You are on page 1of 12

TH C TR NG PHÂN C P, PHÂN QUY N

VÀ V N Đ T QU N Đ A PH NG T I VI T NAM
PGS. TS. Nguyễn Minh Phương
Viện Khoa học tổ chức nhà nước – Bộ Nội vụ

Trích dẫn: Nguyễn Minh Phương, Thực trạng phân cấp, phân quyền và vấn đề
tự quản địa phương tại Việt Nam , Văn phòng Quốc hội, Oxfam, Unicef, Hội
thảo Tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Ninh Thuận, 06/04/2913,

1- Một số vấn đề lý luận về phân cấp, phân quyền và tự quản địa phương
Phân cấp, phân quyền và tự quản địa phương là một trong những nội dung
cơ bản c a tổ chức nhà nước các quốc gia trên thế giới. Việt Nam, vấn đề
phân cấp, phân quyền đang được chú ý với tính cách là một nhiệm v chính trị
quan trọng c a quá trình cải cách nền hành chính nhà nước. Mặc dù đã được quan
tâm nghiên cứu, nhưng nhận thức lý luận về phân cấp, phân quyền và tự quản
chưa thật rõ ràng và nhất quán; ngay cả nội hàm các khái niệm “phân cấp”, “phân
quyền”, “tự quản” cũng còn được hiểu theo nhiều cách khác nhau trong các văn
kiện c a Đảng, văn bản pháp luật c a Nhà nước, các sách báo khoa học, v.v.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không có Ủ định tập trung phân
tích làm rõ nội hàm các khái niệm này, song để có thể đánh giá thực trạng và đưa
ra khuyến nghị, cần có sự thống nhất quan niệm về phân cấp, phân quyền và tự
quản địa phương.
- Khái niệm phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý (hành chính) được hiểu là “Chuyển giao nhiệm v ,
quyền hạn c a cơ quan quản lỦ nhà nước cấp trên cho cơ quan quản lỦ nhà nước
cấp dưới thực hiện thư ng xuyên, lâu dài, ổn định trên cơ s pháp luật… thực
chất c a phân cấp quản lý hành chính là xác định lại sự phân chia thẩm quyền

1
theo các cấp hành chính phù hợp với yêu cầu c a tình hình mới1. Tuy nhiên có ý
kiến cho rằng, phân cấp quản lỦ được hiểu là “sự phân chia các đơn vị hành chính
- lãnh thổ và phân công thẩm quyền hợp lý giữa các cấp chính quyền tương ứng
cho phù hợp với chức năng, nhiệm v và đặc điểm c a mỗi cấp để nhằm thực thi
hiệu quả hơn quyền lực nhà nước”2.
Như vậy, liên quan đến khái niệm phân cấp có hai nội dung cần lưu Ủ là
xác định thẩm quyền c a mỗi cấp hành chính trong các văn bản quy phạm pháp
luật và chuyển giao thẩm quyền c a cấp trên cho cấp dưới bằng các quyết định c
thể nhằm m c tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
b) Khái niệm “phân quyền”
“Phân quyền” trong trư ng hợp này được hiểu là phân quyền theo lãnh
thổ, tức là “pháp luật quy định vị trí pháp lý c a các cấp chính quyền địa
phương”. Phân quyền theo cấp lãnh thổ là nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền
lực, theo đó nhà nước trung ương chuyển giao (thông qua hiến pháp và luật) cho
các hội đồng dân biểu địa phương những quyền hạn độc lập và toàn vẹn (bao
gồm cả phương tiện vật chất, tài chính, nhân sự…), trong phạm vi đó nó thực
hiện một cách ch động, độc lập và tự chịu trách nhiệm3. Với cách tiếp cận như
vậy, “Phân quyền theo chiều dọc cũng thể hiện sự phân cấp giữa trung ương và
địa phương, giữa cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp dưới”4.
c) Khái niệm tự quản địa phương
Tự quản theo nghĩa chung nhất là “tự mình trông coi, quản lý công việc,
không cần có ai điều khiển”; là tính độc lập, khả năng quyết định c a một tổ
chức, cá nhân. Tự quản địa phương là quyền độc lập tương đối c a địa phương
trong một lĩnh vực nhất định do được Nhà nước trao quyền, theo đó trong phạm
vi hay lĩnh vực nhất định, địa phương tự mình quản lỦ, giải quyết công việc một
1
Từ điển Luật học. NXB Từ điển bách khoa. Tr. 612
2
PGS.TS Nguyễn Cửu Việt, PGS.TS. Trương Đắc Linh: Sửa đổi hiến pháp: nhìn từ từ chiến lược phân
cấp quản lý. Tap chí Khoa học pháp lý. Số 3/20111
3
PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt: Khái niệm tập quyền, tản quyền và phân quyền. Tạp chí Khoa
học Đại học QGHN. Luật học. Tập 26. Số 4. (2010).
4
PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan: Quan niệm, m c đích, ý nghĩa c a phân cấp giữa trung ương
và địa phương.

2
cách ch động và tự chịu trách nhiệm, dưới sự kiểm tra, giám sát c a Nhà nước
để đạt được hiệu quả cao nhất.
Tự quản địa phương biểu thị quyền và khả năng c a chính quyền địa
phương trong giới hạn c a luật pháp, để quản lí và tổ chức cung ứng các dịch v
công theo đúng trách nhiệm c a mình và vì lợi ích ngư i dân địa phương. Để
thực hiện thẩm quyền này, ngư i dân bầu ra một hội đồng và trực thuộc nó là cơ
cấu tổ chức hành chính có tư cách pháp nhân (có tài sản, ngân sách và lãnh thổ
riêng, chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và tòa án). Do vậy có Ủ
kiến cho rằng, “về mặt lỦ thuyết, hình thức triệt để nhất c a phân cấp quản lỦ là
chế độ tự quản địa phương, tức là phân quyền hiểu theo nghĩa Tây Âu”.
Mặc dù phương thức tổ chức tự quản địa phương trên thế giới rất đa dạng,
nhưng chế độ tự quản địa phương luôn phải được bảo đảm về mặt pháp luật và
tuân th sự kiểm soát c a trung ương đối với địa phương giúp cho việc bảo đảm
thực hiện hiệu quả quản lỦ địa phương.
Như vậy, theo chúng tôi có thể quan niệm rằng phân cấp, phân quyền và tự
quản địa phương là những mức độ khác nhau từ thấp đến cao, từ chưa đầy đ ,
toàn diện đến đầy đ , toàn diện c a quá trình phi tập trung hóa“decentralization”.
Theo đó, phân cấp quản lý là chính quyền cấp trên giao nhiệm v cho quyền
chính quyền cấp dưới thông qua việc thực hiện quyền lập quy và lãnh đạo chính
quyền cấp dưới, cấp dưới ph c tùng cấp trên; còn phân quyền là các cấp chính
quyền thực hiện nhiệm v , quyền hạn c a mình theo y quyền c a ngư i dân
thông qua quy định c a Hiến pháp và luật, do vậy chính quyền các cấp có quan
hệ là bình đẳng; tự quản là chính quyền được độc lập quyết định các vấn đề c a
cộng đồng dân cư trong khuôn khổ c a Hiến pháp và luật. Tuy nhiên ranh giới
giữa “phân cấp”, “phân quyền”, “tự quản địa phương” cũng mang tính chất tương
đối.
Với quan niệm đó, Việt Nam thực tế đang thực hiện phân cấp quản lý,
phân quyền và tự quản địa phương các mức độ khác nhau, mặc dù khái niệm
phân cấp quản lỦ được dùng khá phổ biến, còn khái niệm “phân quyền” rất ít
được sử d ng và “tự quản địa phương” chưa được sử d ng trong các văn bản

3
chính trị và văn bản pháp lý (Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng không
sử d ng các khái niệm này).
2- K t qu th c hi n phân c p, phân quy n và t qu n đ a ph ng ở
Vi t Nam và nh ng v n đ đặt ra
Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003,
chính quyền địa phương nước ta gồm 3 cấp: tỉnh, huyện, xã; mỗi cấp đều tổ
chức HĐND và UBND.
- Tuy có khác nhau về phạm vi và mức độ c thể, nhưng về cơ bản,
HĐND các cấp tỉnh, huyện, xã đều có các nhiệm v , quyền hạn: Quyết định
những ch trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng c a địa phương,
xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội; Quyết định dự toán thu,
chi ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu chi ngân sách địa phương và
phân bổ ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán ngân sách cấp mình; Bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức v lãnh đạo HĐND và các thành viên c a
UBND; giám sát đối với hoạt động c a các cơ quan nhà nước cùng cấp và việc
tuân theo pháp luật c a cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân và c a công dân địa phương.
- UBND thực hiện chức năng quản lỦ nhà nước địa phương, góp phần
bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương tới cơ s . Nhiệm v , quyền hạn c a UBND tỉnh được quy định theo
14 lĩnh vực, c a UBND huyện theo 11 lĩnh vực và c a UBND xã theo 7 lĩnh vực,
nhưng thực chất cũng là đầy đ các lĩnh vực kinh tế - xã hội- an ninh, quốc
phòng, xây dựng chính quyền; điểm khác biệt là càng xuống UBND cấp huyện,
cấp xã càng có sự lồng ghép một số lĩnh vực gần nhau. Đối với UBND thành phố
trực thuộc trung ương, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, quận, phư ng, còn được bổ
sung một số nhiệm v , quyền hạn phù hợp với đặc điểm, tính chất c a đô thị;
UBND huyện thuộc địa bàn hải đảo cũng được bổ sung nhiệm v thực hiện các
biện pháp để xây dựng, quản lý, bảo vệ đảo, vùng biển và dân cư trên địa bàn.
Nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo c a các cấp chính quyền địa
phương, đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước, nâng cao hiệu lực,

4
hiệu quả c a bộ máy nhà nước, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khoá IX) đề
ra yêu cầu, “Khẩn trương hoàn thành việc phân cấp, phân quyền giữa Trung ương
và địa phương trên từng ngành, từng lĩnh vực một cách đồng bộ, bảo đảm hiệu
lực quản lý thống nhất, xuyên suốt c a Trung ương đối với địa phương và khuyến
khích tính sáng tạo, tự chịu trách nhiệm c a các địa phương”. Đáng lưu Ủ, đây là
lần đầu tiên và duy nhất khái niệm “phân quyền” liền sau “phân cấp” được sử
d ng trong các văn kiện c a Đảng Cộng sản Việt Nam).
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010
đề ra nhiệm v : “Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết định,
những loại việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến c a trung ương
và những việc phải thực hiện theo quyết định c a trung ương”. Ngày 30/6/2004
Chính ph đã ban hành Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP “Về tiếp t c đẩy mạnh
phân cấp quản lỦ nhà nước giữa Chính ph và chính quyền tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương”, tập trung vào phân cấp nhiệm v , thẩm quyền, trách nhiệm
giữa Chính ph và chính quyền cấp tỉnh trên các lĩnh vực ch yếu: quản lý quy
hoạch, kế hoạch, đầu tư; ngân sách nhà nước; đất đai, tài nguyên, doanh nghiệp
nhà nước; hoạt động sự nghiệp, dịch v công; tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức.
Qua gần 9 năm triển khai thực hiện, nhiều nội dung phân cấp quản lý đã
được thể chế hóa vào các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành và các Nghị
định c a Chính ph quy định chức năng, nhiệm v , quyền hạn và cơ cấu tổ chức
c a từng Bộ, cơ quan ngang Bộ, Nghị định số 13 và 14/2008/NĐ ngày 04/02/2008
c a Chính ph quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc y ban nhân dân
cấp tỉnh, cấp huyện; đặc biệt Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18/4/2012 c a
Chính ph quy định chức năng, nhiệm v , quyền hạn và cơ cấu tổ chức c a Bộ, cơ
quan ngang Bộ và các Nghị định quy định chức năng, nhiệm v , quyền hạn và cơ
cấu tổ chức c a từng Bộ, cơ quan ngang Bộ trong cơ cấu tổ chức Chính ph khóa
XIII đã quy định tiếp t c phân cấp quản lý về ngành, lĩnh vực giữa các Bộ, cơ quan
ngang Bộ với chính quyền địa phương.
Về cơ bản, các quy định phân cấp quản lỦ nhà nước giữa Chính ph và
chính quyền địa phương đã được các địa phương thực hiện tương đối thống nhất

5
và có hiệu quả, nâng cao tính ch động cho chính quyền địa phương trong quản
lý, sử d ng các nguồn lực địa phương, đưa nền hành chính sát hơn với những
đặc điểm kinh tế - xã hội c thể c a địa phương, góp phần giải quyết kịp th i và
ph c v tốt hơn các yêu cầu c a tổ chức và nhân dân tại địa phương.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay là các giải pháp tăng cư ng phân cấp giữa
Chính ph và chính quyền địa phương, một mặt còn thiếu tính đồng bộ, chưa
phân định rõ ràng, c thể nhiệm v , thẩm quyền, trách nhiệm c a từng cấp chính
quyền địa phương; chính quyền địa phương các cấp chưa có đ thẩm quyền và
các điều kiện cần thiết để ch động, năng động trong việc thực hiện các nhiệm v
mà địa phương có khả năng làm được, nhưng mặt khác, một số nhiệm v cần
quản lỦ tập trung, thống nhất lại được chuyển giao cho chính quyền địa phương,
làm giảm hiệu quả quản lỦ c a nền hành chính nhà nước. Đồng th i, sự khác
nhau về mô hình tổ chức và chức năng, nhiệm v giữa chính quyền thành phố với
chính quyền tỉnh, chính quyền thị xã, thành phố thuộc tỉnh với chính quyền
huyện, cũng như chính quyền thị trấn, phư ng và chính quyền xã chưa được làm
rõ; chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tổ chức các hoạt động quản lỦ, điều hành
các công việc hành chính cơ s , trực tiếp tổ chức việc thi hành pháp luật, nhưng
thẩm quyền và trách nhiệm chưa được xác định một cách tương xứng.
Mặc dù nhiều địa phương cho rằng phân cấp, phân quyền cho chính quyền
địa phương th i gian qua là chưa đ mạnh, các bộ, ngành trung ương còn “ôm
việc”, nhưng thực tế một số vấn đề bức xúc liên quan đến phân cấp đang đặt ra:
- Tình trạng các địa phương đua nhau xây dựng 20 cảng biển quốc tế, 18
khu kinh tế biển, 30 khu kinh tế cửa khẩu, 260 khu công nghiệp, 650 c m công
nghiệp; thành lập mới 307 trư ng đại học, học viện trong 10 năm, từ 2001 đến
2010, theo một số chuyên gia kinh tế, “các địa phương được quyền tự ch rất lớn
về quy hoạch phát triển, phân cấp đất, quyền quyết định xây dựng các cơ s hạ
tầng trong tỉnh, tuy là cần có sự đồng Ủ c a cấp trên”. Và “Từ 2006 đến nay phần
lớn dự án đầu tư công đều được phân cấp cho ngành và địa phương, d n tới hệ
quả là việc quyết định đầu tư công đã tách r i việc bố trí vốn. Tuy nhiên, trên
thực tế tất cả các dự án đầu tư kể trên đều được quyết định từ Trung ương chứ

6
không phải do địa phương tự quyết định. Tình trạng phổ biến là các địa phương
quyết định về dự án đầu tư, nhưng nguồn vốn đều từ ngân sách Trung ương”. Do
vậy, tình trạng 63 tỉnh thành là 63 “nền kinh tế” không phải là hệ l y c a việc
phân cấp quản lỦ cho các địa phương mà trước tiên và ch yếu là do cấp Trung
ương phải chịu trách nhiệm.
- Việc phân cấp trong lĩnh vực thu hút vốn FDI đã thúc đẩy các địa phương
tìm nhiều biện pháp thu hút các nguồn vốn. Tuy nhiên, các biện pháp ch yếu là
ưu đãi thô sơ như giảm giá thuê đất, giảm thuế… Thậm chí, một số tỉnh quy định
chính sách khuyến khích vượt quá khuôn khổ pháp luật hiện hành d n đến cạnh
tranh nội bộ. Mặt khác, “các địa phương vốn đã phát triển, có điều kiện thuận lợi
về địa kinh tế, tài nguyên, nhân lực đã phát huy được tác d ng c a phân cấp
trong khi các địa phương nghèo, điều kiện khó khăn thì ít tận d ng được những
tác động tích cực c a phân cấp”.
- Trong lĩnh vực khai khoáng, tình trạng số lượng giấy phép tăng đột biến
trong th i gian rất ngắn (trong 3 năm 2008-2011 các địa phương cấp gần 3.500
giấy phép, gấp 7 lần số Trung ương cấp trong 12 năm) được xem là do phân cấp
cho chính quyền địa phương thẩm quyền cấp phép khai khoáng gây ra.
Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu yêu cầu “Thực hiện
phân cấp hợp lỦ cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng cao chất lượng quy
hoạch và tăng cư ng thanh tra, kiểm tra, giám sát c a trung ương, gắn quyền hạn
với trách nhiệm được giao”. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011-2020 ban hành theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011
đề ra nhiệm v : “Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lỦ thống nhất về tài
nguyên, khoáng sản quốc gia; quy hoạch và có định hướng phát triển; tăng cư ng
giám sát, kiểm tra, thanh tra; đồng th i đề cao vai trò ch động, tinh thần trách
nhiệm, nâng cao năng lực c a từng cấp, từng ngành”.
3- Một số đ xu t, ki n ngh đẩy m nh phân c p, phân quy n và t
qu n đ a ph ng ở Vi t Nam hi n nay

7
a) Nhận thức rõ tính tất yếu khách quan của quá trình trình phi tập trung
hóa với các nội dung phân cấp- phân quyền – tự quản địa phương trong điều
kiện mới của đất nước.
- Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trư ng định hướng XHCN, xây
dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền, cải cách nền hành chính nhà nước và
hội nhập quốc tế, thực hiện phân cấp, phân quyền ngày càng đầy đ , toàn diện
hơn tiến đến tự quản địa phương là yêu cầu có tính quy luật, không thể trì hoãn
được. Đó là quá trình chuyển đổi phương thức thực thi quyền lực nhà nước tập
trung quan liêu sang dân ch ; là chuyển giao nhiệm v , quyền hạn từ chính quyền
trung ương cho chính quyền địa phương các cấp nhằm m c tiêu hiệu quả. Phân
cấp, phân quyền không có nghĩa là làm giảm vai trò c a Trung ương mà ngược
lại Trung ương làm đúng việc phải làm là xây dựng chính sách, pháp luật và giải
quyết các vấn đề có tính chiến lược, đồng th i thúc đẩy tính độc lập, chịu trách
nhiệm trong quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện c a chính quyền địa
phương các cấp.
- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và tự quản chính quyền địa phương gắn
liền với việc thiết lập chính quyền Trung ương đ mạnh, có hiệu lực và hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh, cùng với cơ chế phát huy dân ch , tạo điều kiện thuận lợi
cho ngư i dân, các tổ chức xã hội tham gia vào hoạt động quản lỦ nhà nước.
Thực hiện phân cấp, phân quyền, tự quản địa phương phải bảo đảm: 1) Thẩm
quyền quyết định c a Hội đồng dân cử; 2) Trách nhiệm giải trình; 3) Sự tuân th
các qui định c a pháp luật; 4) Công khai, minh bạch, sự giám sát c a ngư i dân;
5) Trình độ, năng lực thực thi công v c a đội ngũ cán bộ, công chức; 6) Cơ chế
tài phán c a tòa án.
b) Xác định rõ mục tiêu của phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa
phương trong mô hình nhà nước Việt Nam thống nhất, đơn nhất.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa Chính ph , các Bộ, cơ quan ngang Bộ
và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giữa chính quyền địa
phương các cấp trên cơ s phân định rõ chức năng, nhiệm v , quyền hạn, trách
nhiệm c a từng cấp, từng cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, bảo đảm

8
sự quản lý thống nhất c a Chính ph , đồng th i đề cao vai trò ch động, tinh thần
trách nhiệm và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lỦ nhà nước c a từng cấp, từng
ngành. Theo đó, cần quán triệt các quan điểm sau:
- Thực hiện quản lỦ nhà nước thống nhất, thông suốt từ Trung ương đến
địa phương, bảo đảm Chính ph quản lý thống nhất về thể chế, chính sách, chiến
lược, quy hoạch, thanh tra, kiểm tra; đồng th i phát huy quyền tự ch , tự chịu
trách nhiệm c a chính quyền các cấp trong việc thực hiện các nhiệm v quản lý
nhà nước trên địa bàn theo quy định c a pháp luật;
- Tuân th nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý
theo lãnh thổ, phân định rõ những nhiệm v quản lỦ nhà nước c a Bộ, ngành với
nhiệm v quản lỦ nhà nước c a chính quyền cấp tỉnh đối với các hoạt động kinh
tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ;
- Bảo đảm nguyên tắc hiệu quả, việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải
quyết kịp th i và ph c v tốt hơn các yêu cầu c a tổ chức và ngư i dân thì giao
cho cấp đó thực hiện; phân cấp, phân quyền phải rõ việc, rõ địa chỉ, rõ trách
nhiệm, gắn với chức năng, nhiệm v và thẩm quyền c a mỗi cấp;
- Phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội c a từng địa phương trong
từng giai đoạn, đặc thù c a ngành, lĩnh vực và khả năng quản lỦ, điều hành c a
chính quyền từng cấp và điều kiện, khả năng cân đối các nguồn lực cần thiết để
thực hiện; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về quản lỦ các ngành, lĩnh vực;
- Bảo đảm thực quyền c a Hội đồng nhân dân và trách nhiệm y ban nhân
dân và Ch tịch y ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quyết định thực hiện các nhiệm
v được phân cấp, phân quyền; chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương hành chính;
đồng th i phát huy dân ch rộng rãi để nhân dân tham gia quản lỦ nhà nước;
- Tăng cư ng hướng d n và thanh tra, kiểm tra c a Chính ph đối với
chính quyền địa phương trong việc thực hiện các nhiệm v được phân cấp, phân
quyền, kịp th i phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật để xử lý nghiêm minh.

9
c) Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Chính phủ theo
hướng điều chỉnh chức năng của Chính phủ đúng với vai trò là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp và cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
Chính ph tập trung vào hoạch định thể chế, chính sách, xây dựng giải
pháp, cải cách th t c hành chính, tạo lập môi trư ng pháp lý thuận lợi cho các
hoạt động kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực và hiệu quả chỉ đạo thực hiện, kiểm
tra, thanh tra thực hiện thể chế. Chính ph thống nhất quản lý quy hoạch phát
triển kinh tế, bảo vệ môi trư ng, quyết định đầu tư công từ ngân sách c a trung
ương, chỉ y quyền cho chính quyền tỉnh quản lỦ trong trư ng hợp thật cần thiết.
Hoàn thiện quy chế phân cấp, phân quyền về đầu tư, bảo đảm quản lý tập
trung và thống nhất về quy hoạch, định hướng phát triển, cơ chế, chính sách và cân
đối nguồn lực một cách ch động; về khai thác khoáng sản, quản lý tài nguyên
nước, đất trồng lúa. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách Nhà nước theo
định hướng phân cấp, phân quyền về ngân sách nhà nước gắn với phân cấp, phân
quyền quản lý kinh tế - xã hội; điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa
ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương và số bổ sung cân đối từ ngân
sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới trong th i kỳ ổn định.
d) Sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp 1992 tạo cơ sở pháp lý xây
dựng Luật Tổ chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc phân biệt chính
quyền đô thị với chính quyền nông thôn và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương trong việc quyết định và tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật trong phạm vi được phân cấp, phân quyền.
- Phân chia đơn vị hành chính - lãnh thổ gồm 2 cấp: cấp tỉnh và cấp cơ s
có tổ chức Hội đồng nhân dân và được phân quyền; huyện, quận, phư ng không
phải là cấp hành chính, chỉ tổ chức cơ quan hành chính thực hiện các nhiệm v
được y quyền hoặc tản quyền. Theo đó, sửa đổi khoản 3 Điều 115 c a Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như sau: “Việc tổ chức Hội đồng nhân dân và cơ
quan hành chính tại các đơn vị hành chính lãnh thổ trong tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương do luật định, phù hợp với đặc điểm c a từng loại đơn vị hành
chính lãnh thổ và yêu cầu phân cấp, phân quyền”.

10
- Sửa đổi khoản 1 Điều 116 c a Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như
sau “Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp
và pháp luật địa phương, các vấn đề quan trọng c a địa phương và giám sát
hoạt động c a các cơ quan nhà nước tại địa phương”.
- Bổ sung khoản 3 Điều 116 c a Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992:
“Nhiệm v , quyền hạn c a chính quyền địa phương do Luật định theo nguyên tắc
bảo đảm quyền tự ch , tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật trong phạm vi được phân cấp, phân quyền”.
- Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định rõ chức năng, nhiệm v
c a chính quyền địa phương các cấp theo 3 nhóm nhiệm v cơ bản: 1) tổ chức
thực hiện pháp luật và các quyết định c a cấp trên; 2) phối hợp với các cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền thực hiện các nhiệm v c a trung ương trên địa bàn; 3)
thực hiện các nhiệm v mang tính tự quản c a địa phương. Những nhiệm v đã
phân cấp có tính ổn định cho chính quyền địa phương và được thực hiện có hiệu
quả thư i gian qua cần được quy định rõ trong Luật theo hướng phân quyền.
- Phân biệt sự khác nhau giữa đô thị và nông thôn, để thực hiện phân cấp,
phân quyền phù hợp với đặc điểm, tính chất c a mỗi loại hình địa phương. Khác
với nông thôn, mỗi đô thị là một chỉnh thể kinh tế-xã hội thống nhất, ràng buộc
chặt chẽ và ph thuộc trực tiếp vào nhau, không thể chia cắt, do đó bộ máy hành
chính nhà nước đô thị phải mang tính tập trung, thống nhất, vận hành thông
suốt, nhanh nhạy và không thể bị cắt khúc theo kiểu cát cứ như nông thôn. Vì
vậy, không thể phân cấp, phân quyền giữa các cấp chính quyền trong nội bộ đô
thị (thành phố trực thuộc trung ương - quận - phư ng) hoặc tỉnh – thị xã, thành
phố (thuộc tỉnh) – phư ng giống như phân cấp, phân quyền chính quyền nông
thôn (tỉnh - huyện - xã). Trong nội bộ đô thị, cần áp d ng cơ chế uỷ quyền, tản
quyền c a chính quyền thành phố, thị xã cho các cơ quan quản lý hành chính cấp
dưới (quận, phư ng) thực thi một số nhiệm v quản lý hành chính c thể; tổ chức
các cơ quan hành chính quận, phư ng như là “cánh tay nối dài” c a cơ quan
hành chính thị xã, thành phố.

11
đ) Nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức chính quyền tự quản của các nước trên
thế giới, vận dụng vào tổ chức chính quyền xã của Việt Nam
Chính quyền xã, thị trấn được xác định là cấp cơ s , gần dân nhất, nơi dân
trực tiếp trước tiên để giải quyết các công việc hành chính như chứng nhận, xác
thực, đăng kỦ…; tiếp nhận và xử lỦ theo quy định c a pháp luật khiếu nại, tố cáo
và kiến nghị c a công dân. Cấp xã cũng là nơi có nhiều vấn đề phải được giải
quyết thông qua cộng đồng như xây dựng, sửa chữa, bảo dưỡng đư ng sá đi lại,
công trình phúc lợi, các vấn đề về văn hoá, xã hội…Mặt khác, xã là nơi các cộng
đồng dân cư sinh sống, được hình thành và gắn bó thông qua quan hệ láng giềng,
có nhiều mối quan hệ rất cần được giải quyết không chỉ trên cơ s pháp luật mà
còn cả trên cơ s đồng thuận và tự nguyện, tự quản. Vì vậy, cần phân quyền
nhiều hơn theo hướng bảo đảm quyền tự quản địa phương cho chính quyền xã,
thị trấn liên quan đến các vấn đề c a cộng đồng dân cư thuộc thẩm quyền quyết
định và tự chịu trách nhiệm c a HĐND xã, thị trấn; Các hình thức thực hiện
quyền lực c a nhân dân xã, thị trấn (trưng cầu ý dân).

12

You might also like