You are on page 1of 15

Phương pháp nghệ thuật ngoại giao của Hồ Chí Minh "Dĩ bất biến ứng vạn biến",

"Hoà để tiến" giai đoạn 1945 -1946

Công tác chuẩn bị chu đáo, toàn diện, bền bỉ và nhạy bén nắm bắt thời cơ mà thực chất là
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan; giữa nội lực và
ngoại lực; giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… đã đóng vai trò là yếu tố nòng
cốt, góp phần tạo nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Phát huy thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới ngọn cờ lãnh đạo
của Đảng, công cuộc đổi mới toàn diện sau gần 30 năm qua đã tạo ra cho đất nước ta thế
và lực mới. Tuy nhiên, cùng với những thời cơ, vận hội thuận lợi, sự nghiệp cách mạng
của Đảng và nhân dân ta đang đứng trước không ít nguy cơ, thách thức: “Nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế… tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên… các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm
mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân
quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta…” . Do đó, để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi chúng ta cần tích cực nghiên cứu, vận
dụng tốt những bài học kinh nghiệm quý báu trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đặc
biệt là vấn đề ““kiên trì chuẩn bị chu đáo, nhạy bén nắm bắt thời cơ”- vấn đề có ý nghĩa
thực tiễn sâu sắc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ hiện nay, việc thường xuyên bồi
dưỡng thực lực của đất nước, tích cực ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, phát huy tối
đa những lợi thế so sánh gắn với tranh thủ những thời cơ, vận hội phát triển để “đi tắt đón
đầu”, biết sáng tạo và tận dụng thời cơ trong phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế… là cơ
sở để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước củng cố và tăng cường tiềm lực
quốc phòng quân sự để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phấn đấu vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nghệ thuật ngoại giao trong giai đoạn sau khi giành được độc lập dân tộc gắn liền với tên
tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như bài học kinh nghiệm trong công tác ngoại giao
để lại cho đời sau những câu chuyện ngoại giao đầy ý nghĩa - Đó là nghệ thuật “Dĩ bất
biến ứng vạn biến” mà cụ thể thể là giai đoạn Hồ Chí Minh lấy “Hòa để tiến” năm 1945 -
1946 cực kỳ đặc sắc và thú vị.
I. Bối cảnh quốc tế và trong nước giai đoạn 1945 – 1946
1. Bối cảnh quốc tế giai đoạn 1945 - 1946 

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi với nhịp độ cực
kỳ nhanh chóng. Các nước lớn điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Ở phe Đồng
Minh, quan hệ giữa các nước lớn dần chuyển từ hợp tác trong chiến tranh sang đối đầu
trong hòa bình. Trật tự thế giới thay đổi, hình thành hệ thống hai cực, đứng đầu là Mỹ và
Liên Xô.
Nước Mỹ sau chiến tranh, đặc biệt là sau khi tổng thống Truman lên cầm quyền (T4-
1945), dựa vào vị trí là quốc gia mạnh nhất về kinh tế, tài chính, quân sự, độc quyền về
vũ khí nguyên tử, chủ nợ chính của phần lớn các quốc gia Âu, Á, Mỹ Latinh trong thời
chiến, mưu đồ làm bá chủ thế giới. Để thực hiện mục tiêu chiến lược làm bá chủ thế giới
của mình, hoạt động ngoại giao của Mỹ bắt đầu hướng vào chống Liên Xô và phong trào
cách mạng thế giới, chống những diễn biến tích cực của phong trào giải phóng thuộc địa
nhằm thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân.
Liên xô sau chiến tranh, trở thành cường quốc hàng đầu Châu Âu. Tuy còn thua kém Mỹ
về tiềm lực kinh tế và vũ khí hạt nhân nhưng Liên Xô vẫn đóng một vai trò quyết định
cùng Mỹ giải quyết những vấn đề lớn về hòa bình, an ninh trong khu vực và trên thế giới.
Tại thời điểm này, các nước lớn trong phe Đồng Minh cũng ra sức củng cố lại hệ thống
thuộc địa. Anh và Pháp là hai cường quốc thắng trận nhưng trong thế suy yếu, chính trị
không ổn định nên cần phải nhanh chóng khôi phục lại nền kinh tế, ổn định chính trị và
duy trì vai trò cường quốc sau chiến tranh. Để làm được như vậy, Anh và Pháp phải bảo
vệ được hệ thống thuộc địa và khu vực ảnh hưởng của mình.
Trong khi đó ở Châu Á và Châu Phi, phong trào đấu tranh chống chiến tranh xâm lược và
sự thống trị, đô hộ của thực dân phương Tây trở nên vô cùng mạnh mẽ. Các cuộc đấu
tranh ở các nước diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng đều có chung một xu
hướng là hướng tới lật độ ách thống trị bên ngoài, giải phóng đất nước vốn và thuộc địa
của đế quốc, thực dân phương Tây. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
này dần lan sang Châu Âu và lan rộng toàn thế giới.
Như vậy, ta thấy được bối cảnh quốc tế trong những năm 1945 – 1946 có nhiều diễn biến
phức tạp tác động sâu sắc và rộng lớn tới nhiều mỗi quan hệ quốc tế và có tác động trực
tiếp đến tình hình ở Việt Nam.
2. Bối cảnh trong nước giai đoạn 1945 – 1946
Vào thời điểm đỉnh cao của cuộc chiến tranh thế giới, năm 1942, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ ra thời cơ và tiên đoán thời điểm cách mạng nước ta thành công “1945 – Việt Nam
độc lập”. Người kêu gọi đồng bào cả nước: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các
Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng
chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh!” Tới tháng
8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Đông Dương do lãnh tụ Hồ
Chí Minh đứng đầu – cuộc cách mạng nổ ra và giành được thắng lợi. Nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn thể nhân dân Việt Nam.
Những ngày đầu đất nước thành lập, chính quyền nhân dân phải đối mặt với nhiều thách
thức lớn. Đời sống kinh tế - xã hội đang rối loạn, suy sụp sau chiến tranh. Nạn khan hiếm
lương thực triền miên trong thời chiến đã đưa lại hậu quả trong những năm 1945, có hơn
hai triệu người chết đói; mọi hoạt động sản xuất, kinh tế, tài chính, thương mại đình đốn.
Hệ thống ngân hàng Đông Dương vẫn trong tay tư bản Pháp. Trong khi đó, quân Tưởng
cho lưu hành đồng tiền mất giá của Trung Quốc, tự ý quy định tỷ giá tiền quan kim và
tiền Đông Dương, làm lũng đoạn thị trường ở miền Bắc; chính sách ngu dân của thực dân
Pháp làm cho 95% dân ta mù chữ.
Một thách thức nữa mà nước ta gặp phải - đó là cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế
lực quân sự đối địch của các nước lớn đang có mặt tại nước ta. Ở phía Bắc, gần 2000
quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra,
mang theo các nhóm người Việt sống lưu vong ở Trung Quốc. Những nhóm người Việt
này thuộc các tổ chức Việt Cách, Việt Quốc do chính quyền Tưởng thu nạp và nuôi
dưỡng từ lâu. Phía Nam Việt Nam lúc này cũng có khoảng 26 nghìn quân Anh - Ấn vào
giải giáp quân đội Nhật.
Tháng 10/1945, Anh đã ký với Pháp hiệp định chính thức công nhận quyền dân sự của
Pháp tại Đông Dương. Ngày 1/1/1946, Anh ký hiệp định trao quyền cho Pháp giải giáp
quân đội Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Đổi lại, Pháp nhân nhượng cho Anh một số quyền
lợi ở Xyri và Libăng. Thêm vào đó, trong khoảng thời gian Nhật Bản chiếm đóng Đông
Dương, Pháp có khoảng 50 nghìn lính gồm tù binh đang bị Nhật giam giữ và tân binh
nằm rải rác ở các miền phụ cận Đông Dương. Sau chiến tranh, 1500 lính Pháp bị Nhật
giam giữ ở miền Nam Việt Nam trong cuộc đảo chính ngày 9/3/1945 được thả và vũ
trang trở lại. Quân viễn chinh mới của Pháp được gấp rút đưa vào miền Nam. Ngày
23/9/1945, Pháp mở cuộc xâm lược Việt Nam lần 2. Ngoài ra, còn khoảng 60 nghìn quân
Nhật ở Việt Nam chờ giải giáp lúc này.
Như vậy, bốn thế lực quân sự lớn đang chiếm đóng nước ta (Nhật, Anh, Pháp và lực
lượng Tưởng Giới Thạch) và bốn trong năm nước lớn là thành viên thường trực của Hội
đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang dính líu vào việc giải giáp cho Đông Dương với mục
tiêu duy nhất là tìm cách xóa chính quyền cách mạng, lập lại trật tự của thực dân phương
Tây tại đây. Nhìn tổng thể về kinh tế, tài chính, quân sự, tương quan lực lượng giữa ta và
các thế lực thù địch từ bên ngoài vào có sự chênh lệch rất lớn. Đất nước ta lại rơi vào tình
thế “châu chấu đá xe”.
Lúc này, chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao cùng Thường vụ Trung
ương Đảng đã sớm thấy khả năng dùng ngoại giao như vũ khí sắc bén tham gia năng
động vào quá trình tự bảo vệ thành quả cách mạng, chia rẽ, cô lập kẻ thù. Ngoại giao Việt
Nam từ những ngày đầu đã chủ động phát huy thế tiến công chống lại âm mưu, cạm bẫy
của kẻ thù, thực thi những nhiệm vụ to lớn tưởng chừng như khó có thể thực hiện được.
II. Phương pháp "dĩ bất biến ứng vạn biến", "hoà để tiến" của Hồ Chí Minh giai
đoạn 1945 -1946
1. Hoàn cảnh cụ thể, Hồ Chí Minh có những phương pháp hiệu quả
Ngày 02-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập ở Hà Nội, khai sinh
ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong khi đó thực dân Pháp vẫn đang mưu tính kế
hoạch để xâm lược Việt Nam. Từ năm 1946, thực dân Pháp và Tưởng Giới Thạch đã
mưu tính đưa quân Pháp ra miền Bắc để thay thế quân Tưởng. Trong tình hình đó Pháp
không thể mang quân thay thế quân tưởng mà không gặp sự cố chống đối mạnh mẽ của
ta, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương đàm phán với Pháp nhằm mục
đích để Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tưởng và tranh thủ thời gian hòa hoãn, bảo toàn
và cũng cố lực lượng để tổng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Nguyên tắc đàm phán với Pháp là: “Pháp thừa nhận quyền dân tộc và tự quyết của nhân
dân ta: chính phủ , quân đội, nghị viện, tài chính, ngoại giao… và sự thống nhất quốc gia
của ta” và “Điều cốt tử trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không
ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà
còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp
làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc”
Cuộc đàm phán giữa Chính phủ ta với Pháp diễn ra rất căng thẳng. Ta yêu cầu Pháp phải
công nhận quyền “độc lập” dân tộc, trong khi Pháp chỉ công nhận quyền “tự trị” một khái
niệm ta cương quyết phản đối. Cuối cùng, Pháp đã phải đồng ý với giải pháp do phái
đoàn ta đưa ra “Nước Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do”.
Ngày 06-3-1946, với sự có mặt của đại diện một số nước phái đoàn ta do Chủ tịch Hồ
Chí Minh dẫn đầu đã ký với đại diện Chính phủ Pháp Sainteny bản Hiệp định sơ bộ. Nội
dung chính của Hiệp định là:
Một là Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một quốc gia tự
do, có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương
và trong khối Liên Hiệp Pháp. Nước Pháp thừa nhận việc thống nhất ba kỳ do nhân dân
Hai là Chính phủ Việt Nam chấp nhận Pháp đưa 15.000 quân ra miền Bắc để thay thế
nhiệm vụ của quân Tưởng. Quân Pháp sẽ rút dần mỗi năm 1/5 quân số khỏi khu vực này
và sẽ hoàn tất việc rút quân trong vòng 5 năm.
Ba là hai bên ngừng xung đột, giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ. Tiếp tục mở các cuộc
điều đình thương lượng về các vấn đề ngoại giao của Việt Nam, tương lai của Đông
Dương, những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam.
Hình ảnh Hồ Chí Minh ký Hiệp ước Sơ bộ
Dù đã ký kết Hiệp định sơ bộ, nhưng thực dân Pháp vẫn trì hoãn thi hành những điều
khoản đã ký kết và luôn vi phạm Hiệp định. Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đấu
tranh đòi Pháp phải thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản đã ký và phải nhanh chóng mở
cuộc đàm phán chính thức như đã thỏa thuận.
Trong thời điểm “Vận mệnh dân tộc ngàn cân treo sợi tóc” mà Người sang Pháp để cứu
vãn nền hòa bình, Ngày 31-5 , Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang thăm nước Pháp
theo lời mời của Chính phủ Pháp. Cùng ngày, phái đoàn Chính phủ ta cũng lên đường
sang Pháp để đàm phán chính thức. Cuộc đàm phán ở Fontainebleau diễn ra từ tháng 7
đến tháng 9-1946, do phía Pháp không từ bỏ tham vọng của mình ở Đông Dương, nên
các cuộc đàm phán đều bế tắc. Trước lúc Bác Hồ sang Pháp với tư cách là thượng khách
của Chính phủ Pháp, Bác Hồ đã dặn cụ Huỳnh Thúc Kháng: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân
giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết
cho, mong Cụ “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”- lấy điều không đổi ứng phó với vạn điều thay
đổi để thực hiện điều không đổi.
2. Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” ở Hồ Chí Minh xuyên suốt quá trình ngoại
giao 1945 - 1946
Trong triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” ở Hồ Chí Minh cho thấy có năm cái lớn, cơ bản
gắn bó chặt chẽ, quan hệ mật thiết với nhau và cùng quy định đến sự tồn vong của quốc
gia, dân tộc và hạnh phúc của nhân dân đó là: Độc lập, dân chủ, giàu mạnh, tự do và hạnh
phúc. Năm nội dung này được phân chia thành hai cấp độ: Cấp độ thứ nhất: Độc lập; Cấp
độ thứ hai: Dân chủ, giàu mạnh, tự do và hạnh phúc.
Trong hai cấp độ trên thì cấp độ thứ nhất giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, đầu tiên là phải
độc lập. Vì không có độc lập là vong quốc, bị kẻ thù xâm lược và đô hộ, nhân dân bị áp
bức và bóc lột thì lấy đâu ra tự do, dân chủ, hạnh phúc và giàu mạnh. Cho nên, độc lập là
cái bất biến cao nhất và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Thấu hiểu tình cảnh
nước mất nhà tan, xã hội điêu linh, nhân dân lầm than mà Hồ Chí Minh đã ra đi tìm
đường cứu nước cũng là mong sao giành được độc lập cho dân tộc. Người khẳng định:
“Cái mà tôi cần nhất là Tổ quốc tôi được độc lập; dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, trong Tuyên ngôn độc lập, Người tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế
giới rằng: Bằng mọi giá phải giữ vững thành quả cách mạng “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Khi thực dân Pháp âm
mưu muốn cướp nước ta một lần nữa thì trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, một
lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định dứt khoát “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó cũng là tinh thần quật
cường “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” bởi với Hồ Chí Minh chỉ có một chân lý đó là
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Độc lập tự do luôn là phương châm của tư tưởng Hồ Chí Minh


Khi giải quyết được cấp độ thứ nhất thì đây là cơ sở, tiền đề để giải quyết cấp độ thứ hai.
Theo Hồ Chí Minh, có độc lập rồi phải lập tức xây dựng nhà nước dân chủ đích thực.
Nghĩa là phải xây dựng một nhà nước kiểu mới thật sự của dân, do dân và vì dân. Nói
tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Có như vậy mới đem lại tự do, hạnh
phúc cho dân vì theo Người “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì
độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì” Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu
giành độc lập. Chúng ta đã giành được rồi...Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà
dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của
tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” Bác cho rằng thắng đế quốc, phong
kiến còn tương đối dễ nhưng thắng bần cùng, nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn nhiều. Đây
là cuộc chiến khó khăn nhất, sâu sắc nhất, gay go nhất, gian khổ nhất nhưng cũng vinh
quang nhất.
Khi các yếu tố trong cấp độ thứ hai như dân chủ, tự do, giàu mạnh, hạnh phúc được thực
hiện tốt đến lượt nó tác động trở lại cấp độ thứ nhất làm cho độc lập dân tộc càng được
giữ vững, cái bất biến càng trở nên trường tồn, vĩnh hằng. Có độc lập, hoà bình thì tiếp
theo phải làm cho nước nhà được giàu mạnh. Dân có giàu, nước có mạnh, trên dưới đoàn
kết thống nhất một lòng, nhân dân tuyệt đối tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng thì
mới có đủ thực lực giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và không bị lệ thuộc
trên bất kỳ phương diện nào từ những thế lực cường quyền nào cũng như vững vàng vượt
qua những âm mưu, thủ đoạn chống phá từ những lực lượng thù địch trong và ngoài
nước.
Trong triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” nội dung cốt lõi là để đảm bảo giữ vững cái bất
biến thì có thể thực hiện bằng nhiều con đường, cách thức khác nhau để cuối cùng vẫn
quay về với cái bất biến. Điều này đã được Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng tài tình
trong giai đoạn cách mạng 1945-1946 thông qua việc ký Hiệp định sơ bộ 06/3/1946 và
Tạm ước 14/9/1946. 

Hình ảnh Hồ Chí Minh sang Pháp ký Tạm ước 1946


Một trong những bài học về ngoại giao trong những năm 1945 – 1946 vẫn còn nguyên
giá trị cho tới ngày nay. Trong đó đỉnh cao là bản tạm ước ngày 14/9/1946 do Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp M.Moutet ký bản Tạm ước: Hòa để tiến tại
Paris, cùng hàng loạt các hoạt động ngoại giao đầy sáng tạo và khôn khéo của Đảng ta
sau Cách mạng tháng Tám thành công. Tất cả những hoạt động ngoại giao đó đều nằm
trong chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam, được đưa ra thông qua chỉ thị “Hòa để
tiến”, nhằm nhắc nhở nhân dân ta sẵn sàng đối phó với những hành vi xâm phạm hiệp
định Sơ bộ mới kí ngày 06/3/1946, hòa hoãn Tưởng ở miền Bắc để đánh Pháp ở miền
Nam, hạn chế sự phá hoại của Tưởng và tay sai từ tháng 9/1945 đến 06/3/1945, hoà với
Pháp để đuổi Tưởng, tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng để sẵn sàng cho cuộc kháng
chiến toàn quốc từ 6/3/1946 đến tháng12/1946. Như vậy, cách mạng tháng tám thành
công nhưng nước ta chưa hoàn toàn được độc lập, Đảng và nhân dân ta vẫn phải cố gắng
tăng gia sản xuất, động viên toàn lực chiến đấu, tất cả thực hiện theo chỉ thị hòa để tiến
của Đảng cộng sản Việt Nam.
Mục đích hòa hoãn với Pháp, tránh tình thế bất lợi: phải cô lập chiến đấu cùng một lúc
với nhiều lực lượng phản động (thực dân Pháp, Tàu trắng, bọn phản cách mạng trong
nước), chúng sẽ đúc thành một khối và được bọn đế quốc Anh, Mỹ giúp sức để đánh ta
trong khi các lực lượng hoà bình, tự do và tiến bộ trên thế giới (như Liên Xô, phong trào
cộng sản ở Tàu và Pháp, cách mạng thuộc địa) chưa thể trực tiếp giúp ta được. Bảo toàn
thực lực dành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã chiếm được, chấn chỉnh
đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào. Tóm lại để chuẩn
bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới. Chọn giải pháp thương
lượng với Pháp, Đảng ta nhằm mục đích: buộc quân Tưởng rút ngay về nước, tránh tình
trạng một lúc phải đối đầu với nhiều kẻ thù, bảo toàn thực lực, tranh thủ thời gian hoà
hoãn để chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới, tiến lên giành thắng lợi. Lập trường của ta
trong cuộc đàm phán với Pháp được Ban Thường vụ Trung ương xác định là: độc lập
nhưng liên minh với Pháp. Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của ta: chính phủ,
quân đội, nghị viện, tài chính, ngoại giao và sự thống nhất quốc gia của ta. Đảng ta đã
nhấn mạnh, trong khi mở cuộc đàm phán ta phải "không những không ngừng một phút
công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn phải hết sức
xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt
tinh thần
Sau bản Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp, muốn hoàn toàn giải phóng cho Tổ quốc phải chống
chủ nghĩa thực dân. Song lúc này chính thực dân Pháp đã bỏ tham vọng đô hộ ta như
trước và nhận nguyên tắc tự chủ và thống nhất dân tộc của ta. Kẻ thù cụ thể trước mắt ta
lúc này là bọn phản động Pháp (La Réaction Franỗaise) nghĩa là bộ phận đế quốc phát xít
Pháp còn sót lại. Bọn này ở Pháp đang dùng nhiều cách ngǎn cản phong trào tân dân chủ
Pháp và liên lạc với phe phản động Anh, Mỹ bao vây Liên Xô và ở Đông Dương chúng
định đặt lại ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc Pháp lên cổ dân tộc ta như cũ, phá sự
thống nhất dân tộc của ta và ngǎn cản cuộc tranh đấu của ta giành hoàn toàn độc lập. Bởi
vậy những vấn đề cấp thiết đặt ra lúc này là: - Đổi tên Mặt trận dân tộc thống nhất chống
thực dân Pháp xâm lược thành Mặt trận dân tộc thống nhất chống phản động và giành
độc lập hoàn toàn. Xem xét lại những khẩu hiệu tuyên truyền cổ động. Những hình thức
tổ chức và tranh đấu, đặng kịp thời thay đổi cho hợp với tình hình mới. Cuộc tranh đấu về
quân sự phải chuyển thành cuộc tranh đấu về chính trị, kinh tế và vǎn hoá (đành rằng
thực lực quân sự vẫn phải duy trì bồi cấp và việc chuẩn bị quân sự đề phòng mọi bất trắc
vẫn phải xúc tiến như thường).
Nhiệm vụ của ta sau khi kí Hiệp định sơ bộ - Chỉ thị “hòa để tiến” của Ban Thường vụ
Trung ương Đảng đã nêu rõ những nhiệm vụ, vạch ra hướng đi đúng đắn để ta đạt được
thắng lợi, một chủ trương mới kèm theo những công tác mới. Khai hội, làm mít tinh, căn
cứ vào bản “tình hình và chủ trương” (03/3/1946) mà giải thích cho mặt trận và quần
chúng không tổ chức hiểu rõ tại sao giảng hòa với Pháp trong những điều kiện của bản
Hiệp định sơ bộ là đúng. Đề phòng thực dân pháp bội ước hoặc giải thích Hiệp định sơ bộ
chệch đi hoặc lợi dụng những chỗ không được chặt chẽ của bản hiệp định ấy mà hành
động theo ý muốn. Sau khi đổ bộ và đóng tại các nơi căn cứ rồi, rất có thể bọn thực dân
pháp quay ra kiếm chuyện tiến công ta để lật đổ chính quyền nhân dân, cho bọn bù nhìn
Việt gian thân pháp lên thay. Bởi vậy, ta vẫn phải tiếp tục những việc chuẩn bị cho kháng
chiến lâu dài, nhưng phải làm kín đáo để tránh mọi sự hiểu lầm giữa ta và pháp. Ta cần
giữ thái độ bình tĩnh và nhã nhặn đối với lính pháp, tổ chức những ủy ban liên lạc giữ
việc giao thiệp, song song với đó phải vận động lính pháp và quần chúng địa phương
nhằm kéo lính pháp về ảnh hưởng của mình, mặt khác nhằm bao vây quân đội pháp bằng
một vòng vây Việt Minh mạnh mẽ. Đối với Tàu cho khéo, tránh để Tàu có cảm giác
quyền lợi của mình ở Đông Dương bị ảnh hưởng. Chống lại những hành động của các
đảng phái phản động nhằm ly gián ta, hòng phá hiệp định Việt-Pháp. Muốn làm tròn
những nhiệm vụ trên, phải lợi dụng triệt để lúc giảng hòa với pháp mà nối lại các dây liên
lạc ở cả Bắc, Trung, Nam và các Đảng (Việt, Miên, Lào) cho chặt chẽ, đào tạo cán bộ,
phát triển cơ sở, củng cố phong trào, cụ thể: Bài trừ mọi chủ trương hành động khiêu
khích, chia rẽ ta với Tàu, ta với pháp, làm khó dễ cho chính phủ, phá công cuộc ngoại
giao giữa ta và Tàu, Pháp, phá chính sách của đoàn thể. Bài trừ xu hướng bi quan cho
rằng hiệp định này chỉ là một thủ đoạn tạm thời hòa hoãn chứ chẳng có kết quả gì và ta
ký với pháp là vì không đủ điều kiện đánh nên phải hàng pháp… Chú ý công tác đào tạo
cán bộ chính trị và quân sự để lãnh đạo phong trào mới và điều khiển đạo quân một vạn
do ta mộ như “phụ khoản “của hiệp định đã nói. Phát triển và kiện toàn các tổ chức của
Đảng Tuyên truyền và xây dựng cơ sở đảng trong đám người Tây ở Đông Dương, mật
thiết lien lạc với các phần tử hay đoàn thể cấp tiến Pháp. Mở rộng sự hoạt động của “Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương” để thu hút dông quần chúng về ảnh hưởng
Đảng và xúc tiến việc tranh đấu chống “chủ nghĩa Các Mác cải lương” hay “chủ nghĩa
cộng sản thuộc địa” và “chủ nghĩa cơ hội”. Ở Nam Bộ, một mặt chúng ta phải đòi Pháp
thi hành ngay hiệp định đình chiến và phải thừa nhận quyền hợp pháp của Việt Minh
trong các thành phố ở Nam Bộ mà Pháp đóng, một mặt phải lợi dụng những phút nghỉ
ngơi mà bí mật phái cán bộ vào các thành phố do pháp đóng để gây một phong trào mạnh
mẽ đòi thống nhất với Trung, Bắc Bộ. Cùng với đó, phải giải thích cho đồng bào Nam Bộ
và các chiến sĩ ngoài mặt trận nhận rõ chiến thuật “hòa để tiến” của ta và phục tùng chính
phủ do Hồ chủ tịch lãnh đạo.
3. Tác động của phương pháp
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời Nhà nước ta luôn chủ trương lấy việc xây dựng thực lực
là căn bản; trong quan hệ quốc tế luôn coi trọng việc xử lý quan hệ với các nước lớn, các
nước láng giềng và các dân tộc bị áp bức; nền tảng chung là hợp tác bình đẳng. Đồng
thời, Đảng ta đã đề ra nhiều phương châm hành động phù hợp: "thực lực bản thân là
quyết định"; "mâu thuẫn giữa các phe là điều cần lợi dụng"; "tránh các trường hợp một
mình đối phó với nhiều lực lượng"; về phương pháp thì "kết hợp kiên quyết với êm dịu";
"hòa để tiến", nghĩa là tạm thời thỏa hiệp, hòa hoãn để xây dựng thực lực, tiến lên giành
thắng lợi mới. Những nhận định, chủ trương, phương châm nói trên đã được thể hiện
nhuần nhuyễn trong các hoạt động ngoại giao dồn dập vào năm 1945 - 1946 và cả trong
những năm tháng sau này. Trước hết là chủ trương lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước
mưu toan xâm hại lợi ích nước ta để "bớt thù", tập trung sức lực đối phó với đối thủ chủ
yếu, khéo léo thể hiện qua việc đẩy quân Tưởng về nước, tập trung sức lực đối phó với
thực dân Pháp. Trong Hiệp định sơ bộ 06/3 cũng như Tạm ước 14/9, cái bất biến là ta đòi
Pháp phải công nhận nền độc lập và thống nhất của nước nhà. Tuy nhiên, trong tương
quan lực lượng lúc bấy giờ ta đã phải thỏa hiệp trong một số vấn đề như thay vì ghi quy
định Pháp công nhận nước Việt Nam là "độc lập", Hiệp định mới chỉ ghi công nhận nước
Việt Nam "tự do" nhưng thực chất vẫn là độc lập vì có chính phủ, nghị viện, quân đội và
tài chính riêng; riêng vấn đề thống nhất ba kỳ Trung-Nam-Bắc sẽ được giải quyết qua
cuộc trưng cầu dân ý và Pháp sẽ thừa nhận kết quả; phía ta chấp nhận nằm trong Liên
hiệp Pháp và quân Pháp thay thế quân Tưởng… Đúng như ta dự đoán, Hiệp định tạm thời
chưa ráo mực, thực dân Pháp đã vi phạm thô bạo, song ta vẫn kiên trì thương lượng. Tiếp
sau thất bại của các Hội nghị Đà Lạt và Hội nghị Fontainebleau, Hồ Chủ tịch đã ký Tạm
ước 14/9 cốt để tạm đẩy lùi nguy cơ xung đột lớn, tranh thủ thêm thời gian xây dựng lực
lượng. Tất nhiên những bước đi sách lược như vậy không phải mọi người đều hiểu. Ấy là
chưa kể bọn phản động đội lốt "yêu nước" ra sức xuyên tạc, chống phá. Trước tình hình
đó, ngày 09/3 Thường vụ TW Đảng đã phải ra chỉ thị "Hòa để tiến" giải thích tình hình
và chủ trương của ta. Hồ Chủ tịch căn dặn "Muốn đi cho đúng với thời cuộc, chúng ta
nên đặt lý trí lên trên tình cảm". Mặc dầu ta đã nỗ lực đến mức tối đa để vãn hồi hòa bình,
song thực dân Pháp vẫn không rời bỏ dã tâm một lần nữa đô hộ đất nước ta. Theo tiếng
gọi của Hồ Chủ tịch, toàn dân ta đã đồng tâm hiệp lực đi vào cuộc kháng chiến trường
kỳ. Cần nói thêm, song song với tuyến đấu tranh trực diện với thực dân Pháp, ta đã nỗ lực
hết mình trên các tuyến hỗ trợ. Ngay từ lúc ấy đã hình thành tư tưởng mà ngày nay ta gọi
là "đa dạng hóa" theo tinh thần "Nước Việt Nam sẵn sàng làm bạn với mọi nước dân chủ
và không gây thù oán với một ai", tiến hành hoạt động "ngoại giao nhân dân" và "ngoại
giao kinh tế", thực thi chính sách "mở cửa với bên ngoài"… Trong những năm đã qua,
thế và lực của nước ta đã khác hẳn trước, cục diện thế giới và khu vực cũng có nhiều
chuyển biến sâu sắc, tuy nhiên, những bài học ngoại giao trong các năm 1945-1946 vẫn
còn nguyên giá trị trong chặng đường phát triển tiếp theo của cả dân tộc
Chỉ thị hòa để tiến ngày 09- 3- 1946 là một trong những chỉ thị đã thể hiện được sự sáng
suốt, linh hoạt, chủ động trước tình hình mới trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta đặt
dưới sự chỉ huy của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vĩ đại. Với chỉ thị này ta đã triệt để lợi dụng
được mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính ở đây là thực dân
Pháp xâm lược, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu
tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó, việc hòa hoãn tạm thời
với Pháp giúp chúng ta có thời gian xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân
để chuẩn bị cho mục đích cuối cùng và duy nhất của ta chính là làm cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc. Như vậy, có thể khẳng định chỉ thị hòa để tiến là một minh chứng hùng
hồn: Đảng ta là một Đảng vững mạnh, hoàn toàn có đủ khả năng lãnh đạo cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc đi đến chiến thắng cuối cùng.
III. Ý nghĩa và nhận định về phương pháp
1. Ý nghĩa chiến lược “Hoà để tiến” và “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng
HCM giai đoạn 1945 đến 1946
“Hoà để tiến” và “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là hai chiến lược cực kì sáng suốt và độc đáo
của chủ tịch Hồ Chí Minh, mang đậm đặc trưng sáng tạo, mềm dẻo, linh hoạt mà khoa
học của Chủ tịch. Ví dụ như, “Hoà để tiến” đã từng là chính sách tạo nên xu hướng tả
khuynh, phản đối khá nhiều trong nội bộ. Hầu hết họ là những người yêu nước, nhưng
còn nôn nóng và chưa chịu suy xét kĩ vấn đề, hoặc giả trong số họ cũng trộn lẫn những
con người mang tư tưởng trái ngược, cố tình chống đối và lợi dụng sự nôn nóng đó của
cán bộ để gây cản trở. Một đoạn thoại nhỏ như thế này đã được truyền ra: có người đến
chất vấn Hồ Chủ tịch, Người không giải thích mà chỉ nói: “Phân trước khi bón lúa có bẩn
không? Nhưng dùng bón lúa tốt thì có dùng không?”. Người còn nói: “Trước khi bú no
sữa mẹ, xin anh hãy nghĩ đến cái khát cháy họng đã. Tôi yêu cầu đồng chí hãy bình tĩnh,
đừng mắc mưu khêu khích do quân Tưởng bày đặt ra. Kiên nhẫn không phải ngoan
ngoãn, dễ bảo, đó là một hình thức đấu tranh.”
Tất cả những gì đại diện cho sự khéo léo và sáng suốt của tư tưởng của Hồ Chí Minh đã
được thể hiện qua đôi câu nói ấy. Một câu như là nói lên cái sự thật hiển nhiên, là điều
hợp lí, là chuyện làm đúng, một câu là phân tách thật rõ ràng giữa hai phạm trù kiên nhẫn
và dễ sai khiến. Và sự đúng đắn của những chính sách này đã được chứng minh qua sự
thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kì. Trải qua hơn bảy thập kỉ sau ngày chiến thắng
đó, “Hoà để tiến” và “Dĩ bất biến ứng vạn biến” cho đến tận ngày nay vẫn là những bài
học vô cùng quý giá về sự ứng biến thù trong giặc ngoài, vận dụng các cách thức sáng tạo
mà vẫn giữ nguyên cái cốt lõi để có thể tiếp tục sự nghiệp cách mạng lâu dài của dân tộc.
Giá trị mà hai chiến lược này mang lại trong giai đoạn 1945 - 1946 ấy thực chất vẫn còn
tồn tại trường kì kể cả trong thời đại ngày nay.
2. Nhận định về phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến” và “hòa để tiến” của chủ
tịch Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ sáng suốt với tầm nhìn triệt để trong công cuộc xây dựng
đường lối và định hướng cho cách mạng Việt Nam. Bác đã cho thấy rằng người làm cách
mạng phải sáng tạo ra các hình thức, biện pháp để xử trí các tình huống cách mạng, để
đưa cách mạng đến thành công. Vận dụng trong đấu tranh cách mạng, phương châm này
đòi hỏi phải nắm vững nguyên tắc cách mạng đồng thời phải có sự khôn khéo, mềm dẻo,
linh hoạt về sách lược để đối phó với những âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.
Hai phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến” và “hòa để tiến” trong thời kì cách mạng
ngày ấy là một cách xoay vòng chiến lược đầy gian nan, khi tâm thế nước ta nằm trong
vòng vây của nhiều thế lực thù địch. Nhưng cái đích của cách mạng đã vạch sẵn là nhất
định thành công, nên ta phải tùy cơ ứng biến và có một lựa chọn đúng đắn cho bước đi
của mình. Việc hòa Pháp đánh Tưởng hay hòa Tưởng đuổi Pháp đều phải trải qua một
quá trình phân tích tỉ mỉ và kế hoạch cặn kẽ về ta và địch, về lợi thế và yếu điểm của ta,
dựa trên cái “bất biến” là sự thành công của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã rất
sáng tạo kết hợp nhuần nhuyễn hai phương pháp này trong cuộc đấu tranh đánh đổ thực
dân, và cả sau này trong cuộc cách mạng chống Mỹ, chúng ta cũng dựa trên những
phương pháp này để định hình chiến lược cách mạng, giành lại độc lập và xây dựng
chính quyền xã hội chủ nghĩa.
Cho đến nay, trong việc hội nhập quốc tế ngày càng phổ biến, thì hai phương pháp này
vẫn được Đảng và Nhà nước ta áp dụng trong việc quản lý và phát triển đất nước. Chúng
ta lấy rõ công cuộc xây dựng chế độ XHCN làm mục tiêu đưa đất nước đi lên, từ đó đặt
ra các chính sách để đi đến mục đích ấy. Bất kỳ một quyết định nào dù đối nội hay đối
ngoại cũng cần sự suy xét, phân tích lợi hại của các nguyên thủ quốc gia, lấy lợi ích đất
nước làm trên hết. Chính sách ngoại giao phải biết tiến, biết lùi đúng lúc, không vì cá
nhân mà tổn hại tập thể. Đồng thời cũng phải biết vận dụng phương pháp cách sáng tạo
linh hoạt, không cứng nhắc, mù quáng.
Tóm lại, phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến” và “hòa để tiến” của Hồ Chí Minh là
hai phương pháp chính trị đúng đắn, sáng tạo, có vai trò quan trọng trong thời kỳ lịch sử
của nước ta, song song đó cũng là một kinh nghiệm quý báu trong việc xây dựng đất
nước ngày nay của Đảng và Nhà nước.
IV. Kết luận

Từ triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" này đã dẫn đến triết lý hành động ở Hồ Chí Minh.
Ngay chữ "dĩ" cũng nói lên triết lý không phải để triết lý, mà triết lý phải dẫn đến làm,
đến hành động. Đó cũng là triết lý hành động. Triết lý hành động là triết lý và hành động,
nói và làm, lý luận và thực tiễn liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Trong
lịch sử ta thấy có nhiều triết lý tách rời khỏi hành động, nói không đi đôi với làm, lý luận
xa rời cuộc sống, chẳng hạn như triết lý của một số nhà tư tưởng Tây Âu thời trung cổ
nhằm phục vụ cho mục đích của thần học và tôn giáo; triết lý tư biện theo kiểu trò chơi
của những khái niệm (chơi chữ); triết lý của một số nhà không tưởng; ... Học thuyết của
họ đẹp thì có đẹp, hay thì có hay, nhưng không gắn với hoạt động, hành động thực tiễn
mà đôi khi chúng trở thành trò chơi của lý trí, trí tuệ thuần túy. Ngay giai cấp tư sản hô
hào, giương cao triết lý về tự do, bình đẳng, bác ái, nhưng sau khi đánh đổ giai cấp phong
kiến thì nó lại phớt lờ triết lý mà nó nêu lên ban đầu. Nói thì hay nhưng về sau không
thực hiện là vì quyền lợi ích kỷ của nó. Lý luận của các nhà triết học trước Mác chủ yếu
chỉ là giải thích, lý giải thế giới chứ không gắn liền với nhiệm vụ cải tạo, cải biến thế
giới. Chính vì vậy, sự xuất hiện của triết học Mác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong
triết học nói chung và trong triết lý hành động nói riêng vì nó không chỉ giải thích mà còn
quyết tâm cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn của con người.
Như vậy, triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những tinh hoa của triết học
Đông Tây trước đây mà còn kế thừa những tinh túy của triết học Mác - Lê-nin và đưa
triết lý hành động lên tầm cao mới, trong đó triết lý và hành động, nói và làm, lý luận và
thực tiễn không tách rời nhau, tạo nên một khối thống nhất. Điều này thể hiện rõ khi
Người cho rằng lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải đi đôi với hành. Thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng bởi lẽ khi đó thực tiễn không
biết đi theo hướng nào, không biết đi về đâu giống như con tàu giữa biển khơi mù mịt
nhưng lại không có la bàn. Còn lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông,
tức lý luận để mà lý luận, lý luận trở thành trò chơi của lý tính và lý trí. Người còn ví
không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi; lý luận và kinh nghiệm như hai con
mắt của con người, có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt
mờ. Bơm to, thổi phồng kinh nghiệm sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa; ngược lại,
bơm to, thổi phồng lý luận sẽ rơi vào bệnh giáo điều, kinh viện. Đó là hai loại bệnh tương
đối phổ biến ở nước ta trước kia và hiện nay vẫn còn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Phương châm của Người là độc thư bất vong cứu quốc, cứu quốc bất vong độc thư, nghĩa
là đọc sách không quên cứu nước, đọc sách không chỉ nâng cao tầm hiểu biết, rèn luyện
trí tuệ mà phải hướng đến cứu nước cứu người; cứu nước không quên đọc sách, tức cứu
nước không quên nâng cao trí tuệ. Qua đây, ta thấy người cách mạng và người trí thức
hòa quyện vào nhau, trong người cách mạng có người trí thức, trong người trí thức có
người cách mạng, người cách mạng phải có trí tuệ, còn người trí thức phải phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, người trí thức của nhân dân.
Triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" ở Hồ Chí Minh đồng thời cũng là triết lý hành động,
gắn với hành động bởi lẽ vì cái bất biến đó mà Người rời bỏ quê hương ra đi tìm đường
cứu nước lúc mới hai mươi mốt tuổi; và cũng chính vì cái bất biến đó mà Người đã hy
sinh cả cuộc đời mình cho dân tộc, đặt lợi ích của dân, của nước lên trên hết, suốt đời hết
lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Mỗi triết lý hành động đồng thời cũng là một triết lý sống, quy định một phong cách sống
tương ứng. Triết lý hành động "Dĩ bất biến ứng vạn biến" đồng thời cũng là triết lý sống
"Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm" (Lấy tâm của mọi người làm tâm của mình). Để đi sâu vào triết
lý sống này ta hãy xem tâm, lòng mong muốn của người dân Việt Nam khi đó là gì? Đó
là nước được độc lập, dân được tự do, mọi người được hạnh phúc. Bác đã lấy cái tâm
(mong muốn) của mọi người làm cái tâm (mong muốn) của mình khi Người viết: "Tôi chỉ
có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Bác đã lấy tâm của mọi người làm tâm của mình bằng những hoạt động thiết thực,
cụ thể như ra đi tìm đường cứu nước và khi đã tìm được cái "cẩm nang" thì trở về nước
thức tỉnh nhân dân, tổ chức, đoàn kết, huấn luyện họ, đưa họ ra tranh giành tự do, độc
lập. Đến độ chín muồi, Người đã tiến hành thành lập Đảng, đề ra chiến lược, sách lược
cách mạng cho từng thời kỳ, kêu gọi toàn dân đoàn kết, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, ... từ đó đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Với triết lý sống "Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm", Bác và Đảng ta ngoài lợi ích của nhân dân
không còn lợi ích nào khác. Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu
khổ đau là một ngày Bác ăn không ngon, ngủ không yên. Với triết lý sống "Dĩ chúng tâm
vi kỷ tâm" tất yếu sẽ dẫn đến phong cách sống "Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ" (Tiên
thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc), lối sống vì mọi người, hòa đồng cùng
xã hội, thậm chí cả thiên nhiên cây cỏ, lối sống không cho riêng mình, và chính vì không
cho riêng mình cho nên trường cửu.
Với triết lý hành động, triết lý sống như vậy, nên Người thường viết ít, nếu có viết thì
ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ để thực hiện, để làm, tức viết không phải để mà viết, nói không
phải để mà nói; viết, nói để thức tỉnh và từ đó kêu gọi, hô hào đồng bào đứng lên làm
cách mạng. Có người cho rằng khi viết cần phải trau chuốt. Ngay trong "Đường cách
mạng", phương châm, chủ trương của Bác là phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi,
thì giờ đâu mà vẽ vời trau chuốt. Dân tộc ta khi đó nước bị mất, giống nòi có nguy cơ diệt
vong, vì vậy không thể chỉ cứ triết lý về nguy cơ diệt vong của dân tộc, mà phải kêu to
làm chóng để cứu lấy giống nòi.
Ở Hồ Chí Minh không chỉ triết lý gắn với hành động, đi liền với hành động mà ngược lại,
ngay hành động cũng nói lên triết lý. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, hoạt động thực tiễn,
hành động biểu hiện tư tưởng trung thành hơn gấp nhiều lần những bài văn được ngòi bút
đẽo gọt. Cái đánh giá đúng sai của tư tưởng không phải nằm trong tư tưởng mà phải ở
trong hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn, suy cho cùng là cái duy nhất kiểm tra tính
đúng đắn của tư tưởng, là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn được tổng kết biến thành lý
luận, tư tưởng. Như vậy, hoạt động thực tiễn nói lên tư tưởng.
Từ trước đến nay chúng ta quen cái lối nghiên cứu triết học, nghiên cứu tư tưởng qua câu
chữ. Ngay đi theo hướng này cũng còn nhiều cái phải bàn, chẳng hạn có người chỉ dừng
lại ở câu chữ bề ngoài mà chưa đi vào cái thần, cái hồn nằm sau các câu chữ. Theo Trang
Tử, người ta dùng lời để đạt ý, được ý rồi hãy quên lời. Mặt khác, tư tưởng, triết lý, theo
tôi, đâu chỉ thể hiện qua câu chữ. Những nhà hiền triết phương Đông thường ít viết, ít
nói, nếu chỉ qua câu chữ của họ mà nói lên tư tưởng của họ thì e rằng không đầy đủ. Bởi
vậy, triết lý, tư tưởng còn được biểu hiện, thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau như âm
nhạc, hội họa, điêu khắc; qua hành động, hoạt động, hành vi, thái độ, cử chỉ, cách đối
nhân xử thế của con người. Chúng ta cần giải mã, phát hiện đằng sau những di sản văn
hóa vật chất và tinh thần, người xưa muốn gửi gắm những thông tin tư tưởng gì cho thế
hệ mai sau, đặc biệt là những ý tưởng triết học.
Phương hướng này có vị thế vô cùng quan trọng trong việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh, bởi lẽ qua câu chữ chỉ phản ánh được một phần tư tưởng của Người. Những cử chỉ,
hành động, hành vi, tác phong, lối sống, cách đối nhân xử thế của Người, đều toát lên
một triết lý thâm sâu vi tế, triết lý suốt đời vì dân, vì nước.
Triết lý "Dĩ bất biến ứng vạn biến" còn một khía cạnh nhận thức luận khá quan trọng mà
ít người bàn tới. Cái bất biến trong nhận thức chính là cái tâm bình tĩnh, tỉnh táo, trong
sáng, sáng suốt, minh mẫn. Với cái tâm này (bất biến) thì có thể ứng với cái vạn biến, tức
nhìn nhận sự vật hiện tượng biến đổi bên ngoài rõ ràng hơn, khách quan hơn, đúng đắn
hơn. Không thể nhìn vạn vật một cách chính xác, khách quan khi cái tâm đầy dục vọng,
tham vọng đen tối, đầy cá nhân ích kỷ. Triết học phương Đông ví cái tâm bất biến như
mặt hồ phẳng lặng, yên tĩnh, trong veo, không một gợn sóng, từ đó những viên cuội dưới
đáy hồ cũng hiện lên rõ ràng; còn cái tâm đầy dục vọng đen tối, chao đảo, giống như mặt
hồ nổi sóng, cát bụi mù mịt, bởi vậy, nhìn sự vật hiện tượng dưới đáy hồ không rõ, tức
không nhìn ra đặc biệt là bản chất của sự vật hiện tượng.
Với tinh thần "Dĩ bất biến ứng vạn biến" đó, Hồ Chí Minh đã nhiều lần giáo dục cán bộ,
đảng viên rằng, muốn đánh thắng kẻ địch bên ngoài thì trước hết phải đánh thắng kẻ địch
bên trong là chủ nghĩa cá nhân; muốn cải tạo thế giới thì trước hết phải cải tạo bản thân
mình; một dân tộc, một đảng viên và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp
dẫn lớn không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Như vậy, với cái tâm
bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt, minh mẫn, với lòng dạ trong sáng (cái bất biến), chúng ta
không những nhìn sự vật, hiện tượng biến đổi bên ngoài (cái vạn biến) một cách rõ ràng,
khách quan, mà còn tránh được bệnh chủ quan duy ý chí.
Tóm lại, ở Hồ Chí Minh, từ triết lý:" Dĩ bất biến ứng vạn biến" dẫn đến triết lý hành
động, triết lý sống "Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm"; hai cái đó quyện chặt vào nhau, gắn liền
mật thiết, chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau; triết lý hướng đến hành động, hành
động nói lên triết lý, trong triết lý đã bao hàm xu thế hành động, trong hành động có triết
lý, triết lý và hành động gắn chặt với nhau tạo nên triết lý hành động Hồ Chí Minh mà
không phải vĩ nhân nào cũng có được.

You might also like