You are on page 1of 3

2.1.

Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài 
Facebook hiện nay đang là mạng xã hội lớn và phổ biến nhất, đã có nhiều
nghiên cứu được thực hiện qua nhiều năm về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tiếp tục
sử dụng mạng xã hội Facebook. Nghiên cứu này đã tìm hiểu qua các công trình nghiên
cứu trên các quốc gia khác nhau trên thế giới trong một khoảng thời gian.
Những nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tiếp tục sử dụng mạng
xã hội Facebook đã được tác giả khái quát qua 3 nhóm sau dựa trên cái yếu tố chung:
Nhóm 1 bao gồm các nghiên cứu trong đó thể hiện và xác định các yếu tố tác
động đến ý định tiếp tục sử dụng mạng xã hội Facebook của giới trẻ: thái độ dự đoán
các ý định hành vi (behavioural intentions) (Davis, 1989; Gefen và cộng sự, 2003) và
thái độ tương đối hóa hành vi trực tuyến (Goldsmith và Bridges, 2000; Yoh và cộng
sự, 2003), thái độ hành vi xây dựng mối quan hệ xã hội trên Facebook (Valenzuela và
cộng sự, 2008); xây dựng hồ sơ và theo dõi các khả năng kết nối cộng động (Nadkarni
và Hofmann, 2011), duy trì các mối quan hệ đã được thiết lập từ trước (Bosch, 2009;
Lewis & West, 2009; Pempek, Yermolayeva và Calvert 2009; Tosun, 2012; Young &
Quan-Haase, 2009). Gần đây, nó đã được sử dụng rộng rãi để khám phá các phương
tiện và công nghệ truyền thông mới như SNS (Al-Jabri et al. ., 2015; Hsiao và cộng
sự, 2015), SNS di động (Gan và cộng sự, 2017), trò chơi trực tuyến (Li và cộng sự,
2015), cộng đồng ảo (Cheung và Lee, 2010), tương tác xã hội và chia sẻ thông tin
trong thế giới ảo (Al-Jabri et al., 2015). Ngoài ra, Facebook cũng cung cấp các chức
năng như tìm kiếm bạn bè, trò chuyện trực tuyến, thành lập nhóm và chơi trò chơi
(Facebook Statistics, 2008).
Nhóm 2 gồm các nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố tác động đến ý định tiếp tục
sử dụng mạng xã hội của giới trẻ liên quan đến: hầu hết sinh viên sử dụng Facebook vì
họ thấy nó thú vị, cũng như sinh động và dễ sử dụng hơn so với các mạng xã hội khác
(Lewis & West, 2009), lựa chọn các sản phẩm sáng tạo (adopting innovative
products) (Erevelles, 1998), quyền riêng tư quan tâm trong mạng xã hội (Weiss,
2009). Các đơn vị bán hàng có thể sử dụng yếu tố marketing và quảng cáo (Nguyễn
Thị Thúy Vân, 2017).
Nhóm 3 tập trung vào các yếu tố tác động bên ngoài đến ý định tiếp tục sử
dụng mạng xã hội là tránh xa các yếu tố tiêu cực bên ngoài (Kolek & Saunders, 2008),
tính cách của họ không bị ảnh hưởng bởi số lượng bạn bè trực tuyến của họ hoặc thời
gian dành cho mạng xã hội. (Ross et al., 2009), Người dùng SNS thường có ý định
đáp ứng các nhu cầu cá nhân và xã hội nhất định như tìm kiếm thông tin, tương tác xã
hội, tự do biểu đạt, hưởng thụ, hiện diện và thuộc về xã hội và bản sắc xã hội (Cheung
và Lee, 2010; Cao và cộng sự, 2013; Al-Jabri và al., 2015).
Ngoài các yếu tố trên tác động đến ý định tiếp tục sử dụng mạng xã hội thì sự
phát triển của công nghệ mạng và sự phổ biến của các thiết bị di động thông minh (C.-
C. Chang, et al.,2013).
Trên cơ sở tổng hợp lý thuyết và tìm hiểu, có thể thấy mặc dù đã có rất nhiều
bài nghiên cứu về việc sử dụng Facebook trên thế giới, nhưng đây là một chủ đề còn
khá mới ở Việt Nam và chưa được nghiên cứu chuyên sâu. Thứ nhất, theo như nhóm
tác giả tìm hiểu được thì vẫn chưa có nghiên cứu nào mà trong đó các yếu tố tạo động
lực được mô hình hóa cùng với sự hài lòng và thái độ. Thứ hai, thái độ là một yếu tố
quan trọng trong việc giải thích ý định hành vi của các cá nhân, nhưng rất ít nghiên
cứu xác định ảnh hưởng của thái độ đến quyết định tiếp tục. Thứ ba, các nghiên cứu
trên đây ít quan tâm đến ảnh hưởng của người dùng với ý định tiếp tục sử dụng
Facebook. Mặt khác, do có sự khác biệt về văn hóa, môi trường kinh tế, xã hội giữa
các quốc gia với Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu thực nghiệm này được thực hiện với
mong muốn hoàn thiện hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tiếp tục sử dụng mạng
xã hội  Facebook của giới trẻ Việt Nam.

2.2. Các lý thuyết nền tảng 

Lý thuyết kỳ vọng xác nhận - Expectancy Disconfirmation Theory ( EDT )


Là một lý thuyết để đo lường sự hài lòng của khách hàng đối với chất lượng của sản
phẩm hoặc dịch vụ. Sự phát triển của EDT cho thấy rằng thuyết này có thể đo lường
chất lượng dịch vụ và thông tin được cấp bởi B2C E-commerce theo góc nhìn của
khách hàng.

EDT gồm hai biến đó là: “Kỳ vọng hoặc mong muốn” và “Kinh nghiệm hoặc giá trị
cảm nhận” và chúng được xác định trong hai khoảng thời gian riêng biệt. Trong khi
“kỳ vọng hoặc mong muốn” diễn ra ở khoảng thời gian trước khi mua hàng hóa mà
khách hàng có kỳ vọng hoặc mong muốn ban đầu về chất lượng sản phẩm hay dịch
vụ. Biến thứ hai diễn ra sau khi khách hàng đã mua sản phẩm và trải nghiệm được
giá trị thực tế của sản phẩm hoặc dịch vụ đó. Nếu chất lượng sản phẩm cao hơn
những gì họ mong đợi tức là biến thứ hai cao hơn biến thứ nhất thì chất lượng dịch
vụ là tuyệt hảo (positive disconfirmation) và ngược lại biến thứ hai nhỏ hơn biến thứ
nhất thì chất lượng dịch vụ không đảm bảo (negative disconfirmation), nếu hai biến
bằng nhau thì là chất lượng dịch vụ đảm bảo (simple confirmation)

EDT đã được nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau áp dụng để hiểu rõ
hơn về những mong đợi và yêu cầu của khách hàng để thu hút sự hài lòng của họ,
chẳng hạn như tiếp thị, du lịch, tâm lý học, công nghệ thông tin, sự quay lại mua hàng
và giữ chân khách và ngành hàng không. Để đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng
từ chất lượng, sản phẩm và dịch vụ của trang web, EDT khá có khả năng hoàn thành
trách nhiệm đo lường sự hài lòng của khách hàng dựa trên năng lực tự nhiên của họ

Lý thuyết hành vi có kế hoạch - The Theory of Planned Behavior ( TPB ) 


Lý thuyết này giả định rằng thái độ với hành vi, chuẩn mực chủ quan và kiểm soát
hành vi nhận thức ảnh hưởng đến ý định hành vi của cá nhân (Ajzen, 1991)
Mặt khác thì dù TPB đã được áp dụng để nghiên cứu ý định sử dụng hệ thống thông
tin (Information system - IS) của người dùng , các nghiên cứu hạn chế đã sử dụng lý
thuyết này để tiếp tục điều tra việc sử dụng IS (Lee, 2010), đặc biệt hơn nữa là để xem
xét vai trò của các chuẩn mực chủ quan trong bối cảnh dịch vụ mạng xã hội (SNS)
đang bùng nổ và phát triển một cách mạnh mẽ (Al-Debei và các cộng sự, 2013). Lý
thuyết gồm 3 yếu tố:
 “Thái độ đối với hành vi” là mức độ xem xét tích cực hay tiêu cực thuộc về cá
nhân đối với thực hiện một hành vi. Thái độ điển hình được hình thành bằng
niềm tin của cá nhân về hậu quả của việc thực hiện một hành vi cũng như kết
quả của hành vi đó.
 “Chuẩn mực chủ quan” là những hạn chế của xã hội áp đặt lên cá nhân dẫn đến
thực hiện hành vi. Chuẩn mực chủ quan bắt nguồn từ kỳ vọng của những người
xung quanh đối với cá nhân trong việc chấp hành các chuẩn mực cũng như
động cơ của cá nhân trong việc chấp hành các chuẩn mực đó.
 “Nhận thức kiểm soát hành vi” là nhận thức thuộc về cá nhân về sự dễ chịu
hoặc khó chịu trong việc thực hiện hành vi cụ thể; điều là còn phụ thuộc vào sự
sẵn có của các nguồn lực và các thời cơ để thực hiện hành vi.

Lý thuyết trên nhằm giúp các quản lý nền tảng mạng xã hội nói chung và Facebook
nói riêng có thể tìm kiếm được các chiến lược để khuyến khích người tiêu dùng tiếp
tục sử dụng Facebook nói riêng và SNS nói chung.

Lý thuyết sử dụng và hài lòng - Uses and gratifications theory ( UGT ) 


Lý thuyết sử dụng và sự hài lòng có thể được xem như một quan điểm giao tiếp tâm lý
tập trung vào cách cá nhân sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng và các hình
thức giao tiếp khác như giao tiếp giữa các cá nhân để đáp ứng nhu cầu và mong muốn
của họ (Rubin, 2002). Thuyết này đã tạo nên một sự thay đổi so với cách tiếp cận cơ
học truyền thống cho thấy rằng người tiêu dùng phương tiện truyền thông cá nhân bị
động. Theo quan điểm sử dụng và mức độ hài lòng, việc sử dụng phương tiện được
xác định bởi một nhóm các yếu tố chính bao gồm: 
 Nhu cầu và động cơ giao tiếp của mọi người, môi trường tâm lý và xã hội,
phương tiện truyền thông đại chúng, các lựa chọn chức năng thay thế cho việc
sử dụng phương tiện truyền thông, giao tiếp hành vi, và hậu quả của hành vi đó
(Rubin, 1994, trang 419). 
 Nguồn gốc xã hội và tâm lý của nhu cầu, tạo ra kỳ vọng đối với các phương
tiện thông tin đại chúng hoặc các các nguồn, dẫn đến các kiểu tiếp xúc với
phương tiện truyền thông khác nhau, dẫn đến cần được chứng nhận và các hệ
quả khác. (như trích dẫn trong Rubin, 1994, trang 419).
Việc sử dụng và nghiên cứu sự hài lòng trước đây của Kayahara và Wellman (2007)
đã nhóm công nhận phương tiện truyền thông thành hai loại: quá trình và nội dung.
Chứng chỉ quy trình phát sinh từ hiệu suất của hoạt động, chẳng hạn như duyệt Web
không có cấu trúc hoặc tạo nội dung trên một hồ sơ trong khi sự hài lòng về nội dung
xảy ra từ việc thu thập thông tin (Kayahara & Wellman,2007). Hơn nữa, Baran và
Davis (1995) đã khái niệm rằng “một người theo sở thích, lựa chọn nội dung truyền
thông theo nhu cầu của mình và tổng hợp nội dung đó để thỏa mãn những nhu cầu đó
”(tr. 219). Nói tóm lại, việc lựa chọn và sử dụng phương tiện truyền thông là hướng
đến mục tiêu, hành động có chủ đích và có động cơ (Rosengren, 1974). 

You might also like