You are on page 1of 80

MỞ ĐẦU

1.Tổng quan tình hình nghiên cứu


Cùng với việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính
trị, đạo đức, văn hoá, xã hội, quân sự,… tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên,
về giáo dục, đào tạo thanh niên cũng sớm được nghiên cứu, tìm hiểu. Cho đến
nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên,
chẳng hạn như “Bác Hồ với sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ” (Nxb. Thanh
niên, Hà Nội, 1985); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên” của Văn Khánh
(Báo Nhân dân, số ra ngày 19/5/2004); “Văn hoá với thanh niên, thanh niên
với văn hoá, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Ban Tư tưởng văn hoá
Trung ương (Hà Nội, 2002); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên
trong cách mạng Việt Nam” của TS. Trần Quy Nhơn (Nxb. Thanh niên, Hà
Nội, 2004); “Tuổi trẻ cống hiến và trưởng thành” của tác giả Đặng Quốc Bảo
(Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1997); (2003), “Mấy vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Trọng Chuẩn và
Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên) (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003);
“Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa” của Lê Duẩn (Nxb. Thanh
niên, Hà Nội, 1978); “Công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cho
thanh niên của Đảng Cộng sản Việt Nam 1996 - 2006” của Nguyễn Thanh
Long (Luận văn thạc sĩ học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh 2008); “Lối sống thanh niên - sinh viên” của Mạc Văn Trang (Viện
Nghiên cứu chiến lược giáo dục1994); “Công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh sinh viên trường cao đẳng sư phạm Bình Dương - thực trạng và giải
pháp” (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường CĐSP Bình Dương của ThS.
Trương Thị Xử 2009)…
Các công trình nghiên cứu trên đều đã đề cập tương đối đầy đủ và toàn
diện những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí,
nhiệm vụ của thanh niên, về công tác giáo dục, đào tạo thanh niên, cũng như
công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên, sinh viên nói chung. Tuy nhiên,
1
chưa có công trình nào đề cập một cách đầy đủ những yêu cầu về vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh để rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên Đại học Thủ
Dầu Một. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh
niên với việc rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên trường Đại học Thủ
Dầu Một” làm đề tài nghiên cứu khoa học thuộc phạm vi cấp trường với
mong muốn được góp phần vào việc rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên
trường Đại học Thủ Dầu Một trong giai đoạn hiện nay.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Khi nói về tương lai của sự nghiệp cách mạng nước nhà, Hồ Chí Minh
đã đưa ra cách so sánh:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
Cách so sánh đã ẩn chứa một tư duy chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Là người có tầm nhìn xa trông rộng, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy
vai trò to lớn của việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ trẻ. Hồ Chí Minh
sớm tìm thấy ở thanh niên là lớp người đầu tiên thực hiện cuộc thử thách lớn
lao và sứ mệnh cao cả của sự nghiệp cách mạng. Trong Thư gửi thanh niên và
nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết sắp đến (năm 1946), Người nói: “Một năm
khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của
xã hội”. Người coi thanh niên là lực lượng chính và nòng cốt của cuộc cách
mạng; là lực lượng năng động, sáng tạo; là người kế tục trung thành sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta; và là người quyết định vận mệnh của đất
nước trong tương lai.
Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của thế hệ
trẻ trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách và biện pháp nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho tuổi trẻ phát triển. Hội
nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1/1993) đã khẳng
định: “Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế

2
kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, phần lớn phụ
thuộc vào thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên, công
tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng”[17].
Thế hệ trẻ của chúng ta hôm nay vừa có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp
cận với những thành tưu của khoa học - kỹ thuật để nâng cao trình độ hiểu
biết, hội nhập quốc tế, vừa tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh
tế thị trường. Vì vậy, xã hội nói chung và nhà trường nói riêng phải làm gì để
hướng thanh niên, sinh viên phát triển đúng hướng, trở thành những người
“sinh viên mới”, có nhiều đóng góp và cống hiến cho xã hội?
Trường Đại học Thủ Dầu Một hiện nay đang đào tạo nhiều ngành nghề
khác nhau, nhiệm vụ của trường là cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao
cho tỉnh Bình Dương và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói
chung. Ngoài việc đào trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho sinh viên, trường
cũng có nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên để
nguồn nhân lực được đào tạo phải “vừa hồng, vừa chuyên”. Chính vì việc
giáo dục, rèn luyện thế hệ thanh niên nói chung, sinh viên trường Đại học Thủ
Dầu Một nói riêng có ý nghĩa quan trọng như vậy nên việc đi sâu nghiên cứu
đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên với việc rèn luyện đạo đức, lối
sống cho sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một” là một yêu cầu cấp thiết.
Thực hiện tốt đề tài sẽ góp phần nâng cao nhận thức, tư tưởng đạo đức, lối
sống để đi tới hành động đúng đắn, xứng đáng là lực lượng xung kích cách
mạng, là đội hậu bị tin cậy của Đảng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm rõ những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vị
trí, vai trò của thanh niên và sự vận dụng tư tưởng của Người vào việc xây
dựng người sinh viên mới.

3
- Nắm được thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên, từ đó đưa ra các
giải pháp rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên Trường Đại học Thủ Dầu
Một hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

14.1. Đối tượng nghiên cứu


Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên; thực trạng
đạo đức, lối sống của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một hiện nay.

1.4.2. Phạm vi nghiên cứu


Đề tài khảo sát và nghiên cứu sinh viên năm thứ II và năm thứ III hệ cao
đẳng, đại học chính quy.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận: ngoài phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, đề tài còn sử dụng các phương pháp lôgíc, phương pháp lịch sử,
phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp…
- Nghiên cứu thực tiễn: Kết hợp các phương pháp nghiên cứu khảo sát
thực tiễn, điều tra xã hội học, phương pháp thống kê, phương pháp nghiên
cứu sản phẩm...
6. Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên trong
cách mạng Việt Nam; nội dung bồi dưỡng, giáo dục thanh niên theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.
- Thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên Trường Đại học Thủ Dầu
Một.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng rèn luyện đạo đức, lối
sống cho sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay.

4
CHƯƠNG 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC THANH NIÊN
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên.
1.1.1. Cơ sở hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của
thanh niên trong cách mạng Việt Nam
1.1.1.1. Truyền thống văn hoá dân tộc và vai trò của thế hệ trẻ Việt
Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Việt Nam là một quốc gia có nền văn hiến lâu đời. Trong quá trình tồn
tại và phát triển, dân tộc Việt Nam đã phải vượt qua biết bao khó khăn, thử
thách hiểm nghèo: phải liên tục đấu tranh chống lại nạn xâm lăng, âm mưu
đồng hoá của ngoại bang; phải thường xuyên chống chọi với thiên nhiên khắc
nghiệt. Với những đặc điểm đó, đã vun đắp nên nhiều truyền thống tốt đẹp,
biểu hiện một nền văn hiến rất lâu đời và bền vững. Đó là truyền thống yêu
nước, nhân ái, thuỷ chung, cố kết cộng đồng, ý chí tự lực tự cường, tự tôn dân
tộc, tinh thần thông minh, sáng tạo, cần cù lao động, lạc quan yêu đời,…
Trong đó, truyền thống yêu nước - sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước” [37, tr.171].
Những giá trị tốt đẹp của dân tộc đã thấm đượm sâu sắc vào con người
Hồ Chí Minh ngay từ thời trẻ, trở thành cơ sở tư tưởng, tình cảm cho mọi suy
nghĩ và hành động của Người suốt cả cuộc đời. Từ những trang sử hào hùng
của dân tộc, Hồ Chí Minh nhận thấy rõ những đóng góp xuất sắc của tuổi trẻ
Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Đất nước Việt Nam ở thời kỳ
nào cũng xuất hiện nhiều nhân tài, anh hùng trẻ tuổi.
Ngay từ buổi đầu dựng nước, những truyền thuyết gắn liền với các sự
kiện ở thời đại các vua Hùng đều biểu dương sức trẻ trong công cuộc chinh
5
phục thiên nhiên (Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, Mai An Tiêm), xây dựng đời sống
tập quán văn hoá (Lang Liêu, Chử Đồng Tử),… Đặc biệt trong sự nghiệp giữ
nước, người anh hùng Thánh Gióng tuổi nhỏ chí lớn đã gánh vác việc nước,
dẹp giặc Ân, bảo vệ Tổ quốc đã trở thành biểu tượng của ý chí độc lập, tự do
của dân tộc ta.
Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, tuổi trẻ Việt Nam kế tiếp nhau luôn
luôn là lực lượng đi đầu trong các cuộc khởi nghĩa chống ách thống trị và âm
mưu đồng hoá của ngoại bang. Các nữ anh hùng như Trưng Trắc, Trưng Nhị,
Triệu Thị Trinh có công nhen nhóm bó đuốc thiêng liêng về tinh thần quật
khởi, thức tỉnh và cổ vũ các thế hệ sau nối tiếp vùng dậy tấn công và tiêu diệt
quân xâm lược, làm nên chiến thắng Bạch Đằng vang dội đầu thế kỷ X, mở ra
kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập thời Đại Việt.
Thời kỳ xây dựng và củng cố quốc gia phong kiến độc lập cũng là thời
kỳ tuổi trẻ Việt Nam lập nên những chiến công oai hùng. Thời Trần, Trần
Quốc Toản mới 15 tuổi đã tập hợp một đội quân gồm hơn 1000 gia nô thân
thuộc đều ở tuổi thanh niên, chiến đấu anh dũng gây nên nhiều tổn thất cho kẻ
thù, góp phần quan trọng vào ba lần chiến thắng chống quân Nguyên của nhà
Trần. Thời kỳ quân Minh đô hộ nước ta, Nguyễn Trãi nuôi chí lớn đền nợ
nước, trả thù nhà, tìm đến tụ nghĩa cùng Lê Lợi ở đất Lam Sơn, “nếm mật
nằm gai”, kiên trì cuộc kháng chiến mười năm, quét sạch giặc Minh ra khỏi
cõi biên thuỳ. Từ cuối thế kỷ XVII, trong tình hình các tập đoàn phong kiến
cát cứ chia cắt đất nước, người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trở thành thủ
lĩnh của phong trào Tây Sơn lúc mới ngoài 20 tuổi. Nghĩa quân Tây Sơn đã
tiêu diệt các thế lực phong kiến ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, đánh tan 4
vạn quân Xiêm xâm lược ở phía Nam, quét sạch 20 vạn quân Thanh ra khỏi
bờ cõi, giải phóng Thăng Long, thống nhất đất nước.
Thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX, mặc dù triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng, song nhân dân Việt
Nam từ Bắc chí Nam vẫn kiên cường đứng lên cầm vũ khí đánh giặc. Tiêu

6
biểu là khởi nghĩa của Trương Định (Gia Định, 1859 - 1864), Phan Đình
Phùng (Hà Tĩnh, 1885 - 1896), Hoàng Hoa Thám (Bắc Giang, 1885 - 1913),
… Các cuộc khởi nghĩa đều bị thực dân Pháp dìm trong bể máu nhưng chúng
vẫn không dập tắt được tinh thần yêu nước và ý chí chống ngoại xâm của
nhân dân ta. Người nọ ngã xuống, người kia đứng lên, phong trào này bị dập
tắt, phong trào khác lại bùng lên thể hiện khát vọng giải phóng, yêu độc lập tự
do, khát vọng vươn tới một cuộc sống tốt đẹp của con người Việt Nam.
Trong lĩnh vực văn hoá, lịch sử Việt Nam đã ghi lại nhiều tài năng xuất
hiện khi còn rất trẻ. Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên khi mới 13 tuổi, là Trạng
nguyên trẻ tuổi nhất trong lịch sử khoa cử nước ta. Lê Văn Hưu 18 tuổi đỗ
Bảng nhãn, Lê Trực đỗ Trạng nguyên năm 26 tuổi; Lương Thế Vinh đỗ Trạng
nguyên năm 13 tuổi, người đương thời gọi ông là Thần đồng; Lê Quý Đôn
được coi là nhà bách khoa có nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn, sáng tác
nổi tiếng như “Vân Đài loại ngữ”, “Đại Việt thông sử”, “Thư kinh diễn
nghĩa”,… Nguyễn Trãi văn võ song toàn, là vị anh hùng vĩ đại của dân tộc, là
người con tiêu biểu cho tinh hoa văn hoá Việt Nam.
Truyền thống dân tộc và những đóng góp của tuổi trẻ Việt Nam trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước là cơ sở vững chắc để Hồ Chí Minh có niềm
tin tưởng mãnh liệt ở con người Việt Nam, tuổi trẻ Việt Nam. Niềm tin đó
giúp Người xác định đúng đắn lực lượng và động lực cách mạng Việt Nam,
nhìn thấy khả năng tiềm tàng ở sức lực, trí tuệ, sự dũng cảm, trí thông minh
và sáng tạo của thế hệ trẻ nước ta trong sự nghiệp đánh đuổi đế quốc và tay
sai, cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp.
1.1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về thanh niên
- Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thanh niên luôn là một
lực lượng hùng hậu, chiếm tỷ lệ đông đảo trong dân cư, có vị trí quan trọng
trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của bất cứ một
quốc gia nào trên thế giới. Họ chính là chủ thể xây dựng nên xã hội mới, lớp

7
người sáng tạo ra tương lai, là mắt xích quan trọng trong sợi dây phát triển
của nhân loại. Một trong những nội dung vĩ đại nhất của chủ nghĩa xã hội
khoa học - học thuyết giải phóng và phát triển con người - là học thuyết về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà theo đó giai cấp công nhân sẽ tự
giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội khỏi áp bức, bất công để xây
dựng lên một xã hội mới tốt đẹp hơn. Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó
cần có sự tham gia của các lực lượng trong xã hội, đặc biệt là vai trò của
tầng lớp thanh niên. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập
nhiều tới vị trí, vai trò của thanh niên và công tác giáo dục thanh niên đối
với vận mệnh lịch sử của mỗi dân tộc, của nhân loại và thời đại. C.Mác cho
rằng “tương lai của giai cấp công nhân và tương lai của nhân loại hoàn
toàn phụ thuộc và thế hệ công nhân đang lớn lên”[12, tr.263]. Chính C.Mác
đã gọi thanh niên là cội nguồn sức sống của dân tộc và giai cấp công nhân là
bộ xương của mỗi cơ thể dân tộc. Khi đánh giá vai trò của thanh niên trong
đấu tranh cách mạng, các nhà kinh điển mác xít cho rằng chỉ có con đường
cách mạng vô sản và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới thực sự làm cho
các thế hệ thanh niên phát huy được vai trò to lớn của mình một cách tích
cực, chủ động và sáng tạo. Do vậy, việc giáo dục thanh niên được coi là
nhiệm vụ hàng đầu để đào tạo con người mới xã hội chủ nghĩa - con người
phát triển toàn diện, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hoà,
phong phú. Các ông cũng chỉ rõ công tác giáo dục, đào tạo những người chủ
tương lai của đất nước, những người trực tiếp xây dựng xã hội mới là một
vấn đề có ý nghĩa to lớn, quan hệ mật thiết tới sự tồn tại của bản thân nền
chuyên chính vô sản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Dưới nền chuyên
chính vô sản, Đảng của giai cấp công nhân đặc biệt coi trọng việc giáo dục,
đào tạo thế hệ trẻ vì một trong những nhiệm vụ trọng yếu của của Đảng
trong thời kỳ chuyên chính vô sản là phát triển công tác cải tạo các thế hệ cũ
và giáo dục các thế hệ mới theo tinh thần chuyên chính vô sản và chủ nghĩa
xã hội. Các Mác có ý tưởng sâu sắc về thanh niên và giáo dục thanh niên,

8
theo ông thanh niên là một lực lượng “đang phát triển” trong đấu tranh cách
mạng, chính ở đây thanh niên sẽ tích lũy tri thức và kinh nghiệm mở rộng
các mối liên hệ xã hội mà nhờ đó, thế hệ trẻ đạt được sự phong phú của con
người, của nhân cách. C.Mác và Ăngghen kịch liệt phản đối nền giáo dục
kiểu phong kiến và giáo dục tư sản, nền giáo dục ấy làm cho thanh niên, học
sinh, sinh viên phát triển què quặt và các ông đòi hỏi phải có sự thay đổi triệt
để về giáo dục, làm cho giáo dục mang tính nhân đạo bao gồm: Trí lực, thể
lực, kỹ thuật. Ăngghen đặt niềm tin vào thế hệ những người trẻ tuổi của giai
cấp vô sản giác ngộ, có học vấn, được giáo dục theo tinh thần của chủ nghĩa
cộng sản. Nó đảm bảo quyền được phát triển đầy đủ những tài năng của
mình và vì thế cần quan tâm giáo dục cẩn thận thế hệ đang lớn lên. Mác và
Ăngghen luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên trong đời sống chính trị -
xã hội. Từ các phong trào cách mạng cuối thế kỷ XIX ở Đức, Áo, Nga...với
sự tham gia của tầng lớp thanh niên các ông đã nhận thấy cũng như công
nhân, tầng lớp thanh niên khi được tổ chức sẽ trở thành hạt nhân của đội
quân cách mạng, là lực lượng hùng hậu có khả năng hoàn thành xuất sắc vai
trò của mình trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Ăngghen khẳng định
thanh niên không thể đứng ngoài chính trị, chính cuộc sống hiện thực đã,
đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống chính trị.
- Quan điểm của Lênin
Lênin lại đặc biệt đánh giá cao vai trò của thanh niên công nhân, coi đó
là “nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng”. Người đã quan sát thấy trong
thanh niên công nhân một khát vọng nồng cháy không gì kìm hãm được sự
vươn tới lý tưởng dân chủ và CNXH, thành công của phong trào thanh niên
chính là chỗ biết gắn liền nhận thức lý luận của chủ nghĩa Mác - tri thức
khoa học với sự tham gia trực tiếp của họ vào cuộc đấu tranh chính trị của
giai cấp vô sản. Người đã khẳng định: Ai nắm được thanh niên, người đó
làm chủ thế giới và theo một nghĩa nào đó nhiệm vụ xây dựng xã hội cộng
sản chủ nghĩa, đó chính là của thanh niên. Thấu hiểu những đặc trưng của

9
lớp người trẻ tuổi, Lênin đặt niềm tin vào vai trò và sức sáng tạo của thế hệ
thanh niên cách mạng một cách sâu sắc, nhất quán. Ông cho rằng: “Nhiệm
vụ thực sự sáng tạo ra xã hội cộng sản chủ nghĩa chính là của thanh niên”.
Cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ quan trọng nhất của
Đoàn thanh niên cộng sản cho nên phải động viên thanh niên tích cực tham
gia xây dựng kinh tế và văn hoá. Muốn kiến thiết kinh tế, muốn tăng năng
suất lao động để chiến thắng chủ nghĩa tư bản thì cần phải có tri thức, cần
phải nắm được khoa học - kỹ thuật, thanh niên phải chiếm lấy thành trì khoa
học thì mới thật sự trở thành chủ nhân của đất nước: “Thật sai lầm khi nghĩ
rằng chỉ cần thấm nhuần những khẩu hiệu cộng sản, những kết luận của
khoa học cộng sản mà không cần phải thấm nhuần tổng số kiến thức mà
chính bản thân chủ nghĩa cộng sản là kết quả. Nếu không có một nền học
vấn hiện đại thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là một nguyện vọng mà thôi” [47,
tr.365].
Để thanh niên phát huy được vai trò của mình, thực hiện được nhiệm
vụ cao cả đó, Lênin chủ trương cải tổ triệt để công tác tổ chức và giáo dục
thanh niên với những nội dung giáo dục cụ thể, toàn diện. Đó là giáo dục
cho thanh niên tinh thần khắc phục khó khăn: “Nếu sợ khó khăn thì Đoàn
thanh niên cộng sản sẽ không phải là Đoàn thanh niên cộng sản nữa”. Đoàn
thanh niên cộng sản “không thể hành động như những kẻ hèn yếu vốn quen
trốn tránh khó khăn và đi tìm những việc dễ làm”. Phải giáo dục lòng tin
tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, giáo
dục cho thanh niên tinh thần kiên cường và chí khí bền vững để có thể vượt
qua những thất bại buổi đầu, tiến thẳng tới mục đích lớn lao. Lênin cũng chỉ
rõ rằng nhiệm vụ của thanh niên trong đó thanh niên sinh viên là phải học
tập, học chủ nghĩa cộng sản. Phải tiêu hoá những tri thức sách vở biến nó
thành phương pháp để làm việc một cách sáng tạo, tập làm quen với những
công tác thực tế, khắc phục những biểu hiện nhà trường tách với cuộc sống,
trong học tập chỉ biết tiếp thu tri thức một cách thụ động, máy móc và giáo

10
điều, không có đầu óc phê phán. Người nhấn mạnh, nhà trường mới, nền
giáo dục của chế độ mới phải giúp thanh niên thanh toán triệt để những hậu
quả tiêu cực của nền giáo dục tư sản để lại. Toàn bộ sự nghiệp giáo dục cho
thanh niên phải hướng vào việc phát triển đạo đức trong thanh niên để họ trở
thành những con người tốt, những con người có văn hoá phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Ngoài vấn đề học tập, trau dồi đạo
đức, thấm nhuần chủ nghĩa cộng sản, Lênin còn nhấn mạnh vấn đề thanh
niên phải không ngừng bồi dưỡng sức khoẻ, nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và
văn hoá, chỉ có như vậy thanh niên mới tránh được những tác động không
lành mạnh của xã hội đối với cuộc sống, từ đó phục vụ hiệu quả cho sự
nghiệp xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
“Thanh niên cần phải được tươi vui, yêu đời và có tinh thần sảng
khoái. Họ cần những môn thể thao lành mạnh, những ngón tay khéo léo.
Có nghĩa là được luyện tập để các bắp thịt được nhẹ nhàng và nhanh nhẹn
đáp ứng lại những đòi hỏi của lao động tinh xảo và cao” [48, tr.269]
Các nhà kinh điển còn vạch rõ việc giáo dục thanh niên không phải
theo lối cũ, tách rời cuộc sống, tách rời đấu tranh. Đoàn thanh niên cộng sản
phải gắn việc giáo dục, học tập, thực tập của mình với lao động của những
người công nhân và nông dân, không nên chỉ giam mình trong việc đọc
sách báo và tài liệu của cộng sản. Phải biết đặt vấn đề như thế nào để hàng
ngày ở mỗi làng mạc, mỗi thành phố, thanh niên giải quyết được một cách
thực tiễn vần đề này hay vấn đề khác của lao động tập thể, dù là nhỏ bé
nhất, đơn giản nhất.
1.1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên trong
cách mạng Việt Nam.
Kế thừa những di sản quý báu của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
đã phát triển luận điểm mácxít về vai trò của thanh niên trong xã hội, về
nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ của Đảng thông qua tổ chức Đoàn thanh niên
trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Nếu như các nhà kinh điển

11
của chủ nghĩa Mác luôn gắn thanh niên với giai cấp công nhân, với đảng tiên
phong của nó thì Hồ Chí Minh cho rằng thanh niên không những gắn với
giai cấp công nhân mà còn gắn với dân tộc. Muốn hồi sinh dân tộc trước hết
phải hồi sinh thanh niên. Việc tổ chức Việt Nam cách mạng Thanh niên để
chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và ra Báo “Thanh
niên” đã chứng tỏ Hồ Chí Minh có một tầm nhìn chiến lược khi nhìn nhận
vai trò của thanh niên, chỉ thanh niên mới có thể “nắm vai trò là người châm
ngòi lửa đầu tiên cho cách mạng Việt Nam”. Người coi thanh niên là hạt
giống quý của cách mạng, là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên
già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai. Xác
định vị trí, vai trò của thanh niên đối với tương lai của đất nước, Người
khẳng định: Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các
thanh niên, thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện
tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị
cái tương lai đó.
Ngay khi còn trẻ, Hồ Chí Minh sớm hòa mình vào phong trào đấu tranh
của thanh niên trong nước và quốc tế. Chính những năm tháng sống, lao động,
chiến đấu cùng với thanh niên giúp Hồ Chí Minh có điều kiện hiểu rõ thanh
niên. Xuất phát từ quy luật vận động của xã hội loài người, Hồ Chí Minh
khẳng định thanh niên không những là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng
của các thế hệ đi trước, mà còn là tương lai của đất nước, của dân tộc: “Một
năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân
của xã hội”. Đây là kết quả nhận thức của một người từng trải, có nhiều năm
tháng gắn bó mật thiết với thanh niên, là sự tiếp nối và phát triển những quan
điểm của cha ông, của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò thanh niên trong lịch
sử. Tính chân lý của câu nói trên chính là việc chỉ ra vai trò quan trọng của
thanh niên đối với sự phát triển của xã hội. thanh niên tiêu biểu cho sức sống,
sức phát triển của một dân tộc. Nếu được chăm sóc, giáo dục, rèn luyện, dìu

12
dắt đúng thì thanh niên có khả năng “dời non lấp bể” trong sự nghiệp bảo vệ
nền độc lập và xây dựng đất nước.

Để giúp thanh niên thực hiện vai trò của mình, Hồ Chí Minh đặc biệt
nhấn mạnh tới công tác giáo dục thanh niên coi đó là vai trò của người công
dân đối với nhà nước, với chế độ, vai trò của người chiến sĩ cách mạng đối
với lý tưởng và sự nghiệp mà mình theo đuổi. Từ đó, thanh niên phải biết
trau dồi đạo đức cách mạng, hết lòng phục vụ cách mạng, suốt đời phấn đấu,
hy sinh cho lý tưởng cao quý: độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Người chỉ
rõ: “Nhiệm vụ của thanh niên là phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà?
Mình phải làm gì cho lợi ích nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước
nhà mà hy sinh phấn đấu chừng nào?”[38, tr. 454-455]. Đó cũng chính là
yêu cầu về giáo dục và tự giáo dục ở thanh niên theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh. Trong rất nhiều tác phẩm của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đều đề cập
tới vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên. Theo Người, giáo
dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ với các cuộc đấu tranh xã
hội, giáo dục thanh niên là nhiệm vụ của gia đình, nhà trường, Đoàn thanh
niên và các đoàn thể cách mạng khác nhằm biến nguồn lực dồi dào của tuổi
trẻ ở dạng tiềm năng trở thành hiện thực. Người viết: Đoàn viên và thanh
niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó
khăn, có ý chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho
họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa
hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc quan
trọng và cần thiết [59, tr.48].
Với quan điểm cho rằng “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, ngay sau
khi cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nghĩ ngay tới việc xây dựng nước nhà giàu mạnh, sánh kịp các nước anh em,
bạn bè trên thế giới mà lực lượng gánh vác công việc đó không ai khác
ngoài các thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên: Non sông Việt Nam có trở
nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để

13
sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần
lớn ở công học tập của các em. Hồ Chí Minh luôn cho rằng việc bồi dưỡng
cho đời sau là công việc hết sức công phu, bền bỉ. Người coi giáo dục và đào
tạo, rèn luyện thế hệ trẻ là sự nghiệp “trồng người”. Người nêu tư tưởng
chiến lược: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người” [38, tr.222] và để sự nghiệp này đạt kết quả tốt thì phải có sự
phối hợp của nhiều lực lượng trong xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước,
gia đình và các đoàn thể xã hội. Người đề ra phương châm “giáo dục là sự
nghiệp của quần chúng”. Trường học, gia đình và các đoàn thể thanh niên…
cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng
ngày của thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn nắn và sửa chữa. Về
phương pháp giáo dục thanh niên, Người nhấn mạnh: Giáo dục thanh niên
không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã
hội, lực lượng của chính phủ để ngăn ngừa những cái gì có thể ảnh hưởng
xấu đến thanh niên, để nâng cao tính cảnh giác của thanh niên.
Từ việc nhận rõ thanh niên là lực lượng đông đảo, trẻ khoẻ, hăng hái, có
lý tưởng, giàu đức hy sinh, sẵn sàng xả thân bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh
khẳng định thanh niên không những là người thừa kế cách mạng mà còn là
động lực chủ yếu của cách mạng.
- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, thanh niên là một bộ phận quan
trọng của dân tộc
Tiếp cận với thanh niên, Người sớm cảm nhận và phát hiện tiềm năng to
lớn của thế hệ trẻ trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người ca ngợi cuộc đấu
tranh của thanh niên, sinh viên Việt Nam, nhất là phong trào đấu tranh đòi ân
xá Phan Bội Châu, đón tiếp Bùi Quang Chiêu và để tang Phan Chu Trinh:
“đâu đâu học sinh cũng đều bãi khoá. Nữ sinh cũng tham gia phong trào”.
Trong “Báo cáo về tình hình Đông Dương”, Người nêu: “Chịu ảnh hưởng
tinh thần cách mạng của quần chúng, học sinh cũng hoạt động trong phong
trào chống đế quốc” [34, tr. 57].

14
Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh động viên và giao
nhiệm vụ cho thanh niên cả nước đi đầu trong việc tăng gia sản xuất, xoá nạn
mù chữ, thực hành đời sống mới, khẳng định thanh niên là lực lượng chính
trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Người ngợi ca đóng góp
của tuổi trẻ Việt Nam trong Cách mạng Tháng Tám: “Trong cuộc chống xâm
lăng này, các bạn đã là bức Vạn Lí Trường Thành vững chắc”. Trong “Thư
gửi các chiến sĩ cảm tử quân Thủ đô”, Người tiếp tục khẳng định: “Các em là
đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái
tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật
cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê
Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám truyền lại cho các
em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho
nòi giống Việt Nam muôn đời về sau” [ 36, tr. 35].
Trong “Thư gửi thanh niên” tháng 4/1951, Người nhắc nhở: “Huy hiệu
của thanh niên ta là “Tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên”. Ý nghĩa của nó là:
Thanh niên phải xung phong làm gương mẫu trong công tác, trong học hỏi,
trong tiến bộ, trong đạo đức cách mạng. Thanh niên phải thành một lực lượng
to lớn và vững chắc trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Đồng thời
phải vui vẻ và hoạt bát”[37, tr.197-198]. Người chỉ rõ: trong cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, “thanh niên nam nữ thì cùng đồng bào ra sức đấu tranh
chống giặc, quyết không đi lính cho giặc, hăng hái tham gia du kích và bộ đội
của ta”. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ quyết liệt, Người vẫn nhắc
nhở thanh niên: “Đem hết nhiệt tình, tài năng của tuổi trẻ cống hiến thật nhiều
cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước”.
Là người đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp “trồng người”, Hồ Chí Minh
thường xuyên theo dõi bước trưởng thành và cống hiến của tuổi trẻ Việt Nam.
Người nhận thấy “ưu điểm của thanh niên ta là hăng hái, giàu tinh thần xung
phong”, đồng thời Người cũng chỉ ra “khuyết điểm là ham chuộng hình thức,
thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh “anh hùng”. Không chỉ nhìn ra ưu điểm của

15
thanh niên, Người còn động viên kịp thời những cống hiến to lớn của thanh
niên vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Ngày 2/9/1965, trong
“Thư gửi thanh niên”, Hồ Chí Minh khẳng định tuổi trẻ Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã phát huy cao vai trò của mình đóng góp vào sự nghiệp
cách mạng của dân tộc: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước hiện nay, theo
tiếng gọi của Tổ quốc, thanh niên cả nước ta càng giương cao ngọn cờ của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng lập nhiều thành tích xuất sắc… Khắp thành
thị, nông thôn, miền xuôi, miền ngược, thanh niên ta ngày nay đã thành một
đội quân to lớn, hăng hái tiến lên, quyết tâm phấn đấu, hy sinh vì Tổ quốc
thân yêu, vì tiến bộ xã hội…”[42, tr. 504-505].
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thanh niên là người thừa kế, người
tiếp sức cách mạng, là một lực lượng to lớn - động lực chủ yếu trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Thực tiễn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở
nước ta giành được thắng lợi một phần quan trọng là có sự góp sức của thanh
niên, của tuổi trẻ Việt Nam. Đó chính là minh chứng rõ ràng nhất cho tính
đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của thanh niên trong
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
- Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, thanh niên là “lực lượng nòng cốt
để xây dựng xã hội mới”
Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
những con người xã hội chủ nghĩa. Đó trước hết phải là những người có lòng
yêu nước nồng nàn, có sức khoẻ, có tri thức, giàu nhiệt huyết, không ai khác,
đó chính là thế hệ trẻ vì “Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Do đó, tuổi trẻ
chính là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội tạo ra môi trường thuận lợi cho tuổi trẻ học tập, phấn
đấu, trưởng thành, đồng thời xã hội đó cũng đòi hỏi cao sự cố gắng của họ,
đòi hỏi mỗi một thanh niên phải rèn luyện mình để trở thành con người mới
xã hội chủ nghĩa. Đó là con người có lý tưởng cách mạng, có đạo đức trong
sáng, có trình độ chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật cao, có tay nghề vững

16
vàng, có sức khoẻ dồi dào để đủ sức làm tròn những nhiệm vụ nặng nề và vẻ
vang của mình. Vì vậy, Người nhắc nhở thanh niên:
“- Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực
hành chủ nghĩa tập thể, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, người tiên tiến thì giúp
đỡ người kém, người kém thì phải cố gắng để tiến lên, ra sức cần kiệm xây
dựng nước nhà.
- Phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân như tự tư tự lợi, tự kiêu tự
mãn, chỉ tham việc gì có danh tiếng, xem khinh những công việc bình thường.
Phải chống tham ô, lãng phí.
- Phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn
hoá và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.[41, tr. 106]
Hồ Chí Minh chỉ rõ: chính vì là người chủ tương lai cho nên toàn thể
thanh niên phải đoàn kết chặt chẽ, phấn đấu anh dũng, vượt mọi khó khăn, thi
đua giúp sức để xây dựng nước nhà tốt đẹp: một nước Việt Nam hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Người nhận định: “Thời đại bây
giờ là thời đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại khoa học phát triển rất mạnh,
thời đại xã hội chủ nghĩa, thời đại anh hùng; mỗi người lao động tốt đều có
thể trở thành anh hùng. Vậy mong các cháu cũng làm người thanh niên anh
hùng trong thời đại anh hùng”[40, tr. 174].
Để làm được như vậy, Người nêu: “Hiện nay, nhiệm vụ của thanh niên
là ra sức giúp Đảng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm nền tảng
vững mạnh cho công cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình, thống nhất nước
nhà”[41 tr. 305]. Trong điều kiện đất nước ta tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng ở hai miền Nam, Bắc thì thanh niên miền Bắc phải hăng hái
sản xuất, cống hiến nhiều nhất cho chủ nghĩa xã hội, góp phần cùng thanh
niên miền Nam đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà; thanh
niên miền Nam phải kiên cường đấu tranh chống Mỹ - Diệm, góp phần bảo vệ
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thanh niên nói chung phải
là những người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hoá,

17
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh rất tin tưởng ở sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta vì chúng ta có “một thế hệ
thanh niên hăng hái và kiên cường”: “Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
Bác tin chắc rằng thanh niên ta sẽ hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ rất vẻ
vang của đạo quân xung phong tất thắng trong sự nghiệp xây dựng một nước
Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” [41, tr. 308]
- Trong sự phát triển lâu dài của cách mạng, sự trường tồn của dân tộc,
“nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”
Ngay từ khi học tại trường Đại học Phương Đông, Hồ Chí Minh đã sớm
phát hiện: “Nhiều người còn rất trẻ đã có một trình độ mácxít ít có thể tưởng
tượng là có thể có được vào tuổi đó. Chúng tôi hiểu rõ là chúng tôi có trách
nhiệm rất nặng nề và tương lai của các dân tộc thuộc địa tuỳ thuộc vào sự
tuyên truyền và tinh thần hy sinh của chúng tôi” [33, tr.301]. Là người thường
xuyên theo dõi bước đi của thê hệ trẻ, Hồ Chí Minh thấy rõ sự đóng góp to
lớn của tuổi trẻ Việt Nam trong sự trường tồn và phát triển của dân tộc bởi họ
là lực lượng đông đảo nhất, hùng hậu nhất, dũng cảm nhất trong các cuộc
chống xâm lăng, là lực lượng gánh vác những công việc nặng nề, khó khăn,
vất vả nhất trong lao động sản xuất và chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt.
Người chỉ ra tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong công cuộc kiến thiết và
xây dựng nước nhà: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân
tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai cùng cường quốc năm châu
được hay không, một phần lớn chính là nhờ ở công học tập của các cháu”. Từ
đó, Người khẳng định vị trí, vai trò của thanh niên trong sự phát triển, trường
tồn của dân tộc: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy,
nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”
[36, tr. 185.]
Để xứng đáng với vị trí đó, Người luôn nhấn mạnh vai trò xung kích đi
đầu của thanh niên trong mọi hoạt động: “Thời đại này là thời đại vẻ vang của
thanh niên. Mà thanh niên phải là những đội xung phong trên các mặt trận

18
chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật” [41, tr. 390]. Thanh niên phải không
được lùi bước trước bất cứ khó khăn, gian khổ nào, không có quyền từ chối
bất cứ sự hy sinh nào, thanh niên phải làm tất cả để nhanh chóng chiến thắng
nghèo nàn, lạc hậu, đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của chúng ta
đến toàn thắng. Một nhiệm vụ cấp bách của thanh niên là phải hăng hái tiến
quân vào khoa học kỹ thuật để đưa sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa tiến đến thắng lợi vẻ vang. Trong tư tưởng văn hoá, thanh niên phải
không ngừng giác ngộ xã hội chủ nghĩa, ra sức rèn luyện lập trường giai cấp
vô sản. Vì chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là sản phẩm của đường lối cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, là sản phẩm tư tưởng của giai cấp vô sản, vì có
thấm nhuần quan điểm, lập trường của giai cấp vô sản thì mới hiểu đúng và
giải quyết đúng các vấn đề phức tạp trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Đồng thời, thanh niên phải luôn
luôn là lực lượng xung kích trong cuộc đấu tranh chống âm mưu xâm chiếm,
phá hoại của kẻ thù.
“Thanh niên chúng ta phải sống có lý tưởng cao thượng, mà muốn có lý
tưởng cao thượng thì phải có lập trường dứt khoát rõ ràng về cái sống và cái
chết, về cống hiến và hưởng thụ” [14, tr. 140]. Tuổi thanh niên là tuổi để cống
hiến. Nếu chúng ta nghĩ nhiều đến hưởng thụ, đặt hưởng thụ lên cao hơn tinh
thần phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc thì tức là chúng ta đã hạ thấp phẩm
chất của người thanh niên cách mạng, đã sống hoài những ngày đẹp nhất
trong cuộc đời của chúng ta. Thanh niên phải lấy sự hy sinh phấn đấu cho
cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời mình, không được để cho tình
cảm cách mạng nguội lạnh vì những tính toan được mất cho cá nhân. Người
nào chủ nghĩ đến lợi ích vật chất, chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình thì dù
cho họ có ở lầu son gác tía, ăn mâm cao cỗ đầy, họ vẫn chỉ là một kẻ nghèo
nàn vì đầu óc họ trống rỗng, quả tim họ không đập cùng một nhịp với cách
mạng. Thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh phải là những thanh niên biết cống
hiến nhiệt tình và sức trẻ cho sự phát triển lâu bền của đất nước.

19
Cách mạng là sự nghiệp lâu dài, đầy khó khăn và thử thách của nhiều thế
hệ. Mỗi thế hệ chỉ có thể đi hết một chặng đường trên con đường vạn dặm của
lịch sử. Hồ Chí Minh thấy rõ khả năng tối đa mà thế hệ đi trước có thể làm
được, cũng như cái giới hạn tự nhiên mà thế hệ đó không thể vượt qua: “Con
người ai cũng sinh ra, lớn lên, già đi rồi chết”. Do đó thế hệ đi trước phải bàn
giao, trao truyền lại thành quả, kinh nghiệm của mình cho thế hệ tiếp sau. Bàn
giao thế hệ không chỉ là trao lại những gì đã có mà quan trọng hơn, khó khăn
hơn nhiều là chuẩn bị cho lớp người đi sau những gì cần thiết để họ có khả
năng giữ gìn, bảo tồn và phát huy những thành quả quý báu mà các thế hệ
trước đã tạo ra, đồng thời có khả năng thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ
của cách mạng trong mỗi chặng đường lịch sử. Chính vì vậy, vai trò của thanh
niên không những chỉ là “người tiếp sức” cho cách mạng mà còn là người dìu
dắt thế hệ cách mạng cho đời sau: lớp măng non nhi đồng của đất nước –
tương lai của dân tộc.
Theo dõi sự phát triển của phong trào thanh niên, Hồ Chí Minh nói lên
niềm tin tưởng ở tiền đồ của dân tộc: “Bác rất tự hào, sung sướng và thấy
mình như trẻ lại, thấy tương lai của dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang”
[43, tr. 66-67].
Như vậy, thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc, có vai trò
quyết định sự thịnh suy, tồn vong của nước nhà. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị
trí, vai trò của thanh niên đã ăn sâu vào tư tưởng, tình cảm, quán triệt trong
hành động cách mạng của thế hệ trẻ Việt Nam. Qua các giai đoạn phát triển
của cách mạng, thanh niên ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện vai trò
tiên phong trong công cuộc giữ nước và xây dựng Tổ quốc theo con đường xã
hội chủ nghĩa đã được lựa chọn và khẳng định. Ngày nay, trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, thanh niên tiếp tục thể hiện vai trò của mình, đi
theo tư tưởng của Người, xứng đáng với niềm tin của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Đó chính là những biểu hiện sinh động của việc nhận thức và vận

20
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên trong cách mạng
Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ trong sức mạnh của dân tộc có sức mạnh
của thanh niên. Thanh niên có mạnh, dân tộc mới mạnh. Tuy nhiên, Người
cũng thấy rõ thanh niên là lực lượng dễ bị lôi cuốn, bị kích động, nếu thanh
niên không có lập trường tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ rất dễ
bị các thế lực phản cách mạng lôi kéo, dụ dỗ. Mặt khác, xã hội càng phát triển
thì yêu cầu của cách mạng ngày càng cao, nếu thanh niên không được trau dồi
tri thức văn hoá, kỹ thuật thì không đáp ứng được yêu cầu của cách mạng, của
sự phát triển của đất nước. Vì vậy, trong tư tưởng về thanh niên, Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục thanh niên, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau.
Với tư tưởng cách mạng, sự hiểu biết và tầm nhìn xa của mình, Hồ Chí
Minh đã luôn quan tâm tới các thế hệ thanh niên, quan tâm tới công tác giáo
dục, bồi dưỡng thanh niên nhằm xây dựng lên một đội ngũ thanh niên cách
mạng giỏi về chuyên môn, có đạo đức, có lý tưởng cao đẹp để thực hiện
được nguyện vọng thiết tha của Người là giành độc lập tự do cho dân tộc,
tiến bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước Việt Nam
ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
1.2. Nội dung, biện pháp bồi dưỡng, giáo dục thanh niên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.1. Nội dung giáo dục
Hồ Chí Minh luôn quan tâm giáo dục toàn diện cho thanh niên, mà nội
dung bao gồm: giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, văn hóa, khoa
học kỹ thuật, quân sự, lao động-nghề nghiệp, sức khỏe-thể chất, nhân cách,
thẩm mỹ, pháp luật …

Tuy nhiên, xuất phát từ một chân lý đơn giản nhưng cực kỳ sâu sắc:
Muốn làm cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh luôn
đặt vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống lên hàng đầu. Ngay từ năm 1925, bài
21
đầu tiên mà Người giảng cho các hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên là bài giảng về đạo đức - “Tư cách người cách mạng”. Trong đó,
Người tóm tắt 23 điều ngắn gọn, chia làm 3 phần: đối với mình, với người và
với việc. Với cương vị là người đứng đầu Đảng và Chính phủ, nhiều công
việc đòi hỏi Người phải trực tiếp tham gia giải quyết. Thế nhưng, Người vẫn
dành thời gian viết nhiều chuyên luận về đạo đức nhằm phục vụ cho công tác
tuyên truyền, giáo dục. Đáng kể nhất là những tác phẩm như: Con đường giải
phóng (1940), Sửa đổi lối làm việc (1947), Cần Kiệm Liêm Chính (1949),
Đạo đức công dân (1955), Đạo đức cách mạng (1958), Nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (1969). Cuối cùng, trong Di chúc để
lại cho chúng ta trước khi trở về cõi vĩnh hằng, Hồ Chí Minh đã căn dặn lại
Đảng ta là giữ gìn đạo đức cách mạng và chăm lo giáo dục đạo đức cách
mạng cho đoàn viên và thanh niên nói chung.

Như vậy, từ bài giảng đầu tiên cho đến lời dạy cuối cùng, trong gần suốt
nửa thế kỷ, Hồ Chí Minh đã thường xuyên dành cho việc giáo dục, rèn luyện đạo
đức, lối sống vị trí ưu tiên hàng đầu trong toàn bộ sự nghiệp của Người. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức, lối sống cho nhân dân nói chung và cho
thanh niên nói riêng có một tầm quan trọng đặc biệt.

1.2.1.1. Giáo dục lý tưởng cách mạng


Lý tưởng cách mạng có vai trò quan trọng trong đời sống con người, là
trạng thái hoàn hảo nhất mà người ta mong muốn đạt tới, nó thôi thúc con
người hành động để thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích. Thanh niên là lớp người
trẻ tuổi đang phát triển để hoàn thiện nhân cách. Thanh niên khao khát lý
tưởng và hành động thực hiện lý tưởng, hướng tới các giá trị xã hội, nhưng lại
chưa đủ kinh nghiệm và sự từng trải để có cách suy xét, đánh giá các giá trị,
lựa chọn giá trị theo sự chỉ dẫn sáng suốt của lý trí. Vì thế, thanh niên rất cần
đến những tác động của giáo dục xã hội để định hướng cho họ thực hiện lý
tưởng mà Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Lý tưởng cách mạng mà Hồ Chí

22
Minh quan tâm giáo dục cho thanh niên là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn
độc lập, cho CNXH toàn thắng trên đất nước ta và trên thế giới. Theo Hồ Chí
Minh, có giác ngộ lý tưởng mới giúp thanh niên hiểu lý tưởng đó cao đẹp như
thế nào, thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện lý tưởng. Với
nghĩa đó, giác ngộ lý tưởng cách mạng chính là giáo dục cho thanh niên lý
tưởng sống và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.

Thanh niên là một lớp người trong xã hội, cho nên lý tưởng cách mạng
của thanh niên không tách khỏi lý tưởng cách mạng của cả xã hội. Mục tiêu,
lý tưởng mà Đảng và Hồ Chí Minh đã vạch ra ngay từ rất sớm, đó là kiên
định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Bàn về đời sống mới trong trường học, Người nhấn mạnh: “cốt nhất là
phải dạy cho học trò biết yêu nước thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập,
tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”. “Trong
lúc dạy chớ nên làm cho học trò có tư tưởng vị quốc như bọn phát xít, vị quốc
chủ nghĩa là chỉ biết yêu trong nước mình mà khinh ghét nước người… phải
chú trọng về môn tinh thần và môn đạo đức. Phải tẩy sạch óc kiêu ngạo, tự
phụ mà giáo dục thực dân còn để lại” [36, tr. 102].
Trong thư gửi giáo sư và sinh viên trường Dự bị đại học ở Thanh Hoá,
Người nhắc nhở: “Các thầy có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ
cho dân tộc. Vậy giáo dục nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân.
Các cháu thì học tập cần gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện mục
đích cao quý: thật thà phụng sự nhân dân… Thầy thi đua dạy, trò thi đua học.
Thầy và trò thật thà đoàn kết và dùng cách dân chủ để giúp nhau tiến bộ
mạnh, tiến bộ mãi” [37, tr. 467].
Nói chuyện với học sinh các trường Trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn
An, Trưng Vương ở Hà Nội, Người nói: “Học bây giờ với học dưới chế độ
thực dân phong kiến khác hẳn nhau. Bây giờ phải học để: yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân, yêu khoa học, yêu đạo đức… Học để phụng sự ai? Để phụng sự Tổ
quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh” [38, tr. 398-399].
23
Trong thư gửi lưu học sinh tại Matxcơva, Người cũng nhắc nhở: Các
cháu cần nhận rõ mình học cốt để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Học
ngành nào cũng cần phải căn cứ vào nhu cầu của Tổ quốc, của nhân dân mà
định, không thể tuỳ theo sở thích riêng của mình.
Giáo dục thanh niên, Hồ Chí Minh yêu cầu phải giáo dục toàn diện cả
đức, trí, thể, mỹ, lao động sản xuất. Để đào tạo các thế hệ chiến sĩ cách mạng
cho đời sau cũng không thể chỉ nhấn mạnh một mặt riêng lẻ nào, nghĩa là phải
đủ cả “hồng” và “chuyên”. Tuy nhiên, là những chiến sĩ trung kiên, những hạt
nhân cách mạng kiên trì đưa đất nước đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội,
phẩm chất hàng đầu cần có ở họ là sự trung thành với lý tưởng, ý chí kiên
định đấu tranh cho thắng lợi của lý tưởng và phải có đạo đức cách mạng để
làm gương, lôi cuốn quần chúng. Người nhắc nhở: “Đảng ta phải ra sức tăng
cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối,
chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên”.
Lý tưởng mà Bác Hồ quan tâm giáo dục cho thanh niên là lý tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tức là kết hợp chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày nay, chúng ta có được độc lập dân tộc,
nhưng độc lập dân tộc mới chỉ là bước thứ nhất trên con đường giải phóng xã
hội và giải phóng con người. Mục tiêu của chúng ta còn xa, vì vậy, chúng ta
phải tiếp tục đưa đất nước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội, con đường
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Các thế lực
chống chủ nghĩa xã hội đang tìm cách lung lạc thanh niên ta bằng cách tách
rời độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Dân tộc ta phải trải qua gần 100 năm
dưới chế độ thuộc địa của tư bản Pháp. Chúng ta hiểu bản chất của chủ nghĩa
tư bản gắn liền với bóc lột, áp bức, bất công và tha hoá con người, chủ nghĩa
tư bản không đặt vấn đề giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc
hậu. Chúng ta lựa chọn chủ nghĩa xã hội vì như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới cứu được nhân loại, đem lại cho mọi người tự do,

24
bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no, việc làm cho mọi người, niềm vui, hoà
bình, hạnh phúc” [32, tr. 461].
Xác định lý tưởng tương đối dễ, vấn đề là phải kiên định lý tưởng, nhất
là ở những bước thoái trào của cách mạng. Do đó, toàn bộ công tác tư tưởng
của chúng ta là phải làm cho thanh niên có chung một ý chí: xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Sức
mạnh của con người được nhân lên bởi ý chí. Sức mạnh “đào núi và lấp biển”
của bao thế hệ thanh niên ta trong cách mạng và kháng chiến là sức mạnh của
lý tưởng, của ý chí cách mạng, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là làm cho họ kế thừa được chí lớn của các thế
hệ cha anh, biến lý tưởng cách mạng thành ý chí cách mạng, thành động lực
tinh thần mạnh mẽ, đánh bại âm mưu phá hoại của kẻ thù, chiến thắng nghèo
nàn, lạc hậu, đưa sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến thành
công, nhanh chóng đưa Việt Nam lên hàng các quốc gia phát triển của khu
vực và thế giới. Trong năm điều Bác Hồ dạy thanh niên, Người nhấn mạnh
điều trước tiên là: “Phải luôn luôn nêu cao chí khí cách mạng trung với nước,
hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng. Không sợ gian khổ, hy sinh, hăng hái thi đua tăng
gia sản xuất và anh dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống
Mỹ cứu nước” [42, tr. 504].
1.2.1.2. Bồi dưỡng, giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng
Với quan điểm và nhận thức thanh niên là lực lượng có ý nghĩa chiến
lược, quyết định sự phát triển hiện tại và tương lai của đất nước, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn coi trọng và hết sức
quan tâm đến vấn đề thanh niên.
Khi truyền bá tư tưởng cách mạng vào trong nước, Hồ Chí Minh đã
chọn đối tượng đầu tiên là thanh niên và tập hợp họ trong tổ chức “Hội Việt
Nam Cách mạng thanh niên” nhằm tập hợp thanh niên yêu nước giác ngộ
cách mạng tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc. Trong kháng chiến chống

25
Pháp, Người đã nói với thanh niên: người ta thường nói thanh niên là người
chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh
một phần lớn là do thanh niên.
Theo Người, mỗi người thanh niên trước hết cần phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang.
Người nói: Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại
cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của dân tộc, của Đảng
của cách mạng mà không ngần ngại hy sinh lợi ích cá nhân. Khi cần thì sẵn
sàng hy sinh cả tính mạng mình cũng không thương tiếc. Đó là biểu hiện rất
rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng.
Nhưng muốn có được đạo đức cách mạng thì đòi hỏi mỗi thanh niên
phải có sự phấn đấu không ngừng trong mọi hoạt động thực tiễn cách mạng.
Người nói: Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu
tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Song chỉ có đạo đức cách mạng thì chưa đủ, theo Người đã trở thành
một người thanh niên tiên tiến thì cần phải có sự nỗ lực học tập không ngừng.
Người nói: Thanh niên muốn làm người chủ trong lai cho xứng đáng thì ngay
hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra sức làm việc
để chuẩn bị cái tương lai đó
Người căn dặn thanh niên phải cố gắng học tập kỹ thuật và văn hóa,
nếu không học tập văn hóa, không có trình độ văn hóa thì không học tập được
kỹ thuật, không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh
tế nước nhà, nhưng phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ
thuật mà không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi.
Lý tưởng và ý chí cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền
tảng đạo đức cách mạng, đó là đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu thiếu đi nền tảng này, tuổi trẻ chưa trải qua
dày dạn đấu tranh sẽ không đủ sức vượt qua những thăng trầm, khó khăn của

26
hoàn cảnh để kiên trì, phấn đấu đến cùng cho lý tưởng. Thiếu nền tảng đạo
đức cách mạng, người chiến sĩ trẻ dễ gục ngã trước những cám dỗ của kinh tế
thị trường. Một khi đã đánh mất phẩm chất của người cách mạng, đã sa ngã,
hủ hoá, biến chất, thì tuy còn sống hay đang giữ một phần trọng trách nào đó,
trong con mắt của quần chúng cũng bị xem như đã chết, không còn tác dụng
gì với quần chúng nữa, chỉ còn là điển hình phản diện để cho nhân dân phê
phán mà thôi. Do đó, phải ghi nhớ lời dạy của Người luôn luôn trau dồi đạo
đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị, chống kiêu căng, tự mãn, chống lãng phí,
xa hoa. Thực hành nghiêm chỉnh phê bình và tự phê bình để giúp nhau tiến bộ
mãi.
Thanh niên cần có sáu cái yêu:
+ Yêu Tổ quốc: Yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta
giàu mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.
+ Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân
dân còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn,
những công tác nặng nhọc với nhân dân.
+ Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với
yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi
ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
+ Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ
nghĩa xã hội thì phải yêu lao động, vì không có lao động thì chỉ là nói suông.
+ Yêu khoa học và kỷ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có
khoa học và kỷ luật.
Mỗi thanh niên cần kiên quyết làm bằng được những điều sau:
+ Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung
sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước.
+ Các việc đáng làm thì có khó mấy cũng quyết làm cho kỳ được.

27
+ Ham làm những việc ích quốc lợi dân, không ham mê địa vị và công danh
phú quý.
+ Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc.
+ Quyết tâm làm gương về mọi mặt, siêng năng, tiết kiệm, trong sạch.
+ Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc, nên nói ít làm nhiều, thân ái, đoàn kết.
Đồng thời, thanh niên cần phải chống tâm lý tự tư tự lợi, chỉ lo cho lợi
ích riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh
khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống
lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt uỷ mị, chống kiêu ngạo, giả dối, khoe
khoang.
Tóm lại, “thanh niên ta có vinh dự to thì cũng có trách nhiệm lớn. Để
làm tròn trách nhiệm, thanh niên phải nâng cao tinh thần làm chủ tập thể, trừ
bỏ chủ nghĩa cá nhân, chớ phô trương hình thức, chớ kiêu ngạo, tự mãn. Phải
thấm nhuần đạo đức cách mạng, tức là học tập, lao động, sinh hoạt theo đúng
đạo đức, thanh niên xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa” [41, tr. 489].

1.2.1.3. Giáo dục lòng yêu nước, thương nòi

Ngoài tri thức đạo đức thì tình cảm đạo đức cũng là nội dung quan trọng
trong giáo dục đạo đức. Những giá trị đạo đức thu nhận được bằng lý trí dù có
tốt đẹp đến đâu, nếu không có được một tình cảm đạo đức trong sáng và sâu
sắc thôi thúc thì cũng chỉ dừng lại ở mức độ ghi nhận thông tin, chưa đủ cơ sở
để biến thành hành vi đạo đức. Điều này giải thích tại sao trong giáo dục đạo
đức cho thanh niên, ngoài các giá trị đạo đức, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú
trọng đến việc bồi dưỡng tình cảm đạo đức. Người khẳng định nhiệm vụ “cốt
nhất” của nhà trường là “Phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải
dạy cho họ có ý chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết
không chịu làm nô lệ”. Huấn thị tại Đại hội sinh viên lần thứ II (1958), Người
dạy thanh niên phải có sáu cái yêu: Tổ quốc, nhân dân, xã hội chủ nghĩa, lao
động, khoa học và kỹ thuật. Trong đó yêu Tổ quốc, yêu nhân dân được Người

28
đặt lên hàng đầu. Yêu Tổ quốc thì thanh niên phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu
mạnh. Muốn cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia
sản xuất, thực hành tiết kiệm. Yêu nhân dân thì phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân
dân, biết dân còn cực khổ như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những tủi
buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, cách tốt
nhất để bồi dưỡng lòng yêu nước, thương nòi cho thanh niên là giáo dục truyền
thống dân tộc và truyền thống cách mạng. Thông qua giáo dục truyền thống,
những giá trị tốt đẹp như: lòng tự hào dân tộc, ý thức và hành vi sẵn sàng xả
thân bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia… được củng cố, được nâng lên, làm
cho thanh niên thấy được giá trị lớn lao, ý nghĩa đích thực của cuộc sống hòa
bình, tự do, độc lập. Những giá trị ấy trở thành tình cảm, động lực thôi thúc
thanh niên vượt qua mọi khó khăn, hy sinh gian khổ để bảo vệ độc lập chủ
quyền quốc gia, vươn lên trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no,
hạnh phúc.

1.2.1.4. Giáo dục tài năng


Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Hồ Chí Minh đã lớn tiếng tố cáo
và đanh thép lên án tội ác của chế độ thực dân trong việc thi hành chính sách
ngu dân để dễ bề cai trị. Chúng “gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và
nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư
hỏng, mất tính nết của người đi học… dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc
không phải là Tổ quốc mình và đang áp bức mình” [39, tr. 183].
Tóm lại, giáo dục thực dân cũ nhằm mục đích ngu dân, gieo nọc độc làm
cho thanh niên Việt Nam quên Tổ quốc, xa giống nòi, quên thân phận nô lệ
tách rời khỏi cuộc đấu tranh cho tự do, độc lập của mỗi dân tộc.
Sau cách mạng tháng Tám, khai sinh ra nền giáo dục mới, Hồ Chí Minh
chủ trương phải xây dựng một nền giáo dục hướng vào các giá trị dân tộc,
hiện đại, nhân văn, một nền giáo dục phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Trong thư gửi học sinh (9-1945), Người nói đến “một nền giáo dục của một
nước độc lập, một nền giáo dục sẽ đào tạo những người hữu ích cho nước
29
Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có
của các em”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước hết đến lý tưởng xã hội chủ
nghĩa và đạo đức cách mạng, tuy nhiên không vì vậy mà coi nhẹ việc học tập
văn hoá, khoa học, kỹ thuật. Người thường nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội phải có học thức”, “Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn sẽ
đưa loài người đến hạnh phúc vô tận”. Người đề ra yêu cầu cao cho thanh
niên “vượt qua mọi khó khăn để mà chiến thắng, để hưởng thụ tất cả những
khoa học, những hiểu biết của thời đại thế kỷ XX” [40, tr. 471].
Người coi trọng việc rèn luyện thân thể cho học sinh. Người sớm cho lập
Nha thể dục, phát động phong trào rèn luyện thân thể, kêu gọi toàn dân tập
thể dục, “giữ gìn, bồi đắp sức khoẻ” vì “việc gì cũng cần sức khoẻ mới làm
thành công”. Sau thoát nạn mù chữ, Người yêu cầu phải dạy cho thanh niên
biết thường thức vệ sinh, về khoa học để dân bớt ốm đau, bệnh tật.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, học là để hành, “học để làm việc”,
muốn hành tốt phải hiểu kỹ, từ đó mới có thể tiến lên sáng tạo cái mới. Ngày
xưa học kiếm lấy mảnh bằng về làm quan. Ngày nay, học để làm việc, mà
việc thì mỗi ngày một nhiều, một mới. Người nói: “So với trước, công việc
bây giờ khó khăn hơn, to lớn hơn, phức tạp hơn,… Một cái máy tính một giây
đồng hồ làm được hàng ngàn phép toán, không phải cộng, trừ, nhân, chia
thông thường. Ta phải học toán, toán rất cao… Liên Xô bắn tên lửa trúng đích
xa một vạn hai ngàn cây số,… phải có tính toán giỏi mới trúng đích. Hay như
con tàu vũ trụ bay cao hơn 300 cây số, lại bay vòng quanh quả đất… Bây giờ
bảo chúng mình bay, có bay được không?” [41, tr. 463-464]. Từ đó, Người đề
ra yêu cầu: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn lý
luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết
rồi” [39, tr. 215].
Thanh niên không được sao nhãng lời dạy của Bác Hồ: “Thanh niên phải
học và học cho giỏi”. Cách mạng đòi hỏi nhiệt tình cách mạng và tri thức
cách mạng. Thanh niên chúng ta cần theo tấm gương học tập của Bác Hồ: từ

30
một người yêu nước nhiệt thành, tuy không có điều kiện học tập nhiều trong
nhà trường, nhờ sự nỗ lực và ý chí phi thường, nhờ cả thiên tài trí tuệ hiếm có,
Người đã từng bước chiếm lĩnh được những đỉnh cao của tri thức cách mạng,
để ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, như nhận xét và đánh giá của hoạ sĩ
Thuỵ Điển Erich Giôhanxơn: Hồ Chí Minh “là một con người kiệt xuất trên
nhiều lĩnh vực, một con người uyên bác… Người sẽ trở thành một lãnh tụ
cách mạng không phải bằng hình thức bề ngoài mà bằng học thức, hiểu biết
và trí tuệ của Người”.
Trong bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần II (1958), Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Hồi Bác còn đồng tuổi với các cháu ở đây, thì Bác phải đi rửa bát
hoặc làm nhiều công việc khác để lấy tiền mà đi học. Vì lúc đó chưa có Đảng,
chưa có Hội thanh niên hoặc sinh viên, mà lúc đó nói đến yêu nước là thực
dân Pháp nó chặt đầu. Còn bây giờ các cháu có thể phát triển hết khả năng
của mình.
Thanh niên bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác, tự
nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của
mình. Tức là thanh niên phải có đức và có tài. Có tài mà không có đức ví như
một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng không làm được gì ích lợi cho xã
hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông
Bụt không làm hại gì nhưng cũng không lợi gì cho loài người”.
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra mối quan hệ giữa lao động trí óc và lao động
chân tay. Cần có lao động trí óc và lao động chân tay, và cần lao động trí óc,
kiệm lao động chân tay, nghĩa là lao động chân tay cũng phải có văn hoá, mà
người lao động trí óc cũng phải làm được lao động chân tay. Nếu lao động trí
óc không làm được lao động chân tay và lao động chân tay không có trí óc thì
đó là người lao động bán thân bất toại. Lao động trí óc mà không lao động
chân tay, chỉ biết lý luận mà không biết thực hành thì cũng là tri thức có một
nửa. Vì vậy, cho nên thanh niên trong lúc học lý luận cũng phải kết hợp với

31
cả thực hành và tất cả các ngành khác đều phải: lý luận kết hợp với thực hành,
học tập kết hợp với lao động.
1.2.2. Biện pháp giáo dục
1.2.2.1. Học đi đôi với hành
Hồ Chí Minh thường nói: học để “làm người, làm việc, phụng sự Tổ
quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh”, học là để lấy cái
thực chất, tiếp thu kiến thức, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống chứ không
phải để có tấm bằng “loè thiên hạ”. Mục đích của học là để hành, để phát
triển. Hành là điều kiện để củng cố và nâng cao kiến thức được tiếp thu, rèn
luyện kỹ năng và hình thành phẩm chất của người lao động mới. Theo Người,
học và hành là hai khâu của quá trình nhận thức gắn bó khăng khít với nhau.
Hành không chỉ là vận dụng những điều đã học, mà còn là nguồn gốc của tri
thức mới, là biện pháp rèn luyện con người một cách toàn diện.
Hồ Chí Minh phê phán lối học vẹt, lối dạy sách vở, biến con người thành
những con mọt sách, lối nói hoa văn, hình thức. Người khuyên: “Không nên
học gạo, không nên học vẹt,… Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực
tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học và hành phải kết hợp với nhau”. Học
lý luận, học các môn học phải lấy thực tiễn làm ví dụ, minh chứng cho sự
đúng đắn của lý luận. Lý luận không có thực tiễn thì mù quáng như người mò
mẫm đi trong đêm tối. Lý luận và thực tiễn luôn gắn bó với nhau. Hồ Chí
Minh luôn căn dặn cần phải gắn việc dạy học với thực tế của cuộc sống, với
đời sống của nhân dân.
1.2.2.2. Giáo dục thanh niên trong tổ chức và đoàn thể
Là bậc thầy về tổ chức, Hồ Chí Minh sớm nhận thấy vai trò rất quan
trọng của tổ chức. Đối với Người, giáo dục và tổ chức luôn luôn gắn bó chặt
chẽ với nhau. Giáo dục, giác ngộ để đi tới tổ chức thành lực lượng và tổ chức
để đảm bảo cho giáo dục đạt kết quả. Luận điểm quan trọng và xuyên suốt
của Người là cần đưa thanh niên vào các loại hình tổ chức thích hợp để ai
cũng được giáo dục, rèn luyện, trưởng thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dạy

32
thanh niên ta: “Học phải đi đôi với hành, lý luận kết hợp với thực tiễn, giáo
dục gắn liền với lao động, phải làm cho giáo dục gắn liền với môi trường có
tổ chức. Chỉ có trong môi trường ấy thanh niên mới chịu được sự tác động
giáo dục có định hướng”. Đưa thanh niên vào tổ chức để giáo dục tức là đưa
họ vào môi trường giáo dục lành mạnh. Người chỉ ra rằng: Thanh niên có
nhiều mặt mạnh, đồng thời cũng có không ít hạn chế, họ vốn chưa từng trải,
còn thiếu nhiều kinh nghiệm sống. Họ luôn luôn muốn vươn tới cái tốt đẹp,
cái mới. Do chưa có đầy đủ nhận thức, chưa định hình về mặt nhân cách, nên
trong quá trình nhận thức cảm tính, họ rất dễ bị những màu sắc bề ngoài chinh
phục. Cái mà họ tưởng là tốt đẹp có khi đã đánh lừa họ và không ít người phải
trả giá cho lỗi lầm của mình. Do vậy, phải đoàn kết thanh niên trong tổ chức,
giúp thanh niên có định hướng đúng trong rèn luyện và phấn đấu, tạo ra môi
trường xã hội lành mạnh, tích cực đối với thế hệ trẻ. Người luôn nhắc nhở:
Cần tìm ra những hình thức thích hợp, cuốn hút được tuổi trẻ vào những môi
trường có tổ chức lành mạnh; tổ chức họ lại, đưa họ vào thực tiễn hành động
cách mạng là cách tạo ra môi trường giáo dục có hiệu quả nhiều mặt.
Ngoài việc tạo ra môi trường giáo dục lành mạnh, đưa thanh niên vào tổ
chức để đoàn kết họ lại, tạo nên sức mạnh của sự đoàn kết như Hồ Chí Minh
đã từng nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với chức năng là trường học
cộng sản chủ nghĩa của tuổi trẻ, là tổ chức tập hợp sự đoàn kết và giáo dục
tuổi trẻ có hiệu quả, đây là tổ chức được Hồ Chí Minh sáng lập nên năm 1931
cho thấy sự quan tâm của Người đối với công tác giáo dục thế hệ trẻ. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn là cánh tay đắc lực để thực hiện những chủ
trương và chính sách cách mạng”. Người làm rõ vai trò Đoàn là người giúp
sức, là lực lượng xung kích, tích cực tuyên truyền, vận động và đi đầu thực
hiện những chủ trương, chính sách đó vào cuộc sống với tinh thần trách

33
nhiệm cao nhất. Thông qua tổ chức Đoàn, với những phong trào do Đoàn
thanh niên phát động, thanh niên được đưa vào những phong trào đó, qua đó
được giáo dục, rèn luyện, trưởng thành; trong các tổ chức ấy, thanh niên
không chỉ được học tập mà còn được tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí:
“Trong vui chơi cũng có giáo dục. Cần phải tổ chức những thú vui chơi có
văn hoá, những hoạt động tập thể góp phần giáo dục thanh niên”.
Tổ chức đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục, rèn luyện thanh
niên, do vậy, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, ngoài việc tìm ra các loại hình tổ
chức thích hợp cho việc giáo dục, rèn luyện thanh niên còn phải củng cố tổ
chức để nó ngày càng vững mạnh, hoạt động đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.2.3. Kết hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “trồng người” là sự nghiệp vẻ vang nhưng rất công
phu, bền bỉ, khó khăn, phải có sự phối hợp của nhiểu lực lượng mới đạt kết
quả tốt. Tại buổi lễ khai mạc trường Đại học Nhân dân Việt Nam, ngày 19
tháng 1 năm 1955, Người nói: “Trường Đại học, gia đình và đoàn thể thanh
niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên”. Trong “Thư gửi
các em học sinh” ngày 24 tháng 10 năm 1955, Người viết: “Giáo dục các em
là việc chung của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy cô giáo và
người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương mẫu cho các
em trước mọi việc”.
Người luôn đánh giá cao vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội trong
việc giáo dục thế hệ trẻ. Gia đình là nơi đem đến cho con người những bài
học đầu tiên và thường xuyên, liên tục từ lúc sinh ra đến lúc trưởng thành qua
tình thương, sự dạy dỗ, tấm gương của ông bà, cha mẹ, anh chị,… Gia đình
còn là một trong những cội nguồn tạo ra giá trị đạo lý, nhân cách, văn hoá con
người, nơi hình thành và phát triển tư duy, tình cảm trí tuệ, bản sắc con người.
Giáo dục gia đình giữ một vị trí đặc biệt đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách, nhất là giáo dục tình người từ thuở ấu thơ. Hoạt động của giáo dục
gia đình có tác dụng góp phần củng cố những nội dung giáo dục của nhà

34
trường, nhất là đối với nội dung giáo dục lý tưởng đạo đức, lối sống văn hoá,
giáo dục thể chất,…
Từ trước tới nay, nói đến giáo dục, người ta thường nghĩ đến nhà trường.
Nhà trường là thiết chế xã hội có chức năng chuyên trách về giáo dục, thông
qua sự dạy bảo của thầy cô, sách vở, các thiết bị dạy học và các tổ chức đoàn
thể trong trường mà họ tham gia, thế hệ trẻ được tiếp thu thêm những kiến
thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, giáo dục nhà trường cũng góp phần hình
thành nhân cách, tư duy, lối sống cho thế hệ trẻ.
Cùng với gia đình, trường học, giáo dục xã hội với những hình thức
riêng của nó cũng góp phần giáo dục, rèn luyện cho thanh niên thông qua các
tổ chức xã hội, hoạt động cộng đồng. Xã hội còn là nơi giáo dục những thanh
niên lầm đường, lạc lối. Nói về những người mắc khuyết điểm, Hồ Chí Minh
đã nói: “Bàn tay còn có ngón ngắn, ngón dài”, đặc biệt là tuổi trẻ còn nông
nổi và nóng vội, do vậy không tránh khỏi những sai lầm. Người cũng thường
nhắc nhở không nên kỳ thị, xa lánh họ mà ngược lại phải gần gũi, giáo dục,
cải tạo họ để trở thành những người có nhân cách tốt, có ích cho xã hội.
“Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, ông cha ta từng dạy như vậy.
Thanh niên rất năng động và ham hiểu biết, tìm tòi những điều mới lạ, đồng
thời chịu tác động của nhiều luồng thông tin khác nhau, nhưng nguồn thông
tin tại chỗ, trong những môi trường mà họ sống, giao tiếp hàng ngày, vẫn có
tác động mạnh mẽ đến việc hình thành nhân cách của họ, môi trường đó chính
là gia đình, nhà trường và môi trường xã hội mà họ đang sống. Thế hệ trẻ là
những người như thế nào, có được những phẩm chất gì đều không tách rời
công lao giáo dục, bồi dưỡng, tác dụng nêu gương của những người lớn tuổi.
Cả thành tích, ưu điểm lẫn khuyết điểm và sai lầm của thế hệ trước đều in
đậm dấu vết lên tâm hồn thế hệ trẻ. Vì vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhỏ: muốn thế
hệ trẻ trở nên những người tốt thì lớp người lớn tuổi trước hết cũng phải là
những người tốt: “bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách,
trước hết phải làm gương mẫu cho các em trước mọi việc” [41, tr. 463].

35
Hồ Chí Minh yêu cầu gia đình, nhà trường, xã hội phải hợp thành sự
thống nhất ở mục tiêu, phương pháp giáo dục để tạo ra hợp lực cùng một
hướng, chứ không phân cực hoặc phản lực triệt tiêu lẫn nhau. Cho nên đòi hỏi
phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc
giáo dục thế hệ trẻ. Người nói: “Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy
ngược lại, sẽ có ảnh hưởng không tốt… Cho nên muốn giáo dục các cháu
thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình, xã hội đều phải kết hợp chặt
chẽ với nhau” [40, tr. 330].
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở những người làm công tác giáo dục phải
nhận thức đúng đắn “giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”, kết quả giáo dục
tuỳ thuộc rất nhiều vào sự tham gia tích cực, sự giúp đỡ thiết thực và sự giác
ngộ về trách nhiệm đối với giáo dục của các ngành, các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, của cha mẹ học sinh, cũng như các lực lượng xã hội. Người yêu cầu
gia đình, toàn thể các ngành, các cấp, các giới, các cấp uỷ Đảng, chính quyền
tại địa phương phải thực sự quan tâm đến sự nghiệp giáo dục. Người đề nghị:
“Sự giáo dục thanh niên phải liên hệ với dư luận của xã hội, lực lượng của
chính phủ để ngăn ngừa những cái gì có thể ảnh hưởng xấu đến thanh niên, để
nâng cao tính cảnh giác của thanh niên”.
1.2.2.4. Phát huy ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện của thanh niên
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công”
Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một tấm gương sáng chói về tinh
thần tự học, tự rèn luyện. Buổi đầu ra đi làm cách mạng, Người không ngần
ngại làm các việc bồi bàn, quét tuyết, đốt lò, làm vườn, rửa ảnh,… như một
kiểu “vô sản hoá”, vừa để cải tạo bản thân, vừa là phương tiện để đạt tới mục
đích cứu dân, cứu nước, cải tạo xã hội. Do đó, Người luôn kiên trì vượt khó,
tự rèn luyện để từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện trong những hoàn cảnh cực

36
kỳ khó khăn, nhờ đó mà vượt lên, vượt lên các vị tiền bối, vượt xa trình độ
chung của thế hệ mình, trở thành người chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, thiên tài của
dân tộc.
Xuất phát từ trong mỗi con người đều có mặt tốt và mặt xấu, nhất là với
tuổi trẻ - lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách, đang phát triển và muốn khẳng
định mình, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc kết hợp cả hai mặt giáo dục và tự
giáo dục. Theo Người, khi mặt tự giáo dục được đặt ra ở mỗi người thì việc
giáo dục mới có hiệu quả và chắc chắn.
Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở thế hệ trẻ phải tự tu dưỡng trên
mọi phương diện: đạo đức, lý tưởng cách mạng, trau dồi và nâng cao trình độ
văn hoá, nghiệp vụ chuyên môn, rèn luyện ý chí và lòng dũng cảm, rèn luyện
thân thể,… Tự giáo dục là biết soi mình trong tấm gương của những người đi
trước để học tập. Tự giáo dục là biết sử dụng tốt vũ khí phê bình và tự phê
bình để tiến bộ mãi.
Theo Người, thanh niên muốn xứng đáng là người chủ tương lai của đất
nước thì yếu tố tự giác rèn luyện của bản thân thanh niên hết sức quan trọng.
Trước tiên, thanh niên phải rèn luyện và thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, “phải trau dồi đạo đức của người cách mạng”, Người luôn nhắc nhở
thanh niên phải gắn chặt “xây và chống” trong rèn luyện, Người viết: “Thanh
niên cần phải chống tâm lý tự tư tự lợi, chỉ lo cho lợi ích riêng và sinh hoạt
riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói
xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ.
Chống cách sinh hoạt uỷ mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang” [36, tr.
375]. Và để chống lại những cái đó, thanh niên “phải biết tự động học tập”,
không phải có thầy mới học mà phải tự tìm sách đọc, lấy sách vở, lấy thực
tiễn làm thầy. Muốn tự học thành công phải kiên trì, bền bỉ, phải có kế hoạch,
tận dụng triệt để mọi phương tiện, hình thức học, phải hình thành được nhu
cầu tự học và khả năng tự học để học suốt đời, “còn sống còn phải học”.

37
Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi thanh niên phải có chí tiến thủ, có ý thức cách
mạng kiên cường đề không ngừng tiến bộ và vượt qua mọi khó khăn, thử
thách. “Thanh niên cần phải có chí tự động, tự cường, tự lập, phải có khí khái
làm việc chứ không ham địa vị, phải có quyết tâm đã làm việc gì thì làm cho
đến nơi đến chốn, làm cho kỳ được, phải có lòng ham tiến bộ, ham học hỏi,
học luôn, học mãi. Học văn hoá, học chính trị, học nghề nghiệp,… như thế
mới xứng đáng là chủ nhân tương lai của nước nhà” [39, tr. 264]. Đồng thời,
thanh niên “phải tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những công việc ích nước
lợi dân” [37, tr. 95]. Tổng kết kinh nghiệm, lời Người khuyên thanh niên như
một chân lý, phương châm sống và hành động của tuổi trẻ:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Như vậy, từ sự nhận thức đúng đắn vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong
lịch sử; từ sự kế thừa những quan điểm cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa
Mác - Lênin về vị trí, vai trò của thanh niên; từ hoạt động cống hiến cả cuộc
đời mình cho cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vị trí, vai trò của
thanh niên trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng. Trong cách mạng
giải phóng dân tộc, thanh niên là một lực lượng to lớn - động lực chủ yếu của
cách mạng. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, thanh niên là lớp người kế
thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên có vai trò xung kích đi đầu trên
các mặt trận kinh tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật. Do đó, trong sự phát triển
trường tồn của dân tộc, thanh niên là những chủ nhân tương lai của nước nhà.
Từ vị trí, vai trò to lớn của thanh niên, Hồ Chí Minh chỉ ra tầm quan
trọng đặc biệt của việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò của thế
hệ trẻ trong mọi thời kỳ cách mạng. “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau” là một quy luật của cách mạng, của sự vận động lịch sử. Do vậy, quan
tâm giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ chính là tuân theo quy luật khách quan nhằm

38
đưa sự nghiệp cách mạng của đất nước không ngừng phát triển. Đó cũng là
điều mà Hồ Chí Minh đã sớm ý thức rõ và luôn luôn chăm lo thực hiện.
Về nội dung giáo dục thanh niên, Hồ Chí Minh chủ trương giáo dục toàn
diện: “Giáo dục phải thực hiện đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ,
gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân. Học phải đi đôi với hành, lý
luận phải liên hệ với thực tế. Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng
đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá kỹ thuật,
lao động và sản xuất” [41, tr. 190].
Người coi giáo dục, rèn luyện, đào tạo thế hệ trẻ là sự nghiệp “trồng
người”. Để sự nghiệp này đạt kết quả tốt thì cần phải có sự phối hợp của
nhiều lực lượng trong xã hội, trước hết là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước,
gia đình và các đoàn thể xã hội. Người đề ra phương châm: “Giáo dục là sự
nghiệp của quần chúng”. Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên phải
liên hệ chặt chẽ với nhau trong việc giáo dục thanh niên.
Về phương pháp giáo dục thanh niên, Người nhấn mạnh: “Giáo dục
thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu
tranh của xã hội” và “Sự giáo dục thanh niên phải liên hệ vào dư luận của xã
hội”. Đồng thời, Người đòi hỏi thanh niên phải tự giác rèn luyện, không
ngừng học tập, có chí tiến thủ, xung phong gương mẫu trong mọi công việc.

Tiểu kết chương 1


Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên là kim chỉ nam cho sự nhận thức
của Đảng và Nhà nước ta về vị trí, vai trò của thanh niên trong sự phát triển
của dân tộc; từ đó có cơ sở để đưa ra những chính sách giáo dục, đào tạo phù
hợp nhằm phát huy vai trò, sức mạnh của thanh niên trong sự phát triển lâu
bền của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên là
một hệ thống các quan điểm của Người về vai trò của thanh niên và tầm quan
trọng của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên; về nội dung và

39
phương pháp giáo dục nhằm giúp thanh niên hình thành những phẩm chất đạo
đức mới, lối sống mới đáp ứng được các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục rèn luyện đạo đức, lối sống cho thanh niên sẽ góp phần quyết định
đối với quá trình xây dựng đạo đức, lối sống cho thanh niên nước ta nhằm tạo
ra động lực và sức mạnh to lớn thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng
lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

40
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC, LỐI
SỐNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2.1. Thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên Trường Đại học Thủ
Dầu Một hiện nay
2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội Bình Dương và trường
Đại học Thủ Dầu Một
2.1.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội Bình Dương
Bình Dương là tỉnh thuộc vùng Đông Nam bộ, phía Bắc giáp Bình
Phước, phía Nam và Tây Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Tây giáp
Tây Ninh, phía Đông giáp Đồng Nai. Bình Dương nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, được xem là cửa ngõ vào Thành phố Hồ Chí Minh,
thông thương giữa trung tâm công nghiệp đô thị lớn với các tỉnh miền Đông
Nam bộ và Nam Tây Nguyên; là trung tâm của các đầu mối giao thông huyết
mạch, có khả năng tiếp nhận các cơ sở công nghiệp từ đô thị chuyển ra, đồng
thời là vành đai cung cấp thực phẩm cho các vùng đô thị. Với vị trí địa lý tự
nhiên, Bình Dương có tiềm năng đa dạng và có điều kiện thuận lợi để xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Diện tích tự nhiên 2.694.43km2 (chiếm khoảng 0,83% diện tích cả nước,


khoảng 12% diện tích miền Đông Nam Bộ). Dân số 1.748.001 người, mật độ
dân số 649 người/km2 (theo Niên giám thống kê tỉnh Bình Dương, tháng 6
năm 2013). Gồm 7 đơn vị hành chính trực thuộc, trong đó thành phố Thủ Dầu
Một là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của tỉnh.

Bình Dương là cửa ngõ giao thương với TP. Hồ Chí Minh, trung tâm
kinh tế - văn hóa của cả nước, có các trục lộ giao thông huyết mạch của quốc
gia chạy qua như quốc lộ 13, quốc lộ 14, đường Hồ Chí Minh, đường Xuyên

41
Á,… cách sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và các cảng biển chỉ từ 10 - 15
Km… thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội toàn diện.

Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao,
GDP tăng bình quân khoảng 14,5%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực,
công nghiệp, dịch vụ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng cao, năm 2010, tỷ
lệ công nghiệp - xây dựng 63%, dịch vụ 32,6% và nông lâm nghiệp 4,4%.

 Hiện nay, Bình Dương có 28 khu công nghiệp và 08 cụm công nghiệp
tập trung, có tổng diện tích hơn 8.700 ha (trong đó, 08 cụm công nghiệp có
600 ha) với hơn 1.200 doanh nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động có
tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ đô la Mỹ.

Với những ưu thế về điều kiện tự nhiên, tiềm năng kinh tế - xã hội,
những chính sách đối với giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, tạo điều kiện
cho công tác giáo dục đào tạo ở Bình Dương nói chung, trường Đại học Thủ
Dầu Một nói riêng sẽ tiếp tục phát triển bền vững và có những ảnh hưởng
nhất định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

2.1.1.2. Tình hình Trường Đại học Thủ Dầu Một

Trường Đại học Thủ Dầu Một được thành lập theo Quyết định số 900/QĐ-
TTg, ngày 24 tháng 6 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở nâng cấp
Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương. Trường Đại học Thủ Dầu Một nằm
trong hệ thống đại học và cao đẳng Việt Nam, là một trường công lập thuộc
quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan chủ quản hành chính là Ủy ban
nhân dân tỉnh Bình Dương.

Kế thừa 6 ngành đào tạo cao đẳng từ Trường Cao đẳng sư phạm Bình
Dương,  năm học đầu tiên sau khi thành lập (2009), quy mô đào tạo của trường
chỉ có hơn 2.000 sinh viên. Năm 2010, trường đã mở thêm 6 ngành đại học, quy
mô đào tạo tăng lên hơn 5.000 sinh viên. Trong hai năm (2011 - 2012) trường
mở thêm 7 ngành đại học, quy mô đào tạo tăng lên 8.000 sinh viên. Đến năm

42
2013, Trường được Bộ Giáo dục và Đào tạo chấp thuận mở thêm 6 ngành đại
học với quy mô đào tạo 12.000 sinh viên. Năm học 2013 - 2014, Trường Đại
học Thủ Dầu Một đào tạo 29 ngành với quy mô hơn 15.000 sinh viên (trong đó
60% hệ đại học, 40% hệ cao đẳng). 

Trường Đại học Thủ Dầu Một có sứ mạng: Xây dựng và phát triển cơ sở đào
tạo đại học, sau đại học đa ngành, đa lĩnh vực, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, bồi dưỡng nhân tài phục vụ quá trình phát triển kinh tế, xã hội tỉnh Bình
Dương, các tỉnh miền Đông Nam Bộ và khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam;
Phát triển nghiên cứu khoa học công nghệ, ứng dụng, chuyển giao khoa học
công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, góp phần giải quyết các vấn đề lí luận và thực
tiễn về kinh tế xã hội của tỉnh Bình Dương, các tỉnh miền Đông Nam Bộ và khu
vực kinh tế trọng điểm phía Nam; Tham gia tư vấn hoạch định chiến lược, chính
sách và các giải pháp phát triển bền vững kinh tế xã hội, giáo dục đào tạo, khoa
học công nghệ tỉnh Bình Dương; Đóng vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục
đại học tỉnh Bình Dương và miền Đông Nam Bộ; hỗ trợ chuyên môn cho các
trường đại học, cao đẳng, các cơ sở giáo dục trong tỉnh; trở thành trung tâm giao
lưu quốc tế về giáo dục, văn hóa, khoa học kĩ thuật của Bình Dương và các tỉnh
miền Đông Nam bộ.

Về mục tiêu: Trường Đại học Thủ Dầu Một phát triển theo định hướng ứng
dụng - thực hành, đến năm 2020 trở thành cơ sở đào tạo ngang tầm các đại học
lớn trong nước, tiến tới tiếp cận chuẩn mực giáo dục đại học khu vực và thế giới;
trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học, tư vấn chính sách, cung ứng dịch vụ về
kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, kĩ thuật công nghệ của Bình Dương và các
tỉnh miền Đông Nam bộ.

Đội ngũ cán bộ, giảng viên lớn mạnh và đảm bảo công tác giảng dạy,
nghiên cứu khoa học và quản lý theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Khi
mới thành lập, Trường chỉ có 175 cán bộ, giảng viên. Đến tháng 10 năm 2013,
Trường Đại học Thủ Dầu Một đã có 680 cán bộ giảng viên; trong đó có 1 giáo

43
sư, 4 phó giáo sư tiến sĩ, 50 tiến sĩ, 400 thạc sĩ; 40 cán bộ, giảng viên đang làm
nghiên cứu sinh cả trong và ngoài nước, 64 học viên cao học. Hiện nay, Trường
Đại học Thủ Dầu Một vẫn tiếp tục thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực
có trình độ cao, đồng thời chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn
chuyên môn, nghiệp vụ, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất
là đội ngũ cán bộ giảng dạy của trường nhằm đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới giáo
dục đại học của đất nước.

Trường hiện có 10 phòng, ban, 18 khoa đào tạo đa ngành, 7 trung tâm. Cơ
sở vật chất hiện tại của Trường đảm bảo được yêu cầu giảng dạy học tập với 95
phòng học, giảng đường được trang bị máy chiếu, 8 phòng máy vi tính, 3 phòng
thí nghiệm thực hành ngành kiến trúc, xây dựng, 3 phòng thí nghiệm thực hành
các ngành sinh học, hóa học, khoa học môi trường; 4 phòng thực hành bộ môn
nhạc, múa; 1 hội trường đa năng... Trung tâm thông tin Thư viện được đầu tư
100.000 bản giáo trình, sách tham khảo, 120 nhan đề báo, tạp chí, phần mềm tra
cứu trực tuyến đến các thư viện trong và ngoài nước. Nhà trường đang xây dựng
cơ sở mới trong khu quy hoạch Thới Hòa, huyện Bến Cát - Bình Dương với quy
mô 57,6 ha, dự kiến vốn đầu tư 2.500 tỷ đồng. Trong tương lai không xa, khi cơ
sở mới được xây dựng, Trường sẽ có thêm nhiều tòa nhà hiện đại làm nhà điều
hành, khu giảng đường, khu quản lý học tập, các trung tâm, khu phục vụ sinh
hoạt, khu sản xuất và triển khai ứng dụng, trường phổ thông năng khiếu…

Ngày 29 tháng 1 năm 2013, UBND tỉnh Bình Dương đã ban hành Quyết
định số 248/2013/QĐ-UBND phê duyệt Chiến lược phát triển Trường Đại
học Thủ Dầu Một đến năm 2020. Theo đó, Trường Đại học Thủ Dầu Một có sứ
mệnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho quá trình phát triển
kinh tế, xã hội của tỉnh Bình Dương, vùng Đông Nam bộ, vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam và cả nước; thực hiện nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển
giao khoa học công nghệ, cung ứng sản phẩm và dịch vụ cho thị trường.

44
Chiến lược phát triển đến năm 2020 hoạch định mục tiêu của Trường
Đại học Thủ Dầu Một sẽ phát triển theo định hướng ứng dụng, thực hành, trở
thành cơ sở đào tạo ngang tầm các đại học lớn trong nước, tiến tới tiếp cận chuẩn
mực giáo dục đại học khu vực và thế giới; trở thành trung tâm nghiên cứu khoa
học, tư vấn chính sách, cung ứng dịch vụ về kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, kĩ
thuật công nghệ của Bình Dương và các tỉnh miền Đông Nam bộ.

Việc rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên của Trường hiện nay là hết
sức cần thiết, nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bình Dương nói riêng, cả nước nói
chung.     

2.1.2. Thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên Trường Đại học Thủ
Dầu Một hiện nay

2.1.2.1. Khái niệm, vai trò của đạo đức, lối sống

- Về đạo đức

Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, đạo đức xét đến cùng
là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó
phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo đức giúp cho xã hội
loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động”. Bàn về đạo
đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì góp phần phá hủy xã
hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung
quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản”.
Đây là một quan niệm mang tính cách mạng và khoa học về đạo đức mà quan
niệm của các tôn giáo và các nền đạo đức khác không thể đạt tới.

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với
dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào

45
cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương,
quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng…

Theo Hồ Chí Minh, tiêu chí để đánh giá chính xác đạo đức con người là
ở hành động, ở việc làm, ở cách đối nhân xử thế. Đạo đức phải được xem xét
trong ba mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với công việc. Trong ba
mối quan hệ đó, hoạt động của con người hình thành nên những hành vi,
chuẩn mực đạo đức. Đó là việc mình có nghiêm khắc với chính bản thân hay
không? Thái độ của mình đối với ông bà, bố mẹ, anh chị, em, đối với đồng
chí, đồng đội, cấp trên, cấp dưới, đối với quần chúng nhân dân, đối với Đảng,
với Nhà nước, đối với kẻ thù như thế nào? Mình có hết lòng, toàn tâm, toàn ý
đối với công việc hay không? Điều đó xác định đạo đức của mỗi con người.

Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện
trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công,
từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập,
công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi
phạm vi từ gia đình tới ngoài xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến
quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một
cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng
của đời sống xã hội và mỗi con người.

Hồ Chí Minh đã nêu những nội dung, những chuẩn mực chung có ý
nghĩa cơ bản và có tính phổ cập đối với mọi người, mọi tầng lớp, đồng thời
Người cũng chỉ rõ những chuẩn mực cụ thể đối với từng tầng lớp như: công
nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng, bộ đội, công an…
Song đối tượng Người chú ý nhiều nhất là đạo đức của người cách mạng,
người cán bộ, đảng viên.

Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và
cùng với Đảng ta dày công xây dựng, bồi đắp khác với đạo đức cũ về chất,
ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó

46
là kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản
chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí Minh đã
làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ như
người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai
chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [37, tr.320-321]. Đạo đức
cũ - đạo đức thực dân, phong kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm trói
buộc con người, tàn phá con người. Còn đạo đức mới là vì nước, vì dân; là “dĩ
công vi thượng”. Đây là đạo đức vĩ đại. Bởi lẽ, đạo đức đó “không vì danh
vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”
[36, tr.252].

Hồ Chí Minh cho rằng lấy đạo đức làm gốc, không có nghĩa là tuyệt đối
hóa mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng” và
“chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt
này, thiếu mặt kia. Nói chuyện tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ II,
Người cho rằng: “Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví
như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng
những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa.
Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng
không lợi gì cho loài người” [40, tr.172]. Người thực sự có đức thì bao giờ
cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao.

Như vậy, đạo đức trong quan niệm của Hồ Chí Minh được hiểu là toàn
bộ những chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong
quan hệ với người khác và với cộng đồng. Dựa vào những chuẩn mực đó,
người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác,
về cái không được làm và về nghĩa vụ phải làm.

- Về lối sống

47
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, lối sống là toàn bộ những hình thức
hoạt động sống của con người trong một xã hội nhất định được xem xét thống
nhất với các điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.

Giải thích phạm trù lối sống, học thuyết Mác đi từ phương thức hoạt động
sản xuất của con người. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác và Ph.
Ăngghen cho rằng: “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần
theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn
thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình
thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định
của họ” [11, tr.30].

Mác còn cho rằng để tồn tại trước hết con người phải giải quyết được
những nhu cầu thiết yếu trước mắt như: ăn, mặc, ở, đi lại rồi mới có thể nghĩ
đến chuyện làm văn thơ, làm triết học… Nghĩa là phải lao động kiếm sống.
Lao động vốn là nhu cầu sống hàng đầu của con người. Mặt khác, lao động
còn là nền tảng để phát triển toàn diện cá nhân con người.

Trong lao động sản xuất, con người thiết lập các mối quan hệ với tự
nhiên và với xã hội. Chính trong quá trình đó con người biểu hiện bản thân
mình, biểu hiện đời sống của mình. Như vậy, phương thức sản xuất không chỉ
là một hình thức hoạt động sinh sống nhất định của con người mà còn là mặt
cơ bản của lối sống, là điều kiện kinh tế - xã hội của lối sống. Tuy nhiên,
không thể đồng nhất phương thức sản xuất với lối sống, vì trong xã hội có
giai cấp không thể có một lối sống cho tất cả mọi người và phạm vi của lối
sống rộng hơn phạm vi của phương thức sản xuất. Ngoài hoạt động sản xuất,
con người còn có nhiều hoạt động phong phú khác như: hoạt động chính trị,
hoạt động tư tưởng và văn hóa, hoạt động bồi dưỡng sức khỏe và rèn luyện
phẩm chất cá nhân. Phạm vi của lối sống có thể tương ứng với phạm vi của
hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hai khái niệm trên đây cũng không hoàn
toàn đồng nhất với nhau. Hình thái kinh tế - xã hội gắn liền với hoạt động sản

48
xuất vật chất của con người. Đó là một tồn tại khách quan, độc lập với ý thức
của con người. Ngược lại, lối sống phản ánh hoạt động của chủ thể bao gồm
nhận thức, tình cảm, thái độ, động cơ trong mọi hoạt động của bản thân con
người.

Bổ sung quan điểm của Mác, Hồ Chí Minh xem lối sống còn là hình
thức biểu hiện của văn hóa - văn hóa đời sống. Người quan niệm văn hóa là
bộ mặt tinh thần của xã hội và bộ mặt đó được thể hiện ra ngay trong cuộc
sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Điều này đã được Hồ Chí
Minh chỉ ra khi nói về nội dung của đời sống mới, cũng như cách thức xây
dựng đời sống mới trong một nước Việt Nam độc lập.

Theo Hồ Chí Minh, lối sống bộc lộ thông qua các hoạt động của con
người trong cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Lối sống
vừa có các giá trị của văn minh nhân loại vừa có các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Bên cạnh các giá trị vĩnh cửu, lối sống cũng chứa đựng các
giá trị phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của từng thời kỳ nhất định; có các
khía cạnh tiến bộ và cả những khía cạnh tiêu cực. Có thể nói, lối sống bộc lộ
nhân cách của con người trong một điều kiện hoàn cảnh cụ thể, nhất định.
Con người phản ánh qua lối sống phần nào diện mạo văn hóa thời đại thông
qua năng lực trí tuệ, quan hệ ứng xử và khả năng đồng hóa thẩm mỹ hiện thực
của mình trong nhiều phương diện khác nhau.

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức, lối sống, nếp sống là ba nội dung hợp thành
văn hóa đời sống, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu nhất. Vì vậy, xây
dựng đời sống mới chính là quá trình tuyên truyền và thực hành đạo đức mới,
lối sống mới, nếp sống mới. Lối sống mới mà Hồ Chí Minh quan tâm xây
dựng cho mọi người là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, văn minh, tiên tiến,
kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân
loại. Hồ Chí Minh cho rằng để Việt Nam trở nên một nước mới, một nước
văn minh, tiến bộ thì mọi người phải xây dựng một phong cách sống khiêm

49
tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý
trọng thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức quyền danh lợi. Trong
quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em phải cởi mở, chân tình, ân
cần, tế nhị; giàu tình yêu thương quý mến con người, trân trọng con người;
đối với mình thì nghiêm khắc, chặt chẽ; đối với người thì khoan dung, độ
lượng. Đã có sinh hoạt lành mạnh, tiến bộ, ứng xử hài hòa, đúng mực thì còn
phải xây dựng tác phong quần chúng, tập thể dân chủ, khoa học trong cách
làm việc. Tuy mang những nội dung khác nhau nhưng ba loại tác phong trên
có quan hệ mật thiết với nhau, góp phần nâng cao hiệu quả công việc, giúp
mọi người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Đạo đức và lối sống có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức
đóng vai trò chủ yếu. Đạo đức gắn liền với lối sống và là nội dung của lối
sống. Còn lối sống là thể hiện cụ thể quan niệm đạo đức trong những hình
thức hoạt động của con người trong xã hội. Một lối sống được xem là cao đẹp
trước hết phải là lối sống có đạo đức, luôn đề cao trách nhiệm, bổn phận,
nghĩa vụ của cá nhân đối với cộng đồng và toàn xã hội. Ngược lại, lối sống
chỉ biết hưởng thụ cho bản thân là lối sống ích kỷ, thấp hèn cần phải lên án,
đấu tranh vì trái với đạo đức của dân tộc. Người dạy: “Trong lúc nhân dân ta
còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon mặc đẹp, như
vậy là không có đạo đức” [39, tr.392].

2.1.2.2. Vài nét về thực trạng đạo đức, lối sống của thanh niên, sinh
viên Việt Nam hiện nay nói chung

Việt Nam là một quốc gia có cơ cấu dân số trẻ, dân số thanh niên, với
độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi. Về tư tưởng, thái độ chính trị của thanh niên trong
giai đoạn hiện nay có thể thấy những chuyển biến tích cực. Đa số thanh niên
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thành công của công cuộc đổi mới
đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Thanh niên gương mẫu tham
gia thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật

50
của Nhà nước. Bên cạnh đó, với tinh thần xung phong tình nguyện của mình,
thanh niên tích cực tham gia vào các phong trào mang tính xã hội như đền
ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn…Với ý chí tự lập tự cường, không cam
chịu đói nghèo, lạc hậu, thanh niên hiện nay đang nỗ lực vươn lên học tập,
phát triển kinh tế, tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới nhằm
làm giàu cho bản thân, gia đình và cho xã hội. Hoạt động của tổ chức Đoàn
ngày càng được mở rộng với rất nhiều phong trào, thu hút được đông đảo
đoàn viên thanh niên tham gia và đạt chất lượng tốt. Số lượng thanh niên
được kết nạp vào Đoàn và đoàn viên được vinh dự đứng trong hàng ngũ của
Đảng ngày càng tăng. Thanh niên hiện nay quan tâm nhiều tới các vấn đề
như việc làm, nghề nghiệp, học tập, tình hình phát triển kinh tế xã hội.
Trong xu hướng biến đổi của xã hội hiện nay, thanh niên nhìn chung vẫn giữ
được những điểm tích cực trong lối sống của mình, tự ý thức về năng lực cá
nhân, mong muốn thể hiện và khẳng định mình nhưng vẫn quan tâm, chăm
lo tới lợi ích chung. Đa số thanh niên cho rằng ý nghĩa của cuộc sống được
khẳng định qua lao động, đồng thời thanh niên đang càng quan tâm nhiều
hơn đến những giá trị tinh thần của lao động. Điều này tạo nên một sự cân
bằng trong nhìn nhận và đánh giá về lao động giữa nội dung giá trị tinh thần
và giá trị vật chất của lao động hơn trước kia. Chính những nhận thức đúng
đắn về giá trị lao động đã có ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của
thanh niên hiện nay.

Có thể nói rằng, thanh niên ngày nay có trình độ học vấn cao hơn trước,
thông minh, nhanh nhạy, có năng lực tiếp cận và sáng tạo công nghệ mới,
tích cực đi trước đón đầu ở những ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn. Đa
số thanh niên tự giác học tập, chủ động học thêm nhiều ngành, nghề, nhất là
ngoại ngữ, tin học, các kiến thức khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, thanh niên
ngày nay tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc: có
lòng tự tôn dân tộc, chí tiến thủ và khát vọng vươn lên lập thân, lập nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên cũng diễn ra một thực tế là quan
51
niệm về cuộc sống của một bộ phận thanh niên còn lệch lạc, có lối sống thực
dụng, không có lý tưởng, coi trọng giá trị vật chất hơn giá trị văn hoá tinh
thần. Một bộ phận thanh niên có bản lĩnh chính trị còn non kém, dao động
về lập trường, tư tưởng, thờ ơ chính trị, dễ bị kích động, lôi kéo tham gia các
hoạt động trái với pháp luật. Sự phân hoá giàu nghèo, một số biểu hiện
xuống cấp về đạo đức xã hội đã tác động mạnh tới một bộ phận thanh niên
hiện nay dẫn tới lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, coi thường các giá
trị truyền thống của dân tộc.

2.1.2.3. Thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên Đại học Thủ Dầu
Một hiện nay

Trường Đại học là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh Bình
Dương và một số tỉnh lân cận, vì vậy đã đặt ra cho nhà trường một sứ mạng đào
tạo vô cùng to lớn, trong đó đặc biệt chú trọng đến nguồn nhân lực phải “vừa
hồng”, “vừa chuyên”. Tìm hiểu về những mặt tích cực và hạn chế về đạo đức, lối
sống của sinh viên Đại học Thủ Dầu Một là rất quan trọng, để từ đó có thể đưa
ra được những giải pháp đúng đắn nhằm rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh
viên của trường hiện nay.

* Mặt tích cực về đạo đức, lối sống của sinh viên Đại học Thủ Dầu
Một hiện nay

- Sống có mục đích, lý tưởng tốt đẹp, có lòng yêu nước và tự hào dân tộc

Sinh viên Trường Đại học Thủ Dầu Một hiện nay đa số đều sống có mục
đích, có lý tưởng và hoài bão lớn. Trong những năm qua, nhà trường đã đẩy
mạnh công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội cho sinh viên qua các đợt sinh hoạt chính trị, các hoạt động
nhân kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc, tổ chức “Tuần sinh hoạt công
dân học sinh, sinh viên” ngay đầu khóa học. Vì vậy, đã giúp cho sinh viên có
nắm vững tư tưởng chính trị ngay từ năm học đầu tiên, trên cơ sở đó để có lập
trường tư tưởng chính trị vững vàng. Đa số sinh viên đều tin tưởng vào sự
52
lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó cũng
là cơ sở niềm tin cho sinh tin tưởng phấn đấu cho tương lai của bản thân cũng
như có ý thức quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội của đất nước. Điều
này chứng tỏ sinh viên Đại học Thủ Dầu Một có nhận thức rõ và đúng đắn về
những giá trị xã hội chân chính, thể hiện nhận thức chính trị vững vàng, tin tưởng
vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Bảng 1: Thái độ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam:

Hạng mục Số lượng % % Tích lũy


Rất tin tưởng 138 46.0 46.2
Tin tưởng 137 45.7 92.0
Không tin tưởng 6 2.0 94.0
Không biết 18 6.0 100.0
Không trả lời 1 0.3
Tổng 300 100.0
Nguồn: số liệu điều tra

Theo số liệu phân tích cho thấy, đa số sinh viên đều tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó cũng
là cơ sở niềm tin cho sinh tin tưởng phấn đấu cho tương lai của bản thân cũng
như có ý thức quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội của đất nước.

Kết quả điều tra cũng cho thấy, có 95,3% sinh viên cho rằng tổ chức
Đoàn là cần thiết để đoàn viên hoạt động và trưởng thành, điều đó chứng tỏ
vai trò của tổ chức Đoàn trường học là hết sức quan trọng đối với sinh viên
trong mấy năm học tập tại trường. Sự lựa chọn đó cho thấy sinh viên không
thờ ơ với cuộc sống và luôn mang hoài bão, khát khao được cống hiến cho xã
hội, cho đất nước. Đây cũng chính là động cơ phấn đấu gia nhập vào tổ chức
Đoàn, Đảng của sinh viên. Điều này phù hợp với chủ trương của Đảng, nhiệm
vụ của ngành giáo dục đề ra.

53
Đa số đều mong muốn phấn đấu để trở thành đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam. Có rất nhiều sinh viên có chí hướng trong học tập và rèn luyện,
tham gia học các lớp nhận thức về Đảng. Đảng bộ nhà trường cũng rất quan
tâm đến công tác phát triển đảng trong sinh viên hiện nay, kết quả là số sinh
viên được đứng vào hàng ngũ của Đảng ngày càng tăng.

Bảng 2. Sự quan tâm phấn đấu để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam

Hạng mục Số lượng % % Tích lũy


Rất quan tâm 119 39.7 39.7
Quan tâm 131 43.7 83.3
Không quan tâm 25 8.3 91.7
Không có ý kiến 25 8.3 100.0
Tổng 300 100.0
Nguồn: số liệu điều tra

54
Về việc học tập các môn Lý luận chính trị, có 83,7% sinh viên trả lời
quan trọng. Như vậy, đa số sinh viên cho rằng việc học tập các môn Lý luận
chính trị là quan trọng và cần thiết. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, phải
đẩy mạnh học tập các môn Lý luận chính trị, nhằm trang bị cho sinh viên thế
giới quan và phương pháp luận khoa học, giáo dục niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là việc làm cần
thiết.

Lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc là một trong những truyền thống
văn hóa và đạo đức quý báu của dân tộc ta. Yêu nước ngày nay là yêu chủ nghĩa
xã hội, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ra sức cống hiến
nhằm xây dựng Việt Nam trở thành một nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Lòng yêu nước và tự hào dân tộc của sinh viên còn
biểu hiện ở sự quan tâm đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước,
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chính lòng yêu nước và tinh thần tự
hào dân tộc làm cho đại bộ phận sinh viên lo âu, trăn trở trước thực trạng đất
nước hiện nay. Điều này chứng tỏ sinh viên không chỉ biết nghĩ đến tương lai
của bản thân mà còn rất quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội, vận mệnh
của dân tộc. Đa số sinh viên ý thức được trách nhiệm, bổn phận của mình,
tích cực tình nguyện tham gia hoạt động vì cộng đồng. Từ nhận thức của
mình về các vấn đề xã hội, những khó khăn của đất nước trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, hăng hái tham gia các hoạt động xã hội do các tổ chức
Đoàn, Hội sinh viên phát động.

Nhìn chung, sinh viên đã biết hướng tới một lối sống tích cực, lành
mạnh. Đó là lối sống có mục đích, có lý tưởng tốt đẹp phù hợp với xu thế
chung của toàn xã hội. Mục đích và lý tưởng sống tích cực sẽ là đôi cánh
nâng đỡ cho sinh viên trên con đường phấn đấu, rèn luyện để trở thành những
công dân hữu ích cho xã hội.

- Hăng say học tập và nghiên cứu khoa học:

55
Sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay hầu hết có thái độ tích cực,
chủ động trong học tập và tham gia nghiên cứu khoa học. Việc thực hiện nội
quy trong học tập được đông đảo sinh viên thực hiện tốt. Phương pháp tự học,
tự nghiên cứu được các sinh viên đánh giá cao và tích cực vận dụng. Cách
học thụ động như trước đây (thầy đọc trò chép, học sinh thụ động tiếp nhận
những kiến thức mà giáo viên truyền đạt) đã được thay thế bằng phương pháp
học tập mới (thầy và trò cùng tham gia vào quá trình dạy và học, trong đó học
sinh là người chủ động, tích cực tiếp nhận tri thức). Say mê chăm chỉ học tập,
có tới 93% sinh viên cho rằng là quan trọng. Không ngừng học tập để nâng
cao trình độ chuyên môn, có 51% sinh viên cho là biểu hiện tốt, điều đó cho
thấy đa số sinh viên có ý thức trong học tập để có được kết quả học tập tốt
hơn. Sinh viên ý thức được nhiệm vụ học tập của mình, nhằm trang bị những
kiến thức cần thiết cho công việc sau này.

Theo số liệu điều tra, có tới 88,3% sinh viên yêu ngành học của mình đã
lựa chọn. Không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, có 84,7%
sinh viên lựa chọn, điều đó cho thấy đa số sinh viên có ý thức trong học tập
để có được kết quả học tập tốt hơn; 99.3% sinh viên lựa chọn có tinh thần tự
học hỏi, tự vượt khó.

Phong trào nghiên cứu khoa học luôn được nhà trường chú trọng, nên
đã có nhiều chuyển biến tích cực, số lượng sinh viên tham gia nghiên cứu
khoa học, số lượng đề tài và chất lượng đề tài ngày càng tăng. Cụ thể, từ năm
2012 đến nay đã có 171 đề tài nghiên cứu khoa học được duyệt, với 491 sinh
viên tham gia. Chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên từng bước được
nâng cao. Nhiều đề tài được xét trao giải sinh viên nghiên cứu khoa học xuất
sắc. Có thể thấy phần lớn sinh viên của trường đã ý thức rõ trách nhiệm được
nhiệm vụ học tập và nghiên cứu khoa học nhằm trang bị những kiến thức
khoa học và thực tiễn cần thiết cho công việc sau này.

- Sinh viên có đạo đức, lối sống tốt

56
Đạo đức là một trong những phẩm chất quan trọng trong đời sống tinh
thần của mỗi người nói chung và sinh viên nói riêng. Các giá trị đạo đức được
đa số sinh viên hiện nay quan tâm vẫn là những giá trị đạo đức truyền thống
cốt lõi của con người Việt Nam. Bên cạnh đó, những giá trị đạo đức mới được
hình thành do yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng được
coi trọng. Những giá trị đạo đức truyền thống như: tôn sư trọng đạo, kính trên
nhường dưới, sống nhân nghĩa thuỷ chung, trọng lẽ phải, yêu lao động vẫn
được hầu hết sinh viên chấp nhận và đề cao.

Tôn trọng pháp luật, tuân thủ các quy định và quy chế của trường, có
tới 52.3% ý kiến cho rằng biểu hiện tốt, sinh viên có ý thức tuân thủ pháp luật
trong đó có luật giao thông đường bộ, quy định, quy chế của ngành. Kính
trọng và lễ phép, phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc, với 89,3% ý
kiến lựa chọn. Cụ thể là thái độ lễ phép, kính trọng đối với ông bà, cha mẹ;
kinh trọng, lễ phép với người lớn. Tôn trọng, lễ phép khi giao tiếp với thầy cô,
với 56% ý kiến cho rằng có biểu hiện tốt, điều này là rất phù hợp với truyền
thống dân tộc, cũng như văn hóa trường học. Có tinh thần khoan dung, độ
lượng, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, điều này thể hiện qua sự lựa
chọn của sinh viên là 91,7%.

Bảng 3: Kết quả xếp loại rèn luyện của sinh viên từ năm 2009 đến 2013

Xuất Ghi
Năm học TSSV Tốt Khá TBK TB Yếu Kém
sắc chú
2009-2010 1.679 04 160 770 173 173 69 02
2010-2011 2.342 166 552 1.222 288 112 02 0
2011-2012 4.541 283 1.012 2.291 784 142 18 11
2012-2013 7.075 360 1.856 3.693 961 106 30 69
Tổng cộng 15.637 813 3.580 7.976 2.206 533 119 82
Nguồn: số liệu Phòng công tác học sinh sinh viên cung cấp

57
Kết quả bảng trên cho thấy, số sinh viên rèn luyện đạt kết quả loại khá
trở lên ngày càng tăng. Điều này cho thấy sinh viên của Trường đã thực hiện
tốt Quy chế công tác sinh viên của trường Đại học Thủ Dầu Một.

Trong những năm qua, nhà trường đã phối hợp với Đoàn trường, Hội
sinh viên tổ chức các hoạt động, các diễn đàn về lối sống, nếp sống văn minh;
các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật; phối hợp phòng chống các tệ nạn xã hội;
tham gia hưởng ứng các ngày lễ lớn, ngày môi trường thế giới, giờ trái đất…;
tổ chức các hoạt động biểu dương những gương sáng trong sinh viên, tạo môi
trường rèn luyện tốt và định hướng lối sống cho sinh viên. Với lợi thế có điều
kiện học tập, nghiên cứu để tích luỹ tri thức, tiếp thu tinh hoa văn hoá dân tộc
và nhân loại, sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay đang đóng vai trò tích
cực vào việc xây dựng một nền văn hoá mới, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Hiện nay, sinh viên đang có xu hướng hình thành lối sống năng động,
nhạy cảm và tích cực thích nghi với sự phát triển của xã hội. Sinh viên có nhu
cầu cao về sinh hoạt văn hoá, tinh thần, tham gia các hoạt động văn nghệ, thể
dục thể thao, du lịch, có nhu cầu giao lưu và chia sẻ. Qua số liệu điều tra cho
thấy, đa số sinh viên lối sống lành mạnh, giản dị, tinh tế trong ứng xử… (với
85,3% ý kiến lựa chọn). Sống chan hòa với mọi người, không phân biệt đối
xử với người tàn tật, người không may lầm lỗi.

Trong điều kiện hiện nay, đất nước mở cửa, hội nhập giao lưu và hợp tác
quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có văn hoá. Bên cạnh những yếu tố
văn hoá tích cực còn có vô vàn yếu tố tiếu cực, các loại văn hóa phẩm không
lành mạnh, làm cho không ít sinh viên choáng ngợp, đôi lúc trở nên hoang
mang, không biết phân biệt đâu là tốt - xấu, do khả năng thẩm thấu còn hạn
chế. Tuy vậy, theo số liệu điều tra cho thấy, đa số sinh viên đã nói không với
các loại văn hóa phẩm độc hại, các loại hình văn hóa có tính chất kích động,
điều này phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc và ý thức trách nhiệm
của sinh viên.

58
Tác phong ăn mặc, đa số đều cho rằng tác phong ăn mặc hiện nay có ảnh
hưởng nhiều đến đạo đức lối sống của sinh viên như: ăn mặc hở hang khi lên
lớp, học đòi theo phong cách ăn mặc của phương Tây không phù hợp với
thuần phong mỹ tục của dân tộc, cũng như phù hợp với đối tượng. Chính lý
do đó, trong Quy chế công tác học sinh, sinh viên, Trường cũng yêu cầu sinh
viên phải có trang phục phù hợp khi lên lớp, cũng như khi tham gia các hoạt
động trong trường. Vì vậy, nhiều sinh viên cũng có ý thức hơn trong vấn đề
ăn mặc khi lên lớp cũng như khi đi giao tiếp bên ngoài xã hội.

Bảng 4: Ảnh hưởng của loại hình văn hóa, phong cách ăn mặc có ảnh hưởng
đến đạo đức, lối sống sinh viên:

Hạng mục Số lượng % % Tích lũy


Ảnh hưởng nhiều 229 76.3 76.3
Ít ảnh hưởng 54 18.0 94.3
Không hề ảnh hưởng 17 5.7 100.0
Tổng 300 100.0
Nguồn: số liệu điều tra

59
Các hoạt động tình nguyện và cộng đồng phát triển mạnh mẽ, thể hiện
thái độ chính trị tích cực trong sinh viên. Trong những năm qua, phong trào
sinh viên tình nguyện đã thu hút được rất nhiều sinh viên tham gia với nhiều
hình thức và nội dung phong phú như: tình nguyện tại chỗ, chiến dịch sinh
viên tình nguyện hè, chương trình tiếp sức mùa thi. Với nhiều nội dung bổ ích
như: tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước;
thăm hỏi, giúp đỡ các gia đình có công với cách mạng, mẹ Việt Nam anh
hùng; tổ chức tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật; thành lập các
đội thanh niên tình nguyện bảo vệ môi trường; tham gia hiến máu nhân đạo;
tuyên truyền phòng chống tội phạm, phòng chống các tệ nạn xã hội; tổ chức
diễn văn nghệ, chiến dịch “Mùa hè tình nguyện”, “ngày chủ nhật xanh”…
Phong trào thể hiện tính tích cực xã hội, thái độ chính trị đúng đắn của sinh
viên.

- Nguyên nhân của những mặt tích cực:

+ Được sự quan tâm của Đảng ủy, Lãnh đạo nhà trường, Đoàn trường và
các phòng, ban, khoa thể hiện qua việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền
giáo dục đạo đức, lối sống với các hình thức phong phú như: tuần chính trị
công dân học sinh sinh viên đầu năm học, chiếu phim tư liệu, hội diễn, hội thi
văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao… trong sinh viên, tạo ra các sân chơi lành
mạnh, bổ ích, mang tính giáo dục cao giúp sinh viên có được môi trường vừa
chơi, vừa học, vừa rèn luyện, hòa nhập và tham gia các công việc có ích cho
xã hội lẫn bản thân.

+ Trường Đại học Thủ Dầu Một là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa
phương cũng như các tỉnh lân cận. Để đáp ứng được yêu cầu đó, sinh viên
phải không ngừng nỗ lực học tập, ra sức rèn luyện, để có kiến thức chuyên
môn, hoàn thiện bản thân.

60
+ Đa số sinh viên đã ý thức được vai trò tự giáo dục, rèn luyện của bản
thân nhằm trau dồi đạo dức, lối sống cho chính bản thân mình.

* Những hạn chế về đạo đức, lối sống của sinh viên Đại học Thủ
Dầu Một hiện nay.

- Còn một bộ phận sinh viên chưa có ý chí phấn đấu, còn mơ hồ về lý tưởng
cách mạng.

Theo kết quả điều tra cho thấy, vẫn còn một bộ phận sinh viên sống khép
mình, xa rời tập thể, ngại tham gia các hoạt động xã hội, đoàn thể, thờ ơ với
các diễn biến chính trị, xã hội của đất nước, lý tưởng cách mạng mờ nhạt.
Trong quan hệ với bạn bè và những người xung quanh thường theo xu hướng
bàng quan, không quan tâm, không hòa nhập với tập thể, trốn tránh trách
nhiệm chung, chỉ tham gia những hoạt động gì có lợi cho bản thân mình.

Còn một bộ phận sinh viên hầu như không quan tâm đến việc sinh hoạt
chính trị, học tập các môn lý luận chính trị, qua số liệu điều tra có 14.7% sinh
viên cho rằng không cần thiết. Cuộc thi tìm hiểu việc “Học tập và làm theo
tầm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được Đoàn trường phát động vào cuối năm
2013 với số lượng sinh viên tham gia còn rất ít, chất lượng bài viết còn thấp.
Một bộ phận sinh viên còn hời hợt đối với những vấn đề kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội của đất nước cũng như thế giới, có tư tưởng hoang mang dao động
trước các luận điểm xuyên tạc của kẻ thù, không xác định đúng lý tưởng cần
phấn đấu.

- Một bộ phận sinh viên có thái độ lơ là trong học tập, vi phạm kỷ luật
học tập, thiếu tôn trọng thầy cô.

Một số sinh viên có những biểu hiện lệch lạc trong việc lựa chọn ngành
nghề theo học, vẫn còn 11,7% cho rằng chưa tốt, biểu hiện đó bỏ học dở
chừng, hoặc thi chuyển sang ngành học ở trường khác, hoặc có thái độ bất cần
với việc học. Trong học tập, có không ít sinh viên ngay đến cả tài liệu học tập

61
phục vụ cho môn học cũng không có, vở ghi bài trên lớp cũng chỉ như một
quyển vở nháp. Đi học với nhiều không: không nghe giảng, không tập vở
giáo trình, không ghi chép bài..., hiện tượng đi muộn về sớm không có lý do
trở nên khá phổ biến, nghỉ học không lý do, nói chuyện, làm việc riêng trong
giờ học, ăn quà trong lớp học. Phần lớn sinh viên chỉ học tập vào tháng diễn
ra kì thi, những tháng còn lại trước và sau kì thi đó thì không chịu học, thậm
chí còn không màng đến sách vở. Còn có tình trạng quay cóp, sử dụng tài
liệu, điện thoại trong khi thi.

Vẫn còn một số sinh viên thiếu tôn trọng thầy cô của mình, theo số liệu
điều tra chỉ có 7.0% sinh viên lựa chọn là biểu hiện chưa tốt. Một bộ phận sinh
viên cho rằng quan hệ thầy-trò chẳng qua chỉ là quá trình truyền đạt và tiếp nhận
kiến thức.

- Một bộ phận nhỏ sinh viên có lối sống thực dụng, buông thả, xa rời đạo
đức truyền thống dân tộc.

Trong sinh viên hiện nay đang có xu hướng lựa chọn lối sống tự do cá
nhân, lối sống hưởng thụ, một bộ phận sinh viên tự nhận có vi phạm nội quy
trong nhà trường, không thích sống có kỷ luật…Tình trạng sinh viên ăn chơi
đua đòi chạy theo lối sống thực dụng, coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá
trị tinh thần, bị đồng tiền tha hóa ngày càng rõ. Còn có tình trạng sinh viên
không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, chở ba, chở bốn còn khá phổ
biến, vi phạm nội quy nhà trường, số liệu điều tra cho thấy vẫn còn khoảng
13.0% biểu hiện chưa tốt.

Còn những sinh viên có xu hướng xa rời những giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Họ tiếp nhận những sản phẩm văn hóa không lành
mạnh được du nhập vào bên ngoài, nhất là sách báo, phim ảnh khiêu dâm, đồi
trụy. Trong phương án lựa chọn “Nói không với các loại văn hóa phẩm độc
hại, các loại hình văn hóa có tính chất kích động”, vẫn còn 13.7% ý kiến cho
rằng chưa có biểu hiện tốt. Sự bùng nổ của mạng lưới internet hiện nay, còn

62
nhiều sinh viên truy cập vào các trang web khiêu dâm, các trang web có tính
chất phản động, kích động và một số trang mạng không lành mạnh khác.

Các chuẩn mực chung thủy, tình yêu trong sáng được các thế hệ cha anh
trước đây đề cao coi trọng, thì hiện nay lại bị một bộ phận sinh viên hạ thấp
xem nhẹ. Tình trạng sống thử trước hôn nhân trong sinh viên có xu hướng
ngày càng tăng, hiện tượng sinh viên thuê nhà trọ sống chung với người yêu
như vợ chồng cũng không hiếm. Tính thực dụng đề cao vật chất tiền bạc, thế
lực của một bộ phận sinh viên là cần phải được lưu tâm. Nhiều sinh viên có
xu hướng xa rời các loại hình nghệ thuật truyền thống hoặc loại hình có giá trị
giáo dục lịch sử, văn hóa.

- Nguyên nhân của những hạn chế:

+ Ảnh hưởng của những tàn dư đạo đức, lối sống cũ như: chủ nghĩa cá
nhân, tính ích kỷ, thực dụng, những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế
thị trường, của toàn cầu hóa tới xây dựng đạo đức, lối sống mới. Lối sống
thực dụng ích kỷ, vụ lợi, chạy theo đồng tiền cùng với tệ tham nhũng, bạo lực,
tội phạm và những hiện tượng băng hoại về đạo đức ngày càng phổ biến đã
làm đảo lộn các thang giá trị xã hội; các yếu tố phản giá trị, đạo đức đang phát
triển, lấn át các mặt tích cực, biểu hiện rõ nét nhất trong lối sống và sinh hoạt
của thế hệ trẻ, trong đó có tầng lớp sinh viên.

+ Các điều kiện vật chất phục vụ cho nhu cầu ăn, ở, học tập, vui chơi
giải trí cho sinh viên còn thiếu, đặc biệt trường chưa có ký túc xá sinh viên để
nhà trường có thể quản lý được nề nếp ăn, ở và học tập của sinh viên. Các
phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao chưa đủ sức hấp dẫn để thu
hút sinh viên tham gia.

+ Sự tăng trưởng nhanh về số lượng tuyển sinh là mặt mạnh của Trường
hiện nay, nhưng hệ lụy của nó là cơ sở vật chất hiện tại không đáp ứng kịp
nhu cầu học tập và rèn luyện của sinh viên; sinh viên đến từ 41 tỉnh thành
khác nhau nên cũng khó khăn cho công tác quản lý của nhà trường.
63
+ Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên còn hạn chế, chưa
có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các phòng, ban, khoa; công tác quản lý sinh
viên ngoại trú chưa được quan tâm đúng mức, chưa chặt chẽ.

+ Do đặc thù về lứa tuổi, tâm lý, sinh lý, năng lực… đang trong bước
trưởng thành và hoàn thiện, nên từ nhận thức tới hành động của sinh viên còn
rất nhiều yếu tố bồng bột, nông nổi. Vì thế, trước tác động đa chiều bởi nhiều
yếu tố khác nhau của cuộc sống gồm cả tốt lẫn xấu, không phải sinh viên nào
cũng đủ bản lĩnh, khả năng phân tích thấu đáo để xử lý, định hướng cho đúng.

Tóm lại, thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng luôn là rường cột
của nước nhà, là tương lai của dân tộc. Đối với bất cứ quốc gia nào, sinh viên,
thế hệ trẻ cũng giữ một vai trò quan trọng. Trước thực trạng trên, đã đặt ra rất
nhiều vấn đề đòi hỏi phải có sự quan tâm của Lãnh đạo, Ban Giám hiệu
trường và các phòng, ban, khoa, phải chú trọng hơn nữa trong công tác đào
tạo, công tác rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên, nhằm phát huy những
mặt tích cực và kịp thời uốn nắn những mặt hạn chế.

2.2. Giải pháp rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên Trường Đại
học Thủ Dầu Một theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cũng như sinh viên cả nước, sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay
vẫn tiếp tục giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc Việt Nam bằng những hoạt động học tập, rèn luyện, và tham gia các
phong trào mang ý nghĩa giáo dục đạo đức truyền thống. Bên cạnh thành tựu
và thuận lợi mà chúng ta có được cũng còn nhiều bất cập, khó khăn. Để rèn
luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay đạt kết
quả tốt hơn nữa chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:

2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban giám hiệu trường;
nâng cao trách nhiệm của các phòng, ban, khoa đối với công tác sinh viên.

64
Đảng ủy, Ban giám hiệu, các phòng, ban, khoa phải coi trọng công tác
vận động sinh viên và lãnh đạo công tác sinh viên là nội dung hoạt động
thường xuyên, là nhiệm vụ quan trọng. Đổi mới công tác giáo dục, nâng cao
trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, giáo dục truyền thống và đạo
đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, nâng cao giác ngộ lý tưởng và
hoài bão cống hiến cho sinh viên, tạo điều kiện để thanh niên - sinh viên xung
kích đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, chú trọng đổi
mới nội dung và phương thức tổ chức với nhiều cách làm sáng tạo như: tổ
chức các cuộc thi tìm hiểu truyền thống cách mạng, giới thiệu các chuyên đề,
sinh hoạt câu lạc bộ, gắn với việc học tập sáu bài học lý luận chính trị…Về
nội dung này, đã có 60.8% sinh viên lựa chọn.

Phải đẩy mạnh việc tổ chức các diễn đàn, tọa đàm về lối sống, nếp sống
văn minh, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, phối hợp phòng chống các tệ nạn
xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma túy, giữ gìn trật tự an ninh trong nhà trường.
Cuộc vận động “Sinh viên Việt Nam sống, chiến đấu, lao động, học tập theo
gương Bác Hồ vĩ đại”, diễn đàn “Tuổi trẻ sống đẹp - sống có ích”, các câu lạc
bộ sống đẹp, các hoạt động biểu dương những tấm gương sáng trong sinh viên
sẽ tạo môi trường rèn luyện tốt và định hướng lối sống cho sinh viên. Tổ chức
“Tuần sinh hoạt công dân - sinh viên” đầu khóa và đầu năm học mới. Giáo
dục, tuyên truyền về luật giao thông, luật giáo dục, luật dân sự sửa đổi… cũng
là việc làm cần thiết và phải tiến hành thường xuyên. Tăng cường giáo dục kỹ
năng sống cho sinh viên, một mặt trang bị cho sinh viên những kỹ năng cốt
lõi để họ có thể ứng phó với các tình huống trong cuộc sống, mặt khác cần
triển khai các nội dung giáo dục tiếp cận kỹ năng sống nhằm không chỉ nhận
thức, thái độ mà quan trọng là thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Ý kiến
này có 71.6% sinh viên lựa chọn.Tăng cường công tác quản lý sinh viên; các
phòng ban, khoa và giảng viên thường xuyên tiếp xúc để nắm bắt tâm tư tình
65
cảm của sinh viên. Ý kiến này được 66.9% sinh viên lựa chọn. Điều này thể
hiện sự mong muốn của sinh viên trong việc thường xuyên quan tâm của đạo
nhà trường, các phòng ban, khoa.

Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường cần quan tâm hơn nữa, tạo điều kiện
và có những hỗ trợ cần thiết cho các hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội sinh
viên như: tổ chức hội thi, hội diễn văn nghệ, thi đấu thể dục, thể thao, các
cuộc thi tìm hiểu truyền thống cách mạng, các hoạt động xã hội nhân đạo, từ
thiện…Tăng cường lãnh đạo, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, công tác sinh
viên, thực hiện đúng định kỳ chế độ nghe Đoàn thanh niên báo cáo về công
tác Đoàn và phong trào sinh viên; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho
Đoàn viên, sinh viên tích cực tham gia xây dựng Đảng. Chú trọng công tác
bồi dưỡng, kết nạp Đảng viên trẻ, đưa tỉ lệ Đoàn viên - sinh viên xuất sắc
được kết nạp hàng năm tăng lên.

Xây dựng đội ngũ các nhà sư phạm vừa có năng lực vừa có phẩm chất
trong sáng, mẫu mực, yêu nghề, yêu thương học trò và tâm huyết với sự
nghiệp giáo dục đào tạo. Kiên quyết xử lý buộc thôi việc hoặc đình chỉ công
tác giảng dạy đối với những giáo viên dính vào tiêu cực mua bán điểm số
nhằm làm lành mạnh môi trường giáo dục. Trong hành vi của thầy, cô giáo
cũng đều phải định hướng cho sự phát triển nhân cách của sinh viên, phải là
tấm gương sáng cho sinh viên noi theo.

2.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn trường và Hội sinh
viên, tổ chức triển khai có hiệu quả các phong trào thi đua, rèn luyện trong
đoàn viên, sinh viên

- Nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn và công tác vận động sinh
viên theo hướng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích
chính đáng của tuổi trẻ, phù hợp với từng đối tượng sinh viên, bám sát nhiệm
vụ chính trị của địa phương trong từng thời kỳ; hướng mạnh về cơ sở, phát

66
huy tính năng động, sáng tạo của sinh viên, nêu cao tính chính trị, giáo dục,
bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả của các hoạt động Đoàn.

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các phong trào hành động cách mạng,
phong trào thi đua của tuổi trẻ nhằm phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, tình
nguyện của sinh viên; động viên sinh viên đi đầu trong các khâu khó, việc
mới, sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì để tham gia phát triển kinh
tế - xã hội đất nước, địa phương, đi đầu trong phong trào thi đua học tập,
vươn lên làm chủ khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Phát
động phong trào thanh niên, sinh viên “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, từ đó tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, tu dưỡng,
rèn luyện tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong sinh viên, chủ
động phòng chống tiêu cực và các tệ nạn xã hội.

Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn khoa, lớp; củng cố, nâng cao
chất lượng, tổ chức cơ sở Đoàn, đặc biệt là chi đoàn lớp. Tăng cường các biện
pháp tập hợp, đoàn kết sinh viên. Phát huy vai trò nòng cốt chính trị của Đoàn
trong việc xây dựng, tổ chức Hội liên hiệp thanh niên, Hội sinh viên vững
mạnh.

Nâng cao chất lượng công tác tạo nguồn, bồi dưỡng, giới thiệu đoàn viên
ưu tú để Đảng xem xét kết nạp. Phát huy vai trò gương mẫu và trách nhiệm
của tổ chức Đoàn thanh niên, tham gia thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, chủ
động, nâng cao năng lực tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền xây dựng
cơ chế, chính sách, tạo nguồn lực cho công tác đoàn và phong trào sinh viên.

- Nhiệm vụ chính của người sinh viên là học tập, bởi vậy, phong trào đầu
tiên Đoàn cần phát động trong sinh viên là phong trào “Thi đua học tập tốt,
rèn luyện tốt”. Qua phong trào sẽ phát huy tư duy sáng tạo, nâng cao chất
lượng học tập, rèn luyện, tích cực tham gia nghiên cứu khoa học của sinh
viên. Các hình thức câu lạc bộ, đội, nhóm học thuật tại các chi hội lớp, liên
chi hội khoa cần được khuyến khích và phát triển. Cuộc thi olympic các môn

67
khoa học, đặc biệt là các môn khoa hoc Mác - Lênin, tư tương Hồ Chí Minh
phải được tổ chức thường xuyên.

Phong trào sáng tạo trẻ, sinh viên nghiên cứu khoa học. Giáo dục thái
độ, động cơ học tập đúng đắn cho sinh viên thông qua việc phát động các
cuộc vận động “Sinh viên lên lớp đúng giờ”, “Học nghiêm túc, thi trung
thực”, “Mùa thi nghiêm túc - công bằng - chất lượng”.

Tổ chức các hoạt động rèn luyện kỹ năng cho sinh viên như: kỹ năng
thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng viết báo cáo tốt nghiệp, xin việc…
thông qua hình thức tổ chức đa dạng: tổ chức các diễn đàn, lớp học, tổ chức
cho sinh viên tham gia các hoạt động tập thể, tạo môi trường cho sinh viên
thực hành kỹ năng tổ chức, kỹ năng làm việc nhóm và những kỹ năng trong
sinh hoạt tập thể.

- Đẩy mạnh hoạt động của phong trào “Sinh viên tình nguyện”. Hiện
nay, phong trào đang có bước phát triển mới về chất, đa dạng về hình thức,
sâu về nội dung hoạt động. Sức lan tỏa và sự lớn mạnh của phong trào ngày
càng được khẳng định, thu hút đông đảo sinh viên tham gia và sự hưởng ứng
của xã hội.

Các phong trào sinh viên tình nguyện tại chỗ: Ngày thứ bảy tình nguyện,
Ngày chủ nhật xanh; giải tỏa ùn tắc giao thông trong giờ cao điểm; các hoạt
động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, hiến máu nhân đạo.

Hoạt động sinh viên tình nguyện hè, giúp đỡ gia đình thương binh liệt
sỹ, những người có công với cách mạng, những người tàn tật, khó khăn; tham
gia phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hoạt
động tình nguyện tiếp sức mùa thi: đón tiếp, hướng dẫn thí sinh tại các điểm
thi, các bến tàu, xe; giới thiệu nhà trọ giá rẻ; phát bản đồ, phát tài liệu phục vụ
kỳ thi; giải tỏa ùn tắc giao thông...

68
2.2.3. Đổi mới việc giảng dạy và học tập các môn Lý luận chính trị,
thực hiện tốt cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.

Các môn Lý luận chính trị góp phần hình thành, bồi dưỡng cho sinh
viên thế giới quan, phương pháp luận khoa học, trang bị những kiến thức cơ
bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng ta, góp phần
định hướng suy nghĩ, hành động và hoàn thiện nhân cách, đạo đức, lối sống
cho thế hệ trẻ. Vì vậy, sinh viên đến lớp không phải để nghe những lời diễn
giảng một chiều mang tính chủ quan nhất định từ người dạy, mà qua những
kiến thức đó, sinh viên  nhận thức, đánh giá  và vận dụng vào thực tiễn như
thế nào? Để đạt hiệu quả, ngoài vệc nghe giảng trên lớp sinh viên phải có
phương pháp phù hợp để tự học, tự nghiên cứu. Nói cách khác, nếu sinh viên
không nỗ lực, phấn đấu trong việc tự học thì việc dạy học các môn Lý luận
chính trị không thể đạt hiệu quả như mong muốn.

Để đáp ứng cho nhu cầu giáo dục, cũng như bồi dưỡng cho sinh viên về
thế giới quan, phương pháp luận khoa học, trang bị những kiến thức cơ bản về
tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Khoa Lý luận chính trị không ngừng đổi mới phương pháp dạy học, đổi
mới cách thi cử và đánh giá kết quả; lồng ghép nội dung chương trình môn
học với thực tế giáo dục sinh viên. Phòng công tác chính trị sinh viên, Đoàn
thanh niên, Hội sinh viên và các phòng ban, khoa cần có cơ chế phối hợp tốt
với khoa Lý luận chính trị để thông qua đó có thể đưa ra những biện pháp
thích hợp nhằm bồi dưỡng tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức, lối sống cho
sinh viên. Thêm vào đó, việc giảng dạy không chỉ đơn thuần trình bày lý luận
mà cần thiết phải liên hệ thực tiễn với từng ngành học, từng công việc cụ thể
góp phần làm cho giờ học bớt căng thẳng, sinh viên có thể vận dụng kiến thức
để giải quyết tốt các vấn đề đặt ra. Thông qua giảng dạy môn học “Tư tưởng
Hồ Chí Minh” cần kết hợp với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
69
Hồ Chí Minh cho sinh viên. Liên kết tổ chức các cuộc hội thảo khoa học về
nâng cao chất lượng giảng dạy các môn Lý luận chính trị giữa các trường đại
học cùng khối hay cùng ngành để rút kinh nghiệm trong giảng dạy các môn học
này.

Giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh là một giải pháp quan trọng nhằm hình
thành đạo đức, lối sống mới cho sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay.
Giáo dục nhằm giúp sinh viên hiểu, ngẫm nghĩ về đạo lý làm người của Hồ
Chí Minh, để học tập tấm gương đẹp đẽ của Người. Sinh viên cần học tập, noi
gương Người. “Ở tinh thần suốt đời kiên trì đấu tranh cho độc lập tự do, cho
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; ở thái độ sống thắm thiết tình yêu
thương với toàn thể nhân dân lao động, lấy đó làm hạnh phúc cao nhất của
mình; noi theo gương chiến đấu, lao động và học tập của Người, đem hết tài
năng và trí tuệ để cải tạo xã hội, cải tạo thiên nhiên, làm cho Tổ quốc ta và
trái đất ta ngày thêm tươi đẹp” [45, tr.286].

Giáo dục cần kết hợp nhiều hình thức như: giới thiệu chuyên đề, xem
phim tư liệu, giao lưu với các nhân chứng lịch sử đã từng sống, làm việc cùng
Người, phát động các cuộc thi tìm hiểu thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của Hồ
Chí Minh, giới thiệu những tấm gương tiêu biểu trong việc học tập và làm
theo lời Bác.

Trọng tâm của giáo dục là giúp sinh viên nhận thức “Vì sao Hồ Chí
Minh trở thành tấm gương tuyệt vời về con người mới?”. Những đức tính cao
quý ở Người không phải là bẩm sinh mà là kết quả của việc không ngừng học
tập, đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày. Hiểu rõ con đường hình thành và
phát triển nhân cách của Hồ Chí Minh, sinh viên ra sức phấn đấu tu dưỡng,
rèn luyện để bản thân ngày càng hoàn thiện.

70
2.2.4. Đề cao sự tự ý thức về vai trò, trách nhiệm của sinh viên với xã
hội, không ngừng rèn luyện đạo đức, lối sống, trau dồi tri thức để hoàn
thiện bản thân, trở thành một người vừa có tài vừa có đức.

Tất cả những giải pháp nói trên là yếu tố khách quan và giữ vai trò quan
trọng, còn yếu tố quyết định nhất đến công tác giáo dục, rèn luyện sinh viên
chính là yếu tố chủ quan sự nỗ lực phấn đấu của bản thân sinh viên.

- Trước hết, bản thân sinh viên phải ý thức được vai trò, trách nhiệm của
mình với xã hội. Điều này ngoài sự giáo dục, tuyên truyền của xã hội, của nhà
trường đòi hỏi sự nhận thức thấu đáo của mỗi người sinh viên. Vai trò quan
trọng của sinh viên nói riêng, thanh niên nói chung thì ai cũng biết nhưng vấn
đề đặt ra là phải biết biến nhận thức ấy thành hành động cụ thể.

Tự ý thức được trách nhiệm rèn luyện là một quá trình trong đó sinh viên
tự hoàn thiện, tự biến đổi và thích nghi với môi trường và điều kiện sống, khả
năng biết tự kiềm chế và tự khuôn mình vào những nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức.

Xuất phát từ đặc thù tâm sinh lý lứa tuổi,yếu tố tự rèn luyện luôn được
coi trọng. Với trình độ nhận thức và năng lực tư duy nhất định, hoạt động tự
rèn luyện giúp sinh viên một mặt giữ vững tri thức đạo đức, lối sống được học
ở nhà trường, được hình thành tạo lập trong quá trình giao tiếp xã hội, mặt
khác, thông qua quá trình tự rèn luyện sinh viên đã biết biến những tri thức
đạo đức được tích lũy trong nhà trường và ngoài xã hội thành tri thức riêng
của mình.

- Không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, trau dồi tri thức để hoàn
thiện bản thân, trở thành một người vừa có tài vừa có đức. Tích cực tham gia
các hoạt động xã hội và phong trào đoàn thể trên tinh thần tự nguyện, sáng
tạo, “đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Luôn đặt ra những mục
tiêu khó khăn và quyết tâm thực hiện để thử thách bản thân. Không bao giờ
được tự thỏa mãn với bản thân mình và bằng lòng với những gì mình đã có.
71
Để nâng cao vai trò hiệu quả quá trình tự rèn luyện của chính bản thân
sinh viên, đòi hỏi sinh viên phải tự giác tham gia các hoạt động xã hội lành
mạnh và bổ ích, hưởng ứng các phong trào, các cuộc thi, các cuộc vận động…
Có 83.1% sinh viên lựa chọn nội dung “sống vì cộng đồng, đoàn kết, tương
thân tương ái”; Đẩy mạnh các phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao
lành mạnh cho sinh viên cũng là nội dung rất quan trọng để sinh viên tự rèn
luyên, có tới 70.6% sinh viên đồng tình với ý kiến này. Qua những hoạt động
lành mạnh này, đạo đức, lối sống của sinh viên ngày càng có sự chuyển biến
tích cực.

Tự ý thức giáo dục, rèn luyện của bản thân sinh viên là một giải pháp rất
quan trọng đối với chất lượng, hiệu quả của toàn bộ sự nghiệp giáo dục. Với ý
nghĩa đó, tự giáo dục, rèn luyện từ chính bản thân sinh viên trở thành một
trong những giải pháp không thể thiếu được của việc rèn luyện đạo đức, lối
sống cho sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay.

Tiểu kết chương 2

Sinh viên hiện nay đại đa số đều có ý thức chính trị vững vàng, tuyệt
đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tin vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hăng hái tham gia các phong trào do nhà
trường và các đoàn thể, Hội sinh viên tổ chức. Kết quả của những phong trào
ấy đã góp phần tích cực đối với đời sống xã hội, khẳng định rõ vị trí vai trò
người sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên Đại học Thủ Dầu Một nói
riêng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Việc rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên ở trường Đại học Thủ
Dầu Một những năm gần đây đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào. Có
được những thành công đó trước hết là do Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các
phòng, ban, khoa đã quan tâm chú ý và đầu tư đúng hướng cho giáo dục nói
chung, rèn luyện đạo đức, lối sống nói riêng. Bên cạnh đó, chính bản thân
sinh viên đã có sự phấn đấu rèn luyện, ý thức việc học tập là nhiệm vụ, tự
72
giác trau dồi đạo đức, lối sống, có tinh thần gìn giữ và phát huy các giá trị
truyền thống dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.

Tuy nhiên, còn một số ít sinh viên chưa ý thức được nghĩa vụ, trách
nhiệm của mình đối với tổ quốc, còn có những biểu hiện ham chơi, lười
biếng, vi phạm những chuẩn mực đạo đức nói chung, đạo đức sinh viên nói
riêng. Những hạn chế đó trong sinh viên một phần do ảnh hưởng của cơ chế
thị trường, một phần do gia đình, nhà trường, xã hội (chủ yếu là các đoàn thể,
hiệp hội), chưa có sự phối hợp chặt chẽ, còn một số hạn chế trong công tác
giáo dục rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên. Để khắc phục tình trạng
trên chúng ta cần thực hiện tốt giải pháp để không ngừng nâng cao chất lượng
rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên Đại học Thủ Dầu Một trong giai
đoạn hiện nay.

73
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận rõ và đề cao vai trò của thanh niên
với sự phát triển của đất nước. Người khẳng định: nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên. Thực tiễn lịch sử nước ta đã
cho thấy những quan điểm của Hồ Chí Minh về thanh niên và vai trò của
thanh niên là hoàn toàn đúng đắn. Trong sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc trước đây cũng như trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa
hiện nay, các tầng lớp thanh niên chính là những người góp phần quan
trọng làm rạng danh dân tộc Việt Nam, viết nên những trang sử vẻ vang
của dân tộc. Ngày nay, thế hệ trẻ lại đang tiếp bước cha anh chống lại
nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên phát triển kinh tế, dám nghĩ, dám làm, tiếp
thu khoa học công nghệ tiên tiến để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đạo đức cách mạng, lối sống có lý tưởng đã
giúp họ làm nên kỳ tích đó.
Sinh viên Trường Đại học Thủ Dầu Một đã kế thừa và phát huy những
giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Số đông sinh viên đã biết gắn tiền đồ bản
thân với tiền đồ dân tộc, thi đua rèn đức, luyện tài vì ngày mai lập thân, lập
nghiệp. Khắc phục mọi trở ngại, thiếu thốn, sinh viên ra sức học tập, tích cực
nghiên cứu khoa học, không ngừng trau dồi đạo đức tác phong, giữ gìn nhân
cách. Thực hiện lối sống đẹp, đông đảo sinh viên hăng hái tham gia các hoạt
động tình nguyện vì Tổ quốc vì cộng đồng. Các tấm gương tiêu biểu xuất sắc
trong học tập và rèn luyện xuất hiện ngày càng nhiều. Đa số sinh viên có lối
sống lành mạnh, trung thực, đoàn kết, nhân ái và có tinh thần cộng đồng; có
động cơ học tập nghiêm túc và tích cực, chủ động trong học tập, nghiên cứu
khoa học, tích lũy kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp nhằm đáp ứng
yêu cầu của quá trình đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.

74
Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một bộ phận sinh viên Đại học Thủ Dầu
Một có lối sống thực dụng, thờ ơ trước những vấn đề chính trị - xã hội của đất
nước, thiếu ý chí vươn lên trong học tập và cuộc sống, thiếu tích cực, chủ
động trong hoạt động đoàn thể. Một số sinh viên xa rời các giá trị đạo đức tốt
đẹp của dân tộc, sống buông thả. Những giá trị đạo đức truyền thống vốn là
niềm tự hào của dân tộc như: đức tính lao động cần cù, tiết kiệm, trung thực,
nhân ái,... đã bị một số sinh viên bỏ qua. Không ít sinh viên chạy theo lối
sống hưởng thụ, sống buông thả, tự đặt mình ra khỏi những nguyên tắc, chuẩn
mực đạo đức xã hội, có lối hành xử bạo lực phi nhân tính, lười học tập, lười
lao động...

Để tiếp tục phát huy tích cực, khắc phục những hạn chế về đạo đức,
lối sống của sinh viên hiện nay, đề tài đã nêu ra những giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban giám hiệu trường;
nâng cao trách nhiệm của các phòng, ban, khoa đối với công tác sinh viên.
Hai là, nâng cao chất lượng hoạt động của Đoàn trường và Hội sinh viên,
tổ chức triển khai có hiệu quả các phong trào thi đua, rèn luyện trong đoàn
viên, sinh viên
Ba là, đổi mới việc giảng dạy và học tập các môn Lý luận chính trị, thực
hiện tốt cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Bốn là, Đề cao sự tự ý thức về vai trò, trách nhiệm của sinh viên với xã
hội, không ngừng rèn luyện đạo đức, lối sống, trau dồi tri thức để hoàn thiện
bản thân, trở thành một người vừa có tài vừa có đức.
Những giải pháp trên cần phải được triển khai một cách đồng bộ, có hiệu
quả nhằm phát huy tốt nhất các giá trị đạo đức, lối sống trong việc rèn luyện
đạo đức, lối sống tốt đẹp cho sinh viên Đại học Thủ Dầu Một hiện nay.

75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và
vận dụng tư tưởng đó trong điều kiện nước ta hiện nay, đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ.
2. Hoàng Anh (2001), Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong
điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam (Qua thực tế các trường đại học
khối xã hội nhân văn ở miền Bắc Việt Nam), Luận văn thạc sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Ban Chỉ đạo chương trình phát triển thanh niên tỉnh Bình Dương (2008),
Báo cáo kết quả thực hiện chương trình phát triển thanh niên tỉnh Bình
Dương đến năm 2010, Bình Dương.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đoàn (2004), Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khoá VIII về tăng cường công
tác giáo dục của Đoàn trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đoàn (2007), Văn kiện Đại hội Đoàn toàn
quốc lần thứ IX, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Tỉnh Đoàn Bình Dương (2007), Văn kiện Đại hội đại biểu
tỉnh Đoàn Bình Dương lần thứ VIII, Bình Dương.
7. Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương (2002), “Văn hoá với thanh niên,
thanh niên với văn hoá, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và đào tạo (2012), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn - Trung ương Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh (2006), Nghị quyết liên tịch về phát huy vai trò của thanh
niên tham gia đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn giai đoạn 2006 -2010, Hà Nội.
10. Bình Dương thời đổi mới (2002), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
11. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

76
12. C. Mác và Ph.Ăngghen (1978), Về thanh niên, Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên) (2003), Mấy
vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Lê Duẩn (1978), Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa, NxbThanh
niên, Hà Nội.
15. Lê Văn Dương (1995), “Một số nét cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người”, Tạp chí nghiên cứu lý luận, (3).
16. Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày
14/01/1993 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác thanh niên
thời kỳ mới, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai, Ban
chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban
chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
25/7/2008 của Ban chấp hành Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hoá.
http://www.xaydungdang.org.vn/Home/vankientulieu/2008/1728.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
23. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (1997), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh lầ thứ VII, Nxb
Thanh niên.

77
24. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành tỉnh Bình
Dương (2012), Tài liệu Hội nghị tổng kết công tác Đoàn-Đội trường
học tỉnh Bình Dương, năm học 2011-2012.
25. Đoàn trường Đại học Thủ Dầu Một (2010), Báo cáo tổng kết công tác
Đoàn và phong trào thanh niên Trường Đại học Thủ Dầu Một năm học
2009 - 2010.
26. Đoàn trường Đại học Thủ Dầu Một (2011), Báo cáo tổng kết công tác
Đoàn và phong trào thanh niên Trường Đại học Thủ Dầu Một năm học
2010 - 2011.
27. Đoàn trường Đại học Thủ Dầu Một (2012), Báo cáo tổng kết công tác
Đoàn và phong trào thanh niên Trường Đại học Thủ Dầu Một năm học
2011 - 2012.
28. Đoàn trường Đại học Thủ Dầu Một (2013), Báo cáo tổng kết công tác
Đoàn và phong trào thanh niên Trường Đại học Thủ Dầu Một năm học
2012 - 2013.
29. Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Lê Quang Hoan (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát
huy nhân tố con người trong CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
31. Lê Quanh Hoan (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
32. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

78
39. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên (2004) Nhà xuất bản Thanh niên.
45. Vũ Khiêu (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
văn hoá và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 7, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva.
48. V.I. Lênin (1981), Bàn về thanh niên, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
49. Nguyễn Thanh Long (2008), Công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối
sống cho thanh niên của Đảng Cộng sản Việt Nam 1996 - 2006, Luận
văn thạc sĩ học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
50. Luật Giáo dục (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Đỗ Mười (1996), “Phát triển mạnh giáo dục đào tạo, phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí nghiên cứu giáo
dục, (2).
52. Phạm Đình Nghiệp (2001), Giáo dục lý trưởng cách mạng cho thanh niên
hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
53. Trần Quy Nhơn (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên
trong cách mạng Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
54. Trần Sỹ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
55. Nguyễn Bằng Phi - Nguyễn Minh Tâm (2006), Chế độ chính sách đối với
thanh niên trong học tập và lao động, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
56. Nguyễn Văn Tài (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát
huy nhân tố con người”, Tạp chí Triết học, (2).

79
57. Thủ tướng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 06/2005/CT-TTg của Thủ tướng
chính phủ về phát huy vai trò của thanh niên tham gia phát triển kinh tế
- xã hội trong giai đoạn mới, Hà Nội.
58. Mạc Văn Trang (chủ biên) (1994), Lối sống thanh niên - sinh viên, Viện
Nghiên cứu chiến lược giáo dục.
59. Toàn văn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1999), Nxb trẻ.
60. Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2002), Tổng quan
tình hình thanh niên, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi, Hà
Nội.
61. Trường Đại học Thủ Dầu Một (2013), Quyết định ban hành Quy chế công
tác sinh viên của Trường Đại học Thủ Dầu Một.
62. Trường Đại học Thủ Dầu Một (2013), Báo cáo tổng kết năm học 2012 -
2013. Nhiệm vụ trọng tâm năm học 2013 - 2014.
63. Lâm Quốc Tuấn - Trần văn Toàn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục đạo đức vừa “hồng” vừa “chuyên” cho thanh niên trí thức”, Tạp
chí Lý luận chính trị, (10), tr.9,10 -16.
64. Văn Tùng (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức, giáo dục thanh niên,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
65. Văn Tùng (2001), Một số vấn đề về công tác thanh niên trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
66. TS. Nguyễn Văn Tuyên (2011), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo
dục đạo đức cho thanh niên sinh viên trong thời kỳ đổi mới ở nước ta
hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
67. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương (2006), Chương trình phát triển thanh
niên tỉnh Bình Dương đến năm 2010, Bình Dương.
68. Trương Thị Xử (2009): “Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh sinh
viên trường cao đẳng sư phạm Bình Dương - thực trạng và giải pháp”. Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp trường CĐSP Bình Dương.

80

You might also like