You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRƯỜNG KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


KHOA: LUẬT HỌC

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Giảng viên : Ngô Thị Thu Hoài


Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Khánh Linh
Số báo danh : 98
Mã sinh viên : 215738010110044

Nghệ An, tháng 1 năm 2022


MỤC LỤC
I.PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................3
II. PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................3
1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh quan hệ xã hội và vị trí, vai trò của
pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội.....................3
1.1 Khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội.....................................................3
1.2. Sự cần thiết của việc điều chỉnh quan hệ xã hội....................................3
1.3. Hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội.........................................4
1.4. Vị trí, vai trò của pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ
xã hội............................................................................................................4
1.5. Vai trò của sinh viên góp phần khẳng định ý nghĩa, vai trò của pháp
luật trong đời sống........................................................................................5
2. Nhà nước pháp quyền................................................................................5
2.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền...........................................................5
2.2. Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền...............................6
2.3. Vai trò của pháp luật Việt Nam đối với việc bảo vệ, bảo đảm quyền,
lợi ích chính đáng của con người trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền hiện nay..............................................................................................7
III. PHẦN KẾT LUẬN.......................................................................................8
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................10

2
I.PHẦN MỞ ĐÂU
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân là mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Một trong
những yêu cầu quan trọng của Nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng là quản lý đất nước và xã hội bằng pháp
luật. Vì vậy, có thể thấy Nhà nước pháp quyền gắn liền với pháp luật và được
hợp pháp hóa bởi pháp luật. Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền, là
công cụ quản lý của Nhà nước. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là sự thể chế hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng để
bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân, bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội,
bảo vệ chế độ, bảo vệ chính quyền nhân dân. Cùng với sự phát triển của xã hội,
đặc biệt là trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở nước ta thì phạm vi điều chỉnh của pháp luật
ngày càng được mở rộng, vai trò của nó ngày càng được nâng cao và không
ngừng được củng cố, hoàn thiện.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh quan hệ xã hội và vị trí, vai trò của
pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
1.1 Khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội
Để duy trì ổn định, trật tự xã hội đòi hỏi các mối quan hệ trong xã hội
phải được điều chỉnh, nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho những quan hệ xã
hội có lợi cho đời sống cộng đồng được tồn tại và phát triển, ngăn chặn và đi tới
loại bỏ những mối quan hệ mà cộng đồng không mong muốn. Điều chỉnh quan
hệ xã hội là sử dụng các công cụ tác động lên các quan hệ xã hội, làm cho
chủng thay đổi và phát triển theo những mục đích, định hướng nhẩt định, nhằm
duy trì và bảo vệ trật tự xã hội.
1.2. Sự cần thiết của việc điều chỉnh quan hệ xã hội
Bản chất của mối quan hệ xã hội là sự tác động qua lại giữa các bên chủ
thể quan hệ xã hội đó. Trong các mối quan hệ xã hội, các bên chủ thể tác động
lẫn nhau thông qua hành vi của mình. Chính vì vậy, điều chỉnh quan hệ xã hội
thực chất là điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó, làm
thay đổi hành vi của họ, trong đó những hành vi có ích cho xã hội sẽ được bảo
vệ và tạo điều kiện phát triển, ngược lại những hành vi có hại cho cộng đồng sẽ
bị ngăn chặn, loại trừ. Trong cuộc sống, mọi người đều không thể tồn tại một
cách biệt lập mà phải tham gia vào các mối quan hệ với người khác, tạo nên hệ
thống các mối quan hệ xã hội vô cùng phức tạp, đan xen chằng chịt với nhau.
Khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội thì mỗi hành vi của người này đều có
thể ảnh hưởng đến lợi ích của người khác cũng như của cả cộng đồng. Trong
điều kiện đó, để đảm bảo lợi ích của mỗi thành viến cũng như sự ổn định, trật tự
của xã hội, đòi hỏi xử sự của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội phải dựa
trên những chuẩn mực nhất định, theo những khuôn mẫu nhất định. Nói cách
khác, chỉ khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội thì hành vi của các chủ thể
mới có thể bị đặt trước nhu cầu cần phải được điều chỉnh. Khi cá nhân sống
3
trong điều kiện riêng rẽ, không tham gia vào mối quan hệ với người khác thì
hành vi của họ cũng không có khả năng ảnh hưởng đến lợi ích của ai. Trong
trường hợp này, không xuất hiện nhu cầu điều chỉnh hành vi của họ. Công cụ
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội là các loại quy phạm xã hội. Chúng được coi
là khuôn mẫu, mô hình, chuẩn mực cho hành vi ứng xử của các chủ thể khi họ
tham gia vào những mối quan hệ xã hội nhất định. Nói cách khác, các mối quan
hệ xã hội được điều chỉnh bằng cách xác định cách thức xử sự cho các chủ thể
quan hệ xã hội đó, quy định quyền, nghĩa vụ cho họ, quy định cho họ những
việc được làm, nên làm, cần phải làm hay không được làm...
1.3. Hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
Các quan hệ xã hội rất phong phú, đa dạng và phức tạp, bởi vậy, để điều
chỉnh chúng một cách có hiệu quả, cần phải có nhiều công cụ khác nhau, bao
gồm pháp luật (thể chế quan phương), đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn
giáo, lệ làng, hương ước, luật tục, quy định của các tổ chức xã hội... (thể chế phi
quan phương). Các công cụ này vừa có sự độc lập, vừa có sự ràng buộc, phụ
thuộc lẫn nhau, họp thành hệ thống công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Ngoài ra, để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội còn có các công cụ khác, chẳng
hạn, thể lệ một cuộc thỉ, điều lệ một giải thi đẩu, các quy tắc về tiêu chuẩn, quy
trình áp dụng trong nội bộ một tổ chức...
1.4. Vị trí, vai trò của pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan
hệ xã hội
Trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội, mỗi công cụ có vị trí,
vai trò khác nhau, tùy thuộc điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, địa lí,
lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng... của quốc gia. Cùng với sự phát triển của đời
sống, vai trò của pháp luật trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
ngày càng được coi trọng, nó ngày càng trở nên thắng thế vai trò của các thể chế
phi quan phương. Trong điều kiện ngày nay, pháp luật trở thành công cụ hàng
đầu, quan trọng và có hiệu quả nhất, công cụ không thể thay thế để điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội, quản lí xã hội.
Pháp luật không đơn nhuần là công cụ quản 11 nhà nước, nó còn được
xác định là công cụ để mỗi người tự bảo vệ lợi ích của mình; công cụ điều chỉnh
các mối quan hệ giữa người với người trong cuộc sổng nhằm thiết lập, duy trì,
bảo vệ trật tự của đời sống chung. Nói cách khác, trong điều kiện ngày nay,
pháp luật không còn được quan niệm là của riêng nhà nước, nó phải được quan
niệm là một loại quy tắc sinh hoạt công cộng, một công cụ để điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội, pháp luật là của chung toàn xã hội. Pháp luật luôn “ngự trị
trong các mối quan hệ xã hội”. Bất kì một thể chế xã hội phi quan phương nào
cũng không thể hoán đổi vị trí của pháp luật, càng không thể thay thế cho pháp
luật. Pháp luật ngày càng có sự hiện diện thường xuyên trong cuộc sống của
từng nhà, từng người. Thượng tôn pháp luật trở thành nguyên tắc ứng xử của
toàn xã hội. Chính vì vậy, nhìn chung các nhà nước trên thế giới đều sử dụng
pháp luật làm công cụ chủ yếu để quản lí xã hội. Hiến pháp Việt Nam năm 2013
quy định: nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật.
4
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vượt trội, pháp luật cũng có những
hạn chế nhất định. Pháp luật không thể điều chỉnh được tất cả các quan hệ xã
hội, những quan hệ xã hội được thiết lập trên cơ sở tình cảm của con người
pháp luật không điều chỉnh được. Mặt khác, biện pháp cưỡng chế nhà nước
không phải khi nào cũng đem lại hiệu quả như mong muốn. Đối với những chủ
thể trong những điều kiện “không còn gì để mất” thì cưỡng chế chưa hẳn đã có
ý nghĩa đối với họ, kể cả biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Ngược lại, sự
tác động của dư luận xã hội (biện pháp đảm bảo thực hiện của các thể chế phi
quan phương) nhiều khi rất có tác dụng, thậm chí, có trường hợp dư luận còn có
thể khiến người ta xử sự một cách cực đoan là tự tìm đến cái chết. Niềm tin, đặc
biệt là niềm tin tôn giáo là nhân tố có sức mạnh to lớn, thúc đẩy người ta thực
hiện hành vi một cách triệt để, tận tâm, đến cùng.
1.5. Vai trò của sinh viên góp phần khẳng định ý nghĩa, vai trò của pháp
luật trong đời sống
2. Nhà nước pháp quyền
2.1. Khái niệm nhà nước pháp quyền
Trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở các nước trên
thế giới, có thể thấy khá nhiều quan niệm về nhà nước pháp quyền. Chẳng
hạn, “Nhà nước pháp quyền là một nhà nước gắn chặt với pháp luật và được
hợp pháp hoả bởi pháp luật”; “Nhà nước pháp quyền là toàn thể một quổc gia có
trách nhiệm thực hiện công lí, phục tùng pháp luật và quan tâm đặc biệt đến
việc tôn trọng các quyền của con người và nguyên tắc tương ứng”
Ở Việt Nam, quan niệm về nhà nước pháp quyền cũng khá phong phú.
Chẳng hạn, có tác giả quan niệm rằng, nhà nước pháp quyền “là Nhà nước thừa
nhận tẩt cả các đạo luật và văn bản dưới luật do cơ quan lập pháp và Chính phủ
(trong khuôn khổ thẩm quyền của nó) đặt ra, đó là Nhà nước bị hạn chế bằng
pháp luật, Nhà nước đứng trong pháp luật, chứ không phải Nhà nước đứng
ngoài hoặc đứng trên pháp luật”
Tác giả khác lại quan niệm rằng, “Nhà nước pháp quyền là tổ chức công
quyền trong hệ thống chỉnh trị của xã hội công dân được xây dựng trên nền tảng
các tư tưởng pháp lí tiến bộ của nhăn loại như công bằng, nhân đạo, dân chủ và
pháp chế, nhằm đảm bảo thực sự những giả trị xã hội được thừa nhận chung của
nền văn minh thế giới - sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con
người, sự ngự trị của pháp luật trong lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, sự phân
công quyền lực (lập pháp, hành pháp, tư pháp) và chủ quyền nhân dân”...
Từ những quan niệm nêu trên cũng như xuất phát từ biểu hiện của những
nhà nước pháp quyền trong thực tiễn, có thể khẳng định, nhà nước pháp quyền
trước tiên phải là nhà nước theo đúng nghĩa của từ này - tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị, tổ chức công quyền của xã hội. Tuy nhiên, nhà nước pháp
quyền không phải là một kiểu nhà nước tưong ứng với một hình thái kinh tế - xã
hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhà nước pháp quyền là một
nhà nước có cách thức tổ chức và hoạt động hoàn toàn khác các nhà nước độc
tài, chuyên chế, nhà nước cai trị. Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt
5
động trong khuôn khổ pháp luật, đó là hệ thống pháp luật dân chủ, phản ánh
công lí, phù hợp với quyền tự nhiên của con người. Nhà nước pháp quyền được
tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ quyền nhân dân, có cơ chế phân công, kiểm
soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người, tự do cá nhân.
Nhà nước pháp quyền là công cụ để phục vụ xã hội, phục vụ con người, mang
lại lợi ích cho công dân, bảo vệ tự do cá nhân và công bằng xã hội. Nhà nước
cũng như các chủ thể khác trong xã hội đều luôn tôn trọng và thực hiện pháp
luật một cách nghiêm chỉnh.
Tóm lại, có thể hiểu: Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai trò của
pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động trên cơ sở
một hệ thống pháp luật dần chủ, công bằng và các nguyên tắc chủ quyên nhân
dãn, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền con
người, tự do cá nhân, công bằng, bình đắng trong xã hội.
2.2. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ
vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ
nhà nước. Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền
dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện
quyền dân chủ của mình thông qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối
với toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến
và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên
không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả
năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp
luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà
nước và xã hội.
Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người
trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội. Quyền con người là tiêu
chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà
nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi
điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của
luật pháp. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về
phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà nước
và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được
làm những gì luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ những điều
luật cấm.
Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực
hiện theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực.
Tính chất và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa dạng,
tuỳ thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm
chung là quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ
quan, mà phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong
6
việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời,
việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế
kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ
máy nhà nước.Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật phù hợp. Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một
hệ thống pháp luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp
và pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho
Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể
đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao,
bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định
của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với
bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi
một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo
vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn
trong các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội. Trong
mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh tế thị
trường, theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan của
thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời khắc
phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường. Trong mối quan hệ với xã hội,
Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trò
và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu trúc xã hội (các tổ chức xã hội, các cộng
đồng xã hội). Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, xã hội là mối quan hệ tương
tác, quy định và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội.
Nhà nước pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội
trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật.
2.3. Vai trò của pháp luật Việt Nam đối với việc bảo vệ, bảo đảm quyền,
lợi ích chính đáng của con người trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền hiện nay
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc
thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của Nhà nước để điều chỉnh các
quan hệ xã hội đồng thời bảo vệ địa vị giai cấp thống trị hay giai cấp cầm
quyền. Mục tiêu của sự nghiệp cách mạng là giải phóng con người, vì vậy, quan
điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước là bảo
vệ quyền con người, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, đem
lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho mỗi người. Đây có thể coi là một
chính sách nhất quán của nhà nước ta. Pháp luật nước ta ra đời chính là sự cụ
thể hóa của quan điểm chính sách nhất quán này. Lần đầu tiên về mặt pháp lý,
lần đầu tiên khái niệm “quyền con người” được đề cập tại Ðiều 50 Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992: “ Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
7
hóa và xã hội được tôn trọng…”. Pháp luật là phương tiện chính thức hóa các
giá trị xã hội của quyền con người, làm cho quyền con người trở thành ý chí và
mục tiêu hành động của xã hội. Pháp luật là tiền đề ,nền tảng tạo cơ sở pháp lý
để công dân đấu tranh bảo vệ quyền con người. Vai trò hàng đầu của pháp luật
trong việc thực hiện quyền con người thể hiện trong mối quan hệ giữa pháp luật
và các điều kiện khác (chính trị, kinh tế, văn hóa …) các điều kiện trên đều phải
thông qua pháp luật, thể hiện dưới hình thức pháp luật mới trở thành giá trị xã
hội ổn định, được hiện thực hóa trên qui mô toàn xã hội. Chỉ có như vậy thì các
điều kiện đó mới phát huy được vai trò của mình trong việc thực hiện và bảo vệ
quyền con người.
III. PHẦN KẾT LUẬN
Bản chất của mối quan hệ xã hội là sự tác động qua lại giữa các bên chủ
thể quan hệ xã hội đó. Trong các mối quan hệ xã hội, các bên chủ thể tác động
lẫn nhau thông qua hành vi của mình. Chính vì vậy, điều chỉnh quan hệ xã hội
thực chất là điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó, làm
thay đổi hành vi của họ, trong đó những hành vi có ích cho xã hội sẽ được bảo
vệ và tạo điều kiện phát triển, ngược lại những hành vi có hại cho cộng đồng sẽ
bị ngăn chặn, loại trừ. Trong điều kiện ngày nay, pháp luật trở thành công cụ
hàng đầu, quan trọng và có hiệu quả nhất, công cụ không thể thay thế để điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội, quản lí xã hội. Pháp luật không đơn nhuần là
công cụ quản 11 nhà nước, nó còn được xác định là công cụ để mỗi người tự
bảo vệ lợi ích của mình; công cụ điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với
người trong cuộc sổng nhằm thiết lập, duy trì, bảo vệ trật tự của đời sống chung.
Trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ở các nước trên
thế giới, có thể thấy khá nhiều quan niệm về nhà nước pháp quyền. Ở Việt Nam,
quan niệm về nhà nước pháp quyền cũng khá phong phú. Chẳng hạn, có tác giả
quan niệm rằng, nhà nước pháp quyền “là Nhà nước thừa nhận tẩt cả các đạo
luật và văn bản dưới luật do cơ quan lập pháp và Chính phủ (trong khuôn khổ
thẩm quyền của nó) đặt ra, đó là Nhà nước bị hạn chế bằng pháp luật, Nhà nước
đứng trong pháp luật, chứ không phải Nhà nước đứng ngoài hoặc đứng trên
pháp luật”. Tóm lại, có thể hiểu: Nhà nước pháp quyền là nhà nước đề cao vai
trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội, được tổ chức, hoạt động
trên cơ sở một hệ thống pháp luật dần chủ, công bằng và các nguyên tắc chủ
quyên nhân dãn, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm
quyền con người, tự do cá nhân, công bằng, bình đắng trong xã hội.
Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền: Một là, Nhà nước
pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở một hệ thống
pháp luật dân chủ, tiến bộ, phù hợp và khả thi. Hai là, Nhà nước pháp quyền là
nhà nước bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống nhà nước và
đời sống xã hội.Ba là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở chủ quyền của nhân dân. Bốn là, Nhà nước pháp quyền là nhà
nước thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người, quyền công
dân. Năm là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
8
cơ chế bảo đảm sự phân công và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà
nước. Sáu là, Nhà nước pháp quyền là nhà nước gắn bó mật thiết với xã hội dân
sự. Những đặc trưng này cũng thể hiện những giá trị to lớn của nhà nước pháp
quyền nói chung. Bên cạnh những đặc trưng nêu trên, tùy điều kiện kinh tế - xã
hội riêng có của mình, mỗi nhà nước pháp quyền cụ thể có thể có những nét đặc
thù. Mặc dù, tư tưởng nhà nước pháp quyền có tính toàn nhân loại, tuy nhiên sự
tiếp thu và vận dụng vào việc tổ chức và hoạt động của mỗi nhà nước có thể có
những nét khác biệt, điều đó phụ thuộc vào lợi ích xã hội, lợi ích của lực lượng
cầm quyền, truyền thống dân tộc, trình độ dân trí, lối sống trong xã hội... Trên
thực tế đã tồn tại quan niệm nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nhà nước pháp quyền đang được tuyên bố
xây dựng ở hầu hết các quốc gia phát triển và đang phát triển.
Sứ mệnh của pháp luật là sinh ra để bảo vệ những lợi ích thiết thực và tối
thiểu nhất của con người. Và khi càng nhiều người dân ý thức được bản thân họ
có những quyền bất khả xâm phạm, thì đòi hỏi về nhân quyền sẽ càng lớn.
Trong thế giới này, ý tưởng nhân quyền có sức mạnh đạo lí và khả năng huy
động khó có thể kháng cự được. Bởi vậy, mỗi công dân chúng ta hãy mạnh dạn
nói ra tiếng nói của riêng để tự bảo vệ quyền lợi của chính mình trong xã hội.
Pháp luật đang hiện hình dưới một thanh gươm sắc để bảo vệ nhân quyền.

9
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]  PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan, “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa”
[2] https://luatminhkhue.vn/dieu-chinh-quan-he-xa-hoi-la-gi---phan-tich-
cong-cu-dieu-chinh-quan-he-xa-hoi--.aspx
[3] https://luatminhkhue.vn/phan-tich-vi-tri--vai-tro-cua-phap-luat-trong-
viec-dieu-chinh-quan-he-xa-hoi--.aspx
[4] https://luatminhkhue.vn/nha-nuoc-phap-quyen-la-gi----phan-tich-cac-
quan-diem-ve-nha-nuoc-phap-quyen.aspx
[5] https://luatminhkhue.vn/cac-dac-trung-nha-nuoc-phap-quyen---gia-
tri-cua-nha-nuoc-phap-quyen--.aspx
[6] https://luatduonggia.vn/vai-tro-cua-phap-luat-trong-viec-bao-dam-
bao-ve-quyen-con-nguoi-o-viet-nam-hien-nay/

10

You might also like