Professional Documents
Culture Documents
Roi Loan Toan Kiem Phoi Hop
Roi Loan Toan Kiem Phoi Hop
Giới thiệu
Rối loạn toan kiềm phối hợp là sự hiện diện đồng thời của ít nhất hai rối loạn tiên phát. Sự nhận biết
các rối loạn này dựa trên đáp ứng thứ phát của rối loạn toan kiềm đơn thuần, hầu hết các rối loạn phối hợp
được nhận ra là do đáp ứng thứ phát bất thường từ rối loạn tiên phát.
Ví dụ bệnh nhân nôn ói nhiều dẫn đến kiềm chuyển hóa, đây là rối loạn tiên phát, sẽ đáp ứng thứ phát
bằng cách tăng PaCO2, nhưng PaCO2 có thể tăng cao hơn hay thấp hơn mức cần bù, và có khi PaCO 2 thấp hơn
cả giới hạn bình thường nếu kèm kiềm hô hấp. Ảnh hưởng của các rối loạn phối hợp trên pH máu động mạch
phụ thuộc vào bản chất và độ nặng của mỗi rối loạn. Kết quả là pH máu có thể bình thường hoặc gần như bình
thường nếu hai rối loạn đối trọng nhau và sẽ toan hoặc kiềm hóa trầm trọng nếu hai rối loạn cộng hưởng nhau.
Rối loạn phối hợp có thể phát triển theo nhiều cách. Hai hay nhiều rối loạn toan kiềm có thể cùng tồn
tại trong một bệnh lý nền, như nhiễm trùng huyết vừa có kiềm hô hấp vừa có toan chuyển hóa. Ngoài ra, rối
loạn thứ hai có thể xuất hiện cấp tính ở bệnh nhân có sẵn một rối loạn nền ổn định, như bệnh nhân toan chuyển
hóa do bệnh thận mạn có thể xuất hiện kiềm chuyển hóa do nôn ói nhiều. Trường hợp khác là 2 rối loạn toan
kiềm độc lập xuất hiện đồng thời, như bệnh nhân có kiềm chuyển hóa do dẫn lưu dạ dày và toan hô hấp do
chấn thương phổi sau đa chấn thương. Rối loạn hỗn hợp dù nhẹ cũng cần được nhận diện nhanh chóng để định
hướng điều trị cũng như giúp chẩn đoán các bệnh nền. Để xác định chẩn đoán rối loạn phối hợp, ta có thể sử
dụng sơ đồ toan kiềm (hình 1) hay quy luật đáp ứng bù trừ (bảng 1), nhưng cả hai cách đó nên kết hợp với dữ
liệu lâm sàng để tránh các thiếu sót.
Hình 1: Sơ đồ các trường hợp toan kiềm: PaCO2, pH (trục tung bên phải) và nồng độ H+ (trục tung bên trái)
cho các rối loạn toan kiềm tiên phát. Khu vực được đánh dấu “N” ngay trung tâm thể hiện khu vực các giá trị
bình thường.
1
Bảng 1: Quy luật đáp ứng còn bù trừ trong rối loạn toan – kiềm
Rối loạn tiên phát Đáp ứng tương ứng
Toan chuyển hóa PaCO2 giảm mỗi 1.2 mmHg cho 1 mEq/L giảm HCO3-
Kiềm chuyển hóa PaCO2 tăng mỗi 0.7 mmHg cho 1 mEq/L tăng HCO3-
Toan hô hấp cấp HCO3- tăng mỗi 0.1 mEq/L cho 1 mmHg tăng PaCO2
Toan hô hấp mạn HCO3- tăng mỗi 0.4 mEq/L cho 1 mmHg tăng PaCO2
Kiềm hô hấp cấp HCO3- giảm mỗi 0.2 mEq/L cho 1 mmHg giảm PaCO2
Kiềm hô hấp mạn HCO3- giảm mỗi 0.4 mEq/L cho 1 mmHg giảm PaCO2
Tiếp cận bệnh nhân có rối loạn toan kiềm phối hợp
Cách tiếp cận một bệnh nhân nghi ngờ có bất cứ rối loạn toan kiềm nào cần kết hợp tất cả các dữ liệu lâm
sàng chứ không chỉ đánh giá dựa trên các thông số toan kiềm. Chẩn đoán cần dựa trên đánh giá toàn bộ bệnh
sử, khám lâm sàng cũng như các xét nghiệm sinh hóa, hình ảnh học vì có thể phát hiện các rối loạn tiềm tàng
ảnh hưởng đến cân bằng kiềm toan. Việc nhận ra rối loạn toan kiềm có tính biến đổi động rất quan trọng. Vì
vậy bất cứ khi nào có thể, việc đánh giá toan kiềm và điện giải nên được thực hiện vài lần trong quá trình
theo dõi bệnh. Tốt nhất là đánh giá kỹ tất cả các khí máu động mạch để phát hiện ra rối loạn phối hợp ngay khi
mới xuất hiện, cách tiếp cận này sẽ giúp cho ta chẩn đoán và xử trí chính xác các rối loạn toan kiềm phối hợp.
Công cụ để chẩn đoán rối loạn toan kiềm phối hợp
Việc chẩn đoán các rối loạn toan kiềm phối hợp cần sự kết nối kiến thức về đáp ứng thứ phát bình thường đối
với rối loạn toan kiềm đơn độc. Những đáp ứng mong đợi với mỗi rối loạn toan kiềm tiên phát được kết nối
trong biểu đồ đơn (hình 1) cung cấp những giá trị với khoảng tin cậy 95% (1). Những đáp ứng này cũng có thể
được đánh giá đơn giản bằng cách sử dụng “quy luật đáp ứng bù trừ” (bảng 1). Những quy luật này cho
phép tính toán nhanh tại giường bệnh giá trị đáp ứng thứ phát mong đợi cho mỗi rối loạn tiên phát. Tuy nhiên,
các quy luật này xác định giá trị trung bình hơn là phạm vi cho phép của sự thay đổi, và vì vậy tính toán này
nên được sử dụng như là hướng dẫn chung hơn là con số tính toán chính xác. Trong nhiều rối loạn toan kiềm
phối hợp giá trị PaCO2 hay [HCO3-] đo được lệch so với đáp ứng thứ phát bình thường một cách đáng kể và
chẩn đoán thì rõ ràng khi xem xét dựa trên quy luật đáp ứng bù trừ. Khi nghi ngờ có bất thường thì có thể sử
dụng biểu đồ ở hình 1 xem xét liệu giá trị có rơi ra ngoài khoảng đáp ứng thứ phát dự đoán không
Khoảng trống Anion:
Khoảng trống anion, một công cụ thêm vào để nhận ra sự hiện diện của hơn một rối loạn toan-kiềm.
Anion gap (mEq/L) = [Na+]- ([Cl-] + [HCO3-])
Giá trị bình thường: 8-12mEq/l, hầu hết các trường hợp tăng trong toan chuyển hóa, bất chấp nồng độ HCO 3-
huyết tương. Tuy nhiên, do sự thay đổi trong những thước đo khác nhau, chẩn đoán chắc chắn nếu > 17-
18mEq/l. Sử dụng anion gap để tìm ra sự hiện diện của những rối loạn hỗn hợp được bàn luận sau với những
rối loạn chuyển hóa acid-base hỗn hợp.
Bảng 2: Sự phân chia những rối loạn hỗn hợp và ví dụ
Những rối loạn hô hấp và chuyển hóa phối hợp
Bù trừ:
2
Toan hô hấp, kiềm chuyển hóa phối hợp
Bù trừ:
Đa rối loạn:
5
điều trị được. Kiềm chuyển hóa có thể được điều chỉnh hay cải thiện bằng các biện pháp can thiệp thích hợp
(ngưng lợi tiểu, điều chỉnh K+ và Cl-).
6
Một công cụ chủ chốt để xác định nhiễm toan và kiềm chuyển hóa kết hợp là phân tích mối quan hệ
giữa sự thay đổi nồng độ HCO3- huyết thanh và sự thay đổi khoảng trống anion. Công thức tính:
anion gap (mEq/L) = ([Na+] – ([Cl-] + [HCO3-])) -12
Trong công thức này 12 được cho là giá trị bình thường của khoảng trống anion. Trong thiết lập mà
khoảng trống anion tăng và nồng độ HCO 3- giảm, khoảng trống anion nên phù hợp với mức giảm nồng độ
HCO3- huyết thanh. Nếu khoảng trống anion lớn hơn nhiều so với sự giảm nồng độ HCO 3-, nó gợi ý rằng
nồng độ HCO3- đã > 24 mEq/L trước khi nhiễm toan chuyển hoá và tăng khoảng trống anion, và rằng có sự
hiện diện của rối loạn acid-base thứ phát ẩn, tức là kiềm chuyển hóa.
Những giả định dưới công thức này, và mặc dù không thỏa mãn tuyệt đối ở những bệnh nhân nhiễm
acid hữu cơ, chúng cũng gần đủ để sự khác biệt giữa tăng khoảng trống anion và giảm nồng độ HCO 3- làm nên
chẩn đoán rối loạn acid-base kết hợp. Trong trường hợp được chỉ ra ở hình 4, ví dụ, khoảng trống anion (30
– 12 = 18 mEq/L) vượt xa sự giảm nồng độ HCO 3- huyết thanh (24 - 20 = 4 mEq/L, có thể ước lượng nồng độ
HCO3- huyết thanh sẽ là 20 + 18 hay 38 mEq/l trước khi tăng khoảng trống anion.
Toan kiềm chuyển hóa hỗn hơp: Bệnh cảnh lâm sàng và các giá trị xét nghiệm điển hình
Rối loạn bù trừ
Bệnh cảnh lâm sàng kiểu mẫu: Giá trị toan kiểm đặc trưng
- pH: 7.37
- Toan xeton do rượu và nôn ói
- pCO2: 35 mmHg
- Suy thận cấp và rửa dạ dày
- HCO3- : 20 mEq/l
- Suy thận mạn và dùng lợi tiểu - AG (Anion Gap): 30 mEq/l
- AG: 18 mEq/l
Hình 4 ví dụ minh họa trường hợp toan kiềm chuyển hóa hỗn hợp
Tập hợp các dấu hiệu này thường xảy ra ở bệnh nhân đái tháo đường nhiễm toan cetone, có toan kiềm chuyển
hóa hỗn hợp. Tuy tỷ lệ trung bình giữa độ biến thiên AG và độ biến thiên Bicarbonat ở bệnh nhân toan xeton
do đái thái đường chưa biến chứng là gần bằng 1.0, nhưng vẫn có một khoảng biến thiên rộng. Nhìn chung, khi
tỷ lệ này > 1.2 là có thể nghĩ nhiều đến toan hiềm chuyển hóa hỗn hợp.
Điều trị
Nên điều trị đồng thời cả hai rối loạn: toan chuyển hóa và kiềm chuyển hóa .Chỉ định truyền muối đẳng
trương rất có hiệu quả trong đảo ngược cả hai thành phần của rối loạn này, đặc biệt trong trường hợp kiềm
7
chuyển hóa và toan lactic phối hợp. Nếu toan chuyển hóa được xử trí ngay (ví dụ như toan ceton do Đái tháo
đường) thì nên điều trị toan và kiềm cùng lúc. Đối với BN suy giảm chức năng thận, truyền muối đẳng trương
đon thuần có thể che đi tình trạng toan chuyển hóa nặng do làm giảm bài tiết acid và/hoặc giảm tái hấp thu
HCO3-. Đối với Bn suy thận nặng, không còn khả năng bài tiết HCO3- dư thừa nên việc điều trị kiềm chuyển
hóa là vô cùng khó khăn. Trong trường hợp này, lọc máu là một lựa chọn thích hợp.
Điều trị
Việc điều trị nên hướng vào việc tìm ra nguyên nhân gây ra kiềm hô hấp. Nếu tình trạng này đại diện
cho việc chức năng phổi được cải thiện, cần chắc chắn HCO3 - giảm tương ứng. Ngược lại, tức là trường hợp
chức năng thông khí không được cải thiện, nên dần cung cấp đủ Kali và Clo về giá trị bình thường mới phù
hợp với PCO2 mới . Nếu sự giảm nhanh đại diện cho bệnh lý cấp, việc điều trị nên tập trung vào vấn đề mới
này.
Rối loạn toan kiềm hô hấp hỗn hợp: Đặc điểm lâm sàng và những giá trị xét nghiệm điển hình
I. Rối loạn thứ phát:
Đặc điểm giá trị toan-kiềm
Toan hô hấp cấp và mãn
pH 7.27
Đặc điểm lâm sàng điển hình:
pCO2 76 mmHg
Suy hô hấp mạn kèm :
[HCO3 ]-
34 mEq/L
Viêm phổi chồng lên
Phù phổi chồng lên
với thở oxy lưu lượng cao
8
Rối loạn toan kiềm phức tạp đáng kể trên lâm sàng thì tương đối hiếm và thường xảy ra đối với những
bệnh nhân có nhiều vấn đề y khoa, hay gặp ở các đơn vị hồi sức tích cực. Rối loạn phức tạp thường gặp nhất
đó là sự tiến triển của toan hoặc kiềm hô hấp cấp ở những bệnh nhân đã có toan hoặc kiềm chuyển hóa hỗn
hợp. Ví dụ như một bệnh nhân có tình trạng toan chuyển hóa vì suy thận và kiềm chuyển hóa do nôn ói có thể
bị nhiễm trùng huyết gram âm và kiềm hô hấp chồng lên, hay là phù phổi nặng từ một biến chứng tim mạch
gây toan hô hấp cấp. Các rối loạn phức tạp thường tiến triển trong những trường hợp hồi sức tim mạch. Một
trường hợp khác mà trong đó nhiều rối loạn có thể cùng diễn ra đó là bệnh nhân toan hô hấp mạn và kiềm
chuyển hóa (do thuốc lợi tiểu) sẽ tiến triển đến toan hô hấp cấp như là một biến chứng mới.
Ở bệnh nhân có toan kiềm chuyển hóa hỗn hợp và rối loạn hô hấp chồng lên, phân tích khoảng trống anion
là một bước quan trọng trong việc phát hiện hai thành phần chuyển hóa của rối loạn kiềm toan. Nhận ra sự
hiện diện của nhiều rối loạn rất quan trọng cho quá trình điều trị. Mỗi rối loạn góp thêm vào nên được xem xét
để tiếp cận điều trị.
9
Câu hỏi thảo luận:
1. Dữ liệu về tình trạng toan kiềm này có phù hợp với bệnh nhân?
2. Dựa vào bệnh sử và cận lâm sàng, kiểu rối loạn toan kiềm nào trội hơn?
3. Đây là rối loạn đơn độc hay phối hợp?
4. Nguyên nhân gây ra rối loạn toan kiềm này và điều trị như thế nào?
Trảlời:
1. Số liệu toan kiềm là phù hợp vì: [HCO 3-] = 24 x 55/38 = 35 mEq/L. Vậy [HCO 3-] tính toán = [HCO3-]
đo được (toàn bộ CO2)
2. Dựa trên bệnh sử của bệnh nhân, rối loạn trội hơn có thể là kiềm chuyển hóa do vấn đề nôn ói hoặc là
toan hô hấp do cơn hen phế quản. Các xét nghiệm cho thấy sự tương hợp giữa kiềm chuyển hóa và toan
hô hấp, PaCO2 và [HCO3-] cùng cao nhưng pH máu bình thường
3. Đây là rối loạn phối hợp, ta có thể bắt đầu phân tích từ kiềm chuyển hóa hay toan hô hấp đều được. Đi
từ kiềm chuyển hóa, ta thấy mức độ thông khí đáp ứng mong đợi với sự tăng [HCO 3-] khoảng 11
mEq/L (từ giới hạn bình thường là 24-35 mEq/L) thì mức độ tăng PaCO 2 là 11 x 0.7 = 8 mmHg. Giả
định giá trị bình thường của PaCO 2 là 40 mmHg thì giá trị mong đợi của PaCO 2 phải là 40 + 8 = 48
mmHg. PaCO2 của bệnh nhân là 55 mmHg, cao hơn giá trị mong đợi 5 mmHg, chứng tỏ rối loạn toan
kiềm về hô hấp làm tăng thêm PaCO2. Ta cũng có thể có kết luận tương tự nếu bắt đầu phân tích từ
toan hô hấp. Trong trường hợp này, ta đánh giá liệu [HCO3-] tăng do bù trừ bởi hệ đệm trong tăng
carbonic máu cấp hay bù trừ bởi thận trong tăng carbonic máu mạn . Ta có thể loại trừ ngay toan hô
hấp đơn thuần trong trường hợp này vì bù trừ của hệ đệm làm tăng [HCO 3-] khoảng 1 mEq/L trên giá
trị bình thường khoảng 24 mEq/L. Quy luật của toan hô hấp mạn đơn thuần là [HCO 3-] tăng mỗi 3
mEq/L cho mỗi 10 mmHg ∆ PaCO2. Sử dụng quy luật này, [HCO3-] huyết thanh chỉ tăng khoảng 5
mEq/L ở bệnh nhân này, ít hơn nhiều so với mức tăng 11 mEq/L trên xét nghiệm. Do đó, đây là kiềm
chuyển hóa và toan hô hấp phối hợp.
4. Nôn ói gây kiềm chuyển hóa giảm Cl- , biểu hiện bởi [Cl-] thấp trong nước tiểu. Kiềm chuyển hóa ở
bệnh nhân này phức tạp vì bệnh nhân có tình trạng toan hô hấp mạn tính, nay tăng CO 2 cấp trong cơn
hen phế quản nặng. Bởi vì tình trạng kiềm chuyển hóa chồng lên nên ta không thể xác định chắc chắn
toan hô hấp này là mạn tính hay cấp tính. Sự giảm [Cl -] được xử trí bằng cách bổ sung KCl để tránh
quá tải dịch, và bệnh lý hen cần được điều trị phun khí dung thích hợp.
Ca lâm sàng số 2
Bệnh nhân nữ, 35 tuổi, được chuyển đến phòng cấp cứu trong tình trạng hôn mê. Theo lời kể của thân nhân,
bệnh nhân bắt đầu yếu dần từ 2 tháng nay. Qua thăm khám lâm sàng, bệnh nhân chỉ đáp ứng với kích thích đau, huyết
áp 110/70 mmHg, thở nông 10 lần/phút, không phù ngoại biên, phản xạ gân xương mất, sức cơ 0/5. Xét nghiệm sinh
hóa ban đầu được ghi nhận như sau:
10
Cl 52mEq/L
Khímáuđộngmạch
pH 6.88
H+ 132nEq/L
PaCO2 40 mmHg
PaO2 95 mmHg
HCO3- 7 mEq/L
11