Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ TÀI 1 - NHÓM 1 - CNXHKH
ĐỀ TÀI 1 - NHÓM 1 - CNXHKH
KHOA: MARKETING
THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài: PHÊ PHÁN NHỮNG LUẬN ĐIỂM NỀN DÂN CHỦ KHÔNG
MANG BẢN CHẤT GIAI CẤP VÀ THỰC HIỆN ĐA NGUYÊN ĐA
ĐẢNG MỚI CÓ DÂN CHỦ
Nhóm : 1
Hà Nội, 10/2021
1
DANH SÁCH NHÓM
3 Nguyễn Đào Châu Tìm tài liệu phần Nộp bài đúng hạn
Anh 1.3.1 và 1.3.2
4 Nguyễn Kim Anh Thuyết trình phần I Nộp bài đúng hạn
6 Nguyễn Thị Phương Làm Word Nộp bài đúng hạn, đóng góp
Anh ý kiến xây dựng bài
7 Triệu Tú Anh Tìm tài liệu phần Nộp bài đúng hạn
2.3 và 2.4
9 Phạm Thị Ánh Tìm tài liệu phần 2.1 Nộp bài đúng hạn
và 2.2
2
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3
2.4 Đa nguyên, đa đảng không phù hợp với Việt Nam. ( Triệu Tú Anh)
Kết thúc (Nguyễn Thị Kim Anh)
Các ý kiến đóng góp, trao đổi:
+ Các thành viên trong đều tham gia đóng góp, thống nhất ý kiến và tìm tài liệu cho đề
tài.
+ Các thành viên nộp lại ý tưởng đã tìm cho nhóm trưởng. Sau đó nhóm trưởng tập
hợp lại và các thành viên cùng đưa ra ý kiến nhận xét.
+ Chỉ ra các ưu nhược điểm của từng bài và đưa thêm những ý kiến đóng góp để bài
viết được hoàn chỉnh hơn.
+ Tổng kết những hoạt động vừa qua.
Bầu ra thư ký: Nguyễn Thị Kim Anh
Phần tổng hợp và kết luận: Các thành viên tìm và nộp tài liệu vào trước 23h59’ ngày
5/10/2021.
4
Phần Mở Đầu
Như chúng ta đã biết, thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ VII – VI
trước Công nguyên. Theo đó, dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị, sau này được các
nhà chính trị gọi giản lược là quyền lực của nhân dân, hay quyền lực thuộc về nhân
dân.
Nhu cầu về dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong xã hội tự quản của cộng đồng thị
tộc, bộ lạc. Ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức manh nha của
dân chủ mà Ph.Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy”, tiếp đó là “dân chủ chủ nô”,
“dân chủ tư sản” và cuối cùng là nền “dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Qua đó ta có thể
thấy, trong suốt chặng đường của chiều dài lịch sử, chế độ dân chủ đã biến đổi với
những cách thức, bản chất, nền tảng tư tưởng khác nhau, mà chế độ dân chủ hiện tại sẽ
phát triển và hoàn thiện hơn chế độ dân chủ trước đó để phù hợp với bản chất của từng
thời kỳ.
Cũng bởi vì sự biến đổi này mà bắt đầu xuất hiện nhiều những quan điểm đa
chiều, mang luận điệu xuyên tạc từ phía các thế lực thù địch nhằm thay đổi nhận thức,
niềm tin của mọi người và gây nên những cuộc tranh luận, phải kể đến đó là luận điểm
“Nền dân chủ không mang bản chất giai cấp và thực hiện đa nguyên đa đảng mới có
dân chủ”. Để làm rõ về sự sai lệch trong tư tưởng của luận điểm này. Nhóm 1 quyết
định đi sâu vào tìm hiểu về bản chất giai cấp của các nền dân chủ cũng như minh
chứng được việc đa nguyên đa đảng không phù hợp với Việt Nam.
5
6
Phần Nội dung
I. Phê phán luận điểm “Nền dân chủ không mang bản chất giai cấp”
Tiêu
chí Nền dân chủ XHCN Nền dân chủ tư Nền dân chủ chủ nô
9
sản
Mục Nền dân chủ cho đại đa Nền dân chủ cho Nền dân chủ cho thiểu số,
đích số nhân dân lao động, thiểu số, phục vụ phục vụ lợi ích cho giai
phục vụ lợi ích cho đại lợi ích cho thiểu cấp chủ nô và tăng lữ,
đa số. số - đó là giai cấp thương gia, một số trí
tư sản. thức.
Bản chất Mang bản chất của giai Mang bản chất của Mang bản chất của giai
cấp công nhân, nhưng giai cấp tư sản, lợi cấp chủ nô, đa số còn lại
phục vụ cho đa số nhân ích của giai cấp tư không có quyền công dân
dân lao động. Bởi vì lợi sản đối lập với lợi và đặc biệt là hàng trăm
ích của giai cấp công ích của giai cấp nghìn nô lệ không được
nhân phù hợp với lợi ích công nhân và nhân quyền làm người, bị áp
của nhân dân lao động dân lao động. bức, bóc lột và coi như là
và toàn dân tộc. những “công cụ biết nói”.
Cách Do Đảng Cộng sản lãnh Do các đảng của Do giai cấp chủ nô lãnh
thức đạo, thống nhất nguyên giai cấp tư sản đạo; thực hiện thông qua
về giá trị; thực hiện lãnh đạo, đa đảng nhà nước chủ nô hợp
thông qua nhà nước về chính trị; thực pháp hóa quyền lực vô
pháp quyền XHCN hiện thông qua hạn của chủ nô đối với nô
(thống nhất và phân nhà nước pháp lệ, cho phép chủ nô công
công giữa lập pháp, quyền tư sản (tam khai bóc lột, cưỡng bức
hành pháp và tư pháp). quyền phân lập). lao động tàn nhẫn với nô
lệ.
=>> Lênin khẳng định: Nền dân chủ tư sản càng phát triển, càng đi lên độc tài chuyên
chính, còn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa càng phát triển càng đi lên chỗ đơn giản đơn
tiêu biến.
II. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ
11
Đa nguyên chính trị là một khuynh hướng xã hội - triết học, tuyệt đối hóa sự đa
dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau trong một xã hội
nhất định. Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII, thời điểm này giai cấp tư sản đóng vai
trò là lực lượng xã hội tiến bộ, tích cực trong phong trào đấu tranh chống phong kiến,
bảo vệ quyền bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự
do dân chủ tư sản. Tuy nhiên, khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển thành chủ
nghĩa tư bản độc quyền, ý nghĩa tích cực ban đầu của đa nguyên, đa đảng dần biết mất.
b) Đa đảng đối lập
Hệ thống đa đảng là hệ thống mà ở đó có hai hoặc nhiều hơn các đảng phái
chính trị có khả năng giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh
với nhau.
Chế độ đa đảng trong hệ thống chính trị tư sản chỉ là sự phân chia quyền lực
giữa các phe cánh của một đảng lớn duy nhất là đảng của những nhà tư bản độc quyền.
Không có một nhà nước nào không phải là nhà nước chuyên chính của một giai cấp.
Chỉ có giai cấp tư sản không dám công khai thừa nhận điều đó mà thôi.
2.2.2. Thực chất về vấn đề đa nguyên đa đảng chính trị
Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là sự phân chia, tranh giành quyền lực của
các lực lượng chính trị trong xã hội khi không có sự điều hòa về lợi ích; đó cũng chính
là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp. Hiện nay, hầu hết các nước tư bản đều
thực hiện đa nguyên, đa đảng. Bề ngoài thì các đảng chính trị có vẻ như được tự do,
bình đẳng tranh cử để trở thành đảng cầm quyền, chi phối Quốc hội và Chính phủ.
Nhưng thực chất bên trong, chỉ có những đảng nào được sự hậu thuẫn của các thế lực
tư bản độc quyền mới có thể giữ được vai trò lãnh đạo và suy cho cùng thì tất cả đều
bảo vệ cho lợi ích duy nhất của một giai cấp, đó là giai cấp tư sản.
Đa nguyên, đa đảng cũng có những yếu tố tích cực nhất định nhưng thực chất
đa nguyên, đa đảng không đồng nhất với dân chủ. Đa nguyên, đa đảng không phải là
yếu tố duy nhất, nền tảng duy nhất bảo đảm được dân chủ đích thực mà bản chất của
dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ là một giá trị xã hội, được hình thành
và bảo đảm bởi nhiều yếu tố, trong đó có lực lượng cầm quyền xã hội, cơ chế quản lý
xã hội và trình độ làm chủ của người dân... Vì vậy, một đảng lãnh đạo không đồng
nhất với độc tài lãnh đạo, không đồng nhất với mất dân chủ. Không nhất thiết cứ đa
12
nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ thực sự và không có đa nguyên, đa
đảng thì không có dân chủ.
Ngoài ra, đa nguyên chính trị là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử tồn tại nhiều
đảng phái có những lợi ích căn bản mâu thuẫn với nhau. Do vậy, nếu đa nguyên chính
trị thì tất yếu dẫn tới tồn tại nhiều đảng phái đối lập, song không thể có điều ngược lại,
nếu các đảng không có những lợi ích căn bản đối lập. Vì vậy, đa nguyên hay nhất
nguyên là xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn lịch sử chứ không phải là khuôn mẫu cho
mọi nền dân chủ.
Giai cấp tư sản cho rằng nền dân chủ của họ là nền dân chủ thuần túy, dân chủ
tư sản không có tính chất chuyên chính, nhà nước tư sản với cơ chế tam quyền phân
lập mới có thể đảm bảo được dân chủ.
Về vấn đề này, khi xem xét dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn
với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ không có dân chủ phi giai
cấp, dân chủ chung chung. Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những
tập đoàn người này đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi chế
độ dân chủ gắn liền với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. Vì vậy,
như đã phân tích ở trên, dân chủ tư sản không phải là nền dân chủ thuần túy, mà đó là
nền chuyên chính của giai cấp tư sản đối với đông đảo nhân dân lao động thông qua
nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ
yếu thực thi dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính đảng của nó.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có chức năng trực tiếp
nhất trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện những yêu cầu dân chủ chân chính
của nhân dân. Nó cũng là công cụ sắc bén nhất trong cuộc đấu tranh với mọi mưu đồ
đi ngược lại lợi ích của nhân dân; là thiết chế tổ chức có hiệu quả việc xây dựng xã hội
mới; là công cụ hữu hiệu để vai trò lãnh đạo của đảng trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội được thực hiện.
Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không bảo đảm được dân chủ đích thực.
Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn thực hiện được nó thì
trước tiên người lao động phải xây dựng nên một chính đảng cùng một chính phủ duy
nhất đại diện cho quyền lực của mình. Với một chế độ xã hội, thì hoặc quyền lực thuộc
13
về giai cấp bóc lột hoặc thuộc về giai cấp bị bóc lột mà thôi. Không có thứ quyền lực
hay dân chủ cho mọi giai cấp. Bản chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong
xã hội tư bản chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư
sản bóc lột. Vậy đa nguyên, đa đảng không bao giờ tiến tới một nền dân chủ đích thực.
2.3. Thực hiện đa nguyên đa đảng ở các nước tư bản
Ở các nước theo chế độ đa nguyên, đa đảng, thường xuyên duy trì của một đảng
lớn liên tục nắm quyền. Các đảng này vừa mang bản chất giai cấp tư sản, đồng thời
vừa đóng vai trò là lực lượng đại diện cho dân tộc trong quá trình đấu tranh giành độc
lập dân tộc. Đảng nào đề ra được những đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội phù hợp với hoàn cảnh đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thành công trong
việc điều hòa quyền lợi của giai cấp và quyền lợi dân tộc thì được nhân dân ủng hộ,
ngược lại thì bị nhân dân lật đổ.
Xã hội tư bản lấy tự do cạnh tranh làm nền tảng cho sự tồn tại và phát triển chế
độ đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập. Các giai cấp có lợi ích khác nhau đều có
quyền thành lập đảng chính trị của mình và được phép hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật của nhà nước tư sản. Trong xã hội ấy, các tập đoàn tư bản lũng đoạn khác
nhau cũng thành lập ra các đảng chính trị để bảo vệ cho lợi ích của tập đoàn đó. Họ ra
sức công kích lẫn nhau. Mỗi đảng đều đưa ra cương lĩnh tranh cử nhằm lôi kéo các
tầng lớp dân cư mong chiếm được nhiều ghế trong các cuộc bầu cử quốc hội, giành
chức vụ đứng đầu cơ quan hành pháp (tổng thống, thủ tướng) để đứng ra thành lập
chính phủ. Cơ chế đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập được coi như là cơ chế dân
chủ nhất, thích hợp nhất trong một xã hội mà quyền lực nhà nước được coi là trung
tâm giành giật trên chính trường của các thế lực tư sản. . Mặt khác, cũng cần lưu ý
rằng, mâu thuẫn giữa các đảng chính trị của các tập đoàn tư bản khác nhau thường
không phải là mâu thuẫn một mất, một còn. Nói chung, về bản chất nó đều bảo vệ
quyền lợi cơ bản của giai cấp tư sản đã được xác định trong Hiến pháp mà bất kỳ đảng
nào cũng đều phải tuân theo. Các đảng ấy chỉ khác nhau về lợi ích cục bộ, còn về cơ
bản nó vẫn thống nhất với nhau và khi cần phải bảo vệ lợi ích chung thì nó vẫn cố kết
với nhau như bàn thạch. Do đó, dù có mâu thuẫn, nhưng cuối cùng, sau những ván bài
chính trị, họ vẫn có thể nhân nhượng nhau, hợp tác với nhau, chia sẻ quyền lực cho
14
nhau; thành ra cơ chế đa đảng, xét đến cùng thì bản chất vẫn là một, vẫn chỉ là đảng
của giai cấp tư sản thay nhau nắm giữ quyền lực nhà nước.
Từ khi giai cấp tư sản nắm giữ được ngọn cờ dân tộc, biến dân tộc đó thành dân
tộc - tư sản thì toàn bộ dân cư của quốc gia đều vận động trong quỹ đạo của giai cấp tư
sản. Ở nhà nước tư sản, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc "Tam quyền
phân lập", nhưng xét về bản chất, thì quyền lực nhà nước lại thống nhất ở tính giai cấp
và tính chính trị. Trên thực tế, phân chia quyền lực hoàn toàn không tạo thành bức
tường giữa các quyền lực, vì về bản chất, quyền lực nhà nước là thống nhất trong một
nhà nước thống nhất. Vì vậy, ngay trong các nhà nước tư sản, bên cạnh tư tưởng về sự
kiềm chế, đối trọng giữa các quyền lực, đã đòi hỏi sự cần thiết về mối tương hỗ, phối
hợp giữa các quyền lực.Việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc "Tam quyền
phân lập”, tuy có những mặt tích cực trong việc hạn chế sự lạm quyền, tuỳ tiện sử
dụng quyền lực, nhưng mặt khác, lại tạo ra cơ chế kiềm chế, cản trở việc hình thành
các cơ cấu, tổ chức nhà nước. Vì vậy, trong những trường hợp này, để giải toả tình
hình, các nhánh quyền lực nhà nước, các chính đảng, lực lượng đối lập buộc phải thỏa
hiệp với nhau.
Thực tế cho thấy, nước Mỹ có 112 đảng, nhưng chỉ có hai đảng (Cộng hòa và
Dân chủ) thay nhau cầm quyền, bởi chúng nhận được sự tài trợ của các tập đoàn kinh
tế, đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản. Theo đó, dân chủ ở Mỹ cũng chỉ là nền dân
chủ tư sản – một nền dân chủ phục vụ cho thiểu số.
Thể chế đa đảng dễ khuyến khích các lực lượng đối lập vì lợi ích cục bộ chỉ biết
phản đối tất cả những gì của đảng cầm quyền, bất chấp phải-trái, đúng-sai, không tôn
trọng những lợi ích chính đáng của nhân dân. Thực tế đã và đang diễn ra ở không ít
các quốc gia là các đảng tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau, gây ra rối loạn an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thậm chí, sự tranh giành quyền lực giữa các đảng
đã đẩy một số nước lâm vào khủng hoảng chính trị, trì trệ, bạo lực trong xã hội gia
tăng, nhân dân thất nghiệp, nghèo đói tràn lan, tính mạng bị đe dọa...
Mục tiêu của chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng là hòng xóa bỏ hệ tư tưởng vô sản,
phủ định, xóa bỏ chủ nghĩa Mác –Lênin, xóa bỏ CNXH trên thế giới. Từ sự sụp đổ
CNXH ở Liên Xô và Đông Âu những năm 90 của thế kỷ XX, họ càng đẩy mạnh âm
15
mưu thực hiện đa nguyên đa đảng ở các nước XHCN còn lại mà VN là một mục tiêu
mà chúng đang ráo riết thực hiện.
2.4. Đa nguyên đa đảng không phù hợp với Việt Nam
Như chúng ta đã biết trong thời gian qua, thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa
bình” chống phá cách mạng Việt Nam, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Nhằm lý giải, cổ súy cho luận điệu “đa nguyên, đa đảng”, các thế lực thù địch
cho rằng, đa nguyên, đa đảng mới bảo đảm dân chủ rộng rãi trong xã hội, còn chế độ
chính trị một đảng là đối lập với dân chủ, rằng muốn thực hiện dân chủ nhất thiết phải
chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Sự thực có phải như vậy? thực chất Việt Nam có cơ sở
cho sự tồn tại của “đa nguyên, đa đảng” hay không?
Vấn đề đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là vấn đề mới, nó
xuất hiện nhiều từ thế kỷ XIX, khi giai cấp tư sản đang độc quyền thống trị xã hội. Lúc
đầu tư tưởng đa nguyên luận nhằm mục đích ngăn chặn tình trạng độc quyền, mất dân
chủ của giới tài phiệt và một số chính trị gia tư sản, bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp
dân cư. Tuy nhiên nó không đạt được mục đích của mình là dân chủ hóa xã hội mà chỉ
hình thành nên một số đảng phái trong xã hội nhằm phân chia, tranh giành quyền lực
lẫn nhau. Đặc biệt, sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chính quyền của giai cấp vô sản
ra đời, Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo một số nước, một số người chủ yếu là các
học giả, các chính trị gia tư sản, những người đại diện cho giai cấp tư sản - giai cấp bị
mất đi sự độc quyền chính trị xã hội lại rùm beng mạnh mẽ vấn đề đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập. Theo họ, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập sẽ tạo nên sự đa dạng,
phong phú trong ý thức hệ tư tưởng và là nhân tố bảo đảm cho một nền dân chủ thực
sự.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, không tranh giành quyền lãnh đạo với ai.
Trong hơn 80 năm qua, ở Việt Nam cũng có thời kỳ đa đảng. Năm 1946, ngoài Đảng
Cộng sản còn có sự tồn tại của hai đảng đối lập (Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam
Cách mạng đồng minh hội); khi quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam, hai đảng
đó cũng cuốn gói chạy theo. Có thời kỳ ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, còn tồn tại
Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam. Cả hai đảng này đều thừa nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó hai đảng này đã tuyên bố tự giải tán
16
và chỉ còn Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam là một sản phẩm tự nhiên, mang tính khách quan của lịch sử đất nước.
Nhân dân Việt Nam đã thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất
lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân
dân che chở, xây dựng. Nhân dân Việt Nam trìu mến gọi Đảng Cộng sản Việt Nam là
"Đảng ta". Bài học từ sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu còn nguyên giá
trị. Từ khi chấp nhận bỏ Điều 6, Hiến pháp Liên Xô, đã dẫn đến tình trạng xuất hiện đa
đảng và hậu quả là Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo, chế độ XHCN ở Liên
Xô sụp đổ. Các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận thức rõ hơn ai hết, nếu chấp nhận đa
đảng, chế độ XHCN sẽ sụp đổ, đất nước sẽ rối loạn, đời sống nhân dân cả vật chất và
tinh thần rơi vào tay các thế lực không trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc ta.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định trong thực
tiễn cách mạng. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế kiểm
nghiệm, nhất là vào những bước ngoặt của lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã
giải quyết thành công cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc cuối
thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo các
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc, đưa sự nghiệp đó đến thắng
lợi hoàn toàn. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công sự nghiệp phát triển
đất nước sau ngày 30-4-1975.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội vào những
năm 80 của thế kỷ 20, đưa đất nước vững bước trên con đường đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, đến giữa thế kỷ 21 trở thành nước công nghiệp hiện
đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không bảo đảm được dân chủ đích thực.
Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Muốn thực hiện được nó thì
trước tiên người lao động phải xây dựng nên một chính đảng cùng một chính phủ duy
nhất đại diện cho quyền lực của mình. Với một chế độ xã hội, thì hoặc quyền lực thuộc
về giai cấp bóc lột hoặc thuộc về giai cấp bị bóc lột mà thôi. Không có thứ quyền lực
17
hay dân chủ cho mọi giai cấp. Bản chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong
xã hội tư bản chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư
sản bóc lột. Với lý do đó, đa nguyên, đa đảng không bao giờ tiến tới một nền dân chủ
đích thực.
Như vậy, thực chất luận điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mang nặng
tính chất mị dân, hết sức nguy hiểm, bởi rất dễ gây nên sự ngộ nhận, nhất là đối với
những người có nhận thức hạn chế. Cũng từ những luận điểm này, đã hướng đến việc
xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết lập nền dân chủ tư sản; nguy cơ gây nên
những khó khăn trong quá trình phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là làm cho chính
trị - xã hội mất ổn định, kinh tế suy giảm, văn hoá đạo đức xuống cấp, các mâu thuẫn
và xung đột xã hội sẽ gia tăng, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc.
18
Phần kết luận
Qua quá trình tìm hiểu của nhóm 1, sự ra đời của một nền dân chủ mới – dân
chủ xã hội chủ nghĩa là tất yếu gắn liền với quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện dưới nhiều hình thức, trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội và được pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm. Có dân chủ hay không dân
chủ, dân chủ nhiều hay dân chủ ít, dân chủ thực sự hay dân chủ hình thức,... không tùy
thuộc vào chế độ một đảng hay nhiều đảng. Không phải thực hiện đa nguyên, đa đảng
mới có dân chủ. Xét đến cùng và quan trọng nhất có dân chủ hay không thể hiện ở chỗ
quyền lực và quyền lợi có thuộc về người dân hay không? Chủ nghĩa Mác-Lênin nói
chung và lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng vẫn chứng minh được tính
đúng đắn, khoa học của nó. Điều này càng được thể hiện rõ qua thực tiễn thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng nước ta hơn 80 năm qua.
Dựa trên cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn, cho phép Việt Nam khẳng
định dứt khoát rằng: Ở Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận chế độ đa
nguyên, đa đảng.
Vì vậy, để bảo vệ bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Đảng ta không ngừng củng cố, xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa qua mỗi kỳ đại học và bảo đảm dân chủ được thực hiện
trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp trên tất cả các lĩnh vực.
19
Mục lục
I. Phê phán luận điểm “Nền dân chủ không mang bản chất giai cấp”..............6
I.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ................................6
I.3. Bản chất giai cấp của các nền dân chủ..................................................7
1.3.1 Bản chất giai cấp của nền dân chủ được hiểu như thế nào? ...........7
1.3.2 Bản chất giai cấp của nền dân chủ được hiểu như thế nào trong
1.3.3 Sự khác nhau giữa bản chất của nền dân dân chủ XHCN với các
II. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có dân chủ ..................................10
II.4. Đa nguyên, đa đảng không phù hợp với Việt Nam................................15
20
BẢNG ĐIỂM THẢO LUẬN NHÓM
Lớp HP : 2190HCMI0121
Nhóm :1
Điểm TB nhóm:
Nhóm trưởng
21
BIÊN BẢN PHẢN BIỆN
Lớp : 2190HCMI0121
Đề tài thảo luận: Phê phán những luận điểm nền dân chủ không mang bản bản
chất giai cấp và thực hiện đa nguyên đa đảng mới có dân chủ.
Nhóm: Nhóm:
1.Kỹ năng
thuyêt trình
2.Kỹ năng
thiết kế slide
4.Nội dung
trình bày
5.Câu hỏi
phản biện
(Đáp án ngắn
gọn)
22