You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA: MARKETING

THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài: PHÊ PHÁN NHỮNG LUẬN ĐIỂM NỀN DÂN CHỦ KHÔNG
MANG BẢN CHẤT GIAI CẤP VÀ THỰC HIỆN ĐA NGUYÊN ĐA
ĐẢNG MỚI CÓ DÂN CHỦ

Lớp HP: 2190HCMI0121

Nhóm : 1

GVGD : ThS Đỗ Thị Phương Hoa

Hà Nội, 10/2021

1
DANH SÁCH NHÓM

STT  Họ và tên Nhiệm vụ Ý thức, thái độ họp nhóm

Nhóm trưởng Nộp bài đúng hạn, đóng góp


1 Lê Thúy An
Tìm tài liệu phần ý kiến cho đề tài
1.1 và 1.2 

2 Đinh Thị Hải Anh Powerpoint  Nộp bài đúng hạn

3 Nguyễn Đào Châu Tìm tài liệu phần Nộp bài đúng hạn
Anh 1.3.1 và 1.3.2

4 Nguyễn Kim Anh Thuyết trình phần I  Nộp bài đúng hạn

Thư ký Nộp bài đúng hạn


5 Nguyễn Thị Kim Anh
Tìm tài liệu phần
1.3.3 

6 Nguyễn Thị Phương Làm Word Nộp bài đúng hạn, đóng góp
Anh ý kiến xây dựng bài

7 Triệu Tú Anh Tìm tài liệu phần Nộp bài đúng hạn
2.3 và 2.4

8 Lê Ngọc Ánh Thuyết trình phần Nộp bài đúng hạn


II 

9 Phạm Thị Ánh Tìm tài liệu phần 2.1 Nộp bài đúng hạn
và 2.2

2
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM

Học phần: Chủ nghĩa khoa học xã hội.


1. Thời gian: 15h00’ ngày 22/9/2021.
2. Địa điểm: Google Meet. Đủ 9/9.
3. Nội dung buổi họp:
+ Nhóm trưởng nói sơ qua về đề tài thảo luận
+ Bàn bạc, phân tích đề và phân công nhiệm vụ như sau:
Đề tài chính: Phê phán những luận điểm nền dân chủ không mang bản bản chất giai
cấp và thực hiện đa nguyên đa đảng mới có dân chủ.
 Thuyết trình: Nguyễn Kim Anh, Lê Ngọc Ánh
 Phụ trách word:  Nguyễn Thị Phương Anh
 Phụ trách powerpoint: Đinh Thị Hải Anh
Mở đầu (Lê Thúy An)
I. Phê phán luận điểm “Nền dân chủ không mang bản chất giai cấp”.
1.1 Nhận diện luận điểm. ( Lê Thúy An)
1.2 Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ. (Lê Thúy An)
1.3 Bản chất giai cấp của các nền dân chủ.
1.3.1 Bản chất giai cấp của nền dân chủ được hiểu như thế nào? (Nguyễn Đào
Châu Anh)
1.3.2 Bản chất giai cấp của nền dân chủ được hiểu như thế nào trong lịch sử
phát triển của các nền dân chủ? ( Nguyễn Đào Châu Anh)
1.3.3 Sự khác nhau giữa bản chất của nền dân dân chủ XHCN với các nền dân
chủ khác như thế nào? (Nguyễn Thị Kim Anh)
II. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân dân chủ.
2.1 Nhận diện luận điểm. (Phạm Thị Ánh)
2.2 Khái niệm và bản chất của đa nguyên, đa đảng. ( Phạm Thị Ánh)
2.3 Thực hiện đa nguyên, đa đảng ở các nước tư bản. (Triệu Tú Anh)

3
2.4 Đa nguyên, đa đảng không phù hợp với Việt Nam. ( Triệu Tú Anh)
Kết thúc (Nguyễn Thị Kim Anh)
Các ý kiến đóng góp, trao đổi:
+ Các thành viên trong đều tham gia đóng góp, thống nhất ý kiến và tìm tài liệu cho đề
tài.
+ Các thành viên nộp lại ý tưởng đã tìm cho nhóm trưởng. Sau đó nhóm trưởng tập
hợp lại và các thành viên cùng đưa ra ý kiến nhận xét.
+ Chỉ ra các ưu nhược điểm của từng bài và đưa thêm những ý kiến đóng góp để bài
viết được hoàn chỉnh hơn.
+ Tổng kết những hoạt động vừa qua.
Bầu ra thư ký: Nguyễn Thị Kim Anh
Phần tổng hợp và kết luận: Các thành viên tìm và nộp tài liệu vào trước 23h59’ ngày
5/10/2021.

Hà Nội, ngày 22 tháng 9 năm 2021


Nhóm trưởng
An
Lê Thúy An

4
Phần Mở Đầu
Như chúng ta đã biết, thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ VII – VI
trước Công nguyên. Theo đó, dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị, sau này được các
nhà chính trị gọi giản lược là quyền lực của nhân dân, hay quyền lực thuộc về nhân
dân.
Nhu cầu về dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong xã hội tự quản của cộng đồng thị
tộc, bộ lạc. Ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức manh nha của
dân chủ mà Ph.Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy”, tiếp đó là “dân chủ chủ nô”,
“dân chủ tư sản” và cuối cùng là nền “dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Qua đó ta có thể
thấy, trong suốt chặng đường của chiều dài lịch sử, chế độ dân chủ đã biến đổi với
những cách thức, bản chất, nền tảng tư tưởng khác nhau, mà chế độ dân chủ hiện tại sẽ
phát triển và hoàn thiện hơn chế độ dân chủ trước đó để phù hợp với bản chất của từng
thời kỳ.
Cũng bởi vì sự biến đổi này mà bắt đầu xuất hiện nhiều những quan điểm đa
chiều, mang luận điệu xuyên tạc từ phía các thế lực thù địch nhằm thay đổi nhận thức,
niềm tin của mọi người và gây nên những cuộc tranh luận, phải kể đến đó là luận điểm
“Nền dân chủ không mang bản chất giai cấp và thực hiện đa nguyên đa đảng mới có
dân chủ”. Để làm rõ về sự sai lệch trong tư tưởng của luận điểm này. Nhóm 1 quyết
định đi sâu vào tìm hiểu về bản chất giai cấp của các nền dân chủ cũng như minh
chứng được việc đa nguyên đa đảng không phù hợp với Việt Nam.

5
6
Phần Nội dung
I. Phê phán luận điểm “Nền dân chủ không mang bản chất giai cấp”

1.1 Nhận diện luận điểm.


Luận điểm “Dân chủ không mang bản chất giai cấp” là hoàn toàn không đúng.
Bởi mỗi chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước gắn với giai cấp thống trị do đó dân
chủ luôn mang bản chất giai cấp.
Cụ thể, ở nền dân chủ chủ nô “dân chủ mang bản chất của giai cấp chủ nô”, ở
nền dân chủ tư sản “Dân chủ mang bản chất của giai cấp tư sản”, ở nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa “dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân”. Như vậy, có thể khẳng
định đây là luận điểm sai trái, phản cách mạng, mang chiều hướng sai lệch, cần lên án
và bài trừ luận điểm này để không ảnh hưởng tới nhận thức của mọi người.
1.2 Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
Từ việc nghiên cứu các chế độ dân chủ, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
cho rằng, dân chủ là thành quả của quá trình đấu tranh giải cấp cho những giá trị tiến
bộ của nhân loại, là một hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền, là một
trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội. Tựu trung lại,
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin dân chủ có một số nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân,
nhân dân là chủ nhân của nhà nước. Quyền lợi căn bản nhất của nhân dân chính là
quyền lực nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân, của xã hội; bộ máy nhà nước phải vì
nhân dân, vì xã hội mà phục vụ.
Thứ hai, trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là
một hình thức hay hình thái nhà nước; là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ.
Thứ ba, trên phương diện tổ chức và quản lý xã hội, dân chủ là một nguyên tắc
- nguyên tắc dân chủ. Nguyên tắc này kết hợp với nguyên tắc tập trung để hình thành
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và quản lý xã hội.
Chủ nghĩa Mác Lênin nhấn mạnh, dân chủ với những nội dung nêu trên phải
được coi là mục tiêu, là tiền đề và cũng là phương tiện để vươn tới tự do, giải phóng
con người, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Dân chủ với tư cách một hình
7
thức tổ chức thiết chế chính trị, một hình thức hay hình thái nhà nước, nó là một phạm
trù lịch sử, ra đời và phát triển gắn liền với nhà nước và mất đi khi nhà nước tiêu vong.
Song, dân chủ với tư cách một giá trị xã hội , nó là một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại và
phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài người. Chừng
nào con người và xã hội loài người còn tồn tại, chừng nào mà nền văn minh nhân loại
chưa bị diệt vong thì chừng đó dân chủ vẫn còn tồn tại với tư cách một giá trị nhân loại
chung.
1.3 Bản chất giai cấp của các nền dân chủ
1.3.1 Bản chất giai cấp của nền dân chủ được hiểu như thế nào?     
Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, là quyền lực làm chủ của nhân dân
trong các lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước; dân chủ là một hình thức nhà nước
gắn với giai cấp thống trị do đó dân chủ luôn mang bản chất giai cấp.
Có thể nhận diện dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản
của con người; là một phạm trù chính trị gần với các hình thức tổ chức nhà nước của
giai cấp cầm quyền; là một trong những nguyên tắc hoạt động của các tổ chức chính
trị- xã hội; là một phạm trù lịch sử gắn với quá trình ra đời phát triển của lịch sử xã hội
nhân loại. Ở nền dân chủ chủ nô “dân chủ mang bản chất của giai cấp chủ nô”, ở nền
dân chủ tư sản “Dân chủ mang bản chất của giai cấp tư sản”, ở nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa “dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân”. Tùy từng thời kì mà dân chủ
biểu hiện cho giai cấp cầm quyền - giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất - của nhà nước
đó.
1.3.2 Bản chất giai cấp của nền dân chủ được hiểu như thế nào trong lịch
sử phát triển của các nền dân chủ? 
Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển, công cụ lao động cải tiến đã làm
cho năng suất lao động tăng lên, sản phẩm làm ra không chỉ thỏa mãn nhu cầu tối thiểu
của con người mà còn tạo ra một số của cải dư thừa. Chính đây dẫn tới sự ra đời của
chế độ tư hữu và sau đó là giai cấp đã làm cho hình thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã,
nền dân chủ chủ nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được tổ chức thành nhà nước với đặc
trưng là dân tham gia bầu ra Nhà nước. Khi đó nhà nước chủ nô mới chính thức sử
dụng danh từ “dân chủ”, tiếng Hy Lạp cổ đại gọi là “demos” là ‘dân”, và “Kratos” là
“quyền lực” nghĩa là quyền lực của dân. Tuy nhiên, theo quy định của giai cấp cầm
8
quyền chỉ gồm giai cấp chủ nô và phần nào thuộc về công dân tự do, đa số còn lại
không phải là “dân” mà là “nô lệ” và họ cũng không được tham gia vào công việc của
Nhà nước. Nền dân chủ chủ nô cũng chỉ thực hiện dân chủ cho thiểu số, quyền lực của
dân đã bó hẹp nhằm duy trì, bảo vệ, thực hiện lợi ích của “dân” mà thôi.
  Cùng với sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ, lịch sử loài người bước vào thời
kỳ thống trị của nhà nước chuyên chế phong kiến, chế độ dân chủ chủ nô đã bị xóa bỏ
và thay vào đó là chế độ độc tài chuyên chế phong kiến. Nhưng chế độ phong kiến
không được thừa nhận là một chế độ dân chủ.
Đến cuối thế kỉ XIV – đầu thế kỉ XV, giai cấp tư sản với những tiến bộ về tư
do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Dân chủ tư
sản ra đời là một bước tiến lớn nhất của nhân loại với những giá trị nổi bật về quyền tự
do, bình đẳng, dân chủ. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng kinh tế là chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, nên trên thực tế, nền dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ của
thiểu số những người nắm giữ tư liệu sản xuất đối với đại đa số nhân dân lao động.
Toàn bộ “thiết chế được giai cấp tư sản dựng lên để nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ
địa vị thống trị của giai cấp tư sản, để truyền bá tư tưởng tư sản, để mị dân chống lại tư
tưởng về tự do, dân chủ của giai cấp vô sản. Giai cấp tư sản không bao giờ nới rộng
dân chủ cho người lao động”.
Cho đến khi cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917),
một thời đại mới mở ra – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
nhân dân lao động ở nhiều quốc gia giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã
hội thiết lập Nhà nước công – nông (nhà nước xã hội chủ nghĩa), thiết lập nền dân chủ
vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa) để thực hiện quyền lực của đại đa số nhân dân. Đặc
trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực lực của đại đa số nhân dân – tức
là xây dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân làm chủ nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền
lợi cho đại đa số nhân dân.
1.3.3 Sự khác nhau giữa bản chất của nền dân dân chủ XHCN với các nền
dân chủ khác 

Tiêu
chí Nền dân chủ XHCN Nền dân chủ tư Nền dân chủ chủ nô
9
sản

Mục Nền dân chủ cho đại đa Nền dân chủ cho Nền dân chủ cho thiểu số,
đích số nhân dân lao động, thiểu số, phục vụ phục vụ lợi ích cho giai
phục vụ lợi ích cho đại lợi ích cho thiểu cấp chủ nô và tăng lữ,
đa số. số - đó là giai cấp thương gia, một số trí
tư sản. thức.

Bản chất Mang bản chất của giai Mang bản chất của Mang bản chất của giai
cấp công nhân, nhưng giai cấp tư sản, lợi cấp chủ nô, đa số còn lại
phục vụ cho đa số nhân ích của giai cấp tư không có quyền công dân
dân lao động. Bởi vì lợi sản đối lập với lợi và đặc biệt là hàng trăm
ích của giai cấp công ích của giai cấp nghìn nô lệ không được
nhân phù hợp với lợi ích công nhân và nhân quyền làm người, bị áp
của nhân dân lao động dân lao động. bức, bóc lột và coi như là
và toàn dân tộc. những “công cụ biết nói”.

Cách Do Đảng Cộng sản lãnh Do các đảng của Do giai cấp chủ nô lãnh
thức đạo, thống nhất nguyên giai cấp tư sản đạo; thực hiện thông qua
về giá trị; thực hiện lãnh đạo, đa đảng nhà nước chủ nô hợp
thông qua nhà nước về chính trị; thực pháp hóa quyền lực vô
pháp quyền XHCN hiện thông qua hạn của chủ nô đối với nô
(thống nhất và phân nhà nước pháp lệ, cho phép chủ nô công
công giữa lập pháp, quyền tư sản (tam khai bóc lột, cưỡng bức
hành pháp và tư pháp). quyền phân lập). lao động tàn nhẫn với nô
lệ.

Cơ sở Chế độ công hữu về tư Chế độ chiếm hữu Chế độ chiếm hữu tư


kinh tế liệu sản xuất chủ yếu. tư nhân tư bản chủ nhân của chủ nô đối với
nghĩa về tư liệu toàn bộ tư liệu sản xuất và
sản xuất chủ yếu cả người sản xuất là nô lệ
10
của toàn xã hội đó
là chế độ áp bức
bóc lột.

Nền Chủ Nghĩa Mác – Hệ tư tưởng Tư Chủ Nghĩa Mác – Lênin.


tảng tư Lênin. Sản.
tưởng

=>> Lênin khẳng định: Nền dân chủ tư sản càng phát triển, càng đi lên độc tài chuyên
chính, còn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa càng phát triển càng đi lên chỗ đơn giản đơn
tiêu biến.

II. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ

2.1 Nhận diện luận điểm.


Luận điểm trên đưa ra với mục đích khẳng định vai trò của đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập. Phản bác lại luận điểm “Không thể có dân chủ trong chế độ một Đảng
duy nhất cầm quyền ở Việt Nam”. Các thế lực thù địch, phản động đã xuyên tạc cho
rằng chế độ nhất nguyên chính trị, một Đảng cầm quyền ở Việt Nam là “vừa đá bóng,
vừa thổi còi”, dẫn đến ở Việt Nam không có dân chủ hoặc dân chủ hình thức, vì vậy
muốn đạt tới một nền dân chủ đích thực phải thi hành chế độ đa đảng. Với mục đích
làm lung lay sự tin tưởng của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; tạo
cơ hội phản động; bơm những suy nghĩ xấu xa vào đầu những người dân có kiến thức
hạn hẹp đứng lên phản động nhằm chia rẽ nhân dân và Nhà nước. Tạo cơ hội cho nước
ngoài xâm chiếm đất nước.
2.2 Khái niệm và bản chất của đa nguyên, đa đảng.
2.2.1. Khái niệm
a) Đa nguyên chính trị
        Đa nguyên theo nghĩa tổng quát là sự xác nhận và chấp nhận tính đa dạng. Khái
niệm này thường được dùng theo nhiều cách khác nhau trong nhiều vấn đề khác nhau.
Trong khoa học chính trị là một thế giới quan, mô tả sự đa diện của các thế lực xã hội,
mà đóng một vai trò trong cộng đồng chính trị.

11
       Đa nguyên chính trị là một khuynh hướng xã hội - triết học, tuyệt đối hóa sự đa
dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong một xã hội
nhất định. Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, thời điểm này giai cấp tư sản đóng vai
trò là lực lượng xã hội tiến bộ, tích cực trong phong trào đấu tranh chống phong kiến,
bảo vệ quyền bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự
do dân chủ tư sản. Tuy nhiên, khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển thành chủ
nghĩa tư bản độc quyền, ý nghĩa tích cực ban đầu của đa nguyên, đa đảng dần biết mất.
b) Đa đảng đối lập
        Hệ thống đa đảng là hệ thống mà ở đó có hai hoặc nhiều hơn các đảng phái
chính trị có khả năng giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh
với nhau.
        Chế độ đa đảng trong hệ thống chính trị tư sản chỉ là sự phân chia quyền lực
giữa các phe cánh của một đảng lớn duy nhất là đảng của những nhà tư bản độc quyền.
Không có một nhà nước nào không phải là nhà nước chuyên chính của một giai cấp.
Chỉ có giai cấp tư sản không dám công khai thừa nhận điều đó mà thôi.
2.2.2. Thực chất về vấn đề đa nguyên đa đảng chính trị
        Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là sự phân chia, tranh giành quyền lực của
các lực lượng chính trị trong xã hội khi không có sự điều hòa về lợi ích; đó cũng chính
là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp. Hiện nay, hầu hết các nước tư bản đều
thực hiện đa nguyên, đa đảng. Bề ngoài thì các đảng chính trị có vẻ như được tự do,
bình đẳng tranh cử để trở thành đảng cầm quyền, chi phối Quốc hội và Chính phủ.
Nhưng thực chất bên trong, chỉ có những đảng nào được sự hậu thuẫn của các thế lực
tư bản độc quyền mới có thể giữ được vai trò lãnh đạo và suy cho cùng thì tất cả đều
bảo vệ cho lợi ích duy nhất của một giai cấp, đó là giai cấp tư sản. 
        Đa nguyên, đa đảng cũng có những yếu tố tích cực nhất định nhưng thực chất
đa nguyên, đa đảng không đồng nhất với dân chủ. Đa nguyên, đa đảng không phải là
yếu tố duy nhất, nền tảng duy nhất bảo đảm được dân chủ đích thực mà bản chất của
dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ là một giá trị xã hội, được hình thành
và bảo đảm bởi nhiều yếu tố, trong đó có lực lượng cầm quyền xã hội, cơ chế quản lý
xã hội và trình độ làm chủ của người dân... Vì vậy, một đảng lãnh đạo không đồng
nhất với độc tài lãnh đạo, không đồng nhất với mất dân chủ. Không nhất thiết cứ đa
12
nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ thực sự và không có đa nguyên, đa
đảng thì không có dân chủ.
       Ngoài ra, đa nguyên chính trị là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử tồn tại nhiều
đảng phái có những lợi ích căn bản mâu thuẫn với nhau. Do vậy, nếu đa nguyên chính
trị thì tất yếu dẫn tới tồn tại nhiều đảng phái đối lập, song không thể có điều ngược lại,
nếu các đảng không có những lợi ích căn bản đối lập. Vì vậy, đa nguyên hay nhất
nguyên là xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn lịch sử chứ không phải là khuôn mẫu cho
mọi nền dân chủ.
       Giai cấp tư sản cho rằng nền dân chủ của họ là nền dân chủ thuần túy, dân chủ
tư sản không có tính chất chuyên chính, nhà nước tư sản với cơ chế tam quyền phân
lập mới có thể đảm bảo được dân chủ.
       Về vấn đề này, khi xem xét dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn
với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ không có dân chủ phi giai
cấp, dân chủ chung chung. Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những
tập đoàn người này đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi chế
độ dân chủ gắn liền với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. Vì vậy,
như đã phân tích ở trên, dân chủ tư sản không phải là nền dân chủ thuần túy, mà đó là
nền chuyên chính của giai cấp tư sản đối với đông đảo nhân dân lao động thông qua
nhà nước tư bản chủ nghĩa.
        Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ
yếu thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có chức năng trực tiếp
nhất trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện những yêu cầu dân chủ chân chính
của nhân dân. Nó cũng là công cụ sắc bén nhất trong cuộc đấu tranh với mọi mưu đồ
đi ngược lại lợi ích của nhân dân; là thiết chế tổ chức có hiệu quả việc xây dựng xã hội
mới; là công cụ hữu hiệu để vai trò lãnh đạo của đảng trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội được thực hiện.
Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không bảo đảm được dân chủ đích thực.
Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn thực hiện được nó thì
trước tiên người lao động phải xây dựng nên một chính đảng cùng một chính phủ duy
nhất đại diện cho quyền lực của mình. Với một chế độ xã hội, thì hoặc quyền lực thuộc
13
về giai cấp bóc lột hoặc thuộc về giai cấp bị bóc lột mà thôi. Không có thứ quyền lực
hay dân chủ cho mọi giai cấp. Bản chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong
xã hội tư bản chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư
sản bóc lột. Vậy đa nguyên, đa đảng không bao giờ tiến tới một nền dân chủ đích thực.
2.3. Thực hiện đa nguyên đa đảng ở các nước tư bản
Ở các nước theo chế độ đa nguyên, đa đảng, thường xuyên duy trì của một đảng
lớn liên tục nắm quyền. Các đảng này vừa mang bản chất giai cấp tư sản, đồng thời
vừa đóng vai trò là lực lượng đại diện cho dân tộc trong quá trình đấu tranh giành độc
lập dân tộc. Đảng nào đề ra được những đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội phù hợp với hoàn cảnh đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thành công trong
việc điều hòa quyền lợi của giai cấp và quyền lợi dân tộc thì được nhân dân ủng hộ,
ngược lại thì bị nhân dân lật đổ.
Xã hội tư bản lấy tự do cạnh tranh làm nền tảng cho sự tồn tại và phát triển chế
độ đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập. Các giai cấp có lợi ích khác nhau đều có
quyền thành lập đảng chính trị của mình và được phép hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật của nhà nước tư sản. Trong xã hội ấy, các tập đoàn tư bản lũng đoạn khác
nhau cũng thành lập ra các đảng chính trị để bảo vệ cho lợi ích của tập đoàn đó. Họ ra
sức công kích lẫn nhau. Mỗi đảng đều đưa ra cương lĩnh tranh cử nhằm lôi kéo các
tầng lớp dân cư mong chiếm được nhiều ghế trong các cuộc bầu cử quốc hội, giành
chức vụ đứng đầu cơ quan hành pháp (tổng thống, thủ tướng) để đứng ra thành lập
chính phủ. Cơ chế đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập được coi như là cơ chế dân
chủ nhất, thích hợp nhất trong một xã hội mà quyền lực nhà nước được coi là trung
tâm giành giật trên chính trường của các thế lực tư sản. . Mặt khác, cũng cần lưu ý
rằng, mâu thuẫn giữa các đảng chính trị của các tập đoàn tư bản khác nhau thường
không phải là mâu thuẫn một mất, một còn. Nói chung, về bản chất nó đều bảo vệ
quyền lợi cơ bản của giai cấp tư sản đã được xác định trong Hiến pháp mà bất kỳ đảng
nào cũng đều phải tuân theo. Các đảng ấy chỉ khác nhau về lợi ích cục bộ, còn về cơ
bản nó vẫn thống nhất với nhau và khi cần phải bảo vệ lợi ích chung thì nó vẫn cố kết
với nhau như bàn thạch. Do đó, dù có mâu thuẫn, nhưng cuối cùng, sau những ván bài
chính trị, họ vẫn có thể nhân nhượng nhau, hợp tác với nhau, chia sẻ quyền lực cho

14
nhau; thành ra cơ chế đa đảng, xét đến cùng thì bản chất vẫn là một, vẫn chỉ là đảng
của giai cấp tư sản thay nhau nắm giữ quyền lực nhà nước.
Từ khi giai cấp tư sản nắm giữ được ngọn cờ dân tộc, biến dân tộc đó thành dân
tộc - tư sản thì toàn bộ dân cư của quốc gia đều vận động trong quỹ đạo của giai cấp tư
sản. Ở nhà nước tư sản, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc "Tam quyền
phân lập", nhưng xét về bản chất, thì quyền lực nhà nước lại thống nhất ở tính giai cấp
và tính chính trị. Trên thực tế, phân chia quyền lực hoàn toàn không tạo thành bức
tường giữa các quyền lực, vì về bản chất, quyền lực nhà nước là thống nhất trong một
nhà nước thống nhất. Vì vậy, ngay trong các nhà nước tư sản, bên cạnh tư tưởng về sự
kiềm chế, đối trọng giữa các quyền lực, đã đòi hỏi sự cần thiết về mối tương hỗ, phối
hợp giữa các quyền lực.Việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc "Tam quyền
phân lập”, tuy có những mặt tích cực trong việc hạn chế sự lạm quyền, tuỳ tiện sử
dụng quyền lực, nhưng mặt khác, lại tạo ra cơ chế kiềm chế, cản trở việc hình thành
các cơ cấu, tổ chức nhà nước. Vì vậy, trong những trường hợp này, để giải toả tình
hình, các nhánh quyền lực nhà nước, các chính đảng, lực lượng đối lập buộc phải thỏa
hiệp với nhau.
Thực tế cho thấy, nước Mỹ có 112 đảng, nhưng chỉ có hai đảng (Cộng hòa và
Dân chủ) thay nhau cầm quyền, bởi chúng nhận được sự tài trợ của các tập đoàn kinh
tế, đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản. Theo đó, dân chủ ở Mỹ cũng chỉ là nền dân
chủ tư sản – một nền dân chủ phục vụ cho thiểu số.
Thể chế đa đảng dễ khuyến khích các lực lượng đối lập vì lợi ích cục bộ chỉ biết
phản đối tất cả những gì của đảng cầm quyền, bất chấp phải-trái, đúng-sai, không tôn
trọng những lợi ích chính đáng của nhân dân. Thực tế đã và đang diễn ra ở không ít
các quốc gia là các đảng tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau, gây ra rối loạn an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thậm chí, sự tranh giành quyền lực giữa các đảng
đã đẩy một số nước lâm vào khủng hoảng chính trị, trì trệ, bạo lực trong xã hội gia
tăng, nhân dân thất nghiệp, nghèo đói tràn lan, tính mạng bị đe dọa...
Mục tiêu của chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng là hòng xóa bỏ hệ tư tưởng vô sản,
phủ định, xóa bỏ chủ nghĩa Mác –Lênin, xóa bỏ CNXH trên thế giới. Từ sự sụp đổ
CNXH ở Liên Xô và Đông Âu những năm 90 của thế kỷ XX, họ càng đẩy mạnh âm

15
mưu thực hiện đa nguyên đa đảng ở các nước XHCN còn lại mà VN là một mục tiêu
mà chúng đang ráo riết thực hiện.
2.4. Đa nguyên đa đảng không phù hợp với Việt Nam
Như chúng ta đã biết trong thời gian qua, thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa
bình” chống phá cách mạng Việt Nam,  tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Nhằm lý giải, cổ súy cho luận điệu “đa nguyên, đa đảng”, các thế lực thù địch
cho rằng, đa nguyên, đa đảng mới bảo đảm dân chủ rộng rãi trong xã hội, còn chế độ
chính trị một đảng là đối lập với dân chủ, rằng muốn thực hiện dân chủ nhất thiết phải
chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Sự thực có phải như vậy? thực chất Việt Nam có cơ sở
cho sự tồn tại của “đa nguyên, đa đảng” hay không?
Vấn đề đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là vấn đề mới, nó
xuất hiện nhiều từ thế kỷ XIX, khi giai cấp tư sản đang độc quyền thống trị xã hội. Lúc
đầu tư tưởng đa nguyên luận nhằm mục đích ngăn chặn tình trạng độc quyền, mất dân
chủ của giới tài phiệt và một số chính trị gia tư sản, bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp
dân cư. Tuy nhiên nó không đạt được mục đích của mình là dân chủ hóa xã hội mà chỉ
hình thành nên một số đảng phái trong xã hội nhằm phân chia, tranh giành quyền lực
lẫn nhau. Đặc biệt, sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chính quyền của giai cấp vô sản
ra đời, Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo một số nước, một số người chủ yếu là các
học giả, các chính trị gia tư sản, những người đại diện cho giai cấp tư sản - giai cấp bị
mất đi sự độc quyền chính trị xã hội lại rùm beng mạnh mẽ vấn đề đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập. Theo họ, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập sẽ tạo nên sự đa dạng,
phong phú trong ý thức hệ tư tưởng và là nhân tố bảo đảm cho một nền dân chủ thực
sự.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, không tranh giành quyền lãnh đạo với ai.
Trong hơn 80 năm qua, ở Việt Nam cũng có thời kỳ đa đảng. Năm 1946, ngoài Đảng
Cộng sản còn có sự tồn tại của hai đảng đối lập (Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam
Cách mạng đồng minh hội); khi quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam, hai đảng
đó cũng cuốn gói chạy theo. Có thời kỳ ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, còn tồn tại
Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam. Cả hai đảng này đều thừa nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó hai đảng này đã tuyên bố tự giải tán

16
và chỉ còn Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam là một sản phẩm tự nhiên, mang tính khách quan của lịch sử đất nước.
Nhân dân Việt Nam đã thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất
lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân
dân che chở, xây dựng. Nhân dân Việt Nam trìu mến gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là
"Đảng ta". Bài học từ sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu còn nguyên giá
trị. Từ khi chấp nhận bỏ Điều 6, Hiến pháp Liên Xô, đã dẫn đến tình trạng xuất hiện đa
đảng và hậu quả là Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo, chế độ XHCN ở Liên
Xô sụp đổ. Các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận thức rõ hơn ai hết, nếu chấp nhận đa
đảng, chế độ XHCN sẽ sụp đổ, đất nước sẽ rối loạn, đời sống nhân dân cả vật chất và
tinh thần rơi vào tay các thế lực không trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc ta.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định trong thực
tiễn cách mạng. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế kiểm
nghiệm, nhất là vào những bước ngoặt của lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã
giải quyết thành công cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc cuối
thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo các
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc, đưa sự nghiệp đó đến thắng
lợi hoàn toàn. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công sự nghiệp phát triển
đất nước sau ngày 30-4-1975.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội vào những
năm 80 của thế kỷ 20, đưa đất nước vững bước trên con đường đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, đến giữa thế kỷ 21 trở thành nước công nghiệp hiện
đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không bảo đảm được dân chủ đích thực.
Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn thực hiện được nó thì
trước tiên người lao động phải xây dựng nên một chính đảng cùng một chính phủ duy
nhất đại diện cho quyền lực của mình. Với một chế độ xã hội, thì hoặc quyền lực thuộc
về giai cấp bóc lột hoặc thuộc về giai cấp bị bóc lột mà thôi. Không có thứ quyền lực
17
hay dân chủ cho mọi giai cấp. Bản chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong
xã hội tư bản chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư
sản bóc lột. Với lý do đó, đa nguyên, đa đảng không bao giờ tiến tới một nền dân chủ
đích thực.
Như vậy, thực chất luận điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mang nặng
tính chất mị dân, hết sức nguy hiểm, bởi rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với
những người có nhận thức hạn chế. Cũng từ những luận điểm này, đã hướng đến việc
xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết lập nền dân chủ tư sản; nguy cơ gây nên
những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là làm cho chính
trị - xã hội mất ổn định, kinh tế suy giảm, văn hoá đạo đức xuống cấp, các mâu thuẫn
và xung đột xã hội sẽ gia tăng, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc.

18
Phần kết luận
Qua quá trình tìm hiểu của nhóm 1, sự ra đời của một nền dân chủ mới – dân
chủ xã hội chủ nghĩa là tất yếu gắn liền với quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện dưới nhiều hình thức, trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội và được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm. Có dân chủ hay không dân
chủ, dân chủ nhiều hay dân chủ ít, dân chủ thực sự hay dân chủ hình thức,... không tùy
thuộc vào chế độ một đảng hay nhiều đảng. Không phải thực hiện đa nguyên, đa đảng
mới có dân chủ. Xét đến cùng và quan trọng nhất có dân chủ hay không thể hiện ở chỗ
quyền lực và quyền lợi có thuộc về người dân hay không? Chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung và lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng vẫn chứng minh được tính
đúng đắn, khoa học của nó. Điều này càng được thể hiện rõ qua thực tiễn thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng nước ta hơn 80 năm qua.
Dựa trên cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn, cho phép Việt Nam khẳng
định dứt khoát rằng: Ở Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận chế độ đa
nguyên, đa đảng.
Vì vậy, để bảo vệ bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Đảng ta không ngừng củng cố, xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa qua mỗi kỳ đại học và bảo đảm dân chủ được thực hiện
trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp trên tất cả các lĩnh vực.

19
Mục lục

Phần Mở đầu ..........................................................................................................5

Phần Nội dung ........................................................................................................6

I. Phê phán luận điểm “Nền dân chủ không mang bản chất giai cấp”..............6

I.1. Nhận diện luận điểm...............................................................................6

I.2.  Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ................................6

I.3. Bản chất giai cấp của các nền dân chủ..................................................7

1.3.1 Bản chất giai cấp của nền dân chủ được hiểu như thế nào? ...........7

1.3.2 Bản chất giai cấp của nền dân chủ được hiểu như thế nào trong

lịch sử phát triển của các nền dân chủ? ..................................................7

1.3.3 Sự khác nhau giữa bản chất của nền dân dân chủ XHCN với các

nền dân chủ khác như thế nào? .............................................................8

II. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ ..................................10

II.1. Nhận diện luận điểm...............................................................................10

II.2. Khái niệm và bản chất của đa nguyên, đa đảng.......................................10

II.3. Thực hiện đa nguyên, đa đảng ở các nước tư bản...................................13

II.4.  Đa nguyên, đa đảng không phù hợp với Việt Nam................................15

Phần Kết luận .........................................................................................................18

20
BẢNG ĐIỂM THẢO LUẬN NHÓM
Lớp HP : 2190HCMI0121

Nhóm :1

Nhóm trưởng : Lê Thúy An

Điểm TB nhóm:

Điểm tổng nhóm:

STT Họ và tên Mã SV Điểm thảo luận SV ký tên


điểm
danh
1 Lê Thúy An 20D120071
2 Đinh Thị Hải Anh 20D120142
3 Nguyễn Đào Châu Anh 20D120073
4 Nguyễn Kim Anh 20D120213
5 Nguyễn Thị Kim Anh 20D120144
6 Nguyễn Thị Phương 20D120005
Anh
7 Triệu Tú Anh 20D120145
8 Lê Ngọc Ánh 20D120006
9 Phạm Thị Ánh 20D120076

Ngày tháng 10 năm 2021

Nhóm trưởng

21
BIÊN BẢN PHẢN BIỆN
Lớp : 2190HCMI0121

Nhóm thực hiện: 1

Đề tài thảo luận: Phê phán những luận điểm nền dân chủ không mang bản bản
chất giai cấp và thực hiện đa nguyên đa đảng mới có dân chủ.

Nhóm: Nhóm:

1.Kỹ năng
thuyêt trình

2.Kỹ năng
thiết kế slide

3.Bố cục trình


bày

4.Nội dung
trình bày

5.Câu hỏi
phản biện
(Đáp án ngắn
gọn)

22

You might also like