You are on page 1of 24

Tạp chí Luật & Chính sách của Đại học Washington

__________________________________________
Tập 3 Phát triển tiếng nói trong Luật Sử dụng Đất: Một bước ngoặt để vinh danh Daniel R. Mandelker
__________________________________________
2000

Quyền loại trừ người khác khỏi tài sản tư nhân: Quyền cơ bản của hiến
pháp
David L. Callies
University of Hawaii at Manoa

J. David Breemer
University of Hawaii at Manoa

Theo dõi bài này và các tác phẩm bổ sung khác:


https://openscholarship.wustl.edu/law_journal_law_policy
Một phần của Luật Tài sản và bất động sản (Property Law and Real Estate Commons)
__________________________________________
Trích dẫn được đề xuất:
David L. Callies and J. David Breemer, The Right to Exclude Others from Private Property: A
Fundamental Constitutional Right, 3 WASH. U. J. L. & POL’Y 39 (2000),
https://openscholarship.wustl.edu/law_journal_law_policy/vol3/iss1/3

This Discussions on the National Level is brought to you for free and open access by the Law School at Washington
University Open Scholarship. It has been accepted for inclusion in Washington University Journal of Law & Policy
by an authorized administrator of Washington University Open Scholarship. For more information, please contact
digital@wumail.wustl.edu

1
Phần II: Thảo luận ở cấp quốc gia

Chương 2: Quyền tài sản

Quyền loại trừ người khác khỏi tài sản tư nhân: Quyền cơ bản
của hiến pháp

David L. Callies*
J. David Breemer**

I. GIỚI THIỆU
Quyền tài sản, và đặc biệt là quyền đối với đất đai, luôn là nền tảng và là
một phần của việc bảo tồn quyền tự do và tự do cá nhân ở Hoa Kỳ 1. Chúng đặc
biệt như vậy ngày nay2. Quyền loại trừ là một trong những quyền cơ bản trong

1
* Benjamin A. Kudo Professor of Law, William S. Richardson School of Law, University of
Hawaii at Manoa; A.B., DePauw University; J.D., the University of Michigan; LL.M., the
University of Nottingham (Eng.). Professor Callies gratefully acknowledges the support of the
William S. Richardson School of Law and the Hawaii Property Law Project (funded in part by
the Pacific Legal Foundation and the Cades Foundation) in the research and writing of this
article.
** Class of 2001, William S. Richardson School of Law; 2000-2001 Casenotes Editor,
University of Hawaii Law Review; M.A. Political Science, University of California at Davis.
Mr. Breemer wishes to acknowledge the support of Professor Callies and Mirabai Breemer as
well as that of the above-cited organizations in helping to make his participation in this article
possible.
1. For a summary of the thirteenth and fourteenth centuries roots of our present
constitutional principles and the treatment of property rights through the late 1980s, see
Norman Karlin, Back to the Future: From Nollan to Lochner, 17 SW. U. L. REV. 627, 638
(1988) (“To the framers [of the Constitution], identifying property with freedom meant that if
you could own property, you were free. Ownership of property was protected.”). See also
JAMES W. ELY, THE GUARDIAN OF EVERY OTHER RIGHT: A CONSTITUTIONAL
HISTORY OF PROPERTY RIGHTS 26 (1992) (quoting ARTHUR LEE, AN APPEAL TO
THE JUSTICE AND INTERESTS OF THE PEOPLE OF GREAT BRITAIN IN THE
PRESENT DISPUTE WITH AMERICA (4th ed. 1775)); 2 BLACKSTONE,
COMMENTARIES ON THE LAW OF ENGLAND (l767); Chicago B & Q R. Co. v.
Chicago, 166 U.S. 226, 235 (1897). For a series of essays on property rights in America
between the seventeenth and twentieth centuries, see LAND LAW AND REAL PROPERTY
IN AMERICAN HISTORY (Kermit L. Hall ed,. 1987).

2
quyền về tài sản.3 Vào năm 1918, Justice Brandeis đã nhận xét rằng: “Một trong
những yếu tố thiết yếu của tài sản cá nhân là có quyền hợp pháp để từ chối thay
vì chấp nhận”.4 Gần đây, giáo sư Richard Epstein trong công trình nghiên cứu
về tài sản và doanh thu, miêu tả “khái niệm sở hữu độc quyền” là “tiềm ẩn trong
khái niệm cơ bản về tài sản tư nhân”. 5 Được công nhận trong ấn bản đầu tiên
của Sửa đổi Luật Tài sản của Viện Luật Hoa Kỳ: 

Chương 7 Quyền sở hữu đối với đất đai: 

Người có quyền sở hữu đất đai là người có mối liên hệ vật chất cho
phép người đó có quyền kiểm soát nhất định đối với đất đai, và thực
hiện quyền kiểm soát đó để ngăn chặn bất kỳ hành vi chiếm dụng
đất đai hiện tại của những người khác trong xã hội nói chung.6

Giáo sư Jan Laitos miêu tả quyền loại trừ như một trong những “quyền
được đánh giá cao đến mức việc bãi bỏ sẽ dẫn đến vi phạm hiến pháp.” 7 Tu
chính án thứ năm đối với các tiểu bang trong Hiến pháp Hoa Kỳ, nêu ra: “Tài
sản tư nhân sẽ không được lấy đi cho mục đích công, nếu không có sự đền bù
thỏa đáng”
Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã tuyên bố rõ ràng rằng: quyền loại trừ là yếu tố
cơ bản của sự bảo hộ hợp pháp đối với tài sản cá nhân, bất cứ sự xâm nhập vật
lý (đặc biệt nếu là vĩnh viễn) cho dù là chính phủ hay tổ chức cá nhân dưới danh
nghĩa chính phủ, vi phạm quyền và các cá nhân được trao quyền vĩnh viễn và
2
2. See ELY, supra note 1; W.J.F. Realty Corp. et al. v. New York, 672 N.Y.S. 2d
1007, 1008 (1998): Carol Rose, Property as the Keystone Right, 2 NOTRE DAME L. REV.
329 (1996); William W. Van Alstyne, The Recrudescence of Property Rights As the Foremost
Principle of Civil Liberties: The First Decade of the Burger Court, 43 LAW AND
CONTEMP. PROBS. 66 (1980)
3
3. See STEVEN J. EAGLE, REGULATORY TAKINGS § 7.2 (1999); DWIGHT
ERRIAM & FRANK MELTZ, THE TAKINGS ISSUE 199-128 (1999); JAN LAITOS, LAW
OF PROPERTY PROTECTION § 5.03[A] (1999). Daniel Mandelker touched upon this issue
in § 2.09 of his widely-used and well-regarded treatise, LAND USE LAW (4th ed. 1997), as
well as in his casebook with RICHARD A. CUNNINGHAM & JOHN M. PAYNE,
PLANNING AND CONTROL OF LAND DEVELOPMENT 131-32 (4th ed. 1995), and in
Daniel R. Mandelker, New Property Rights and the Takings Clause, 81 MARQUETTE L.
REV. 9 (1997).
4
4. International News Service v. Associated Press, 248 U.S. 215, 250 (1918)
Brandeis, J., dissenting).
5
5. RICHARD A. EPSTEIN, TAKINGS: PRIVATE PROPERTY AND THE POWER
OF EMINENT DOMAIN 63 (1985).
6
6. RESTATEMENT OF PROPERTY § 7 (1936).
7
7. Laitos, supra note 3, § 5.16.

3
liên tục để trao lại tài sản tư nhân cũng được xem như là xâm phạm vật lý. 8 Hơn
nữa, điều này được trích dẫn trong phần Khôi phục về việc phê duyệt một số
trường hợp về quyền tài sản và quyền loại trừ.9
Bài viết này thảo luận về bản chất cơ bản của quyền loại trừ vì nó không
chỉ xuất phát từ các quyết định của Tòa án tối cao Hoa Kỳ mà còn từ các quyết
định Tòa án Liên bang và Tòa án phúc thẩm tiểu bang. Như được trình bày bên
dưới, quyền loại trừ áp dụng cho cả hoạt động của chính phủ và tư nhân trên đất
tư nhân, cho dù hoạt động đó là kết quả của những nỗ lực của chính phủ nhằm
đảm bảo lợi ích công cộng hay của các lý thuyết gắn liền với các quyền mạnh
hơn xuất phát từ tập quán và lòng tin của công chúng.

II. Sự tiếp cận của chính phủ và quyền loại trừ

Các Tòa án Liên bang đã công nhận bản chất cơ bản của quyền loại trừ
trong các trường hợp chính phủ cố gắng đảm bảo quyền tiếp cận tài sản tư nhân.
Có lẽ tiếng nói mạnh nhất đến từ ý kiến của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong vụ
Kaiser-Atena kiện Liên bang.10 Tại đây, the Army Corp of Engineers đã tuyên
bố: Một số cải thiện ở Kuapa Pond ở Hawaii Kai – một khu dân cư phát triển ở
Honolulu - đã dẫn đến đánh mất chủ quyền, khi mà những người chủ không
được phép tiếp cận ao của họ.11 Theo mô tả của Tòa: “Chính phủ cho rằng đó là
hậu quả của một trong những cải tiến này ... các chủ ao bằng cách này hay cách
khác đã vô tình đánh mất một trong những điểm thiết yếu nhất trong quyền lợi
cá nhân đối với tài sản - Quyền loại trừ.”12 Khi cho rằng “những cố gắng của
chính phủ trong vấn đề ao hồ để tạo ra quyền lợi chung đã vượt quá kiểm soát
và mục đích ban đầu... theo sự lập luận của Pennsylvania về vụ kiện giữa Coal
và Mahon,”13 Tòa án cho biết:

Chúng tôi cho rằng “Quyền loại trừ”, nên được nhìn nhận một cách
rộng rãi như là yếu tố cơ bản trong quyền tài sản thuộc về lợi ích
mà chính phủ không thể dừng lại ở việc bồi thường. Đây không
phải là lần đầu Chính phủ thực thi quyền hạn của mình dẫn đến sự
mất giá trị đáng kể tài sản tư của người khởi kiện; nói chính xác sự
cưỡng chế [của quyền đối với bất động sản liền kề] sẽ dẫn đến xâm
8
8. See Nollan v. California Coastal Comm’n, 483 U.S. 825 (1987).
9
9. See, e.g., Loretto v. Teleprompter Manhattan CATV Corp., 458 U.S. 419, 435-36
(1982); Kaiser Aetna v. United States, 444 U.S. 164 (1979).
10
10. 444 U.S. 164 (1979).
11
11. See id. at 168.
12
12. Id. at 176.
13
13. Id. at 178.

4
phạm tài sản tư nhân. Và ngay cả khi ảnh hưởng trên mặt pháp lý
không đáng kể, việc bồi thường cho chủ sở hữu là không thể tránh
khỏi.14

Trong một diễn biến khác, Tòa án đã quyết định trong vụ kiện giữa
Loretto và Teleprompter Manhattan CATV Corp. rằng: “Việc chính phủ cho
phép lắp đặt cáp truyền hình ở nhiều hộ dân, nhiều tòa nhà là vi hiến, được
quyền loại trừ bảo vệ để đảm bảo bồi thường. 15 Tòa cũng đã tuyên bố sẽ thường
xuyên xem xét lại những điều luật liên quan đến tài sản nhằm thúc đẩy lợi ích
cộng đồng, đồng thời, Tòa đã xem xét việc Chính phủ xâm phạm đến tài sản tư
nhân là vấn đề nghiêm trọng trong việc thực thi Điều khoản thu.” 16 (Chú thích
người dịch: The Taking Clause có nghĩa là Điều Khoản thu;Tu chính án thứ
năm của Hiến pháp Hoa Kỳ bao gồm một điều khoản được gọi là Điều khoản
thu). Hơn nữa: Mặc dù những vụ việc tại Tòa gần đây không được giải quyết
một cách chỉnh chu, Tòa đã nhấn mạnh rằng những vụ việc xâm phạm vật lý là
hy hữu và sẽ không thoái thác trách nhiệm và phải thực thi theo luật với bất cứ
trường hợp nào ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản.17
Miêu tả các vụ xâm phạm có tác động như là loại hình nghiêm trọng nhất
trong xâm phạm tài sản tư. Tòa mượn hình ảnh ẩn dụ: Quyết định của chính phủ
không đơn giản được đưa ra sau khi nhìn nhận một trong vô số quyền mà chỉ
đưa ra sau khi xem xét cẩn thận (Chú thích người dịch: Đây là một phép ẩn dụ
vô số quyền như là vô số sợi rơm trong một bó rơm, không đơn giản chỉ rút ra
một quyền trong số “nhiều sợi rơm” đó, mà là “cắt đôi bó rơm” và lấy từ trong
đó, mỗi “sợi” một ít).18 Tòa cũng đặc biệt nhấn mạnh những ảnh hưởng tiêu cực
với những vụ việc xâm phạm: 

Hơn nữa, chủ sở hữu bị thương khi người lạ xâm nhập trái phép và
chiếm dụng tài sản. Như đã nêu ra, luật tài sản ban hành nhằm bảo
vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản sẽ ít nhất không bị xâm hại
khi sở hữu hợp pháp tài sản của mình; cũng như yêu cầu phải nhận
được sự cho phép từ chủ sở hữu nếu người ngoài có ý định xâm
nhập và cố tình gây thương tích. Ngoài ra, hành vi chiếm dụng như
thế sẽ mang tính chất nghiêm trọng hơn so với quy định về sử dụng
tài sản, cho dù quy định đó có áp đặt, bởi lẽ chủ sở hữu có thể

14
14. Id. at 179-89 (emphasis added) (footnote and citations omitted).
15
15. See 458 U.S. 419, 421 (1982).
16
16. Id. at 426 (citations omitted).
17
17. Id. at 432
18
18. Id. at 435.

5
không nắm được thời gian, quy mô cũng như tính chất của việc
xâm phạm.19
Nói lại phần nào về phép ẩn dụ trong vụ Hodel kiện Irving, Tòa nhắc lại
rằng quyền loại trừ là một trong những mấu chốt quan trọng nhất trong nhóm
quyền về tài sản tư nhân (Chú thích người dịch: Đây là một hình ảnh ẩn dụ đã
được nhắc ở trên, nhằm nhấn mạnh sự quan trọng, không thể thiếu của Quyền
loại trừ).20 Khi đưa ra một đạo luật vi hiến yêu cầu các quyền lợi về đất đai phải
được chuyển đến Bộ lạc Da đỏ Sioux sau cái chết của chủ sở hữu, Tòa so sánh
sự thiếu sót của quyền chia sẻ và thiếu sót của quyền miễn trừ: 
Tính chất của luật pháp Chính phủ vô cùng phức tạp. Trong vụ việc
Kaiser Aetna kiện Liên bang, chúng tôi đã nhấn mạnh rằng việc
pháp luật đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến “một trong những mấu
chốt quan trọng nhất trong nhóm quyền về tài sản tư nhân” - quyền
loại trừ. Tương tự, quy định ở đây hầu như bao gồm hủy bỏ quyền
chuyển giao một loại tài sản nhất định - ở đây là lãi thu về - cho
người thừa kế.21 
Tòa cũng tập trung vào quyền loại trừ trong vụ Lucas kiện Hội đồng Bờ
biển Nam Carolina, trong trường hợp luật pháp bắt buộc chủ sở hữu phải chịu
sự xâm phạm vật lý, “chủ sở hữu có quyền yêu cầu bồi thường, bất kể tính chất,
thời gian hay mục đích.”22
Tòa án phúc thẩm thứ chín, lẽ ra, phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc do
Tòa Án Tối cao Hoa Kỳ đặt ra trong việc bảo vệ quyền cơ bản để loại trừ người
khác khỏi tài sản tư nhân. Ví dụ trong vụ Hall kiện Thành phố Santa Barbara,
tòa án nơi đây đã dựa theo quyết định của Loretto để đi đến kết luận rằng, người
dùng nhà di động có thể thách thức việc thực hiện một pháp lệnh buộc họ phải
cho thuê với thời hạn không xác định:23
Quyền tài sản với vật chất được miêu tả như quyền “chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt”. Khi chính phủ chiếm hữu vô thời hạn tài sản
của cá nhân, vô hình chung đã phá vỡ các nguyên tắc trên khi mà
người chủ không còn quyền sở hữu, và không có năng lực để miễn
trừ sự xâm phạm và sử dụng tài sản. Quyền loại trừ được coi như là

19
19. Id. at 436 (citations omitted).
20
20. Id.
21
21. Hodel, 481 U.S. at 716.
22
22. Lucas v. South Carolina Coastal Council, 505 U.S. 1003, 1015 (1992).
23
23. Hall v. City of Santa Barbara, 833 F.2d 1270, 1276 (9th Cir 1986). In finding the
rent control ordinance before it to have actually transferred some of the landlord’s property
interest to tenants contrary to the Fifth Amendment, the court was later found to be in error by
the U.S. Supreme Court in Yee v. City of Escondido, 503 U.S. 519 (1992).

6
một trong những yếu tố có giá trị nhất trong các quyền của chủ sở
hữu.24
Tương tự như trong vụ Evers kiện Quận Custer,  Tòa án cho rằng: tuyên
bố của quận về ý định chuyển một con đường tư nhân thành đường công cộng là
một hành vi vi hiến.25 Trích Kaiser Aetna, Quận 9 cho biết: “Quận đã làm mọi
thứ có thể, nói ngắn gọn là phá bỏ các lối vào, mở cửa con đường với người dân
và xác nhận việc sử dụng con đường hợp pháp. Quyền loại trừ người khác của
chủ sở hữu ‘được công nhận là nguyên tắc cơ bản của quyền sở hữu tài sản.” 26
Quận 11 theo cùng nguyên tắc với vụ kiện giữa Cable Holdings of
Georgia, Inc. và McNeil Real Estate Fund VI, LTD (Chú thích người dịch: Inc.
là viết tắt của incorporated có nghĩa là tập đoàn; Inc có ý nghĩa giống Corp,
chỉ khác ở Inc có thể là tổ chức phi lợi nhuận, còn Corp là một tổ chức kinh tế
thuần túy. LTD. hay LLC. là từ viết tắt của Limited Liability Company  – chỉ
loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn).27 Trong trường hợp đó, tòa án tập trung
vào quyền loại trừ khi thẩm vấn tính hợp pháp của Hiến pháp Hoa Kỳ, thứ được
giải thích bởi một tòa án cấp thấp hơn cho phép các công ty truyền hình cáp
được nhượng quyền sử dụng các dịch vụ phương tiện công cộng trước đây dành
riêng cho điện, điện thoại và video. Cụ thể, Tòa tuyên bố: “Khi chính phủ chiếm
dụng quyền của chủ sở hữu mà không có sự đền bù thỏa đáng là đã vi phạm vào
Điều khoản thu.”28 Quyền loại trừ của chủ sở hữu tài sản đối với sự chiếm dụng
của người khác phải được bảo vệ kiên quyết bởi Tòa.29
Cơ quan Liên bang công nhận bản chất cơ bản của quyền loại trừ trong vụ
Hendler kiện US.30 Khi cho rằng, EPA (Chú thích người dịch: EPA là viết tắt
của “United States Environmental Protection Agency”, có nghĩa là Cục Bảo vệ
Môi trường Hoa Kỳ) đã thực hiện “quyền loại trừ của nguyên đơn” và do đó, tài
sản tư nhân, với việc xây dựng giếng trên đất của họ, Tòa tuyên bố: 
Với những quyền về tài sản mà chúng ta đang có, một trong những
quyền giá trị nhất là quyền được bán và được độc quyền - quyền
loại trừ người khác, bất kể là người quen, đặc biệt là chính phủ.
Khái niệm sở hữu độc quyền như một quyền tài sản được xem như
là nền tảng cho lý thuyết về tổ chức xã hội. Ngoài vai trò trung tâm
của nó trong việc bảo vệ quyền được độc quyền của cá nhân - khả
năng loại trừ “người ngồi không hưởng lợi” - hiện được hiểu là điều
24
24. 833 F.2d at 1277 (emphasis in original) (citation omitted).
25
25. 745 F.2d 1196 (9th Cir. 1984).
26
26. Id. at 1201 (emphasis added).
27
27. 953 F.2d 600 (11th Cir. 1992).
28
28. Id. at 604-05.
29
29. Id. at 605.
30
30. 952 F.2d 1364 (Fed. Cir. 1991).

7
cần thiết cho sự phát triển kinh tế và tránh lãng phí tài nguyên được
tìm thấy trong các hệ thống tài sản chung.31
Tòa án D.C. đã mở rộng quyền ưu tiên của quyền miễn trừ đối với tài sản
cá nhân trong vụ Nixon kiện Hoa Kỳ: 
Quan trọng hơn, luật đã hoàn toàn bãi bỏ quyền loại trừ người khác khỏi
đất của ông Nixon. Như tòa đã xác nhận hết lần này đến lần khác, quyền loại trừ
có lẽ là phần tinh túy của quyền tài sản.32

Cuối cùng, trong vụ LeClair kiện Hart, Tòa án phúc thẩm tiểu bang khu
vực số 7 đồng ý rằng: “Quyền loại trừ là một trong những “cây gậy” quan trọng
nhất của “bó quyền” (Chú thích của người dịch: Bundle of rights – “bó quyền”
là một ẩn dụ để giải thích sự phức tạp của các quyền tài sản. Chính vì là “bó”
nên mỗi quyền tài sản là một “cây gậy” – “sticks” trong “bó quyền” đó)
thường được mô tả là tài sản” (Chú thích của người dịch: Pháp luật Hoa Kỳ
định nghĩa tài sản như “quyền” chứ không phải là “vật” theo cách hiểu thông
thường. Điều đó có nghĩa là tài sản được nhìn nhận dưới góc độ là quyền liên
quan đến một đồ vật hay một đối tượng nào đó) khi bác bỏ lập luận: Một bản
ghi âm IRS trái phép thuộc sở hữu của nguyên đơn thì không phải là sự chiếm
đoạt, bởi vì nó không bao hàm việc tịch thu tài sản.33
Các Tòa án phúc thẩm tiểu bang đã công nhận quyền loại trừ như một
thuộc tính cơ bản của quyền sở hữu tài sản ở Hawaii 34, Washington35,

31. Id. at 1374-75 (emphasis in original) (citations omitted).


31

32
32. Id. at 1286 (citing Kaiser Aetna, 444 U.S. at 179; Loretto 458 U.S. at 433; Hodel
481 U.S. at 704).
33
. LaClair v. Hart, 800 F.2d 692 (7th Cir. 1986) (citing Kaiser Aetna, 444 U.S. at 176).
34
. Kalipi v. Hawaiian Trust Co., Ltd., 656 P.2d 745, 749 (Haw. 1982).
35
. Margosa Associates v. City of Seattle, 854 P.2d 23 (1993); Sintra, Inc. v. City of
Seattle, 879 P.2d 765, 771 (1992).

8
Pennsylvania36, Mississippi37, Kentucky38, Massachusetts39, New Hampshire40,
Maine41, Rhode Island42, Michigan43 và New Jersey44.
Trong vụ Eaton kiện B.C.&M.R.R., Tòa án Tối cao New Hampshire đã là
một trong những tòa án tiểu bang đầu tiên công nhận một cách rõ ràng rằng:
Quyền loại trừ là một quyền lợi cơ bản về tài sản mà việc tước đoạt nó khi
không có sự đền bù thỏa đáng thì được xem là vi hiến. 45 Ở Eaton, một công ty
đường sắt hoạt động hợp pháp đã phá hủy sườn núi trong quá trình xây dựng
một con đường và do đó gây ra ngập lụt cho khu đất liền kề. 46 Khi xem xét liệu
rằng cơ quan lập pháp có quyền xử phạt vụ việc gây ra ngập lụt do công ty
Eaton mà không gồm việc bồi thường, tòa án đã giải thích: Sự chiếm đoạt tài
sản không bị giới hạn trong những trường hợp bị tịch thu quyền sở hữu tài sản. 47
Tòa án tuyên bố rằng việc chiếm đoạt xảy ra bất cứ khi nào các quyền tài sản,
bao gồm cả quyền loại trừ, bị từ chối:
Nếu tài sản gắn liền với đất bao gồm một số quyền quan trọng nhất định
và sự can thiệp thực tế vào đất đai gây ảnh hưởng đáng kể đến một trong
những quyền đó, thì sự can thiệp đó sẽ “chiếm đoạt” “tài sản” của chủ sở
hữu. Quyền của người dùng vô thời hạn (hoặc sử dụng vô thời hạn) là một
đặc trưng quan trọng. . . Quyền này của người sử dụng nhất thiết phải bao
gồm quyền và quyền hạn không cho phép người khác sử dụng đất thuộc
quyền sở hữu của mình. Từ bản chất của những quyền đã đề cập ở trên đối

36
. Petition of Borough of Boyertown, 466 A.2d 239, 245 (Pa. Comm. Ct. 1983)
37
. Clanton v. Hathorn, 600 So. 2d 963, 965 (Miss. 1992).
38
. Southland Development Corp. v. Ehrler’s Dairy, Inc., 468 S.W.2d 284, 286 (Ky. Ct.
App. 1971).
39
. Opinion of the Justices, 313 N.E.2d 561 (Mass. 1974).
40
. Opinion of the Justices, 649 A.2d 604, 611 (N.H. 1994).
41
. Bell v. Town of Wells, 557 A.2d 168, 178 (Me. 1989)
42
. Steven Harris v. Town of Lincoln, 668 A.2d 321, 327 (R.I. 1995).
43
City of Lansing v. Edward Rose Realty, Inc., 502 N.W.2d 638, 642 (Mich. 1993); Bott
v. Comm. of Natural Resources, 327 N.W.2d 838, 851 (Mich. 1982); Grand Rapids
Booming
Company v. Morris Jarvis, 30 Mich. 308 (1874); Vanderlip v. City of Grand Rapids, 41
N.W.
677, 682 (Mich. 1889).
44
. Gardner v. New Jersey Pinelands Commission, 593 A.2d 251, 262 (N.J. 1991).
45
. 1872 WL 4329 (1872).
46
. Id. at 504-05.
47
. Id. at 512.

9
với quyền sử dụng và quyền loại trừ thì rõ ràng là các quyền này không thể
bị hạn chế mà không có sự chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu.48
Tương tự, trong vụ Grand Rapids Booming Company kiện Morris Jarvis,
một công ty khai thác gỗ “tuân thủ màu luật” (Chú thích của người dịch: “tuân
thủ màu luật” – “under color of statute” hay “Color of law” là một cụm từ
pháp lý được sử dụng ở Hoa Kỳ chỉ ra rằng: một người đang tuyên bố hoặc ngụ
ý những hành vi mà họ đang thực hiện có liên quan và được hợp pháp hóa bởi
vai trò của người đó với tư cách là người đại diện cho quyền lực chính phủ,
nhất là trong các hành vi là trái pháp luật) đã lắp đặt các thiết bị dự phòng trên
một con sông và do đó gây ra ngập lụt, ảnh hưởng đến tài sản của người dân gần
đó.49 Khi xem xét liệu có quy định nào cho phép đất thuộc chủ sở hữu bị ngập
lụt mà không được đền bù hay không, thì tòa án đã nhấn mạnh rằng các sự cố về
quyền sở hữu, bao gồm cả quyền loại trừ được bảo vệ hợp pháp:
Phải chăng việc loại trừ tất cả những sự cố có thể xảy ra khi đề cập đến
quan niệm về tài sản, quyền sở hữu, chiếm đoạt đều trừu tượng một cách
phi thực tiễn cũng như phi vật chất và không có giá trị đối với chủ sở hữu,
rằng những quan niệm trên chỉ được xem như “vật chất định hình giấc
mơ”?. Phải chăng những quan niệm về tài sản, quyền sở hữu, chiếm đoạt
sẽ là sự tối thiểu hóa tổn thất đối với một người, nếu những quan niệm này
có thể gây tổn thất, tước đoạt sự trừu tượng hơn là những sự cố về tài sản,
mà chỉ làm cho những quan niệm đó có giá trị thực tế đối với người đó?
Và trong số những vấn đề liên quan đến đất đai, hay bất cứ vấn đề nào
khác, thì không có quyền được quyền hưởng thụ hoa lợi (chú thích người
dịch: “use” trong pháp lý còn có nghĩa là quyền hoa lợi), và cho đến nay,
thì việc kiểm soát các quyền để loại trừ việc sử dụng của người khác trên
phần đất của mình là một ý tưởng thực tế và khả thi nhất về tài sản, trong
đó việc tước đoạt ý niệm tưởng chừng như là trừu tượng của một người sai
trái hơn là việc đánh giá ý niệm về tài sản hoặc các quyền sở hữu đất mà
loại trừ các sự cố nêu trên là trừu tượng, phi vật chất và vô dụng? 50
Không có gì ngạc nhiên khi tòa án cho rằng: “Cơ quan lập pháp không có
quyền hiến định để trao cho công ty quyền xả lũ trái với ý muốn của chủ sở hữu
khu đất khi không có sự đền bù thỏa đáng.”

48
. Id. at 511
49
. 30 Mich. at 311.
50
. Id. at 320-21.

10
Sự tôn trọng của tòa án Michigan đối với quyền loại trừ vẫn không thuyên
giảm theo thời gian. Minh họa cho điều này, có thể xét đến trường hợp: quyền
loại trừ đã bác bỏ “bài kiểm tra chèo thuyền giải trí”, đây là một tiêu chuẩn để
xác định khả năng điều khiển của thuyền trong vụ Bott kiện Michigan, bởi vì,
bài kiểm tra “sẽ từ chối quyền loại trừ (một quyền vốn gắn liền với khái niệm tài
sản tư nhân) của các chủ sở hữu ở ven sông và khu vực duyên hải.” 51 Sau đó,
trong vụ án Thành phố Lansing kiện Rose vào năm 1993, Tòa án Tối cao
Michigan đã nhận thấy rằng quyền loại trừ của chủ sở hữu đóng vai trò chủ chốt
hơn so với chính quyền của Thành phố trong việc xét xử vụ án liên quan đến tài
sản đại diện cho một công ty truyền hình cáp tư nhân. Cụ thể, Tòa án tuyên bố:
“Vì lợi ích cá nhân rộng rãi của Continental, chúng tôi nhận thấy [các] lý do
được đưa ra để khẳng định cho việc truy cập bắt buộc vào tài sản của [nguyên
đơn] là không đủ để vượt qua quyền loại trừ người khác khỏi tài sản riêng của
[nguyên đơn].”52
Tòa án tối cao Wisconsin cũng đã đạt được kết quả tương tự trong vụ
Noranda kiện Strom.53 Trong vụ án này, Tòa án đã bác bỏ lập luận rằng: quy chế
của Wisconsin yêu cầu một công ty thăm dò khoáng sản tiết lộ dữ liệu địa chất
cho tiểu bang, có thể làm thay đổi quyền tài sản của công ty đến một mức độ
nhất định mà không cần bồi thường cho việc tiết lộ dữ liệu ấy, bởi vì “mặc dù
một tiểu bang có thể xác định lại quyền tài sản ở một mức độ hạn chế, nhưng
điều này sẽ khiến tiểu bang thiếu khả năng tái cấu trúc các quyền để can thiệp
vào các đặc tính truyền thống của quyền sở hữu tài sản, chẳng hạn như quyền
loại trừ.”54 Tòa án kết luận rằng quy chế yêu cầu Noranda từ bỏ quyền loại trừ
của mình là một “sự xâm phạm của chính phủ đối với một đặc tính quan trọng”
và do đó được coi là vi hiến.55
III. QUYỀN LOẠI TRỪ CỦA CHỦ SỞ HỮU THEO ĐIỀU KHOẢN SỞ
HỮU SỬA ĐỔI LẦN THỨ NĂM ÁP DỤNG ĐỐI VỚI TƯ NHÂN CŨNG
NHƯ ĐỐI VỚI CHÍNH PHỦ
Như đã được lưu ý trong chuyên luận của Laurence H. Tribe về luật hiến
pháp:56
51
. 327 N.Y.2d at 851.
52
. 502 N.W.2d 646.
53
. 335 N.W.2d 596 (1983).
54
. Id. at 603-04.
55
. See id. at 630.
56
. LAURENCE H. TRIBE, AMERICAN CONSTITUTIONAL LAW (2d ed. 1988)

11
Một tiền đề quan trọng cho cả ba trường hợp nêu trên. . . 57 là những sự xâm
phạm vật lý mà bên thứ ba gây ra dưới sự ủy quyền rõ ràng của chính phủ
và không có bồi thường thiệt hại, thì cũng chẳng khác gì chính chính phủ là
kẻ xâm phạm vật lý – đây đều là hành vi trái với hiến pháp. Việc chiếm đoạt
là sự chiếm đoạt bất kể là xâm phạm tài sản do chính phủ thực hiện hay do
một bên tư nhân thực hiện theo yêu cầu của chính phủ.58
Phân tích này phản ánh rõ ràng phản ứng của Tòa án đối với tranh cãi của
Thành phố New York với Loretto rằng: sự xâm phạm của các bên tư nhân nên
được đối xử “khác biệt”: “Chúng tôi không đồng ý. Việc chiếm giữ vĩnh viễn
theo quy luật tất yếu được cho phép bởi luật tiểu bang là việc làm hiển nhiên
của chủ sở hữu mà không cần quan tâm đến việc tiểu bang, hay bên được tiểu
bang ủy quyền.”59
A. Sử dụng thường xuyên, cũng như chiếm giữ lâu dài, là sự xâm
phạm trái với hiến pháp và vi phạm quyền loại trừ
Việc đọc kỹ vụ án Loretto sẽ tiết lộ rằng Tòa án đã biết trước nó, và do đó
thường đề cập đến sự xâm phạm vật lý vĩnh viễn. Tuy nhiên, như Giáo sư Frank
Michelman đã nhận xét trong một bài báo được trích dẫn (theo Tòa án ở Loretto
và các tòa phúc thẩm liên bang) về tài sản và việc chiếm giữ:
Một trường hợp không thể tránh khỏi đối với việc bồi thường (ngắn gọn là
sự quốc hữu hóa tài sản) có khả năng xảy ra khi chính phủ cố tình khiến
các cơ quan chức năng có thẩm quyền lạm dụng hoặc chiếm đoạt của cải
thứ mà được hiểu là tài sản của riêng mỗi cá nhân.
Theo quan điểm của chúng tôi, khi chính phủ ngang nhiên hợp thức hóa
việc tự do trên địa phận của chúng tôi (bằng cách băng qua nó thường xuyên),
đã là tước đi tài sản quá đỗi dễ dàng mà đáng lí chúng tôi phải được đền bù cho
nó, có thể nói rằng khi mà chính phủ hành xử như vậy như thể đất đai chúng tôi
là mượn từ nhà nước . . . Chúng tôi “lấy đất” đi vì thế phải có nghĩa vụ phụng sự
và phải trả lại cho nhà nước.60

57
. The cases reviewed by Tribe include Loretto v. Manhatten Teleprompter CATV
Corp., 458 U.S. 419 (1982), Kaiser Aetna v. United States, 44 U.S. 164 (1979), and
Pruneyard
Shopping Center v. Robins, 447 U.S. 74 (1980).
58
. Tribe, supra note 56, at 604-05 n.33 (citations omitted).
59
. Loretto v. Manhattan Teleprompter CATV Corp., 458 U.S. 419, 432-33 n.9 (1982).
60
. Id. at 1186 (emphasis added).

12
Rằng Tòa án Tối cao Hoa Kỳ coi “việc sử dụng thường xuyên” như là việc
chuyển qua lại đất tư nhân
Vụ Loretto liên quan đến sự chiếm giữ lâu dài thì cũng có cùng bản chất
với vụ Nollan kiện Ủy ban Duyên hải California vào năm 1987. 61 Tại đó, Tòa án
cho rằng việc áp đặt điều kiện tiếp cận công cộng qua bãi biển tư nhân, để có
giấy phép quản lý bờ biển là hành vi chiếm đoạt tài sản cần được bồi thường
theo Tu chính án thứ năm. Tòa án cho biết: Trích dẫn cả hai trường hợp Loretto,
Kaiser Aetna và đề cập đến quy tắc trước đây rằng một sự chiếm giữ vật chất
vĩnh viễn là một việc làm bất kể tác động kinh tế đối với chủ sở hữu hoặc lợi ích
cho công chúng:
Chúng tôi nghĩ rằng một “sự chiếm giữ vật chất vĩnh viễn” đã xảy ra, vì
mục đích của quy tắc đó, nơi các cá nhân được trao quyền vĩnh viễn và
liên tục để đi qua lại, để tài sản thực có thể liên tục được chuyển đi, mặc
dù không có cá nhân cụ thể nào được phép đóng quân vĩnh viễn tại cơ sở.62
Tương tự, Tòa án đã nhắc lại rằng “Chúng tôi đã nhiều lần cho rằng, đối
với tài sản được chủ sở hữu của nó dành cho mục đích sử dụng cá nhân, “quyền
loại trừ [người khác là]” một trong những điều cần thiết nhất trong gói các
quyền thường được mô tả là tài sản. (Chú thích người dịch: Quyền đối với bất
động sản liền kề có bao gồm quyền về lối đi qua. “Thông qua tiền đề của chủ
đất” đề cập đến việc: chủ sở hữu bất động sản ở trong hoặc bị vây bọc bởi các
bất động sản của các chủ sở hữu khác có quyền yêu cầu một trong các chủ sở
hữu bất động sản liền kề phải dành cho mình một lối đi thuận tiện và hợp lí ra
đường công cộng) (theo Justice Brennan) thì đây chỉ là hạn chế sử dụng các từ
theo các làm mất đi tất cả ý nghĩa thông thường của chúng.”63
Cuối cùng, trong vụ Dolan kiện Thành phố Tigard, việc chủ sở hữu bất
động sản mất quyền loại trừ, một lần nữa khiến Tòa án phải xem xét kỹ lưỡng
hơn nỗ lực của chính quyền địa phương nhằm xác định chính xác quyền đi qua
đối với tài sản tư nhân.64 Tại Dolan, Thành phố Tigard đã nhằm vào một vành
đai xanh trên đất của chủ sở hữu bất động sản bằng việc đổi lấy giấy phép cho
phép chủ sở hữu sau đó mở rộng cửa hàng kim khí. 65 Ở vị trí nằm dọc theo bờ

61
. 483 U.S. 825 (1987).
62
. Id. at 832.
63
Id. at 831 (citations omitted).
64
. 512 U.S. 374 (1994).
65
. Id. at 379-80.

13
sông, thành phố yêu cầu phải có vành đai xanh để giảm thiểu nguy cơ lũ lụt mà
thành phố kết luận là do việc chủ sở hữu xây dựng một bãi đậu xe. 66 Bác bỏ ý
kiến cho rằng vành đai xanh có liên quan đến tác động của việc xây dựng cửa
hàng kim khí, tòa án nói:
Thành phố chưa bao giờ nói lý do tại sao phải có vành đai xanh công cộng,
trái ngược với đường tư nhân, vành đai xanh là để kiểm soát lũ lụt. Tất
nhiên, sự khác biệt đối với người khởi kiện là cô ấy mất khả năng loại trừ
những người khác. Như chúng tôi đã lưu ý, quyền loại trừ người khác này
là “một trong những mấu chốt quan trọng nhất trong nhóm các quyền
thường được mô tả là tài sản”.67
Dựa vào vụ việc Trung tâm mua sắm Pruneyard kiện Robins, 68 Thành phố
Tigard sau đó lập luận rằng quyền loại trừ những người khác của chủ sở hữu
cửa hàng kim khí đã bị xâm phạm vì tài sản được đề cập có tính chất thương
mại.69 Tuy nhiên, Tòa án bác bỏ sự tin tưởng của thành phố vào Pruneyard trên
cơ sở rằng: không giống như ở Pruneyard, “người khởi kiện [ở Dolan] sẽ mất
mọi quyền điều chỉnh thời gian mà công chúng tham gia vào vành đai xanh, bất
kể sự can thiệp nào mà họ có thể gây ra với cửa hàng bán lẻ của cô ấy. 70 Quyền
loại trừ của cô ấy nếu không được quy định, thì nó sẽ bị loại bỏ.” Trong khi
khẳng định rằng các yêu cầu về sự cống hiến của thành phố xâm phạm quyền
loại trừ của chủ sở hữu ở một mức độ làm kích hoạt sự giám sát hiến pháp, tuy
nhiên, Tòa án đã bỏ qua câu hỏi ngầm về việc: liệu quyền loại trừ có bị giảm
bớt do nó được giữ ở Pruneyard hay không.

B. Sự viện tại Trung tâm thương mại Pruneyard không làm giảm bớt
giá trị của quyền loại trừ.

66
. Id. at 382.
67
. Id. at 393. (Citing Kaiser Aetna, 444 U.S. at 176).
68
. 447 U.S. 74 (1980) (holding that under the California Constitution, the California
Supreme Court could recognize free speech rights that permitted a person to distribute
pamphlets on the premises of a large shopping center without the owner’s consent).
69
. 512 U.S. at 393.
70
. Id. at 393-94.

14
Với sự kiện Trung tâm thương mại Pruneyard kiện Robins71, Tòa án Tối
cao Hoa Kỳ đã xem xét đến khả năng liệu “Quyền loại trừ” của chủ sở hữu
trung tâm thương mại đã bị vi phạm khi mà Tòa án bang California đưa ra phán
quyết rằng: “quyền tự do ngôn luận theo Hiến pháp bang California cho phép
các cá nhân lan truyền các kiến nghị về tài sản mà không cần sự đồng ý của chủ
sở hữu.72 Với việc giữ nguyên cách giải thích của Tòa án California đã không
ảnh hưởng đến việc tư hữu bất hợp pháp khi xâm phạm quyền loại trừ của người
khác. Tòa án cho biết: “Những người kháng cáo đã không chứng minh được
tính thiết yếu của “quyền loại trừ” về giá trị sử dụng cũng như giá trị về mặt
kinh tế của nó đối với phần tài sản mà quyền loại trừ đề cập đến theo luật
định””.73 
Thoạt nhìn, sự kiện liên quan đến Pruneyard có vẻ như muốn làm giảm
hiệu lực của quyền loại trừ người khác, điều mà được Kaiser Aetna và Loretto
nỗ lực bảo vệ. Tuy nhiên, ở sự kiện Pruneyard, có nhiều cơ sở tạo nên sự khác
biệt với các trường hợp đã đề cập ở trên, cụ thể việc phân biệt thể hiện như sau:
1) Chủ trung tâm thương mại Pruneyard đã mời công chúng đến nhưng lại tìm
cách loại trừ những cá nhân có bài phát biểu không phù hợp với mong muốn của
ông ta; 2) Chủ sở hữu của Pruneyard không thể chứng minh quyền loại trừ là
vấn đề cốt lõi liên quan đến lợi ích kinh tế mà phần tài sản của anh ta tạo nên; 74
3) Những người chủ tại Pruneyard đã cố gắng để loại trừ những gì liên quan đến
Tu chính án thứ nhất về quyền tự do ngôn luận, điều mà luôn luôn được pháp
luật mà cụ thể là các quan tòa dành sự tôn trọng cao nhất.75
Ngoài ra, vẫn còn cơ sở thứ tư để xem xét tính khác biệt của sự kiện
Pruneyard so với các sự kiện đã đề cập khác, đó là tầm quan trọng của nó trong
quyền tự do dân sự mà các quốc gia nỗ lực nhân rộng. Về cơ bản, Tòa án Tối
cao ủng hộ việc tòa án các bang tiếp cận quyền tự do ngôn luận đối với các hoạt
71
. 447 U.S. 74 (1980)
72
. Id. at 88.
73
. Id. at 84
74
. See RONALD D. ROTUNDA & JOHN E. NOWACK, TREATISE ON
CONSTITUTIONAL LAW 729 (3d ed. 1999).
75
. See Lloyd Corp. v. Tanner, 407 U.S. 551, 567-568 (1972) (stating “the courts
properly have shown a special solicitude for the guarantees of the First Amendment.”);
In re Lane, 79 Cal. Rptr. 729 (1969) (stating “Certainly the paramount and preferred
place given the First Amendment freedom of speech right in our democratic system
should be accorded precedence over the mere ‘naked title’ of [the] market owner[’s]
interest in the premises”).

15
động mang tính riêng tư được ghi nhận trong bản Tu chính án thứ nhất một cách
rộng rãi và cởi mở, đặc biệt là đối với trường hợp về trung tâm thương mại như
là Pruneyard đã được đề cập ở đây. 76 Tuy nhiên, một số Tòa án tiểu bang đã sửa
đổi Hiến pháp riêng tại bang này hoặc ưu tiên áp dụng các điều khoản về quyền
tự do ngôn luận được quy định trong Hiến pháp hiện hành phổ biến hơn. Hơn
thế nữa, cứ 12 tiểu bang đã tiến hành các biện pháp như trên 77 thì có 6 tiểu bang
tuyên bố rút lui vì lý do xuất phát từ ứng dụng cơ chế bảo hộ quyền tự do lựa
chọn78 đến áp dụng các nguyên tắc lâu đời từ trước đến giờ của nước Mỹ. 79 
Một ví dụ từ vụ kiện tụng giữa Commonwealth (Chú thích người dịch :
“Commonwealth” là Khối thịnh vượng chung, bao gồm một số bang như
Massachusetts, Pennsylvania, Virginia, Kentucky và một số lãnh thổ khác thuộc
Hoa Kỳ) và Hood80 do Tòa án tối cao bang Massachusetts thụ lý, tòa đã phủ
quyết việc áp dụng những quyền từ chối bầu cử, điều mà liên quan đến một
trường hợp tương tự được công nhận trong một phát biểu đã được đưa ra trước
đó, theo điều khoản được quy định ở quyền tự do bầu cử trong hiến pháp của
Massachusetts về việc thu thập chữ ký cá nhân như một tài sản nhằm thể hiện sự
ủng hộ đối với một ứng cử viên nào đó sở hữu lá phiếu của tiểu bang này. 81 Thật
vậy, tòa án đã bác bỏ hoàn toàn lập luận cho rằng quyền tự do ngôn luận và các
điều khoản của hội đồng quốc gia trong Hiến pháp của Massachusetts cho phép
các hoạt động như vậy trên tài sản tư nhân. 82
Tương tự, trong vụ kiện giữa liên doanh Southcenter và Ủy ban chính
sách dân chủ Hoa Kỳ83, Tòa án tối cao Washington đã dựa vào học thuyết về
hành động của nhà nước (chú thích người dịch : Học thuyết hành động nhà
76
. See Brady C. Williamson & James A. Friedman, State Constitutions: The Shopping
Mall Cases, 1998 WIS. L. REV. 883, 887-88 (1998), and Kevin Gray & Susan Francis
Gray, Civil Rights, Civil Wrongs and Quasi-Public Space, 1 EUROPEAN HUMAN
RIGHTS L. REV. 46 (1999).
77
. The states that have recognized some form of a right to speech on private property
are New Jersey, Colorado, Oregon, Massachusetts, Washington, and Pennsylvania. See
id.
78
. See Commonwealth v. Hood, 452 N.E.2d 188 (Mass. 1983).
79
. See Southcenter Joint Venture v. National Democratic Policy Comm., 780 P.2d 1282
(Wash. 1989); Western Pennsylvania Socialist Workers 1982 Campaign v. Connecticut
General Life Insurance Co., 515 A.2d 1331 (Pa. 1986).
80
. 452 N.E. 2d 188 (Mass. 1983).
81
. See Batchelder v. Allied Stores Int’l, Inc., 445 N.E.2d 590 (Mass.1983).
82
. See Commonwealth v. Hood, 452 N.E.2d at 191.
83
. 780 P.2d 1282 (Wash. 1989)

16
nước thể hiện nguyên tắc: Hiến pháp Hoa Kỳ nói chung, và các quyền cá nhân
nói riêng, chỉ áp dụng của các hành động của nhà nước, không áp dụng cho
hành động của tư nhân) trong việc đảo ngược một quyết định trước đó về việc
cho phép các nhóm vận động chính sách tiến hành biểu tình và thu thập chữ ký
tại một khu trung tâm mua sắm tư nhân. 84 Trong sự việc về Liên doanh
Southcenter, tòa án đã tuyên bố rằng: “ Sự hiện diện của quyền tự do ngôn luận
ở Washington… tạo nền tảng để bảo vệ các cá nhân khỏi những hành động của
Nhà nước”. Sự bảo vệ trên không nhằm vào việc bảo vệ cá nhân khỏi hành động
của các cá nhân khác, mà chỉ là khỏi Nhà nước. Sự hiện diện của quyền tự do
ngôn luận trong Hiến pháp quốc gia như vậy không đủ sức tác động đến...
quyền hiến định để thu hút những sự đóng góp và tiêu thụ các tài liệu tại trung
tâm thương mại”85.  Hơn nữa, tòa án đã nhấn mạnh rằng: “Tài sản (có thể đánh
mất hoặc không) đặc tính riêng tư cơ bản của nó bởi việc tất cả mọi người
thường được khuyến khích sử dụng nó cho các mục đích nhất định””.86
Cuối cùng, trong vụ kiện giữa Chiến dịch của những công nhân theo chủ
nghĩa xã hội ở miền Tây Pennsylvania vào năm 1982 và Công ty bảo hiểm nhân
thọ Connecticut87, Tòa án tối cao Pennsylvania đã hạn chế đáng kể phạm vi tiếp
cận các phán quyết liên quan đến vụ kiện giữa Commonwealth và Tate 88trước
đó, với việc cho rằng những hành động thuộc thẩm quyền của cấp tiểu bang
không nhất thiết phải liên quan đến quy định về quyền tự do ngôn luận và tự do
hội họp của Pennsylvania, với mục đích để cho các cá nhân được phép phát tờ
rơi tại một trường đại học tư thục.89 Trong chiến dịch của những công dân ủng
hộ chủ nghĩa xã hội tại miền Tây Pennsylvania năm 1982, tòa án đã từ chối cho
phép các cá nhân thực hiện hành vi thu thập chữ ký tại trung tâm thương mại
nhằm chống lại sự thỏa thuận của chính chủ sở hữu trung tâm đó, do đó có thể
kết luận rằng, mặc dù chi phối sự việc liên quan đến Tate, Hiến pháp
Pennsylvania chỉ là "một giới hạn đối với quyền lực chung của chính phủ tiểu
bang ”90. Tòa án phân biệt sự tương đồng giữa vụ việc Tate trên cơ sở là các
trường đại học đã có sự chuyển mình thành một địa điểm công cộng bởi việc
84
. See Alderwood Assocs. V. Washington Envtl. Council, 635 P.2d 108 (Wash.1981).
85
. 780 P.2d at 1285
86
. Id. at 1292 (quoting Lloyd Corp. v. Tanner, 407 U.S. 551, 569 (1972)).
87
. 515 A.2d 1331 (Pa. 1986).
88
. 432 A.2d 1382 (Pa. 1981).
89
. See Commonwealth v. Tate, 432 A.2d at 1387-88
90
. Western Pennsylvania Socialist 1982 Campaign, 515 A.2d at 1335.

17
cho phép công chúng “tự do đi lại trong khuôn viên trường và được phép sử
dụng các cơ sở vật chất của trường” và cả việc tổ chức các sự kiện công cộng
trong khuôn viên trường91, trong khi chủ trung tâm thương mại thì đã không
đồng ý với việc để các trung tâm thương mại trở thành một địa điểm công cộng
với việc “giữ vững lập trường ủng hộ chính sách phi chính trị hóa” 92. Như vậy,
rõ ràng là một số tòa án đã chấp nhận những phán quyết từ sự việc Pruneyard
như một đề xuất để mở rộng quyền tự do ngôn luận tại các địa điểm thuộc sở
hữu tư nhân một cách thận trọng chỉ với những nơi chủ sở hữu tài sản tư nhân
chưa thực hiện đầy đủ quyền loại trừ.

C. Phong tục tập quán, đức tin của công chúng và quyền loại trừ

Nhiều tòa án tại Hòa Kỳ ngày càng dựa vào tập quán pháp 93 và các quyền
của công chúng trong các đạo luật về đức tin cộng đồng 94 để thực hiện việc vi
phạm các quyền sở hữu tư nhân, và đặc biệt là quyền loại trừ người khác. Theo
đó, lấy một ví dụ, trong vụ kiện giữa Public Access Shoreline và Ủy ban Kế
hoạch Hawaii (PASH), Tòa án Tối cao Hawaii đã tuyên bố rằng : Người dân
bản địa tại Hawaii (khoảng ⅕ dân số tại đây) có quyền sử dụng bất kỳ khu đất
công cộng hoặc tư nhân nào trong tiểu bang theo các tập quán pháp được bảo vệ

91
. Id. at 1337.
92
. Id.
93
. See, e.g., Public Access Shoreline Hawaii v. Hawaii County Planning Commission,
903 P.2d 1246 (Hawaii 1995); State ex rel Thornton v. Hay, 462 P.2d 671 (Or. 1969);
Stevens v. City of Cannon Beach, 894 P.2d 449 (Or. 1993), cert. denied, 114 S. Ct. 1332
(1994) (Scalia, J., dissenting); See generally DAVID L. CALLIES, CUSTOM AND
PUBLIC TRUST: BACKGROUND PRINCIPLES OF STATE PROPERTY LAW? 30
ELR 10003 (2000); David Bederman, The Curious resurrection of Custom: Beach
Access and Judicial Takings, 96 COLUM. L. REV. 1375 (1996); and Paul Sullivan,
Traditional and Customary Revolut
94
. See, e.g., Orion Corp. v. State, 747 P.2d 1062 (Wash.1987), cert. denied, 486 U.S.
1022 (1988); National Audubon Society v. Superior Court of Alpine Co., 658 P.2d 709
(Cal. 1983); Matthews v. Bay Head Improvement Ass’n, 471 A.2d 355 (N.J. 1984). See
generally David L. Callies, Custom and Public Trust: Background Principles of State
Property Law? 30 ELR 10003 (2000); Pearson, Illinois Central and the Public Trust
Doctrine in State Law, 15 VA. ENVTL. L.J. 713 (1996); Searle, Private Property Rights
Yield to the Environmental Crisis: Perspectives on the Public Trust Doctrine, 41 S.C. L.
REV. 897 (1990); Richard Lazarus, Changing Conceptions of Property and Sovereignty
in Natural Resources: Questioning the Public Trust Doctrine, 71 IOWA L. REV. 631
(1986).

18
với Hiến pháp Hoa Kỳ95. Tương tự như vậy, Tòa án Tối cao Oregon đã dựa trên
quyết định của mình trong vụ kiện giữa tiểu bang Thornton cũ với Hay để ngăn
cản các chủ sở hữu tư nhân rào lại các phần đất của mình bên bờ biển theo tục lệ
thông thường của công dân Oregon để đi ngang qua các bãi cát khô dọc bờ
biển.96
Tuy nhiên, rõ ràng là có một xu hướng ngược lại. Trong lĩnh vực tập quán
quán, Tòa án Tối cao Oregon đã tạm thời không áp dụng các từ ngữ mang tính
chung chung được sử dụng trong sự kiện về tiểu bang Thornton cũ vừa đề cập ở
trên với vụ kiện giữa McDonald và Halvonson, ở đây cần lưu ý về sự mâu thuẫn
trong sự kiện về Thornton với việc đưa ra tuyên bố rằng: “Không có gì công
bằng [được liên hệ với sự kiện Thornton] có thể được biết đến để xác minh,
ngoài việc tranh chấp một cách công khai thông qua những ưu điểm của ‘tập
quán’ về quyền sử dụng toàn bộ bờ biển Oregon với mục đích giải trí 97. Tương
tự như vậy, khi giữ nguyên phán quyết về tội xâm phạm trong vụ kiện giữa tiểu
bang Hawaii và Hanapi98, tòa án tối cao Hawaii đã làm hạn chế các quy tắc có
sẵn mà theo đó ghi nhận các tập quán pháp của người Hawaii bản địa, điều được
xác định trong PASH cho phép việc can thiệp vào tài sản tư nhân: “Để làm rõ
PASH, chúng tôi đã giữ những  phán quyết về tội xâm phạm trong vụ kiện giữa
tiểu bang Hawaii và Hanapi nếu tài sản được đánh giá là ‘được phát triển đầy
đủ’, tức là nói đến tài sản là các khu đất hoặc các tài sản được sử dụng với mục
đích cư trú với sự hình thành nhà ở, sự cải tạo (đối với đất đai) và các kết cấu hạ
tầng (chú thích người dịch: ‘infrastructure’ được hiểu với nghĩa ‘The basic
facilities of a country or region, such as roads, bridges, water delivery, and
sewage treatment.’, tạm dịch là ‘Cơ sở vật chất cơ bản của một quốc gia hay
một vùng, ví dụ như đường xá, cầu, hệ thống cấp nước, hệ thống xử lý nước
thải…’ ), mà điều này thì ‘tạo nên sự mâu thuẫn’ xem theo theo các truyền
thống và tập quán pháp của người bản địa Hawaii bản địa đối với tài sản đó.” 99

95
. 903 P.2d 1246 (Hawaii 1995)
96
. 462 P.2d 671 (Or. 1969).
97
. MacDonald, 780 P.2d at 724.
98
. 970 P.2d 485 (Hawaii 1998)
99
State v. Hanapi, 970 P.2d at 494-95 (emphasis in original). In a footnote the court
noted that “[t]here may be other examples of ‘fully developed’ property [besides
residential] . . . where the existing uses of the property may be inconsistent with the
exercise of native Hawaiian rights.” Id. at 495 n.10.

19
Theo mô hình do Tòa án Tối cao Massachusetts đưa vào trong đề cương
tổng hợp Ý kiến của các Thẩm phán, một số tòa án tiểu bang đã nhấn mạnh về
bản chất cơ bản của quyền loại trừ trong các vụ việc liên quan đến lòng tin của
công chúng. Trong đề cương Ý kiến của các thẩm phán, tòa án Massachusetts
đã xem xét về một dự luật mà liệu nó có tạo ra “lối đi bên phải ngay ngắn”
ngang qua các vùng gian triều (chú thích người dịch: ‘vùng gian triều’ là khu
vực ở trên mặt nước khi triều thấp và ở dưới mặt nước khi triều cao) có dẫn đến
việc chiếm đoạt tài sản tư nhân hay không. Khi nhận thấy dự luật được đề xuất
có thể gây ra tình trạng trên, tòa án cho biết :
 Sự xâm nhập vật chất thường trực và lâu dài vào tài sản của cá nhân, điều
mà dự luật trên sẽ thiết lập, là hành vi chiếm đoạt tài sản ngay cả trong
nghĩa hẹp của của định nghĩa về chiếm đoạt theo Hiến pháp Hoa Kỳ… Sự
can thiệp vào tài sản tư nhân ở đây liên quan đến việc phủ nhận việc
chuyển nhượng quyền loại trừ của chủ sở hữu. Nếu quyền sở hữu đối với
bất động sản có bất kì ý nghĩa nào, thì nó phải bao gồm quyền loại trừ
chung.100
Trong vụ kiện giữa Bell và thị trấn Wells, Tòa án Tối cao Maine đã lặp lại
quan điểm của tòa Massachusetts khi xem xét tính hợp hiến của một dự luật mà
nó mang lại cho công chúng một trải nghiệm giải trí thoải mái và hợp pháp ở
các địa điểm ven biển thuộc về tư nhân 101. Cụ thể, tòa án đã đồng ý rằng “(nếu)
một quyền sở hữu đối với bất động sản có bất kì ý nghĩa nào thì nó phải bao
gồm quyền loại trừ” và kết luận rằng việc áp đặt các biện pháp làm suy giảm
quyền trên dẫn đến việc vi hiến vì “việc can thiệp… liên quan đến việc phủ
nhận việc chuyển nhượng quyền loại trừ công chúng của chủ sở hữu”.102
Tòa án Tối cao New Hampshire đã theo dõi ý kiến của các bang Maine và
Massachusetts theo ý kiến của các Thẩm phán103. Tại đó, tòa án đã xem xét liệu
một dự luật, vốn đã công nhận quyền đối với bất động sản liền kề (của công
chúng ở tất cả “khu vực cát khô” (Chú thích người dịch: khu vực nằm phía trên
và dưới vùng cát cứng, có thể dùng để chỉ khu vực bờ biển đầy sỏi, được tạo
thành từ nhiều tảng đá hoặc để chỉ các khu vực khác tiếp giáp với bờ biển - ở
Thornton) dọc theo bờ biển của New Hampshire, bao gồm cả các khu vực thuộc

100
. Id. at 611 (emphasis added).
101
. Bell, 557 A.2d at 176.
102
. Id. at 178
103
. 649 A.2d 604 (N.H. 1994)

20
sở hữu tư nhân, có ảnh hưởng đến hành vi vi hiến hay không. Trích dẫn Bell,
tòa án giải thích rằng: “Nếu quyền sở hữu đối với tài sản thực có bất kỳ ý nghĩa
nào thì nó phải bao gồm quyền loại trừ những người khác.” 104 Hơn nữa, tòa án
nhận thấy rằng, như trong Bell: “Mặc dù dự luật không tước bỏ hoàn toàn quyền
sử dụng tài sản của chủ sở hữu tư nhân, nhưng việc can thiệp vào tài sản tư nhân
ở đây liên quan đến việc từ chối chuyển nhượng quyền của chủ sở hữu để loại
trừ công chúng”.105 Dựa vào một phần vụ Nollan kiện Ủy ban Duyên hải
California106, tòa án kết luận rằng: việc áp đặt một biện pháp giảm nhẹ, và từ
chối quyền loại trừ sẽ có từ vụ kiện nêu trên, là một hành vi vi hiến.
Cuối cùng, đã có sự phản đối của Thẩm phán Scalia đối với việc Tòa án
tối cao Hoa Kỳ từ chối đơn yêu cầu một văn bản xác nhận trong vụ án Stevens:
“Không có lời khai nào trong hồ sơ này cho thấy việc sử dụng bãi biển hẹp ở
phía sau vịnh nhỏ. . . Học thuyết về tập quán được công bố ở [Thornton] đơn
giản là không áp dụng cho cuộc tranh luận này. . . bởi vì không có căn cứ thực
tế nào cho việc áp dụng học thuyết. ” 107 Thẩm phán Scalia sau đó kết luận rằng:
“học thuyết mới về “phong tục” là một điều hư cấu.108

IV. QUYỀN LOẠI TRỪ TRÊN PHẠM VI QUỐC TẾ

Quyền loại trừ đã đạt được vị thế quốc tế, theo quan điểm năm 1999 của
Tòa án Nhân quyền châu Âu, trong vụ Chassagnou và những người khác kiện
Pháp109. Trước Tòa án là Luật Verdeille của Pháp 110 (Chú thích người dịch :
Luật Verdeille năm 1964 cho phép những thợ săn là thành viên của A.C.C.A
được phép săn trên đất của người khác, ngay cả khi không có sự đồng ý của họ)
, nơi cung cấp việc tập hợp các bãi săn theo luật định. Tác động đối với các
nguyên đơn (ba nông dân) là buộc họ trở thành thành viên của Hiệp hội thợ săn
thành phố và chuyển giao quyền săn bắn cho hiệp hội, dẫn đến việc là tất cả các
thành viên của hiệp hội có thể phải sáp nhập tài sản của họ với mục đích săn

104
. Id. at 611 (quoting Bell v. Town of Wells, A.2d 168, 178 (Me.1989)).
105
. Id
106
. 483 U.S. 825 (1987).
107
. 114 S. Ct. at 1335.
108
. Id.
109
. 1999 Eur. Ct. H.R. (25088/94, 28331/95 and 28443/95) (April 29 1999).
110
. Law No. 64-696 of July 10, 1964.

21
bắn111. Chính phủ Pháp tuyên bố rằng việc can thiệp vào tài sản của người nộp
đơn là không đáng kể vì họ chưa bị tước quyền sử dụng tài sản của mình và tất
cả những gì họ mất là quyền ngăn cản người khác săn bắn trên đất của họ.
Tuy nhiên, tòa nhận ra rằng “Để đảm bảo lợi ích chung nhằm tránh nạn
săn bắn trái phép và thúc đẩy quản lý kho trữ thịt thú săn. 112” Sẽ là bất hợp lý
khi can thiệp vào quyền lợi được an yên cơ bản của người dân
Bất chấp những mục đích hợp pháp của Luật Verdeille khi nó được thông
qua, Tòa án đã đặt những người nộp đơn vào một tình huống làm đảo lộn
sự công bằng giữa việc bảo vệ quyền sở hữu và các yêu cầu của lợi ích
chung. Bắt buộc các người sở hữu đất nhỏ chuyển giao quyền săn bắn trên
đất của họ cho những người khác có thể sử dụng chúng theo cách trái
ngược hoàn toàn với tín ngưỡng của họ là tội lỗi không thể tha thứ được.113

V. KẾT LUẬN

Quyền loại trừ người khác của chủ đất là một phần cơ bản của Quyền Hiến
định cơ bản ngang nhau đối với việc hưởng thụ tài sản tư nhân. Quyền được nêu
rõ ràng trong các quyết định của Tòa án tối cao Hoa Kỳ, các tòa án phúc thẩm
liên bang và các tòa án phúc thẩm tiểu bang. Về mặt logic, Sự khôi phục của
Luật và các chuyên luận luật Hiến pháp được tôn trọng cũng kết luận rằng
quyền loại trừ là một quyền cơ bản. Đó là một quyền bổ trợ tư pháp và một
quyền cơ bản cho một xã hội tự do. Do đó, việc chủ trì các tòa án bang được
thảo luận ở trên đã làm là rất thích hợp, hãy quan tâm đến việc xây dựng hoặc
cải cách các học thuyết cổ xưa, chẳng hạn như phong tục trao cho người khác
quyền đi trên đất của người khác theo cách mà nếu không sẽ có xâm phạm. Các
học thuyết như tập quán và sự tín nhiệm của công chúng rất có thể là "nguyên
tắc cơ bản của luật tài sản nhà nước" 114 theo một số điều kiện được giới hạn
chính xác, nhưng nếu được thông qua một cách tùy tiện, chúng đe dọa sẽ nuốt

111
. See supra note 109, at para. 13.
112
. Id. at para. 79.
113
. Id. at para. 85. For a more detailed treatment of this case, see David L. Callies,
Case Note, Chassaghou and Others v. France, European Court of Human Rights, Apr.
29, 1999, 2 BUS. L. INT’L 109 (2000).
114
. Lucas v. South Carolina Coastal Council, 505 U.S. 1003 (1992)

22
chửng điều mà ít nhất là cho đến nay, là một quyền tài sản cơ bản được đảm bảo
bởi Tu chính án thứ năm của Hiến pháp Hoa Kỳ.115

115
. See, e.g., Callies, Bederman, and Sullivan, supra note 93.

23
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
1. Lê Ngọc Khánh Thy – 31191027187 – LQ001
2. Diệp Nguyễn Quế Trâm – 31191020485 – LQ001
3. Nguyễn Thị Thanh Trúc – 31191024787 – LQ001
PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ
Họ và tên Phân công Đánh giá
Lê Ngọc Khánh Thy Từ trang 39 đến 45 tại bản gốc Hoàn thành
Từ trang 2 đến đầu trang 8 tại bản tốt
dịch
 7 trang
Diệp Nguyễn Quế Trâm Từ trang 52 đến 56 và trang 58, 59 Hoàn thành
bản gốc tốt
Từ trang 15 đến trang 20 và trang
22, 23 tại bản dịch
 7 trang
Nguyễn Thị Thanh Trúc Từ trang 46 đến 51 và trang 57 tại Hoàn thành
bản gốc tốt
Từ trang 9 đến trang 14 và trang 21
tại bản dịch
 7 trang

24

You might also like