra trên thế
giới đòi hỏi phải được giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng. Thế giới đã có
những giải pháp khác nhau từ đàm phán chính trị đến quân sự… nhưng nó chỉ có
thể tạm lắng xuống vào từng thời điểm và luôn có nguy cơ bùng nổ trở lại. Sở dĩ
như vậy là vì các giải pháp đưa ra không hoàn chỉnh, triệt để, thậm chí chỉ là
những mưu lược để “nén” vấn đề dân tộc lại. Để giải quyết tốt vấn đề dân tộc, cần
hiểu rõ vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc cần giải quyết ra sao, qua
đó xác định được tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề dân tộc, xác định xu
hướng khách quan của sự phát triển dân tộc và từ đó đề ra phương hướng giải
quyết tốt nhất, triệt để nhất. Điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở nghiên
cứu và vận dụng các quan điểm khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin
về vấn đề dân tộc .
1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc:
- Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh trong quan hệ giữa các dân tộc
diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội tác động xấu đến mỗi dân tộc và quan hệ
giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc với nhau cần phải giảiquyết.
- Khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có những
mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung của
cộng đồng và trong sinh hoạt văn hoá có những nét đặc thù so với cộng đồng khác;
xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác của các
thành viên trong cộng đồng đó
- Hơn nữa, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền
vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống
nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hoá, truyền thống đấu tranh chung
trong quá trình dựng nước và giữ nước.
- Khi nghiên cứu về dân tộc, quan hệ dân tộc và những xu hướng phát triển
của nó, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa
xã hội, khi tình trạng áp bức giai cấp, tình trạng bóc lột người bị thủ tiêu thì tình
trạng áp bức dân tộc cũng bị xoá bỏ.Với thắng lợi của cách mạng vô sản, giai cấp
công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền tạo tiền đề cho tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đồng thời cũng mở ra quá trình hình thành và phát triển của dân tộc
xã hội chủ nghĩa.
- Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng quan hệ dân tộc bình đẳng
hợp tác giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, làm phong phú thêm giá trị chung cua quốc gia
dân tộc, đưa dân tộc tới sự phồn vinh, hạnh phúc.Vấn đề dântộc là một bộ phận của
những vấn đề chung về cách mạng vô sản. Chủ nghĩa Mac– Lênin cũng nhấn mạnh
rằng khi xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng trên lập trường giai cấp
công nhân, dựa trên cơ sở và lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc. Giải quyết vấn đề
dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong
một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội.
- Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng liêng của các dân
tộc.Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay
thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền về kinh tế, chính
trị, văn hoá, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào. Trong một quốc gia có nhiều dân
tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được
thực hiện trong thực tế, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.Trong
quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa
2. Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin 
Trước tiên, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được hình thành và
phát triển trong lịch sử, sống trên cùng một lãnh thổ nhất định, có chung một mối
quan hệ về kinh tế, ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý. Đặc trưng chung cơ bản và quan
trọng nhất của một dân tộc là có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế - đây là
cơ sở nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc. 
Trên thế giới, sự hình thành của các cộng đồng dân tộc diễn ra không đồng
đều. Ở Châu Âu, dân tộc ra đời gắn liền với sự ra đời và phát triển của CNTB; còn
ở châu Á, trước khi CNTB thâm nhập, do trong quá trình đấu tranh chống giặc
ngoại xâm và thiên nhiên để sinh tồn, các cộng đồng người kết hợp lại với nhau
hình thành một quốc gia độc lập, vì thế dân tộc được ra đời sớm hơn khi CNTB
hình thành.
Từ khi dân tộc ra đời, vấn đề dân tộc luôn luôn được đặt ra và thu hút sự chú
ý của mọi giai cấp và tầng lớp xã hội quan tâm. Nội dung của vấn đề dân tộc, trước
tiên là quan hệ giữa các tộc người trong một xã hội nằm trong khuôn khổ một quốc
gia dân tộc về các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, ngôn ngữ… và những vấn đề
này thường kết hợp với những lợi ích giai cấp, nên các phong trào dân tộc đều
mang tính giai cấp sâu sắc. Ngày nay, tình hình dân tộc trên thế giới diễn biến rất
phức tạp, đa dạng và gay gắt, giảii quyết vấn đề này ở từng lúc, từng nơi có khi
phải bằng vũ trang quân sự. Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề
quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân
tộc, như ở Tiệp Khắc cũ, Liên Xô cũ, Nam Tư cũ, Inđônêsia hay vấn đề ở Đông
Timor... Vấn đề dân tộc còn đề cập đến quan hệ giữa các quốc gia dân tộc và sự
phát triển của thế giới nói chung với tư cách là công đồng quốc tế của các dân tộc.
Vấn đề dân tộc luôn gắn với tính giai cấp và mỗi giai cấp đều xuất phát từ
lợi ích của giai cấp mình trong quan niệm và tham gia phong trào dân tộc. Đối với
các nước XHCN thì bao giờ quan hệ dân tộc và quan hệ giai cấp cũng gắn bó với
nhau, giải quyết vấn đề dân tộc chính là giải quyết vấn đề giai cấp và ngược lại.
Còn đối với các nước TBCN thì giai cấp thống trị luôn lợi dụng vấn đề dân tộc để
phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, vì thế quan hệ dân tộc và quan hệ giai
cấp tách rời nhau, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp tách rời nhau.
Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trong điều kiện của
CNTB, Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc.
Một là xu hướng phân lập, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức dân tộc mà các
cộng đồng dân cư muốn tách ra thành lập quốc gia dân tộc độc lập. Hai là xu
hứơng liên hiệp giữa các dân tộc lại với nhau, do sự phát triển của LLSX, của khoa
học và công nghệ. Ngày nay, các dân tộc có xu hướng liên kết, hợp tác với nhau
trong quan hệ thị trường mở rộng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và
cùng có lợi (Ví dụ như thị trường chung châu Âu, châu Á (ASEAN)…). Tuy nhiên,
hai xu thế này là một thể thống nhất, mỗi nước đều có chủ quyền độc lập, quyền tự
chủ, tự quyết nhằm xây dựng quốc gia dân tộc mình phồn vinh, công bằng, văn
minh bên cạnh sự hòa nhập cộng đồng quốc tế. Hiện nay, vấn đề dân tộc, giai cấp
đã trở thành một vấn đề vừa có tính quốc gia, vừa có tính quốc tế, vừa có tính thời
sự vừa có tính lâu dài.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và
dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm phong trào cách mạng thế giới trong việc gỉai
quyết  vấn đề dân tộc, Lênin đã đưa ra Cương lĩnh Dân tộc với 3 vấn đề chính bao
gồm : 
- Một là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Quyền bình đẳng của các dân
tộc là quyền thiêng liêng, không phân biệt dân tộc đông người hay ít người, lớn
hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc, màu da….
Nghĩa là tất cả đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau. Thực chất của bình đẳng
dân tộc là xóa bỏ sự nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác. Từng bước xóa
bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Bình đẳng phải được thực
hiện trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…. Trong một quốc gia
có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và
phải được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên phạm vi giữa các
quốc gia, đấu tranh cho quyền bình đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện nay phải gắn
với cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, chống chủ nghĩa sôvanh (nước lớn
bắt nạt nước bé), chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với
các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Hai là các dân tộc được quyền tự quyết: là quyền làm chủ của mỗi dân tộc
đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và
con đường phát triển riêng không bị lệ thuộc vào bên ngoài. Đây cũng là quyền
thiêng liêng cơ bản của mỗi dân tộc. Bao gồm: Quyền tự do độc lập về chính trị,
quyền thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc chứ không
phải xuất phát từ mưu đồ lợi ích của một nhóm người nào đó. Và quyền tự nguyện
liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh
chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia dân
tộc. Khi xem xét quyền tự quyết của dân tộc cần phải đứng trên lập trường giai cấp
công nhân, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu thủ đoạn, lợi dụng chiêu bài dân
tộc tự quyết để can thiệp vũ trang và áp bức các dân tộc khác.
- Ba là liên hiệp công nhân giữa các dân tộc: đó là sự đoàn kết của giai cấp
công nhân các dân tộc trên toàn thế giới để đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch, nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Đó là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong
trào công nhân. Điều đó xuất phát từ bản chất quốc tế, tinh thần quốc tế vô sản của
giai cấp công nhân giải phóng dân tộc mình và giải phóng các dân tộc khác cùng
cảnh ngộ; do chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản trong các nước tư bản cấu kết
nhau, bắt tay nhau chống lại phong trào công nhân, phong trào cách mạng. Vì vậy,
giai cấp công nhân phải đoàn kết liên hiệp lại với nhau để đấu tranh chống lại
chúng. Vì vậy đoàn kết giai cấp công nhân giữa các quốc gia dân tộc là nhân tố
quan trọng để giải quyết các vấn đề dân tộc . 
Cả ba nội dung trên đều quan trọng, khi vận dụng cần sáng tạo không được
xem nhẹ vấn đề nào. Thực tiễn cách mạng trên thế giới trong thời gian qua đã
chứng minh được tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của Cương lĩnh. Những nơi
nào, thời điểm nào quốc gia nào vận dụng đúng đem lại thành quả hết sức to lớn,
ngược lại khi vận dụng sai hoặc bóp méo lý luận dẫn đến thất bại, trì trệ thậm chí
bị tan rã, sụp đổ …. 
Nhìn chung, Cương lĩnh dân tộc của Lênin đã có những tác dụng tích cực
cho các nước trong tiến trình cách mạng XHCN. Đó là cơ sở cho đoàn kết công
nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc; đoàn kết giai cấp công nhân gắn
với phong trào giải phóng dân tộc giúp cho các nước bị thực dân, đế quốc xâm
lược có lối thoát trên cơ sở đó tạo điều kiện cho cách mạng vô sản ở các nước sớm
nổ ra. Đồng thời, cương lĩnh còn giúp cho các nước khi giai cấp công nhân và nhân
dân lao động giành được chính quyền, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới thực
hiện chính sách dân tộc phù hợp với cương lĩnh mà Lênin đã nêu ra.
Sự vận dụng cương lĩnh Lênin ở các nước XHCN trước đây đã tạo nên nhiều
thành tựu trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Tình trạng người bóc lột người bị
thủ tiêu, tình trạnh dân tộc này áp bức dân tộc khác dần bị xóa bỏ, nhiều dân tộc bỏ
qua trình độ lạc hậu tiến lên CNXH. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu lại phạm
phải những sai lầm thiếu sót trầm trọng gây hậu quả tiêu cực nghiêm trọng buộâc
một số  nước phải trả giá đắt. Song hiện nay ở một số nước XHCN, các quan điểm
của Lênin về vấn đề dân tộc đã và đang phục hồi phát triển.
2. Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay.
Trên quan điểm của chủ nghĩa  Mác-Lênin, đặc biệt là vận dụng Cương lĩnh
dân tộc của Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, xuất
phát từ thực tiễn lịch sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt
Nam, Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi thành lập đã xem vấn đề dân tộc và xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc có tầm quan trọng hàng đầu.
Việt Nam là một quốc gia độc lập, một quốc gia đa sắc tộc, với 54 dân tộc
anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam. Trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng
87% trong tổng số dân cả nước. Trình độ phát triển về văn hóa xã hội giữa các dân
tộc có sự chênh lệch nhau. Đời sống kinh tế từng vùng khác nhau rất xa, từ đó dẫn
đến đời sống văn hóa, xã hội, chính trị … có sự cách biệt. Tuy nhiên do đặc thù về
địa lý, nên các tộc người Việt Nam đã sớm đoàn kết lại, hợp thành sức mạnh để
chống đỡ, khắc phục thiên nhiên và chống ngoại xâm. Từ đó đồng bào các dân tộc
Việt Nam luôn có truyền thống cách mạng, lòng tự hào dân tộc, yêu nước, yêu
CNXH, có ý chí khắc phục khó khăn, tự vươn lên để khẳng định mình. Đây là đặc
điểm bao trùm, nổi bật của dân tộc Việt Nam. 
Tính xen kẻ đan xen giữa các tộc người khác nhau đã tạo nên nét văn hóa đa
dạng, phong phú trong lối sống, phong tục tập quán. Mỗi dân tộc có một ngôn ngữ
riêng, một số dân tộc thiểu số có cả chữ viết riêng, nhưng đều lấy tiếng Việt làm
phương tiện ngôn ngữ giao tiếp thống nhất chung.
Do những đặc điểm trên, nên các dân tộc Việt Nam có sự hợp tác, gắn bó
nhau trong một cộng đồng dân tộc, trong một Tổ quốc Việt Nam thống nhất. Song
từ xưa đến nay, vấn đề dân tộc luôn là vấn đề rộng lớn, phức tạp và lâu dài, cần
phải xem xét nó như là vấn đề chính trị, xã hội rộng lớn, toàn diện gắn liền với
mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam. 
Xuất phát từ nhiệm vụ đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương
tạo ra một quan hệ mới giữa các dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa
song song với việc phát huy tiềm lực kinh tế ở các vùng đồng bào dân tộc ít người
và bảo tồn vốn văn hóa quý báu, đặc thù của các dân tộc và phát huy truyền thống
đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta luôn xem vấn đề dân tộc
là vấn đề quan trọng có tính chiến lược, là yếu tố phát huy sức mạnh tổng hợp, khai
thác mọi tiềm năng của các thành phần dân tộc trong sự nghiệp cách mạng XHCN,
nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay trên tinh thần “đại đoàn kết dân tộc”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta
xác định: Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo
mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó
mật thiết với sự phát triển chung của các cộng đồng dân tộc Việt Nam
Từ quan điểm trên, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là
phát triển mọi mặt về kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng, từng bước khắc phục dần
sự chênh lệch giữa các vùng đồng bằng, trung du, miền núi, để xây dựng và củng
cố mối quan hệ đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở tôn trọng lợi ích,
truyền  thống lịch sử , văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc. 
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta thể hiện tập trung một số nội
dung, nhiệm vụ chủ yếu như: Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhằm khắc
phục tình trạng kinh tế tự cung tự cấp, mở rộng giao lưu hàng hoá, ổn định và từng
bước cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc ít người. Cụ thể là các chương trình
135, chương trình Xóa đói giảm nghèo; các chương trình điện, đường, trường, trạm
để phát triển giao thông giữa các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thuận lợi hơn,
đưa điện lưới quốc gia về tận các vùng đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi
cho con em và đồng bào dân tộc được khám chữa bệnh và đến trường… Chính phủ
đặt sự phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số trong quan hệ hữu cơ với các vùng
trong cả nước và trong quan hệ phân công lao động quốc tế là nhu cầu đòi hỏi
khách quan. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN phù
hợp với điều kiện, trình độ sản xuất nhằm khai thác tiểm năng thế mạnh của từng
vùng dân tộc, đặc biệt các vùng dân tộc ít người. Đổi mới chính sách đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển và xây dựng nông thôn mới; thực hiện vững
chắc công tác định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc miền núi; sắp xếp bố trí
lao động dân cư trên quy mô cả nước.
Chú trọng nâng cao trình độ dân trí, phát triển văn hóa, tư tưởng và đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ người dân tộc. Tôn trọng phong tục, tập quán, tín ngưỡng, truyền
thống và bản sắc văn hóa các dân tộc.
Thực hiện chính sách đại đòan kết dân tộc, xây dựng cơ cấu xã hội giai cấp
mới, cùng với quá trình phát triển KT-XH miền núi, làm tăng thên chất lượng mới
trong quan hệ giữa các dân tộc. Thực hiện dân chủ hoá xã hội giữa các vùng dân
tộc. Tránh mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, áp đặt một cách quan liêu mệnh lệnh
làm mất khả năng sáng tạo của quần chúng các dân tộc.
Bên cạnh, Đảng và Nhà nước còn có chính sách đối ngoại về vấn đề dân tộc.
Với nội dung tư tưởng là: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế
giới, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, cả song
phương, đa phương, trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ
quyền và cùng có lợi. Đặc biệt, Việt Nam tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với
các nước trong khu vực trên tinh thần láng giềng thân thiện, cởi mở. Tham gia tích
cực vào tổ chức ASEAN, tôn trọng chủ quyền, không can thiệp vào nội bộï của
nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Đối với các quốc gia có những  tộc người có
quan hệ với các tộc người ở Việt Nam thì thái độ của Việt Nam đúng mực, tôn
trọng phong tục, tập quán, thói quen, tín ngưỡng của các tộc người đó, nhưng phải
tuân thủ theo quy định của Pháp luật VN (như đồng bào Khmer ở Nam Bộ, đồng
bào Chăm, HMông ở Tây Nguyên…)
Trong Văn kiện Đại hội IV của Đảng có nêu: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết
dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính
sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, xây
dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, phát triển SX hàng hóa. Chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn làm giàu và phát huy
bản sắc văn hóavà thống nhất tốt đẹp của các dân tộc, thực hiện công bằng xã hội
giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm đến vùng gặp
nhiều khó khăn, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính
sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên phát
huy vai trò của người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ
thị chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan,
khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”. 
Kế thừa và tiếp thu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra Chiến lược lâu dài về vấn đề dân tộc. Và như ta thấy, dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng mà 54 dân tộc anh em trong cộng đồng Việt Nam luôn kề vai, sát
cánh, đoàn kết, yêu thương chống giặc ngoại xâm và đang cùng nhau ra sức xây
dựng thành công CNXH ở Việt Nam , bất chấp âm mưu “diễn biến hòa bình”, chia
rẽ dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Từ đó càng khẳng định
cho chân lý sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một, dân tộc
Việt Nam  là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ
thay đổi”.

You might also like